Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Đảng lao động việt nam lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc tế về quân sự tại campuchia ( 1970 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

NGUYỄN NGỌC TOÁN

ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ QUỐC TẾ VỀ QUÂN SỰ TẠI CAMPUCHIA
(1970 –1975)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

NGUYỄN NGỌC TOÁN

ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ QUỐC TẾ VỀ QUÂN SỰ TẠI CAMPUCHIA
(1970 –1975)
Chuyên ngành

: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Mã số

: 60 22 03 15



LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Hồ Khang

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS, TS Hồ Khang. Các số liệu, tài liệu sử dụng
trong Luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn
gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về nội dung
Luận văn này của mình.

Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Ngọc Toán


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện Luận văn, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ
quý báu của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài đơn vị.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS, TS Hồ Khang – Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam, người đã tận tụy hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian thực hiện Luận văn tốt nghiệp. Cảm ơn Đảng ủy, Chỉ huy Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam, Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ và đồng nghiệp đã
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, công tác, thực

hiện Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường, Ban Chủ nhiệm Khoa
và các thầy cô Khoa Lịch sử đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Ngọc Toán


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM ĐỐI VỚI THỰC HIỆN NHIỆM VỤ QUỐC TẾ VỀ QUÂN
SỰ TẠI CAMPUCHIA TỪ NĂM 1970 ĐẾN NĂM 1971 ...................................16
1.1. Khái quát sự lãnh đạo của Đảng đối với thực hiện nhiệm vụ quốc tế
về quân sự tại Campuchia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ....16
1.1.1. Yêu cầu liên minh chiến đấu và quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt
Nam – Campuchia ..............................................................................................16
1.1.2. Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc tế về
quân sự tại Campuchia trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp .......20
1.2. Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc tế về quân sự tại
Campuchia trong những năm đầu khi Mỹ mở rộng chiến tranh sang
Campuchia (1970-1971).......................................................................................24
1.2.1. Tính toán chiến lược, kế hoạch quân sự của Mỹ và chủ trương của
Đảng Lao động Việt Nam ..................................................................................24
1.2.2. Đảng chỉ đạo từng bước đánh bại các cuộc tiến công của Mỹ, mở
rộng vùng giải phóng, đưa cách mạng Campuchia tiến lên ...............................35

Tiểu kết chƣơng ...................................................................................................45
Chƣơng 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐỐI
VỚI THỰC HIỆN NHIỆM VỤ QUỐC TẾ VỀ QUÂN SỰ TẠI
CAMPUCHIA TỪ NĂM 1972 ĐẾN NĂM 1975 ..................................................47
2.1. Những nhân tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng Lao động
Việt Nam ...............................................................................................................47
2.1.1. Tình hình chiến trường Đông Dương và Campuchia ...............................47
2.1.2. Đông Dương và Campuchia trong tính toán chiến lược của Mỹ
trong giai đoạn mới ............................................................................................51

1


2.2. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng Lao động Việt Nam .........................55
2.2.1. Chủ trương của Đảng ...............................................................................55
2.2.2. Chỉ đạo thực hiện .....................................................................................59
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................71
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM .....................................73
3.1. Nhận xét .........................................................................................................73
3.1.1. Thành tựu..................................................................................................73
3.1.2. Về hạn chế ................................................................................................80
3.2. Kinh nghiệm ..................................................................................................84
3.2.1. Phải luôn nhận thức vai trò quan trọng của sự liên minh đoàn kết
chiến đấu ba nước trong sự nghiệp cách mạng ở Đông Dương .........................85
3.2.2. Phải luôn tuân thủ những nguyên tắc có tính bất biến trong việc
giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia. .........................................................89
3.2.3. Phải luôn chú trọng công tác tham mưu, nhạy bén tình hình, biết
phát huy tác dụng của hậu phương, hậu cần tại chỗ đưa cách mạng hai
nước đi đến thắng lợi cuối cùng. ........................................................................92
Tiểu kết chƣơng ...................................................................................................96

KẾT LUẬN ..............................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................100

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hai nước Việt Nam, Campuchia ngay từ thuở “hồng hoang” đã được định
sẵn trên bán đảo Đông Dương, hình thành một mối quan hệ lịch sử đặc biệt về địa
lý. Trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ không gian sinh tồn, phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc, hai nước đã nương tựa, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau để cùng tồn tại và
phát triển. Việt Nam khởi nguồn từ nền “văn minh sông Hồng”, trải qua hàng ngàn
năm lịch sử đã lập nên một nước Việt Nam độc lập, vẹn toàn lãnh thổ, trải dài từ Bắc
xuống Nam, từ địa đầu Lũng Cú đến đất mũi Cà Mau, vươn xa ra Biển Đông rộng lớn,
bao la. Vốn là dân tộc hiền hòa, yêu chuộng hòa bình, nhưng do vị trí địa chiến lược
nên dân tộc Việt Nam luôn bị các thế lực ngoại xâm nhòm ngó. Do đó, lịch sử triền
miên phải trải qua những cuộc chiến tranh giữ nước, giải phóng dân tộc. Xuôi về phía
Tây Nam là Vương quốc Chùa Tháp-Campuchia, đất nước có quá khứ cũng đầy biến
động trong sự vận động chung của lịch sử các quốc gia dân tộc trên bán đảo Đông
Dương. Suốt diễn trình lịch sử ấy, hai nước Việt Nam – Campuchia đã có những nét
tương đồng về văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, tạo dựng mối liên hệ mật thiết, tình
đoàn kết keo sơn gắn bó. Chính sự liên minh, đoàn kết hai nước là nguyên nhân căn
bản góp phần vào thắng lợi chung trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập dân tộc của
nhân dân ba nước Đông Dương, điển hình là hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, những đế chế hùng cường lúc bấy giờ.
Ngược dòng thời gian vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do
đặc thù vị trí địa chính trị, kinh tế, văn hóa, hai nước Việt Nam-Campuchia có cùng
một kẻ thù, chung một nguyện vọng đấu tranh giải phóng dân tộc, nên nhân dân hai
nước “đồng cam cộng khổ” liên kết với nhau một cách tự nhiên để chống thực dân

Pháp xâm lược. Tuy nhiên, những phong trào yêu nước liên tiếp nổ ra lại dần đi vào
thất bại, chưa kết được thành phong trào rộng lớn, đặc biệt là thiếu một đường lối
chính trị đúng đắn, chưa phù hợp với thời đại, nên không phát động được mọi tầng
lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, đến tháng 10 năm 1930, đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương

