ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------***----------
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG LAN
ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC (HÀ NAM)
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014
Chuyên ngành: Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn: TS. Lê Quỳnh Nga
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ, tác giả xin gửi lời tri ân sâu sắc tới
TS. Lê Quỳnh Nga - người Cô đã tận tình dạy dỗ, hướng dẫn tác giả trong
suốt quá trình làm luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy Cô trong khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi
tác giả đã học.
Cám ơn các cán bộ Thư viện Đại học Quốc Gia Hà Nội, các cơ quan
ban ngành của huyện Bình Lục và đã tạo điều kiện cho tác giả có được tài liệu
thực hiện Luận văn.
Cám ơn gia đình, bạn bè, người thân đã luôn động viên, khuyến khích
tác giả trong quá trình học tập và làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thị Phƣơng Lan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: BÌNH LỤC VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ ........................ 8
1.1. Điề u kiê ̣n tự nhiên ...................................................................................... 8
1.2. Điều kiện dân cư, kinh tế - xã hội ............................................................ 11
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 16
Chƣơng 2: LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA
ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014 .......... 17
2.1. Chủ trương của Trung Ương Đảng và Đảng bộ tỉnh Hà Nam về xây
dựng nông thôn mới ........................................................................................ 17
2.1.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng nông thôn mới ........................... 17
2.1.2. Chủ trương Đảng bộ tỉnh Hà Nam về xây dựng Nông thôn mới .......... 24
2.1.3. Đảng bộ huyện Bình Lục chỉ đạo việc thực hiện xây dựng nông
thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014 ......................................................... 29
2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ...................................................................... 32
2.2.1 Một số công tác chỉ đạo chính .......................................................... 32
2.2.2 Chỉ đạo xây dựng mô hình NTM trong 2 xã thí điểm Tiêu Động
và Bối Cầu ................................................................................................... 40
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 45
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ......................... 47
3.1. Nhâ ̣n xét ................................................................................................... 47
3.1.1. Đảng bộ huyện Bình Lục đã lãnh đạo kịp thời và sát sao quá
trình xây dựng NTM ................................................................................... 47
3.1.2. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng NTM Đảng bộ huyện Bình
Lục còn mắc nhiều hạn chế và khuyết điểm ............................................... 50
3.2. Kinh nghiệm lịch sử ................................................................................. 51
3.2.1 Bám sát đặc điểm , tình hình địa phương để đề ra các biện pháp ,
tiêu chí phù hơ ̣p đồ ng thời giải quyế t đồ ng bô ̣ vấ n đề nông nghiê ̣p , nông
dân và nông thôn ........................................................................................... 51
3.2.2. Xây dựng đô ̣i ngũ cán bô ̣ có phẩ m chấ t đa ̣o đức , tinh thầ n trách
nhiê ̣m, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý thực tiễn là những nhân tố
quan tro ̣ng ảnh hưởng đế n kế t quả xây dựng NTM ở huyê ̣n Biǹ h Lu
.............
53
̣c
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 58
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BTV
: Ban thường vụ
CN – TTCN
: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DV – TM
: Dịch vụ, thương mại
HTX DVNN
: Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
NTM
: Nông thôn mới
UBND
: Ủy ban nhân dân
TCQG
: Tiêu chí quốc gia
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước vấn đề nông nghiệp nông thôn là
một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất
nước nó ảnh hưởng rất lớn đến thành quả chung của toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Nước ta hiện nay vẫn là nước nông nghiệp, lực lượng lao
động vẫn chủ yếu ở nông thôn chiếm khoảng 70% dân số, trong khi đó đóng
góp của kinh tế nông thôn vào nền kinh tế quốc dân chiếm khoảng hơn 20%
GDP và chiếm trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên
các chính sách phát triển nông nghiệp thường thiên về phát triển ngành mà
chưa chú ý đến vai trò của chủ thể, động lực chính của sự phát triển nông
nghiệp và nông thôn đó là nông dân. Phần lớn các chính sách chưa quan tâm
xử lý tổng thể và hợp lý giữa các vùng, giữa các lĩnh vực trong ngành, giữa
nông thôn và thành thị, chưa đặt ra và giải quyết triệt để các mối quan hệ giữa
các yếu tố chính trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đây là
nguyên nhân chủ yếu khiến cho sau nhiều thập kỷ nền nông nghiệp của ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa đạt được bước nhảy vọt trong sự
chuyển biến về nông nghiệp, nông thôn.
Trong nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng 1991
đã xác định: “phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
phát triển toàn diện kinh tế nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
ổn định kinh tế xã hội” [24, tr.63]. Đặc biệt nghị quyết đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng cũng nhấn mạnh: “hiện nay và trong nhiều năm tới
đây vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược quan trọng.
Việc xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển kinh tế, nông nghiệp và
nông thôn thực hiện chương trình mới nhằm xây dựng các làng ấp, xã, bản có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh xanh, sạch, đẹp gắn với việc hình thành
1
các khu dân đô thị hóa. Phát huy dân chủ, xây dựng nếp sống văn minh, bài trừ
các tệ nạn xã hội ở nông thôn” [31, tr.195 – 196]. Mặc dù chủ trương xây
dựng và phát triển nông thôn mới được Đảng ta đưa ra khá sớm nhưng kết
quả thực hiện xây dựng và phát triển trong cả nước nói chung và của Hà
Nam nói riêng còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong quá trình thực
hiện chủ trương đổi mới nông thôn trên mỗi địa bàn thực hiện luôn tồn tại
nhiều vấn đề. Có những thành tựu nổi bật làm thay đổi bộ mặt làng xã về
các phương diện như: đường xá, cầu cống, môi trường, hệ thống giáo dục y tế, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc nhưng cũng tồn tại một số hạn
chế nhất định về khả năng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
Nguyên nhân chính của việc thực hiện xây dựng Nông thôn mới chưa
đạt kết quả như mục tiêu đề ra bởi tư tưởng trì trệ, bảo thủ không chịu thay
đổi những cái mới của người nông dân sao cho phù hợp với tình hình thế giới
và khu vực.