3


(tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Nhân
dân Campuchia ngày nay) đã đáp ứng nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân ba nước Việt
Nam, Lào, Campuchia đấu tranh giành độc lập dân tộc, đánh dấu sự hình thành liên
minh đoàn kết chiến đấu giữa cách mạng ba nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), nhân dân hai nước Việt
Nam-Campuchia ngày càng tăng cường đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung.
Trên tinh thần liên minh đoàn kết đó, ngay tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ II (2/1951) đã xác định: “Nhiệm vụ của cách mạng ba dân tộc nói chung vẫn là
chống đế quốc nhưng cũng có nhiều điểm cụ thể khác nhau” [132, tr.156], đồng thời
ở mỗi nước sẽ thành lập một chính đảng cách mạng riêng, phù hợp với hoàn cảnh
từng nước để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi. Tới tháng 3 năm 1951, Mặt
trận Liên Việt, Mặt trận Khơme yêu nước (Ítxarắc), Mặt trận Lào tự do, họp và
quyết định thành lập “Khối liên minh nhân dân Việt-Miên-Lào” dựa trên nguyên tắc
tự nguyện, bình đẳng và tương trợ, giúp đỡ nhau kháng chiến chống thực dân Pháp
cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Trên cơ sở ấy, trong giai đoạn từ 1951-1954,
quân và dân Việt Nam tình nguyện sang giúp nhân dân Campuchia kháng chiến, kề
vai sát cánh cùng Quân đội giải phóng Ítxarắc chiến đấu chống kẻ thù chung là thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ, giành nhiều thắng lợi to lớn. Với chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của nhân dân Việt Nam đã
đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc Pháp phải ký Hiệp định
Giơnevơ (năm 1954) thừa nhận nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba

nước Việt Nam, Campuchia và Lào.
Sau Hiệp định Giơnevơ, hòa bình được lập lại trên đất nước Campuchia, chính
phủ Vương quốc Campuchia do Nôrôđôm Sihanúc làm Thủ tướng (từ năm 1960 là
Quốc trưởng) tuyên bố đi theo con đường hòa bình, độc lập, trung lập. Sự lựa chọn
này tạo thuận lợi cho việc duy trì và bảo vệ nền hòa bình trên bán đảo Đông Dương.
Song, việc Campuchia đi theo con đường hòa bình, độc lập, trung lập đã khiến đế
quốc Mỹ phải thực hiện âm mưu khác với Việt Nam và Lào, từ dùng sức ép chính
trị, thông qua viện trợ kinh tế, quân sự đến đảo chính lật đổ Nhà nước trung lập, tiến

4


hành can thiệp quân sự vào Campuchia. Ngày 18 tháng 3 năm 1970, đế quốc Mỹ đã
hậu thuẫn cho LonNol-Xirích Matắc (thành viên trong Chính phủ Vương quốc
Campuchia) tiến hành đảo chính lật đổ Quốc trưởng Sihanúc, thành lập chính phủ
mới do Cheng Heng làm Quốc trưởng, LonNol làm Thủ tướng, dọn đường cho hành
động can thiệp quân sự thô bạo sang Campuchia, lôi kéo nước này vào “quỹ đạo
chiến tranh” mà Mỹ đưa ra. Hành động “tự làm theo ý mình” của Mỹ đã gây ra cảnh
ly tán, tang thương, chết chóc cho những người dân vô tội, gieo rắc nỗi kinh hoàng
cho nhân dân Campuchia, đồng thời gây ra chiến tranh trên toàn bán đảo Đông
Dương. Được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân và lực lượng cách mạng
Campuchia, ngày 23 tháng 3 năm 1970, Quốc trưởng Sihanúc đọc “Bản tuyên bố
kháng chiến” gồm 5 điểm1, kêu gọi nhân dân Campuchia kiên quyết đứng lên giải
phóng ách độc tài của LonNol do Mỹ hậu thuẫn, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm
lược Đông Dương, kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Trong
hoàn cảnh đế quốc Mỹ lật đổ Chính phủ Sihanúc và mở rộng chiến tranh ra toàn
Đông Dương, đồng thời đáp lại lời kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân
Campuchia, ngày 4 tháng 4 năm 1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam gửi Điện số 99 cho Trung ương Cục miền Nam, yêu cầu
lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường “nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực lượng cho

thích hợp với tình hình mới, bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, giúp cách
mạng Campuchia có hiệu lực, vừa mạnh, vừa vững chắc, chủ động và lâu dài” [34].
Một đất nước vừa mới bước ra khỏi cuộc kháng chiến chống Pháp, còn
nghèo nàn lạc hậu, lại đang bị chia cắt làm hai; một dân tộc vẫn đang ngày đêm
đứng lên đánh Mỹ xâm lược, những mong hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Dân tộc
ấy, mọi thứ vật chất thiếu thốn, chỉ có ý chí và lòng quyết tâm giải phóng, thống
nhất đất nước luôn sục sôi. Với tinh thần “giúp bạn là mình tự giúp mình”, các cán

1

Tuyên bố 5 điểm (ngày 23 tháng 3 năm 1970):
Giải tán chính phủ phản động Lonnol và hai viện Quốc hội Campuchia
Nhân dân Campuchia kiên quyết đứng lên chống lại bọn phản động cho đến thắng lợi cuối cùng
Thành lập Chính phủ đoàn kết dân tộc Campuchia
Thành lập Quân đội giải phóng dân tộc Campuchia
Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia.

5


bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam luôn nêu cao tinh
thần đoàn kết quốc tế, vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ, giúp đỡ cách mạng
Campuchia toàn diện mọi mặt, cùng quân đội và nhân dân Campuchia kề vai chiến
đấu, giành được nhiều chiến thắng, lập nhiều chiến công, góp phần đánh bại chiến
lược “Đông Dương hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, hoàn thành cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở Campuchia; đồng thời hỗ trợ tích cực cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
công ấy, trong giai đoạn 1970–1975 đã nảy sinh những mâu thuẫn bất đồng không
đáng có giữa cách mạng hai nước. Cách mạng hai nước có những biểu hiện chủ
quan, chưa nhạy bén, không nhận định đúng bản chất của lực lượng PônPốt Yêngxary nên đã mất cảnh giác gây thiệt hại về người và của, làm rạn nứt tình đoàn