Trong bức tranh tổng thể về tình hình phát triển kinh tế của huyện cho
thấy kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ lệ > 90% tổng thu chính của nền kinh tế
huyện. Vì vậy vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân được quan tâm hơn
bao giờ hết. Với những ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên tôi lựa chọn đề tài “
Đảng bộ huyện Bình Lục (Hà Nam) lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm
2008 đến năm 2014”, làm luận văn Thạc sỹ ngành Lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam để nghiên cứu làm rõ hơn đặc điểm tình hình nông nghiệp, nông
thôn, nông dân của huyện trong giai đoạn thực hiện xây dựng Nông thôn mới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xây dựng Nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống của nhân dân. Xuất phát từ
tầm quan trọng và tính thời sự của vấn đề, trong những năm qua nông nghiệp,
nông thôn là đề tài nghiên cứu được các nhà khoa học quan tâm. Có rất nhiều
công trình khoa học, nghiên cứu liên quan đến nội dung trên như sau:
2
+“Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử” do
GS. Phan Đại Doãn và PGS.Nguyễn Quang Ngọc làm chủ biên, Nxb Chính trị
Quốc gia ấn hành năm 1994, là công trình nghiên cứu những vấn đề lịch sử
trong phát triển nông thôn nước ta. Sau khi nêu lên sự quan tâm của Nhà nước
trong thời kỳ về quản lý làng xã và xây dựng thiết chế chính trị - xã hội nông
thôn nước ta, các tác giả trình bày khá toàn diện về quản lý nông thôn nước ta
trong lịch sử như vấn đề Nhà nước quản lý nông thôn trong các thế kỷ XVI XVIII; Nhà Nguyễn với vấn đề nông thôn thế kỷ XIX; Phát triển nông thôn
trong thời kỳ Pháp thuộc (1945 - 1954); Cơ cấu quản lý làng xã Việt Nam từ
1954 - 1975. Công trình còn đề cập mô hình phát triển làng xã nông thôn Việt
Nam ở các vùng cụ thể nhất là Nam bộ, Bắc bộ. Công trình đã cung cấp
những số liệu quan trọng về vai trò Nhà nước, tính cộng đồng, tính bền vững
của mô hình làng xã Việt Nam; những nhân tố tác động đến sự hình thành
thiết chế làng xã và mô hình hoạt động.
Ngoài ra còn có hàng loạt các công trình nghiên cứu, giới thiệu kinh
nghiệm phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài. Theo hướng này, các
nhà nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta như: PGS.TS Chu Hữu Quý;
GS.TS Nguyễn Thế Nhã cũng đã có những công trình nghiên cứu rất công
phu và có giá trị bàn luận về vấn đề này.
Điểm chung nhất của các công trình này là sau khi phân tích thực tiễn giải
quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc xây dựng chỉ đạo chính sách
phát triển nông nghiệp, nông thôn các tác giả đều gợi mở, nêu lên những kinh
nghiệm để có thể vận dụng giải quyết vấn đề thực tiễn ở Việt Nam.
+ “Phát triển nông thôn” do GS. Phạm Xuân Nam (Chủ biên), Nxb
Khoa học xã hội ấn hành 1997, là công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát
triển nông thôn. Trong công trình này tác giả đã phân tích sâu sắc một số nội
dung về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta như: dân số, việc làm,
3
lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và quản lý tài nguyên
thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xóa đói giảm nghèo. Trong lúc phân
tích những thành tựu, yếu kém trong phát triển nông thôn ở nước ta, các tác
giả chỉ ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách và cách thức chỉ đạo của
Nhà nước trong quá trình vận động của nông thôn.
+ “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và
ở Việt Nam” của các tác giả Benedict J.Tria Kerrkvliet, Jamsscott Nguyễn
Ngọc và Đỗ Đức Thịnh sưu tầm giới thiệu, Nxb Hà Nội ấn hành năm 2000.
Trong công trình này các tác giả đã nghiên cứu vai trò, đặc điểm của nông
dân, thiết chế nông thôn ở một số nước trên trên thế giới và những kết quả
bước đầu trong nghiên cứu làng truyền thống ở Việt Nam .
Đặc biệt công trình nghiên cứu của PGS.TS Vũ Trọng Khải chủ trì
được Nxb Nông nghiệp ấn hành năm 2004 là một công trình nghiên cứu công
phu về mô hình phát triển nông thôn Việt Nam. Công trình nghiên cứu này
được xuất bản trên cơ sở đề tài cấp Nhà nước do tác giả làm chủ nhiệm với
tiêu đề: “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội kết hợp
truyền thống làng xã với văn minh thời đại”.
+ “Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng” do tác giả GS.TS
Nguyễn Đình Phan; PGS.TS Trần Minh Đạo; TS Nguyễn Văn Phúc biên
soạn. Trong công trình này các nhà nghiên cứu đề cập đến nhiều nội dung
song chú ý nhất là các tác giả tập trung làm rõ một số vấn đề lí luận về CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn; các yếu tố tác động đến nông nghiệp, nông
thôn nói chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng.
+ “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”
của tác giả PGS.TS Chu Hữu Quý, PGS.TS Nguyễn Kế Tuấn, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2001. Trong công trình khoa học này các nhà nghiên cứu làm
4
rõ một số vấn đề như: vấn đề lí luận về CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
theo những yêu cầu rút ngắn; nghiên cứu thực trạng thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn; các tác giả cũng đưa ra con đường, bước đi và các giải pháp
chiến lược đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn trong giai
đoạn tiếp theo.
+ “Xây dựng nông thôn mới vùng chiêm trũng” các tác giả Nhật Tân,
Tạp chí Cộng sản số 23, năm 2007. Trong bài viết tác giả nghiên cứu những
khó khăn, thuận lợi trong quá trình xây dựng Nông thôn mới ở vùng đồng
bằng chiêm trũng. Bên cạnh đó còn có những bài đăng trên tạp chí, các báo
của Trung ương và địa phương cũng đề cập tới vấn đề liên quan NTM.
Những công trình đó đã cung cấp những luận cứ, luận chứng, những dữ
liệu rất quan trọng cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển nông
thôn, nông nghiệp, nông dân nước ta trong thời kì đổi mới.Tuy nhiên chưa có
một đề tài nào nghiên cứu cụ thể về huyện Bình Lục xây dựng Nông thôn mới
từ năm 2008 đến năm 2014. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các tài liệu trên,
kết hợp với phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình phát triển kinh tế nông
nghiệp của huyện, tác giả đã tập hợp xây dựng một cuốn tài liệu viết về quá
trình xây dựng NTM ở huyện Bình Lục giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014
mang tên: “Đảng bộ huyện Bình Lục (Hà Nam) lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu làm rõ vấn đề Nông thôn mới ở huyện Bình Lục dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014.
Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Đề tài nghiên cứu nêu lên tình hình xây dựng NTM ở huyện Bình Lục
từ năm 2008 đến năm 2014. Hệ thống hoá các chủ trương của Đảng về phát triển
5
kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong thời kì đổi mới đã được Đảng bộ huyện kịp
thời nắm bắt và vận dụng sáng tạo vào đặc điểm riêng của huyện.
+ Trình bày quá trình lãnh đạo xây dựng Nông thôn mới ở huyện dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện.
+ Cuối cùng luận văn nêu lên những nhận xét trong quá trình xây dựng
NTM và những kinh nghiệm lịch sử được rút ra từ đó.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện xây dựng Nông thôn mới của
Đảng bộ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Phạm vi nghiên cứu
+ Nghiên cứu bối cảnh đề ra chủ trương xây dựng Nông thôn mới.
+ Sự lãnh đạo xây dựng Nông thôn mới của Đảng bộ huyện từ năm
2008 đến năm 2014.
+ Rút ra những nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
Đề tài sử dụng và tham khảo các văn kiện của Trung ương Đảng, Đảng
bộ tỉnh, Đảng bộ huyện Bình Lục về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xây dựng
Nông thôn mới giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014. Đồng thời cũng sử
dụng các báo cáo tổng kết, sơ kết qua các năm, kì đại hội trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ xây dựng NTM ở Bình Lục.
Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn sử dụng các phương pháp: lịch sử, lo gic, so sánh ngoài
ra trong luận văn còn sử dụng phương pháp điền dã.
6. Đóng góp luận văn
Đề tài phác họa bước đầu bức tranh xây dựng NTM qua việc hệ
6
thống hóa những chủ trương và giải pháp thực hiện của Đảng bộ huyện
Bình Lục. Những kết quả mà đề tài đạt được qua quá trình thực tế khảo sát
quá trình xây dựng NTM ở huyện sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho lịch
sử địa phương trong quá trình viết lịch sử Đảng bộ của huyện trong giai
đoạn đổi mới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục nội dung luận
văn chia làm 3 chương.
Chƣơng 1: Bình Lục và những điều kiện lịch sử.
Chƣơng 2: Lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ huyện
Bình Lục từ năm 2008 đến năm 2014.
Chƣơng 3: Nhận xét và kinh nghiệm lịch sử
7
Chƣơng 1
BÌNH LỤC VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ
1.1. Điều kiêṇ tƣ ̣ nhiên
Bình Lục là một huyện đồng bằng chiêm trũng nhất của địa bàn tỉnh Hà
Nam nằm cách thành phố Phủ Lý khoảng 17km về phía đông nam của tỉnh
nằm dọc trên tuyến đường 21A cũ. Từ xưa kia Bình Lục luôn được biết đến là
mảnh đất trũng nhất của tỉnh là “cái rốn nước” hoặc những cái tên đùa vui
như “quê hương danh giá đất ông Cò”. Với những tên gọi trên ta phần nào có
thể thấy về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, khí hậu của huyện và cũng từ đó
hình thành và tác động đến tình hình kinh tế - văn hóa – xã hội và đời sống
của nhân dân trong huyện.
Về vị trí địa lý
Bình Lục nằm ở chính giữa và phía đông nam của tỉnh Hà Nam. Phía
Đông Bắc và phía Bắc giáp huyện Lý Nhân với ranh giới là nhánh nhỏ của
sông Châu Giang, phía Tây Bắc giáp huyện Duy Tiên ranh giới là dòng
chính sông Châu Giang, phía Tây giáp huyện Thanh Liêm, các huyện này đều
thuộc tỉnh Hà Nam. Riêng phía Nam và Đông Nam huyện giáp tỉnh Nam
Định, ranh giới là sông Lý Nhân. Trong địa bàn huyện có các con sông lớn
nhỏ đều là các sông nhánh của sông Châu Giang và sông Đáy, thuộc hệ thống
sông Hồng.
Lịch sử hình th ành của huyê ̣n có rấ t nhiề u biế n đô ̣ng theo lich
̣ sử thăng
trầ m của thời gian . Theo sử cũ chép la ̣i h uyện Bình Lục xuất hiện từ trước
thời Trần nhưng trong quá trình phát triển của lịch sử địa dư Bình Lục có
nhiều thay đổi. Bình Lục có lúc lệ vào phủ Lý Nhân thuộc Châu Giao dưới
thời nhà Minh thống trị có lúc đổi tên thành Ninh Lục dưới thời Tây Sơn.
Năm 1832 Bình Lục và Nam Sang được thành lập. Năm 1884 xứ Bắc Kỳ
được thành lập phân phủ Lý Nhân bị bãi bỏ. Ngày 20/3/1890 Pháp ra nghị
định đưa ra tổng Ngọc Lũ, Cổ Viễn (Thượng Nguyên, Nam Định), tổng Vũ
8
Bản (Vũ Bản, Nam Định) và lập thêm tổng mới là Văn Mỹ khi đó toàn huyện
có Bình Lục 8 tổng. Huyện Bình Lục thời phong kiến thuộc phủ Lý Nhân trấn
Sơn Nam. Trong huyện có xã Ngọc Lũ là xã có những di chỉ khảo cổ nổi
tiếng, nơi lưu giữ trống đồng Ngọc Lũ phát hiện năm 1901. Đây là di vật khảo
cổ có giá trị và nguyên vẹn của nền văn hóa Đông Sơn. Ngoài chiếc trống
đồng trên tại xã này, về sau còn phát hiện thêm 2 chiếc trống đồng nữa. Các
trống đồng cùng loại được phát hiện tiếp theo tại các thôn Đại Vũ (trống Vũ
Bị năm 1969), xã An Lão (trống An Lão năm 1985). Tổng cộng đã phát hiện
tại Bình Lục là 6 chiếc.
Năm 1987 thành lập thị trấn Bình Mỹ - thị trấn huyện lỵ huyện Bình Lục
trên cơ xác nhập diện tích của một số xã: 1,44 ha diện tích tự nhiên và 51
nhân khẩu của xã An Đổ; 164,48 ha diện tích tự nhiên và 947 nhân khẩu của
xã An Mỹ; 90 ha diện tích tự nhiên và 573 nhân khẩu của xã Mỹ Thọ và 3,91
hécta đất của xã Trung Lương.
Theo thống kê năm 2014 diện tích tự nhiên của huyện là 123.654 và dân
số 12.868 người .
Về thổ nhưỡng, khí hậu
Do điề u kiê ̣n tự nhiên của Bình Lục nằm trong vùng đồng bằng tích tụ
chiêm trũng đất thôi chua yếm khí xen đồi sót do hệ thống sông bị sụt võng
Vì vậy đồng ruộng nơi đây có đặc điểm là thấp và bằng phẳng và thường chiụ
ảnh hưởng thiên tai vào mùa mưa và ha ̣n hán
vào mùa kh ô. Theo Ngô Vi
Viễn khi làm Tri phủ Bình Lục năm 1934 trong lúc soạn Địa chí Bình Lục
ông đã viết về vùng đất này. “Hàng năm từ tháng 6 hoặc 7 đến tháng 11 hay
tháng Chạp ta tùy theo mùa mưa nhiều hay ít to hay nhỏ nước ngập đường đi
nông hay sâu chỉ có đi thuyền là tiện và nhanh chóng hơn cả” [36, tr.40 – 41].
Với địa hình huyê ̣n có rất nhiều con sông nhỏ chạy qua như sông Đào,
sông Châu Giang, Ninh Giang, Luyện Giang, Dương Giang và sông Mới. Với
hê ̣ thố ng sông ngòi dày đă ̣c ta ̣o nên ma ̣ng lưới thủy lơ ̣i nô ̣i đồ ng vững chắ c
9
cung cấ p nước tưới cho cây trồ ng và vâ ̣t nuôi trong từng thời vu ̣ . Lịch sử hình
thành của mảnh đất này đã đượ c chứng tỏ bằ ng những di chỉ khảo cổ hô ̣ mà
các nhà khảo cổ học đã tim
̀ thấ y ở nơi đây . Trong các đơ ̣t tim
̀ kiế m khai quâ ̣t
tại một số nơi được cho là bằng chứng của loài người sinh sống đầu tiên các
nhà khảo cổ đã thu thập là những bãi sú vẹt đào được ở một số cánh đồng đặc
biệt ở “Đống Xa” thuộc Phú Đa vào thời kì Văn Lang – Âu Lạc cách ngày
nay 2000 năm.
Trong ca dao huyện Bình Lục ngày nay khi miêu tả về đời số ng kinh tế –
văn hóa của nhân dân:
Quạt giấy, mũ bạc nhài đồng
Phú Đa thợ nhuộm trát hồng tô xanh…[37, tr.45].
Có thể thấy Bình Lục là một huyện nông nghiệp toàn huyện có 21 xã thị trấn
251 thôn xóm tiể u khu . Tổ chức Đảng bô ̣ huyê ̣n có 71 tổ chức cơ sở Đảng
trong đó có 21 đảng bô ̣ xã, thị trấn; 5 đảng bô ̣ và 45 chi bô ̣ cơ quan trực thuô ̣c
huyê ̣n ủy, 250 chi bô ̣ thôn xóm tiể u khu với 7044 đảng viên. Huyê ̣n Biǹ h Lu ̣c
có tổng diê ̣n tích tự nhiên là 1.440.102 ha dân số 13.405.700 người năm 2014
[36, tr.46].
Với đặc điểm tự nhiên của nước ta 3/4 là đất nông nghiệp, ¼ là đồ i núi
và biển đảo chính vì vậy nghề nông được coi là nền kinh tế chủ đạo của nhân
dân lao động Việt Nam. Trong lich
̣ sử hình thành cũng cho thấy Nhà nước
đầ u tiên xuấ t hiê ̣n ở nước ta cũng bắ t đầ u trên nề n tảng của “nề n văn minh
nông nghiê ̣p trồ ng lúa tưới nước” do ̣c theo các con sông lớn như sông Hồ ng ,
sông Đáy . Vì vậy n gay từ buổi đầu dựng nước các Vua Hùng đã nhận thấ y
vấn đề quan trọng của việc trị thủy và đê điều vâ ̣y nên các vua Hùng đã có
nhiều chính sách quan tâm thủy lợi nội đồng như tìm dòng nước đắp đập,
nghiên cứu hướng nước chảy để khai thông các kênh mương hướng dẫn nước
vào đồng .
10
Về khí hâ ̣u nước ta với điạ hình chữ S chạy dài từ Bắ c tới Nam hướng
trọn và nằm kề Biển Đông hùng vĩ vì vậy Viê ̣t Nam nằm trọn trong múi giờ
thứ 7 vành đai nhiệt đới gió mùa ẩm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng
23 độ C, nhiệt độ trung bình thấp nhất khoảng 13 – 15 độ C và cao nhất tháng
7 khoảng 29 – 30 độ C. Tổng số giờ nắng trung bình trên 1100 giờ/năm.
Lượng mưa trung bình hàng năm trên 1800mm nhưng phân bố không đều, tập
trung 70% lượng mưa vào mùa hạ trong đó trung bình có 125 – 158 ngày
mưa. Mưa thường tập trung vào tháng 5 đến tháng 10 trong năm chiếm 80 –
90% [36, tr.48]. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhìn chung khí
hậu và thời tiết Bình Lục thuận lợi cho nông nghiê ̣p và các loa ̣i cây trồng vật
nuôi sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên do đặc điểm địa hình và lượng mưa
phân bố không đồng đều nên một số nơi trong địa bàn huyện thường xảy ra
hạn hán vào mùa khô và lũ lụt vào mùa mưa nhất là các xã: Bối Cầu, An Đổ,
Hưng Công.