kết, quan hệ giữa cách mạng Campuchia-Việt Nam. Đây là một bài học xương máu
quý báu cho cách mạng hai nước.
Nhằm làm sáng tỏ vai trò to lớn của Đảng Lao động Việt Nam; đúc rút
những kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam trong những năm tháng gian khổ,
thiếu thốn mọi mặt khi làm nhiệm vụ quốc tế trên đất nước Campuchia; vận dụng
những bài học ấy trong tình hình mới, nên chúng tôi chọn “Đảng Lao động Việt
Nam lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc tế về quân sự tại Campuchia (19701975)” làm đề tài Luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về liên minh đoàn kết chiến đấu của cách mạng hai nước Việt
Nam, Campuchia giai đoạn 1970–1975 nói chung và vai trò lãnh đạo của Đảng
trong giai đoạn đó nói riêng là đề tài hay và nhận được sự quan tâm nhất định của
các học giả, các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan mang lại nên hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ khai thác đến những khía
cạnh nhỏ. Các công trình ấy, đa phần nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam và
giải quyết một phần nhỏ của sự liên minh đoàn kết chiến đấu của nhân dân hai nước
Việt Nam – Campuchia (hoặc của nhân dân ba nước Đông Dương), về sự thất bại
của Mỹ trong việc mở rộng chiến tranh ra chiến trường Đông Dương. Thậm chí đã

6


có nhiều công trình nghiên cứu về sự đoàn kết, tương trợ của quân và dân Việt Nam
đối với nhân dân Campuchia vào giai đoạn 1979–1989 khi Quân tình nguyện Việt
Nam giúp đất nước Chùa Tháp hồi sinh, thoát khỏi nạn diệt chủng, nhưng riêng giai
đoạn 1970-1975 có rất ít.
Các công trình tiêu biểu như:
2.1. Công trình nghiên cứu trong nước
Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước-thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, Hà Nội.
Đây là công trình nghiên cứu công phu, toàn diện, khoa học, khách quan của tập thể

các nhà khoa học đầu ngành, có sự đóng góp của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, của
lão thành cách mạng và các tướng lĩnh quân đội tham gia vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Công trình ấy đã chỉ ra những giai đoạn phát triển của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời đúc rút tám bài học kinh nghiệm quý
báu cho cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: có được thành công đó là sự
đoàn kết liên minh với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia (bài học thứ sáu).
Trên cương vị là cơ quan khoa học đầu ngành về lịch sử quân sự của quân
đội, một trung tâm lịch sử quân sự của đất nước, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
thuộc Bộ Quốc phòng quy tụ nhiều nhà khoa học uy tín, giàu kinh nghiệm trong
nghiên cứu lịch sử quân sự. Riêng về nghiên cứu về sự ủng hộ, giúp đỡ hay mối
quan hệ, tình đoàn kết Việt Nam - Campuchia giai đoạn 1970-1975 đã có một vài
công trình có nhắc đến, như: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Những sự
kiện quân sự, Nxb QĐND, 2001: trong đó đề cập đến các sự kiện quân sự quan
trọng diễn ra từ năm 1970-1975 khẳng định có sự liên minh đoàn kết chiến đấu của
cách mạng 2 nước. Công trình Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954-1975), Nxb QĐND, 2001: đã tái hiện lại các chiến dịch, trận đánh
tiêu biểu có sự phối hợp chiến đấu của quân và dân hai nước Việt Nam-Campuchia
như Chiến dịch Đông Bắc Campuchia, Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Chenla
2, Chiến dịch Ăngco Chay… Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt
Nam giúp cách mạng Campuchia (1978-1989), Nxb QĐND, 2010: đề cập đến quá

7


trình Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp nhân dân Campuchia
thoát khỏi chế độ diệt chủng, hồi sinh lại đất nước, bảo vệ vững chắc thành quả cách
mạng. Tuy nhiên, ngay trong phần mở đầu, các tác giả cũng phác họa vài nét về sự
liên minh đoàn kết chiến đấu của nhân dân 2 nước từ khi có Đảng lãnh đạo. Đặc
biệt, công trình tiêu biểu nhất là Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
1954-1975, gồm 9 tập – xuất bản lần 2 năm 2013, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội:

Trong tập VI, tập VII và tập IX, các tác giả đã phần nào khái lược chung nhất về sự
phối hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân 2 nước, cùng nhau đánh đuổi kẻ thù
chung; qua đó rút ra tính chất, đặc điểm và bài học về sự liên minh đoàn kết chiến
đấu của nhân dân ba nước Đông Dương nói chung, nhân dân hai nước Việt NamCampuchia nói riêng.
Đại tướng Văn Tiến Dũng, một vị tướng lĩnh xuất sắc của Quân đội, là một
nhà chiến lược, một người lãnh đạo đầy tinh thần Cách mạng tiến công. Trong suốt
cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân
dân Việt Nam (11/1953 – 5/1978). Bởi vậy, cuốn sách Về cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, Nxb QĐND, 2005 của Đại tướng đã giúp các học giả trong và ngoài
nước hiểu sâu sắc thêm nhiều vấn đề lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của quân và dân Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới nhãn quan
của một vị tướng chỉ huy. Trong đó, riêng về việc phối hợp chiến đấu của quân và
dân ba nước Đông Dương được ông viết chi tiết thể hiện qua từng trận đánh, đầy
mưu lược. Các chiến thắng từ những cuộc phản công đánh bại các cuộc hành quân
“Toàn thắng 1-71”, “Chen la 2”… đã góp phần quan trọng đánh bại học thuyết
Níchxơn và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, tạo điều kiện để nhân
dân ba nước tiến lên giành thắng lợi năm 1975 khi thời cơ đến.
Trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Xứ ủy
Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ về công tác
xây dựng Đảng và chỉ đạo cách mạng miền Nam một cách cụ thể, sáng tạo (trong
đó có cả lực lượng Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm
vụ quốc tế trên đất Campuchia), qua đó góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân

8


dân Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng đến thắng lợi hoàn toàn. Công
trình Lịch sử Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954-1975) do Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – Viện Lịch sử Đảng biên soạn, được Nxb
CTQG xuất bản (lần 2) năm 2015, là công trình nghiên cứu khách quan, khoa học,

cụ thể trình bày rõ những nét chính trong chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp phong trào cách
mạng miền Nam đi đến thắng lợi. Trong đó, chỉ rõ Đảng đã nhanh chóng chuyển
hướng chỉ đạo, chủ động phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia, đập tan kế
hoạch mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương của đế quốc Mỹ, góp phần đưa
đến thắng lợi hoàn toàn của nhân dân ba nước.
Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam Bộ kháng chiến (2010), Lịch sử Nam
Bộ kháng chiến, Nxb CTQG, một công trình khoa ho ̣c đ ồ sộ, một bộ chính sử oanh
liệt về một miền đấ t rấ t giàu truyền thố ng cách ma ̣ng và lich
̣ sử - văn hoá, về một giai
đoa ̣n lich
̣ sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong thời đa ̣i Hồ Chí Minh. Công trình
ấy đã thu hút đươ ̣c sự tham gia của nhi ều nhà khoa ho ̣c đ ầu ngành, cán bộ lãnh đạo
cách mạng qua các thời k ỳ, các cựu chiến binh, các nhân chứng lịch sử đã từng tr ực
tiếp tham gia chiến đấ u , có mặt trong những thời khắc oanh li ệt làm nên chiến công
vang dội của Nam B ộ thành đồng năm xưa. Đây thực sự là một tác phẩ m lớn , chứa
đựng nhiều tư liệu lich
̣ sử quý báu , phản ánh đ ầy đủ t ầm vóc của sự ngh iệp kháng
chiến chố ng đế quố c Mỹ đầy ác liệt, cam go và phức ta ̣p, sự hiến dâng công sức, máu
xương của đồng bào khắ p c ả nước trên chiến trường Nam B ộ. Trong đó, công trình
(phản ánh đầy đủ trong chương Tám) đã nêu bật thế chiến lược “Đông Dương là một
chiến trường”, sự liên minh đoàn kết chiến đấu nhân dân ba nước, đứng lên đánh kẻ
thù chung là tất yếu khách quan, cách mạng ba nước từng bước giành được thắng lợi
liên tiếp, chuyển thế bị động sang thế phản công và chủ động, buộc các lực lượng Mỹ
và đồng minh Mỹ ở Đông Dương lùi sâu về phòng ngự. Chính sự liên minh đoàn kết
nhân dân ba nước góp phần đưa đến thắng Mỹ ở các chiến trường.
Sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và Campuchia cùng nhân dân
Lào nói chung giành được thắng lợi đó một phần là do vai trò của Khu V và Đoàn
559 Bộ đội Trường Sơn, … tất cả đều được tái hiện ở các khía cạnh khác nhau trong

9



hai công trình như: Bộ Tư lệnh Quân khu 5 (1989), Khu 5 – 30 năm chiến tranh giải
phóng, (tập 3) và Lịch sử Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh, Nxb
QĐND, 1999.
Ngoài ra, công trình của tác giả Phạm Đức Thành (1995), Lịch sử
Campuchia, Nxb Văn hóa Thông tin: là một công trình nghiên cứu công phu về đất
nước Campuchia qua các thời kỳ lịch sử, tuy nhiên chỉ dừng lại ở những nét khái
quát chung nhất. Trong giai đoạn 1970-1975, tác giả cũng dành một chương
(chương VII) viết về cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Campuchia,
nhưng chưa thật sâu sát. Riêng tác giả Trần Trọng Trung (2005), với công trình Nhà
Trắng với cuộc chiến tranh Việt Nam. Nxb CTQG: khẳng định việc Mỹ mở rộng
chiến tranh sang Campuchia là một nước cờ sai lầm, nó làm cho Mỹ càng bị sa lầy,
chia rẽ. Cùng nhiều công trình nghiên cứu lịch sử của các địa phương, đơn vị trong
30 năm chiến tranh giải phóng, hoặc trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ…
2.2. Công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài
Chiến tranh Việt Nam trong giai đoạn chống đế quốc Mỹ xâm lược (19541975), luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu và học giả
nước ngoài, mà chủ yếu là học giả người Mỹ. Họ nhìn nhận cuộc chiến này ở những
khía cạnh khác nhau, bằng những luận cứ và phương pháp khoa học, các nhà nghiên
cứu đưa ra những nhận định khác nhau làm phong phú thêm những khía cạnh, góc
nhìn lịch sử về một giai đoạn Mỹ gây ra chiến tranh ở Việt Nam. Riêng trong giai
đoạn Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh can thiệp sang Campuchia cũng có nhiều công
trình khảo cứu viết về nó, đa phần các học giả đều nhận định, đây là một sai lầm của
Mỹ, khiến kinh tế Mỹ thêm suy kiệt, khiến nhân dân Mỹ thêm chia rẽ.
Giôdép Amtơ, Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb QĐND, 1985. Dù là một
luật sư và làm trong lĩnh vực ngân hàng, nhưng Amtơ luôn quan tâm đến đối ngoại
và hòa bình, ông từng làm giám đốc tổ chức “Quỹ tổ chức nghiên cứu hòa bình”.
Bằng lập luận logic của một luật sư, lại có điều kiện tiếp xúc với nhiều tài liệu,
những bài phát biểu của giới chức chính quyền Nhà Trắng, công trình của ông chứa
đựng những cái nhìn khách quan, có đưa vào những bài phát biểu, ý kiến của quan


10


chức chính quyền Mỹ tham gia vào chiến tranh Việt Nam để đưa ra những nhận
định của mình. Ông dành riêng một phần (phần Ba) của cuốn sách viết về chiến
tranh Việt Nam của Níchxơn trong đó có đề cập chi tiết đến sự kiện Mỹ tham gia
can thiệp quân sự sang Campuchia (nêu bật những thất bại như cuộc hành quân
Chenla 2, rồi tội ác của không quân Mỹ khi ném bom vào Campuchia...). Sau cùng,
ông đưa ra những “phán quyết” của ông với danh nghĩa là một công dân, với ông,
chiến tranh Việt Nam đã thất bại ngay từ khi mới được bắt đầu, cuộc chiến tranh
Việt Nam là cuộc chiến tranh ác liệt nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Đavít Risớt Panmơ, Tiếng kèn gọi quân, Nxb Thông tin lý luận (1987). Một
quân nhân Mỹ đã từng có mặt trong chiến tranh Việt Nam, với cương vị là đại tá chỉ
huy Sư đoàn thiết giáp số 2 của Lục quân cơ giới Mỹ. Dưới cách nhìn của một
người lính tham chiến, được quan sát trực tiếp và có trong tay những tư liệu cần
thiết, tác giả đã nêu lên được một phần sự thất bại toàn diện của đế quốc Mỹ trong
cuộc đụng đầu lịch sử này. Trong những phần viết về cuộc chiến tranh Mỹ mở rộng
sang Campuchia, Đavít dưới con mắt của người cầm quân, ông mô tả những sự kiện
lịch sử cụ thể, qua đó xâu chuỗi lại và đưa ra những nhận định của mình. Trang 290,
ông viết “chỉ trong hai tháng (5-7/1970), lực lượng Mỹ - Sài Gòn đã hoàn thành 12
cuộc hành quân vượt biên. Bất kể những lời lên án gay gắt của các nhân vật chống
chiến tranh tại Hoa Kỳ, các cuộc hành quân đã thắng lợi dù không giáng được cho
đối phương một đòn quyết định… Nhưng còn mục tiêu mà Hoa Kỳ đặt ra: khuyến
khích một sự dàn xếp thông qua thương lượng thì chưa thực hiện được”. Tác giả
còn nhận định “trong tìm kiếm hòa bình, Tổng thống Níchxơn đã buộc phải làm
những việc mà trước đây Tổng thống Giônxơn đã từ chối không làm khi tìm ra một
chiến lược hữu hiệu. Sự nghiên cứu hòa bình, mỉa mai thay lại bắt đầu bằng chính
sự nghiên cứu chiến tranh” (trang 298).
Dưới nhãn quan của các nhà sử học (người Mỹ), có thể kể đến các công trình

nghiên cứu:
Pitơ A. Pulơ (1986), Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Níchxơn,
Nxb Thông tin Lý luận: tác giả dành một chương (chương XIX) nói về quá trình