1.2. Điều kiện dân cƣ, kinh tế - xã hội
Thành phần dân cư ở huyện Bình Lục chủ yếu là người Kinh chiếm trên
90% dân số. Dân cư nơi đây thường là những người đã sinh sống từ rất nhiều
thế hệ trước họ có duyên, họ gắn bó và họ nhìn mảnh đất nơi đây trưởng
thành qua từng giai đoạn với những thăng trầm lịch sử. Hà Nam là mảnh đất
hiếu học,nơi hội tụ những anh tài tinh hoa của nền giáo dục Việt Nam. Chưa
có điều kiện để kiểm kê số liệu chính xác về số người đỗ Tiến sĩ đương đại,
dưới đây chỉ viết về 53 vị đỗ Tiến sĩ và 3 vị đỗ Tiến sĩ (Tiến sĩ võ). Theo ghi
chú của địa bạ của huyện số người đỗ cao làm quan trong triều như Nguyễn
Khuyến, Nguyễn Khắc Hiếu, Trình Thuấn Du, Nguyễn Bảng.. Với đức tính
cần cù chịu khó, nhân dân huyện Bình Lục luôn có truyền thống cách mạng,
yêu nước, anh dũng đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ những năm tháng
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ nhân dân huyện đã cung cấp cho chiến
trường miền Nam Việt Nam cả người và của. Huyện Bình Lục cùng với miền
11
Bắc đã trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam Việt Nam hoàn thành
sứ mạng lịch sử thống nhất đất nước.
Hiện nay theo những báo cáo thống kê về tình hình phát triển kinh tế trên
địa bàn huyện trước năm 2008 cho thấy 90% dân số thuộc cơ cấ u kinh tế khu
vực nông thôn và 75% lao động làm việc trong các ngành kinh tế nông
nghiệp, 15% lao động trong ngành tiểu thủ công nghiệp và 10% trong kinh
doanh, dịch vụ. Thành phần kinh tế chủ yếu phân bố như sau : hoạt động nông
nghiê ̣p chủ yế u là cấ y lúa với những giống lúa ngắn ngày v à cho năng suất
cao như: lúa Ải, Tạp giao QC 21, hoặc một số giống lúa có giá trị cao như
Thiên hương, Bắc thơm.. Một năm có 2 vụ sản xuấ t vu ̣ chiêm và vụ mùa; các
nghề thủ công như làm gạch, đan cói (xã Phú Đa, Hưng Công), thêu tranh (xã
Bối Cầu, An Đổ). Đặc điểm chung của huyê ̣n Biǹ h Lu ̣c là chiêm trũng tuy
nhiên với ý chí quyết tâm người dân trong huyện đã cố gắ ng bồ i đắ p , cải tạo
và xây dựng tiến hành trồng xen kẽ các cây vu ̣ đông để tăn g thêm thu nhâ ̣p
như xã : An Khoái , Bố i Cầ u , Hưng Công với các loại cây trồng như đậu
tương, khoai tây, khoai lang, trồng dâu ở Trung Lương. Tựu chung la ̣i nguồ n
cung cấ p chính cho đời số ng nhân dân là nông nghiê ̣p trồ ng lúa nế u như trước
kia người dân chủ yế u trông chờ vào 2 vụ/năm đế n nay đã có sự cải tiế n bằ ng
viê ̣c tìm kiế m những cây trồ ng hơ ̣ p lý để tiế n hành xen canh trong khoảng
thời gian chuyể n giao giữa mùa vu ̣.
Để khai thác tiề m năng tố i đa của đất một trong những giải pháp hàng
đầ u cầ n đươ ̣c quan tâm giải quyế t chính là hê ̣ thố ng thủy lơ ̣i . Những năm vừa
qua viê ̣c mở rô ̣ng diê ̣n tích gieo trồ ng tăng vu ̣ đã góp phầ n tích cực sản xuấ t
đấ t nông nghiê ̣p phát triể n nhấ t là trong liñ h vực sản xuấ t lương thực
, làm
thay đổ i bô ̣ mă ̣t nông thôn trong những năm đổ i mới . Với điều kiện cơ sở vâ ̣t
chấ t kỹ thuâ ̣t ở Bin
̀ h Lu ̣c
còn nghèo nàn chưa đủ ma ̣nh để biế n tiề m năng
thành hiện thực nhưng so với nhữ ng năm trước thì phong trào hơ ̣p tác hóa
nông nghiê ̣p có nhiề u biế n đô ̣ng quan tro ̣ng. Các công trình thủy lợi lớn, trung
12
bình đã và đang được xây dựng , củng cố và hoàn thiện ; hê ̣ thố ng ma ̣ng lưới
kênh mương tưới tiêu thủy lơ ̣i nô ̣i đồ ng hiê ̣n có đã và đang phát huy tác du ̣ng
đảm bảo cho khâu tưới tiêu trên diê ̣n rô ̣ng . Các trạm bơm cũ được nâng cấp
sữa chữa và xây dựng thêm những trạm bơm mới, công tác bổ sung nâng cao
chất lượng của cán bộ khuyến nông của địa bàn huyện được tăng cường.
Hàng năm lãnh đạo huyện, Ban tổ chức UBND huyện tổ chức các đợt học tập,
nâng cao nhận thức và bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ ở từng cơ sở.
Biểu hiện tình kình kinh tế của huyện trên các lĩnh vực cụ thể như sau:
Trong liñ h vực công nghi ệp và tiểu thủ công nghiệp Đảng bộ huyện
rất chú
trọng phát triển dần làm chuyển dịch cơ cấu chung của toàn ngành kinh tế
theo hướng giảm dầ n tỉ tro ̣ng ngành nông nghiê ̣p và nâng dầ n ngành công
nghiê ̣p, dịch vụ. Đồng thời t iế n hành giải quyế t viê ̣c làm cho lực lươ ̣ng lao
đô ̣ng dư thừa ở điạ phương.
Tỉ lệ nam nữ thanh niên từ 18 – 25 tuổ i chưa có viê ̣c làm hiê ̣n ta ̣i chiế m
số lươ ̣ng lớn. Trên điạ bàn đã xuấ t hiê ̣n một số trung tâm công nghiệp dệt may
Đức Giang, sản xuấ t thức ăn gia súc , gia cầ m An Mỹ, mây giang đan Bình
Sơn thu hút nhiề u đố i tươ ̣ng lao đô ̣ng ở điạ . Hòa nhập theo không khí chung
của cả nước nhân dân trong huyện đang từng bước đổi mới theo hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát triển và nâng cao đời sống cho nhân
dân trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Cho đến trước năm 2008 Bình
Lục vẫn là một huyện “thuần nông” với màu xanh chủ đạo của đồng lúa đâu
đó quanh huyện thấp thoáng những bóng dáng của các cô chú công nhân
nhưng nó chỉ là nét điểm trên nền xanh chủ đạo của màu lúa.