11


Mỹ can thiệp vào đất nước Campuchia, tuy nhiên sự can thiệp này đã gây ra những
tranh cãi trong giới cầm quyền Nhà Trắng, đồng thời khẳng định đó là “một tấm
gương sáng nhất” của học thuyết Níchxơn trên thực tế.
Maicơn Mắclia (1990), Việt Nam cuộc chiến tranh mười ngàn ngày, Nxb Sự thật:
Trong chương XVIII, tác giả viết về những mâu thuẫn của nước Mỹ trong việc “đẩy
nhanh việc rút quân”. Thay vì rút quân trong danh dự Mỹ lại tiến hành cuộc ném bom
“thực đơn” vào Campuchia, tiến hành hỗ trợ cho thế lực thân Mỹ, là LonNol đảo chính
lật đổ Sihanúc và đưa ra những luận điệu nhằm trấn an dư luận, nhưng cuối cùng những
mâu thuẫn bất đồng ấy vẫn bùng phát dữ dội “chưa từng có kể từ sau nội chiến” Mỹ.
Naigiơ Cathônơ (Nigel Cawthorne) (2007), Chiến tranh Việt Nam được và
mất (hay những bài học về chiến tranh Việt Nam), (bản dịch Việt ngữ) Nhà sách
Văn hóa Việt: Tác giả đã khắc họa phần nào sự tàn khốc của cuộc chiến tranh mà
Mỹ tiến hành ở Việt Nam. Đối với đất nước Campuchia sự tàn khốc ấy cũng không
ngoại lệ khi Mỹ mở rộng chiến tranh ra khắp Đông Dương, tiến hành ném bom trên
đất nước Campuchia, điều này vấp phải sự phản ứng quyết liệt của Liên Xô, Pháp
và nhân dân tiến bộ Mỹ.
Gioócgiơ Hering, Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ, Nxb CTQG,
1998. Hering, giáo sư sử học, được tiếp cận nhiều tài liệu của Lầu Năm góc, Thư
viện Tổng thống Mỹ, ông có những nhận định khách quan về cuộc chiến Mỹ tiến
hành ở Việt Nam và mở rộng sang Campuchia, chỉ rõ sai lầm của Tổng thống
Níchxơn khi sẵn sàng làm công việc mạo hiểm vì những kết quả chưa biết ra sao.
“Hành động của Mỹ ở Campuchia đã góp phần vào một trong những tấn thảm kịch
lớn của lịch sử thế giới cận đại” (trang 304).

Tất cả các công trình nói trên, thực sự rất phong phú đa dạng, đã phần nào khắc
họa được tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở miền Nam Việt Nam
nói riêng và nhân dân 3 nước Đông Dương nói chung. Những thành quả cách mạng đã
đạt được của nhân dân 3 nước Đông Dương chứng minh cho đường lối đúng đắn của
Đảng Lao động Việt Nam, của sự liên minh, đoàn kết chiến đấu nhân dân ba nước
Đông Dương chống kẻ thù chung. Tuy nhiên, sẽ là một “lỗ hổng” lớn trong việc nghiên

12


cứu quá trình hình thành và phát triển tinh thần đoàn kết quốc tế của hai nước Việt
Nam-Campuchia và sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam trong thực hiện nhiệm
vụ quốc tế tại Campuchia giai đoạn 1970-1975, khi chưa có công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và có những cái nhìn khách quan về giai đoạn này.
Điều này là cơ sở, động lực để chúng tôi thực hiện công trình này.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa chủ trương, đường lối lãnh đạo và làm rõ vai trò quan trọng của
Đảng Lao động Việt Nam, đúc rút những kinh nghiệm trong việc lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ quốc tế về quân sự giúp cách mạng Campuchia giai đoạn 1970-1975.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Bám sát diễn trình lịch sử, luận văn làm rõ tính chất khốc liệt của cuộc chiến
tranh. Khôi phục lại một cách tương đối, khách quan, toàn diện quá trình Đảng Lao
động Việt Nam lãnh đạo Quân tình nguyện, Chuyên gia quân sự làm nhiệm vụ quốc
tế tại Campuchia (1970-1975).
Trình bày quá trình Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã giúp đỡ mọi mặt đưa cách mạng Campuchia đi lên giành
thắng lợi.
Đánh giá những thành tựu, hạn chế và đúc kết những kinh nghiệm từ thực
tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc tế về quân sự tại Campuchia

(1970-1975).
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng
Đối tượng là sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam thực hiện nhiệm vụ
quốc tế giúp đỡ quân sự đối với cách mạng Campuchia.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn xác định giai đoạn 1970-1975 là chính, cụ thể là khi
Mỹ hỗ trợ LonNol tiến hành đảo chính lật đổ Quốc trưởng Sihanúc (18/3/1970) cho
tới khi Thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng (17/4/1975). Đây là giai đoạn cam go,