Tình hình giáo dục của huyện có nhiều chuyển biến tích cực và gắn kết
chă ̣t chẽ hơn với yêu cầ u phát triể n kinh tế – xã hội. Chấ t lươ ̣ng giáo du ̣c toàn
diê ̣n từng bước đươ ̣c nâng lên. Số lươ ̣ng ho ̣c sinh thi đỗ vào các trường cấ p 3,
đa ̣i ho ̣c và cao đẳ ng ngày chiế m số lươ ̣ng lớn . Tỉ lệ học sinh giỏi các cấp, giải
quố c gia, quố c tế tăng lên . Phong trào xã hô ̣i hóa giáo du ̣c , xây dựng xã hô ̣i
13
học tập, khuyế n ho ̣c khuyế n tài phát triể n ma ̣nh mẽ . Quy mô trường lớp đươ ̣c
quan tâm sửa đổ i ổ n đinh
̣ , 97% học sinh đi học tiểu học đúng độ tuổi , 94%
học sinh đi học Trung học đúng độ tuổi . Cơ sở vâ ̣t chấ t ho ̣c tâ ̣p , giảng da ̣y
đươ ̣c tăng cường 85% lớp ho ̣c và trường lớp đươ ̣c kiên cố hóa . Trường Cao
đẳ ng sư pha ̣m Hà Nam là mô trường hàng năm thu hút nhiề u số lươ ̣ng ho ̣c
sinh thi đầ u vào với điể m số cao . Đây cũng chiń h là ngôi trường hàng năm
đào ta ̣o ra số lươ ̣ng giáo viên đủ đáp ứng nhu cầ u giáo du ̣c của huyê ̣n . Mô ̣t số
ngôi trường THPT điể m của huyê ̣n cũng đươ ̣c trang bi ̣và cải tiế n cơ sở vâ ̣t
chấ t kỹ thuâ ̣t: THPT Bin
̀ h Lu ̣c A, trường THCS Nguyễn Khuyế n , THPT Biǹ h
Lục B, Trường Năng Khiế u cho các trẻ nhỏ.
Nhu cầu văn hóa của huyê ̣n vẫn duy trì thường xuyên với những lễ hô ̣i
truyề n thố ng ở các thôn làng vẫn đươ ̣c ng ười dân quan tâm thực hiện : hàng
năm vào các tháng lễ hô ̣i dù bâ ̣n rô ̣n với
cuô ̣c số ng hàng ngày nhưng vào
những ngày lễ mo ̣i người dừng hẳ n công viê ̣c hàng ngày và tâ ̣p trung cho buổi
lễ, hô ̣i thâ ̣t tưng bừng và hoành tráng , họ cũng xem đây là lúc họ được hưởng
thụ cuộc sống vất vả quanh năm của mì nh. Các phong trào xây dựng đời sống
văn hóa như “nế p số ng mới”, đời số ng tiên tiế n đâ ̣m đà bản sắ c dân tô ̣c đươ ̣c
Đảng bô ̣ huyê ̣n và chính quyề n các cấ p từng thực hiê ̣n đa ̣t hiê ̣u quả cao. Theo
thố ng kê năm 2010 trên huyê ̣n có 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế .
Trước kia tra ̣m y tế các xã là ta ̣m bơ ̣ chưa đươ ̣c quan tâm thì đế n nay Đảng bô ̣
huyê ̣n đã đă ̣c biê ̣t quan tâm tới chấ t lươ ̣ng cuô ̣c số ng của người dân bằ ng viê ̣c
cho tu sửa, bổ sung trang thiế t bi ̣cho tra ̣m y tế các xã , phường. Phong trào thể
dục thể thao cũng ngày đươ ̣c huyê ̣n quan tâm với những ngày hô ̣i thể thao với
nhiề u loa ̣i hình và tổ chức thi đấ u giữa các ban ngành
, điạ phương ta ̣o nên
không khí thể thao sôi nổ i trong điạ bàn huyê ̣n . Hoạt động văn hóa, thông tin
phát triển ngày càng đa dạng , nô ̣i dung và hiǹ h thức có n hiề u đổ i mới góp
phầ n đáp ứng nhu cầ u hưởng thu ̣ văn hóa , nâng cao đời số ng tinh thầ n cho
nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kế t xây dựng đời số ng văn hóa” từng
14
bước đi vào chiề u sâu . Nhiề u giá tri ̣văn hóa đươ ̣c bảo tồ n và phát huy. Đế n
nay có khoảng 85 % số phường và làng đươ ̣c xế p loa ̣i đa ̣t chuẩ n văn hóa.
Công tác phát thanh, báo chí truyền hình tuyên truyền cho việc xây dựng
Nông thôn mới , các chính sách chủ trương của Đảng cũng được quan tâm và
thực hiê ̣n đề u đă ̣n . Phong trào thi đua loa ̣i bỏ những hủ tu ̣c la ̣c hâ ̣u , xây dựng
đời số ng văn hóa mới đâ ̣m đà bản sắ c dân tô ̣c
, chố ng suy đồ i , khắ c phu ̣c
những lê ̣ch la ̣c trong lố i suy nghi ̃ của người dân đã diễn ra thường xuyên.
Hoạt động khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường có những bước đổi
mới. Viê ̣c nghiên cứu , tiế p thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật và o sản xuất và
đời số ng đươ ̣c đẩ y ma ̣nh nhấ t là trong liñ h vực sản xuấ t nông nghiê ̣p
, y tế.
Công tác vê ̣ sinh đô thi ̣ , nông thôn đươ ̣c tăng cường bằ ng viê ̣c thành lập các
ban quản lý vê ̣ sinh môi trường , xử lý rác thải . Nô ̣i dung tuyên truyề n để bảo
vê ̣ môi trường đươ ̣c các cấ p tiế n hành tuyên truyề n rô ̣ng rãi bước đầ u nâng
cao nhâ ̣n thức về bảo vê ̣ môi trường cho toàn dân ơ điạ phương. Thực tế cho
thấ y trước kia tin
̀ h tra ̣ng rác thải chưa đươ ̣c xử lý mô ̣t cách triê ̣t để hơ ̣p lý nên
thường thấ y ở các làng bà con tiế n hành đổ rác bừa baĩ ra các con mương, vê ̣
đường. Tình trạng hôi hám mất vệ sinh môi trường thường xuyên xảy ra liên
tiế p. Vì vậy vệ sinh môi trường , quanh cảnh thiên nhiên mấ t mỹ quan thường
diễn ra. Hiê ̣n nay Đảng bô ̣ đã ho ̣p và quyế t đinh
̣ xây dựng nhữ ng baĩ chứa rác
thải quanh các làng và thành lập luôn một đội kiểm tra tình hình thu gom rác
thải. Làm cho môi trường trong sạch, đe ̣p đẽ hơn.
Những kế t quả đa ̣t đươ ̣c ta ̣o điề u kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i cho nhân dân toàn huyê ̣n
vững tin bước tiế p vào công cuô ̣c xây dựng nông thôn mới trên điạ bàn
huyê ̣n. Nâng cao đời số ng văn hóa , tinh thầ n là đô ̣ng lực để nhân dân bước
tiế p vào xây dựng công nghiê ̣p hóa , hiê ̣n đa ̣i hóa nông nghiê ̣p nông thôn trong
giai đoa ̣n đổ i mới đấ t nước hiê ̣n nay.
15
Tiểu kết chƣơng 1
Bình Lục là một huyện có truyền thống về bề dày lịch sử trong tỉnh Hà
Nam. Những yếu tố điều kiện tự nhiên đã hình thành nên đặc điểm sinh hoạt
kinh tế, văn hóa xã hội và các hoạt động tinh thần. Từ rất sớm nhân dân trong
huyện đã cần cù chịu khó, siêng năng, thông minh vượt qua những khó khăn
về tự nhiên để tiến hành xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp.
Hưởng ứng theo chủ trương đổi mới đất nước của Đảng sau đại hội toàn
quốc lần thứ VI (1986) chủ trương phát triển toàn diện đất nước trên tất cả các
lĩnh vực trong đó chú trọng phát triển công nghiệp nặng. Đồng thời ra sức
phát triển hợp lý đồng đều cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp. Xây dựng
Nông thôn mới là chủ trương mới của Đảng được đề ra từ năm 2008 và đang
được từng bước thực hiện đạt kết quả cao.
Sau những năm tiến hành đổi mới Đảng đã lãnh đạo nhân dân những
bước đi đúng đắn, vững chắc đạt nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội. Huyện Bình Lục cũng là một minh chứng điển hình
cho kết quả của sự thay đổi đó. Hoạt động kinh tế -xã hội – chính trị - an ninh
của huyện được thay đổi nhanh chóng làm tiền đề cho Bình Lục bắt tay vào
thực hiện nhiệm vụ mới trong giai đoạn tiếp theo.
16
Chƣơng 2
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN BÌNH LỤC TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014
2.1. Chủ trƣơng của Trung Ƣơng Đảng và Đảng bộ tỉnh Hà Nam về
xây dựng nông thôn mới
2.1.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng nông thôn mới
Có thể thấy chủ trương về xây dựng nông thôn mới đã được đề cập đến
trong các kỳ đại hội của Đảng từ rất sớm. Bước vào thời kỳ đổi mới nước ta
đã không ngừng thay đổi trong việc bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cho phù
hợp với tình hình của đất nước. Người đi tiên phong cho vấn đề này là Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong một số bài báo, tạp chí tư tưởng của Người cũng được
thể hiện rõ: trong bài “Con đường phía trước” với bút danh C.K đăng trên báo
Nhân dân số 2143 ngày 20/01/1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Nước ta
vốn là mô ̣t nư ớc nông nghiệp lạc hậu đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta.. Đời
sống nhân dân chỉ có thể dồi dào khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một
cách rộng rãi dùng máy móc cả trong nông nghiệp và nông nghiệp máy sẽ
chắp thêm tay cho người làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và
giúp người làm việc phi thường đó là con đường phải đi của chúng ta”.
Trong lần phát biểu tại Đại hội công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ 6 ngày
19/07/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định vai trò tầm quan trọng của nông
nghiệp trong quá trình phát triển công nghiệp hóa đất nước. Người cho rằng
nước ta là 1 nước nông nghiệp muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế
nói chung phải lấy nông nghiệp làm gốc. Vì thế Người rất coi trọng tới công
tác xây dựng NTM và đời sống văn hóa mới ở nông thôn.
Xây dựng NTM theo Người thực chất và trước hết là xây dựng những
con người lao động – người nông dân XHCN. Trong việc xây dựng đó Người
luôn lấy đạo đức làm gốc. Xây dựng NTM về mặt đạo đức theo Người trước
hết phải làm cho con người có đủ cơm ăn áo mặc, được học hành chữa bệnh.
17
Đạo đức của người nông dân phải được xây dựng trên 1 nền tảng kinh tế định
hướng đi lên XHCN. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định của con
người chính bởi con người là chủ của mọi hoạt động, tính cách suy nghĩ và
những hành động của con người sẽ ảnh hưởng rất lớn tới kết quả thực hiện
các mục tiêu. Người đặc biệt cho rằng “xã hội nào con người đó” không thể
lấy con người thời xưa ra để xây dựng đất nước của thời đại bây giờ. Cũng
theo Người nước ta là 1 nước dân chủ nên phải xây dựng mô ̣t chế đô ̣ dân chủ .
NTM đươ ̣c hiể u là nông thôn của những người nông dân lao đô ̣ng của những
con người không chấ p nhâ ̣n sự lười biế ng . Nông thôn mới cũng là nơi thể
hiê ̣n đâ ̣m đà văn hóa tin
̀ h nghiã , tình làng nghĩa xóm. Nét đẹp của người nông
dân là ở chỗ trên kin
́ h dưới nhường , thương yêu giúp đỡ nhau, giúp đỡ những
gia đin
̀ h neo đơn, người già, gia điǹ h thương binh liê ̣t sỹ [33, tr.15].
Xây dựng NTM là n hiê ̣m vu ̣ chung của toàn thể nhân dân không phải là
của riêng ai , là nhiệm vụ lâu dài nên mọi người phải nêu cao tinh thần làm
chủ. Người chỉ rõ NTM là nông thôn đươ ̣c ta ̣o lâ ̣p nên bởi nhiề u gia điǹ h mới
, xã hội tốt thì gia đì nh càng tố t mà có nhiề u gia đình tố t thì mới ta ̣o nên xã
hô ̣i tố t. Những ý kiế n chỉ dẫn trên của Người như ngo ̣n đuố c sáng trong đêm
tố i giúp ta tìm ra những đường đi mô ̣t cách đúng đắ n nhấ t [33, tr.20].