13


đầy thử thách khi Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, biến Đông Dương
thành một chiến trường, can thiệp thô bạo vào chủ quyền, lãnh thổ Campuchia, chà
đạp lên nền độc lập dân tộc của nhân dân Campuchia.
Về không gian: Luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng Lao động Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc tế về quân sự tại
Campuchia. (Riêng nhiệm vụ quốc tế về quân sự ở đây không chỉ là sự phối hợp tác
chiến mà còn là viện trợ vũ khí, trang thiết bị quân sự; giúp xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng; xây dựng hậu phương, căn cứ địa cách mạng; xây dựng chính
quyền vùng giải phóng; đồng thời bảo đảm hậu cần cho các đơn vị, lực lượng làm
nhiệm vụ trên đất Campuchia).
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Tư liệu
Được thu thập xử lý trong quá trình nghiên cứu gồm:
Các tài liệu của Đảng các cấp, cụ thể là của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung
ương, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ Tư lệnh Miền, Quân
ủy Miền. Các bài nói, viết, các bức thư, chỉ thị, báo cáo, nghị quyết, kế hoạch tác
chiến… được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc Phòng, Thư viện Viện Lịch sử

quân sự Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng. Đây xác định là tài liệu gốc.
Các công trình nghiên cứu, biên niên sự kiện có liên quan đã được biên soạn,
công bố.
Đặc biệt, một số tài liệu, hồi ký của những người từng tham gia cuộc chiến
tranh trong giai đoạn 1970-1975 của cả hai phía để có cái nhìn khách quan hơn về
sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện giúp đỡ quân sự đối với cách mạng
Campuchia. Trong đó có những nhà quân sự cấp cao của hai bên từng trực tiếp tham
gia điều hành cuộc chiến như: tác phẩm của Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt
Nam-Văn Tiến Dũng, Hồi ký Sihanúc, Hồi ký Níchxơn (Tổng thống thứ 37 của Mỹ,
điều hành chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1969-1974), Hồi ký Kissinger (trên
cương vị là một cố vấn an ninh quốc gia Mỹ (1969-1975), đồng thời từng là ngoại
trưởng Mỹ (1973-1977), người có nhiều ảnh hưởng đến cuộc chiến ở Việt Nam nói
riêng, Đông Dương nói chung).

14


5.2. Phương pháp
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu kết hợp với phương pháp
lôgic. Ngoài ra, các phương pháp so sánh, thống kê, phân tích tổng hợp cũng được
sử dụng nhằm làm bật quá trình lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam với việc
thực hiện nhiệm vụ quốc tế, giúp đỡ cách mạng Campuchia về quân sự trong giai
đoạn 1970-1975.
6. Đóng góp
6.1. Về tư liệu
Sưu tầm và hệ thống hóa tư liệu từ nhiều nơi, nhiều nguồn khác nhau, nhiều
tư liệu gốc từ những trung tâm lưu trữ lớn của Nhà nước, Bộ Quốc Phòng về sự
lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ về quân
sự đối cách mạng Campuchia giai đoạn 1970 – 1975.
6.2. Về nội dung

Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp người đọc hiểu rõ hơn vai trò to lớn
của Đảng, hiểu rõ được ý nghĩa, tầm quan trọng của tình đoàn kết chiến đấu đặc
biệt, giữa quân đội hai nước; góp phần vào công tác nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử quân sự, Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt NamCampuchia thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa học; đúc kết một số kinh
nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đội ngũ cán bộ, chiến
sỹ thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, đồng thời vận dụng những kinh
nghiệm ấy trong tình hình mới.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Lao động Việt Nam đối với
thực hiện nhiệm vụ quốc tế về quân sự tại Campuchia từ năm 1970 đến năm 1971.
Chương 2. Sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam đối với thực hiện
nhiệm vụ quốc tế về quân sự tại Campuchia từ năm 1972 đến năm 1975.
Chương 3. Nhận xét và một số kinh nghiệm

15


Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG LAO
ĐỘNG VIỆT NAM ĐỐI VỚI THỰC HIỆN NHIỆM VỤ QUỐC TẾ
VỀ QUÂN SỰ TẠI CAMPUCHIA TỪ NĂM 1970 ĐẾN NĂM 1971
1.1. Khái quát sự lãnh đạo của Đảng đối với thực hiện nhiệm vụ quốc tế
về quân sự tại Campuchia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
1.1.1. Yêu cầu liên minh chiến đấu và quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt
Nam – Campuchia
Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia cùng nằm trên bán đảo Đông
Dương, với vị trí liền kề sông núi. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân dân hai nước
Việt Nam-Campuchia đã có mối quan hệ giao lưu, gắn bó mật thiết với nhau, hai

dân tộc cùng dựng nước, giữ nước và ngày nay đang trên đường phát triển kinh tế
xã hội. Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Đông Dương, các quốc gia trên bán
đảo Đông Dương không bắt kịp với xu thế của lịch sử (đã phát triển sang giai đoạn
mới) để đổi mới, canh tân đất nước, giữ gìn nền độc lập, tự chủ, khiến đất nước nhanh
chóng bị rơi vào tay thực dân phương Tây. Đây cũng là xu thế khó tránh khỏi lúc đó
(thực dân phương Tây có sự lớn mạnh của khoa học kỹ thuật và quân sự đã nhanh
chóng chia nhau chiếm các nước trên thế giới làm thuộc địa). Khởi đầu là việc Pháp
chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ (1858), nhanh chóng chiếm trọn các tỉnh Nam Bộ
của Việt Nam, sau đó tràn sang xâm chiếm Vương quốc Campuchia (1863), rồi tiến
đánh Trung Bộ, Bắc Bộ hoàn thành xâm lược Việt Nam (1884) và cuối cùng xâm
chiếm Lào (1893). Từ đó, số phận của nhân dân ba nước Đông Dương đã gắn liền làm
một, đều chịu cảnh thân phận nô lệ của thực dân Pháp.
Tuy nhiên, với lòng yêu nước nồng nàn, niềm tự tôn dân tộc và tinh thần đấu
tranh cách mạng, có chung một kẻ thù nên ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
nhân dân hai nước Việt Nam, Campuchia nói riêng và cả nhân dân Lào nói chung
đã cùng nhau đứng lên tiến hành nhiều cuộc khởi nghĩa đánh đuổi thực dân Pháp

16


xâm lược1. Dù rằng ý niệm về sự liên minh quốc tế, sự đoàn kết chiến đấu chống kẻ
thù chung chưa được định hình rõ ràng trong tư tưởng những người yêu nước Việt
Nam và Campuchia. Kết cục chung của những cuộc tranh đấu ấy đều nhanh chóng
rơi vào thất bại, nguyên nhân là do các phong trào yêu nước thời kỳ này diễn ra lẻ
tẻ, chưa kết thành một phong trào rộng lớn, thiếu một đường lối đúng đắn, phù hợp
với thời đại nên chưa phát động được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân đứng lên
đấu tranh. Chính sự tự phát, liên minh đoàn kết chiến đấu đó, đã tạo tiền đề cho sự
liên minh quốc tế sau này khi có Đảng lãnh đạo.
Trong lúc cách mạng Đông Dương đang khủng hoảng về đường lối, ở nước
Nga vào năm 1917, với sự thành công của Cách mạng tháng Mười đã mở ra một kỷ