Như vâ ̣y đố i với quan điể m của Hồ Chí Minh thì xây dựng NTM là phát
triể n trên tấ t cả các liñ h vực từ xây dựng đời số ng vâ ̣t chấ t cho nhân dân ấ m
no ha ̣nh phúc đế n xây dựng đời số ng văn hóa tinh thầ n hiê ̣n đa ̣i tiên tiế n
,
người phu ̣ nữ đươ ̣c giải phóng, đươ ̣c hưởng quyề n bình đẳ ng.
Thực tiễn cho thấy trước thời kì đổi mới vấn đề nông nghiệp, nông dân
và nông thôn chưa thực sự được đặt đúng vị trí của nó. Trong suốt một thời
gian dài trong lịch sử công nghiệp nặng luôn được đặt lên vị trí hàng đầu và
được ưu tiên phát triển. Trong đại hội IV 12/1976 và đại hội V năm 1982 đã
dần chỉ ra những sai lầm và chuẩn bị đầy đủ những điều kiện tiền đề cần thiết
cho công nghiệp và nhấn mạnh: “Tập trung sức mạnh phát triển nông nghiệp
18
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất
XHCN ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số
ngành công nghiệp nặng quan trọng. Kết hợp nông nghiệp, công nghiệp với
sản xuất hàng tiêu dùng và công
nghiệp nặng trong cơ cấu công – nông
nghiệp hợp lý [19, tr.66].
Đây được coi là sự điều chỉnh quan trọng sự thay đổi lớn trong quan
điểm của Đảng về vị trí của kinh tế nông nghiệp, song trong việc chỉ đạo và
hoạch định thực hiện chính sách nông nghiệp chưa thực sự được coi là mặt
trận hàng đầu không đảm bảo những điều kiện cần thiết để phát triển nhất là
vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích.
Trong buổi hội nghị tổng kết thực tiễn ngày 05/04/1988 Bộ Chính trị
khóa VI ra nghị quyết X – NQTW về đổi mới cơ chế quản lí kinh tế nông
nghiệp. Quyết định cơ bản của Đảng về quản lý nông nghiệp là coi HTX như
đơn vị kinh tế tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ; nhận
khoán với HTX. Bộ Chính trị đã chỉ rõ đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp
nhằm khắc phục các nhược điểm sai lầm trong các chính sách lớn đối với
nông nghiệp. Nghị quyết X của Bộ chính trị sắp xếp và tổ chức lại sản xuất
nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa kết hợp với kinh doanh tổng hợp,
gắn trồng trọt với chăn nuôi; gắn nông – lâm – ngư nghiệp với công nghiệp
chế biến và các ngành tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Đây chính là bước
đột phá mở đầu cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển
nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa.
Thực hiện tinh thần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong Hô ̣i nghi ̣lầ n
thứ 5 Ban chấ p hành Trung ương Đảng khóa IX t ại Hà Nội từ ngày 18/02 đến
02 tháng 3 năm 2003 cũng đã xác đinh
̣ rõ những quan điể m
, mục tiêu và
những nô ̣i dung cầ n thiế t trong xây dựng CNH , HĐH nông nghiê ̣p v à nông
thôn.
19
Về mu ̣c tiêu Nghi ̣quyế t chỉ rõ : “Mu ̣c tiêu tổ ng quát và lâu dài của công
nghiê ̣p hóa hiê ̣n đa ̣i hóa nông nghiê ̣p nông thôn là xây dựng mô ̣t nề n nông
nghiê ̣p sản xuấ t hàng hóa lớn, hiê ̣u quả vè bề n vững, có năng suất, chấ t lươ ̣ng
và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học , công nghê ̣
tiên tiế n, đa ̣p ứng nhu cầ u trong nước và xuấ t khẩ u , xây dựng nông thôn ngày
càng giàu đẹp, dân chủ công bằ ng văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hê ̣
sản xuất phù hợp , kế t cấ u ha ̣ tầ ng kinh tế – xã hội phát triển ngày càng hiện
đa ̣i” [27, tr.94 – 95].
Về nô ̣i dung tổ ng quát Nghi ̣quyế t Trung Ương Năm đưa ra
2 nô ̣i dung
tổ ng quát đó là công nghiê ̣p hóa nông nghiê ̣p và hiện đa ̣i hóa nông thôn mà
theo đó nội dung được thể hiện như sau:
CNH nông nghiê ̣p đươ ̣c coi là mô ̣t quá triǹ h chuyể n dich
̣ cơ cấ u kinh tế
nông nghiê ̣p theo hướng sản xuấ t hàng hóa , gắ n với công nghiê ̣p chế biế n và
thị trường ; thực hiê ̣n c ơ khí hóa , thủy lợi hóa , ứng dụng các thành tựu của
khoa ho ̣c ki ̃ thuâ ̣t và công nghê ̣ hiê ̣n đa ̣i vào các khâu sản xuấ t nông nghiê ̣p
nhằ m nâng cao năng suấ t lao đô ̣ng , chấ t lươ ̣ng hiê ̣u quả ca ̣nh tranh của nông
sản hàng hóa trên thị trường.
HĐH nông thôn đươ ̣c Nghi ̣quyế t xác đinh:
̣ “Là quá trình chuyể n dich
̣ cơ
cấ u kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ tro ̣ng giá tri ̣sản phẩ m và lao
đô ̣ng các ngành công nghiê ̣p và dich
̣ vu ̣ ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao
đô ̣ng nông nghiê ̣p” [27, tr.96 –97].
Nhận thức được vấn đề đầu tiên của việc xây dựng Nông thôn mới là
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn bởi vậy sau hơn 20
năm đổi mới Đảng đã tiến hành họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
(4/2006) của Đảng tại Hà Nội đã khẳng định phát triển nông nghiệp nông
thôn là lựa chọn bước đi đúng đắn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
háo đất nước đồng thời chủ trương đẩy mạnh hơn việc quan tâm xây dựng
vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đại hội đề ra mục tiêu và
20