nguyên mới, định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trên
toàn thế giới. Trước những đòi hỏi bức thiết của lịch sử, trải qua quá trình vận động
của Nguyễn Ái Quốc, đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đến
tháng 10 năm 1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Nhân dân Campuchia
ngày nay), đã đáp ứng nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân các nước Đông Dương đứng lên
đấu tranh, giành độc lập dân tộc. Ngay tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương (10/1930) ngoài việc thông qua Luận cương chính trị, Hội nghị đã nhất trí ra
“Án nghị quyết” về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng,
trong đó nêu rõ: nhiệm vụ chính trị của Đảng chiếu theo tình hình chính trị hiện tại ở
Đông Dương là phải khuếch trương phong trào đấu tranh cho đều khắp xứ Đông
Dương, phải làm cho phong trào đấu tranh ở những chỗ đã có được thêm sâu, thêm
mạnh và phải hết sức làm cho phong trào cách mạng lan rộng ra những chỗ chưa có.
Đồng thời phân tích, ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đều là thuộc địa của Pháp.
Ba dân tộc khác nhau nhưng cùng chung một ách thống trị của thực dân Pháp, có

1

Điển hình như: trong những năm 1863-1888, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân vùng đồng
bằng sông Cửu Long (Việt Nam) đã có sự liên kết nhất định với nhân dân phía Đông Campuchia. Nhiều đội
nghĩa quân của hai nước hoạt động dọc biên giới Việt Nam, Campuchia như cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân
Achaxoa, Pôkum Bô năm 1864 ở tỉnh Prây Viêng (Campuchia), có sự phối hợp chiến đấu của nghĩa quân
Trương Quyền ở Tây Ninh (Việt Nam) đã giành được thắng lợi lớn làm nức lòng binh sĩ. Thừa thắng PôKum
Bô kéo quân về Campuchia tấn công hết vị trí này đến vị trí khác, uy hiếp thành phố Phnôm Pênh.

17


quan hệ mật thiết với nhau về chính trị, kinh tế, địa lý, do đó cần phải liên kết chặt
chẽ với nhau, đoàn kết và thống nhất hành động để chống Pháp [63, tr.104-107]. “Án

nghị quyết” của Trung ương Đảng đã đề ra những nhiệm vụ căn bản cho toàn Đảng
và nhân dân Đông Dương phát huy được sức mạnh đoàn kết của nhân dân ba nước, là
bước ngoặt quyết định cho phong trào cách mạng của mỗi nước và sự liên minh cách
mạng Việt Nam-Lào-Campuchia vì một mục tiêu chung.
Ngay sau khi thành lập Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương giao cho tổ chức Cộng sản các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ có
trách nhiệm giúp đỡ xây dựng cơ sở cách mạng, chi bộ Đảng ở Lào và Campuchia.
Tại Campuchia các cơ sở quần chúng cách mạng, các chi bộ Đảng lần lượt được xây
dựng ở Phnôm Pênh, Côngpông Chàm, Báttambang… Từ đây, liên minh chiến đấu
giữa cách mạng Việt Nam-Campuchia thực sự được hình thành, gắn bó chặt chẽ với
nhau. Những năm tiếp theo, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh của
quần chúng nhân dân phát triển rầm rộ trên cả ba nước Đông Dương. Tháng 9 năm
1939, Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra có tác động mạnh mẽ tới cách mạng Đông
Dương, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 Đảng Cộng sản Đông Dương
(11/1939) nêu rõ: Xứ Đông Dương có nhiều dân tộc, trong đó có ba dân tộc Việt
Nam, Lào, Miên ở ba xứ khác nhau và đã từng có một lịch sử văn hóa riêng. Nghị
quyết nhấn mạnh: Ở Đông Dương, không dân tộc nào có thể giải phóng riêng rẽ, vì
Đông Dương dưới quyền thống nhất của đế quốc về mặt chính trị, kinh tế và binh bị.
Song các dân tộc Đông Dương không nhất thiết phải thành lập một quốc gia duy nhất
vì các dân tộc Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền
quyết định vận mệnh mình theo ý muốn của mình. Theo đó, Nghị quyết đặt ra yêu
cầu phải chú ý gây dựng cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng ở Lào và Campuchia để cùng
phối hợp hành động với cách mạng Việt Nam [64, tr. 529-530, 561-562].
Tháng 5 năm 1941, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần
thứ 8, họp tại Pắc Pó-Cao Bằng, dưới sự chủ tọa của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đã
xác định nhiệm vụ trước mắt: tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đuổi
Pháp, Nhật, chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt

18



Minh), đồng thời tích cực giúp đỡ Lào và Campuchia thành lập Ai Lao độc lập đồng
minh và Cao Miên độc lập đồng minh, tiến tới thành lập Mặt trận thống nhất toàn
Đông Dương để đấu tranh giành độc lập cho mỗi nước. Điều này đã thể hiện sự
sáng tạo to lớn của Đảng trong việc kết hợp dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế,
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế đối với việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế
của dân tộc Việt Nam với dân tộc Lào và Campuchia anh em, góp phần làm phong
phú thêm lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác- Lênin, thực hiện lời kêu gọi “Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” trong điều kiện cụ thể của
Đông Dương. Nhưng do những điều kiện chủ quan và khách quan cụ thể của mỗi
nước nên phong trào cách mạng ở các nước Đông Dương phát triển không đồng đều
với nhau. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Quốc vương Nôrôđôm Sihanúc tuyên bố
“Vương quốc Campuchia từ nay là một quốc gia độc lập”. Tháng 8 năm 1945, cách
mạng Việt Nam giành được thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
(2/9/1945). Đến ngày 12 tháng 10 năm 1945, nhân dân Lào cũng giành được chính
quyền, chính phủ độc lập Lào ra mắt quốc dân đồng bào tại thủ đô Viêng Chăn.
Công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở ba nước Đông Dương đến đây hoàn
thành, đem lại quyền tự do, tự chủ cho người dân ở mỗi nước. Thời kỳ này, cách
mạng ở ba nước dù ở vào tình cảnh khó khăn, gian khổ, phải chịu những hi sinh, tổn
thất, nhưng chính trong khó khăn ấy, tình đoàn kết, liên minh chiến đấu của nhân
dân ba nước Đông Dương nói chung và nhân dân Việt Nam-Campuchia nói riêng
càng được gắn bó, tạo tiền đề cách mạng cho giai đoạn sau.
Như vậy, trải qua những thăng trầm của lịch sử, nhân dân hai nước có chung
một kẻ thù, chung niềm khao khát giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập cho Tổ
quốc. Điều đó là cơ sở vững chắc cho sự liên minh chiến đấu và tình đoàn kết chiến
đấu giữa hai dân tộc Việt Nam-Campuchia, Campuchia-Việt Nam. Mối tình đoàn
kết ấy được hình thành không phải do ý muốn chủ quan, tự phát của bất kỳ bên nào,
cũng không phải là hiện tượng nhất thời; mà đó là một tất yếu lịch sử, được bắt
nguồn từ vị trí địa chiến lược, từ bản chất nhân văn, nhu cầu bức thiết của lịch sử
trong tiến trình dựng nước và giữ nước.


19


1.1.2. Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc tế về
quân sự tại Campuchia trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp
Mùa Thu năm 1945, cách mạng ba nước Đông Dương đều giành được thắng
lợi, đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, khôi phục nền độc lập
dân tộc ở mỗi quốc gia. Nhưng ngay khi vừa giành lại nền độc lập dân tộc, chính
quyền nhân dân còn non trẻ, ba nước Đông Dương lại đối mặt với sự xâm lược lần
thứ hai của thực dân Pháp. Ngày 24 tháng 3 năm 1945, tại thủ đô Bra-da-vi của
Công-gô (nước thuộc địa của Pháp), Đờ Gôn (De Gaulle) ra “Tuyên bố về vấn đề
Đông Dương” với nội dung chủ yếu phản ánh tham vọng lập lại ách thống trị thực
dân trên toàn lãnh thổ Đông Dương như năm 1939, dù lúc này Đông Dương đã rơi
vào tay phát xít Nhật. Hiện thực hóa điều này, ngay trong đêm 22 rạng sáng ngày 23
tháng 9 năm 1945, được sự hậu thuẫn, giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp đã bất
ngờ nổ súng tập kích các công sở của chính quyền cách mạng Việt Nam tại Sài
Gòn. Đến tháng 10 năm 1945, Pháp đưa quân từ Sài Gòn lên chiếm Đông Bắc
Campuchia, dùng nơi đây làm bàn đạp tiến đánh Lào và Tây Nguyên (Việt Nam).
Ngày 21 tháng 3 năm 1946, quân Pháp đánh chiếm Thà Khẹt và các tỉnh Nam Lào,
mở rộng chiến tranh xâm lược ba nước Đông Dương.
Tại Campuchia, thực dân Pháp nhanh chóng chiếm được thủ đô Phnôm
Pênh, chi phối, điều khiển chính phủ Vương quốc, tái lập nền thuộc địa ở nước này.
Với mong muốn tạo ra tình hình ổn định lâu dài, biến Campuchia thành “hậu
phương an toàn”, nơi tiếp sức cho quân đội viễn chinh nên thực dân Pháp đã sử
dụng các thủ đoạn, biện pháp về quân sự, chính trị, hành chính; tranh thủ đánh phá
cơ sở cách mạng và kháng chiến Campuchia khi còn trứng nước, non yếu, nhanh
chóng lập lại nền thống trị, biến Campuchia thành thuộc địa của Pháp như cũ.
Tình thế cách mạng của nhân dân Việt Nam nói riêng, nhân dân Đông
Dương nói chung rơi vào tình cảnh „ngàn cân treo sợi tóc”. Với phương thức ngoại

giao khôn khéo mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn về nguyên tắc chiến lược của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên nhân dân Việt Nam đã tranh thủ được thời gian chuẩn bị
cho một cuộc chiến không thể tránh khỏi, đồng thời có thêm điều kiện để giúp đỡ

20


cho cách mạng Campuchia. Những năm đầu của cuộc kháng chiến, lực lượng cách
mạng của Việt Nam tuy mỏng và yếu, lại phải dồn sức đối phó với địch trên các mặt
trận, nhưng với tinh thần của chủ nghĩa quốc tế, những người đứng đầu Đảng, Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn theo dõi sát sao tình hình cách mạng
Campuchia, đồng thời giao trách nhiệm cho các địa phương phái các bộ phận lực
lượng vũ trang và cán bộ sang Campuchia hoạt động, giúp Campuchia tổ chức phát
động cuộc kháng chiến chống Pháp, mở mặt trận đánh địch ngay trên chiến trường
Campuchia, phối hợp với cuộc kháng chiến của nhân nhân Lào và Việt Nam.
Đầu năm 1946, các cơ sở cách mạng Campuchia chưa khôi phục, lực lượng
Quân tình nguyện Việt Nam chưa thể tiếp nhập được vào bên trong để xây dựng cơ
sở và giúp Campuchia tổ chức kháng chiến, tình thế cách mạng gặp rất nhiều khó
khăn. Bằng ý chí sắt đá, dựa trên tình đoàn kết ba nước Đông Dương, các cán bộ,
chiến sỹ Quân tình nguyện, Chuyên gia quân sự Việt Nam không quản ngại hi sinh,
gian khổ từng bước giúp Campuchia khôi phục lại cơ sở cách mạng, xây dựng lực
lượng và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp1. Sau chiến thắng Việt Bắc
(Việt Nam) năm 1947, thực dân Pháp đã thực sự bị thất bại trong chiến lược “đánh
nhanh thắng nhanh”, buộc phải chuyển sang đánh lâu dài, và dần rơi vào thế bị động
trên chiến trường. Tại Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương (họp tại Việt Bắc, 15-17/1/1948) nhận định phải gia cường
việc tuyên truyền cho cuộc vận động giải phóng của các dân tộc Miên, Lào [65, tr.
16-50] thúc đẩy sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân Đông Dương. Cùng với
chỉ thị số 1LV/TCH về hoạt động ở mặt trận Lào, Miên của Bộ Tổng chỉ huy Quân
đội quốc gia và Dân quân Việt Nam đã bổ sung rõ hơn nhiệm vụ và mối liên hệ

giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Lào, Campuchia. Cụ thể, “Mặt trận Lào –
Miên có tác dụng kiềm chế lớn, ngăn cản làm cho quân Pháp không thể rút hết lực
lượng ở đây để tập trung tiến công Việt Nam; ta phải phát động chiến tranh du kích,
đồng thời chú trọng đào tạo cán bộ Lào, Campuchia, với danh nghĩa chính đáng.
1

Tháng 12/1946, Bộ Tư lệnh Mặt trận Lào-Miên được thành lập. Tại tỉnh Báttambang (Campuchia), được sự
giúp đỡ của cán bộ Xứ ủy Nam Bộ và Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, những người yêu nước
Campuchia thành lập “Ủy ban giải phóng dân tộc Campuchia lâm thời” nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân
Campuchia vào mặt trận chung đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược.

21


×