Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quy luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.65 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trải qua hơn 55 năm trên chặng đường phát triển văn hóa, từ văn kiện
đầu tiên “Đề cương văn hoá năm 1943”, Đảng và nhà nước ta đã tích luỹ
kinh nghiệm thực tiễn và lý luận để lại dấu ấn lịch sử, dấu ấn thời đại về tư
duy văn hố.
Khơng phải ngẫu nhiên mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 của Ban
chấp hành TW khoá VII Đảng ta đã xác định văn hố khơng chỉ là kết quả
mà cịn là ngun nhân của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước. Phát triển quan điểm trên, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành TW
Đảng khoá IX tiếp tục xác định mục tiêu cần phải đạt tới là tạo được sự
phát triển đồng bộ về chất lượng văn hoá “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm
vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt
với khơng ngừng nâng cao văn hố - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên
sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định
đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (Văn kiện
Hội nghị TW 10 khoá IX). Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
tháng 4 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định: “...Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua hơn 20 năm với đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với công
cuộc đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước vững chắc
đạt được những thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng; nền dân chủ
XHCN với nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết
định. Bên cạnh việc hội nhập kinh tế, tiến trình hội nhập văn hóa cũng là
một tất yếu khách quan. Tiến trình giữa hội nhập kinh tế và hội nhập văn,
nếu coi nhẹ hội nhập kinh tế thì đất nước sẽ chậm thốt nghèo. Cịn coi nhẹ



hội nhập văn hóa đơi khi lại nguy hiểm hơn bởi có thể bị các nền văn hóa
khác đồng hóa. Vì vậy bên cạnh chiến lược phát triển kinh tế, chúng ta cần
có chiến lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phù hợp với
phát triển kinh tế. Tất nhiên đậm đà bản sắc dân tộc khơng thể đóng cửa
nền văn hóa, mà chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để
làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc của đất
nước mình.
Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn
hóa cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc tồn diện nhất tồn cầu hóa và hơi
nhập, tồn cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn
của dân tộc, một dân tộc, nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân
tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí khơng cịn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc khơng chỉ
là trách nhiệm của ngành văn hố mà cịn là trách nhiệm của tồn đảng,
tồn dân và tồn xã hội. Tôi quan tâm và chọn đề tài: “Quy luật phủ định
của phủ định và sự vận dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” để làm
đề tài cho tiểu luận này.
2. Tình hình nghiên cứu:
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập với nền kinh tế mở. Tuy
nhiên, việc hội nhập có mặt tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta tiếp thu
khơng chọn lọc, thì bên cạnh những mặt tích cực của nền văn minh hiện
đại, chúng ta dễ bị tiếp thu những những mặt tiêu cực. Mặt khác, chúng ta
còn lo ngại bị đánh mất truyền thống dân tộc, chạy theo các nước trên thế
giới, bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi nền văn hoá của nước khác.
Mỗi một quốc gia đều có những truyền thống, những bản sắc riêng của
mình. Bản sắc riêng của một dân tộc, giúp chúng ta phân biệt và nhận dạng
rõ một quốc gia đó. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là một việc tất yếu
trong nền kinh tế mở hiện nay. Với những lý do trên, chúng ta có thể thấy



rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Vì thế tình
huống đặt ra trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc là điều tất yếu và cần thiết trong giai đoạn hiện
nay.
3. Mục đích nhiệm vụ.
- Làm rõ vấn đề văn hố và bản sắc văn hóa ở Việt Nam.
- Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc việc xây dựng nền
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình hội
nhập ở nước ta.
- Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Thành quả của vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta.
NỘI DUNG
Chương 1
Những vấn đề chung về quy luật của phủ định vào việc xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1.1.Khái niệm phủ định biện chứng.
Theo nghĩa thông thường, phủ định được hiểu là sự không thừa nhận,
bác bỏ hay sự thay thế một sự vật, hiện tượng nào đó. Trong Triết học có
hai quan điểm: quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng về sự phủ
định.
Quan điểm siêu hình hiểu sự phủ định là sự can thiệp của những lực lượng
bên ngoài dẫn tới thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó. Quan điểm
biện chứng cho rằng phủ định là khâu tất yếu của bất kỳ sự phát triển nào.
Đó là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trên cơ sở mất đi của cái cũ



và xuất hiện cái mới tiến bộ hơn, là quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại
của bản thân sự vật bị phủ định.
Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát
triển dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định (kết
quả của quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật ấy quyết
định).
1.2. Nội dung quy luật:
Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Quy luật này khái qt khuynh hướng phát triển
tiến lên theo hình thức xốy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong q trình
phát triển.
Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng,
chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định
biện chứng đòi hỏi phải tơn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn
lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa nguyên xi, máy móc và phủ định sạch
trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng trang
bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và tiên đốn, dự kiến những
hình thái cơ bản của tương lai.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là
do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả
đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa
mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là do sự vật
cũ chuyển thành cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực
hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần
phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy sau hai
lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới
cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua
phủ định của phủ định.



Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng
hợp tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban
đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách
là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung tồn diện hơn, phong phú
hơn, có cái khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát
triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại
tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật
mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên
của sự vật - xu hướng phát triển. Song phát triển đó khơng theo hướng
thẳng mà theo đường "xoáy ốc". Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ
ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật:
tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vịng của đường xốy ốc dường
như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự
phát triển. Tính vơ tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự
nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xốy ốc".
Trong q trình vận động của sự vật, những yếu tố mới xuất hiện sẽ
thay thế những nhân tố cũ, trong đó những nhân tố tích cực của sự vật cũ
được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song khơng phải là sự
trùng lặp hồn tồn, mà nó được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn
những nhân tố tích cực thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi
sự phủ định 2 lần của phủ định được thực hiện thì sự vật mới hoàn thành
một chu kỳ phát triển.
1.3. Ý nghĩa:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về
xu hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kì một sự vật



nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, nó gồm có nhiều chu kỳ
khác nhau. Chu kỳ sao bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Do đó,
chúng ta phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp với yêu
cầu phát triển.
Theo đó, mọi sự vật luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ
thay thế cái lạc hậu, cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố
tích cực của cái cũ. Do đó, trong hoạt động của mình, con người phải biết
kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn.
Trong giới tự nhiên cái mới phát triển một cách tự phát, còn trong xã hội
cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con người. Chính vì thế
trong hoạt động của chính mình con người phải biết phát hiện cái mới và
ủng hộ nó.


Chương 2
Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
2.1. Những thành tựu và hạn chế trong q trình hội nhập văn
hóa và thế giới.
Tồn cầu hóa là một xu thế khơng thể cưỡng lại đối với tất cả các
quốc gia. Chủ động để hội nhập là một thái độ tích cực, khơn ngoan, là
khẳng định đường hướng có chiến lược, có chiến thuật, có kế hoạch cho
từng bước đi. Chủ động hội nhập sẽ khai thác được nhiều nhất những thuận
lợi, những cơ hội để dân tộc có nhiều lợi ích nhất, hạn chế được đến mức
thấp nhất những thách thức, những tiêu cực nảy sinh.
Công cuộc đổi mới của đất nước ta hai mươi năm qua chính là sự chủ
động hội nhập quốc tế, từng bước vững chắc đạt được những thành tựu rất
đáng tự hào. Về kinh tế, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có tốc độ
phát triển khá cao (từ 7,5 - 8% năm), cơ cấu kinh tế được chuyển địch theo

hướng tích cực phát triển cơng nghiệp và dịch vụ, tốc độ hiện đại hóa cơ sở
hạ tầng, khoa học công nghệ với những bước đi dài... tất cả đã tạo điều kiện
chín muồi để Việt Nam vững bước trên tiến trình hịa nhập Thương mại
Quốc tế WTO.
Chiến lược là vậy, hơn 20 năm hội nhập văn hóa thế giới quả là cuộc
đấu tranh quyết liệt. Đánh giá về thành tựu hội nhập văn hóa có nhiều ý
kiến khác nhau, không được đồng thuận như khi chúng ta đánh giá về thành
tựu đổi mới kinh tế. Điều này chứng tỏ q trình hội nhập văn hóa của
chúng ta cịn có những vấn đề non yếu. Khơng ai phủ nhận sau 20 năm đổi
mới, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta được nâng cao, được mở
rộng, phong phú đa dạng và giàu có hơn nhiều. Nhưng cũng phải thừa nhận
rằng, bên cạnh những mặt tốt đó, thì nhiều mặt tiêu cực của đời sống xã hội
cũng nảy sinh. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, đời sống văn hóa
bị lai căng, nhiều chuẩn mực xã hội khơng cịn được tơn trọng, một số mặt


xấu được duy trì cơng khai khơng có người lên tiếng, nhiều tệ nạn không
ngăn chặn được.
Riêng về lĩnh vực văn học nghệ thuật, hơn 20 năm hội nhập thì văn
chương nghệ thuật thế giới ồ ạt tràn vào nước ta, cả những tác phẩm hay và
những tác phẩm dở. Văn hóa bạo lực, tình dục ngang nhiên thách thức
những thuần phong mỹ tục, những món hàng ăn liền rẻ tiền tấn công những
giá trị sâu sắc, thâm nghiêm... Những tính chất văn chương nghệ thuật
ngoại lai đó đơi khi cịn có sức mạnh chiếm lĩnh hắn được một bộ phận làm
nhiệm vụ sáng tạo, biểu diễn và một bộ phận công chúng nhất là khá đông
đảo giới trẻ hoan hô môt cách vô tội vạ, "đồng thanh tương ứng đồng khí
tương cầu” khá rầm rộ.
Hội nhập thế giới, nghĩa là ra với đại dương với nhiều sóng to gió lớn.
Ở lĩnh vực nào cũng cần phải có người cầm lái có bản lĩnh và có tầm nhìn
xa trơng rộng. Trên thế giới đã có nhiều bài học về sự phát triển hài hịa

giữa kinh tế và văn hóa hóa. Những bài học nào cũng chỉ có những giá trị
nhất định chứ khơng thể là chìa khỏa vạn năng. Chiến lược xây dựng nền
văn hóa Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc là hoàn toàn đúng
đắn, nhưng triển khai xây dựng quản lý văn hóa tồn xã hội là vơ cùng khó
khăn phức tạp, là thách thức lớn cần có sức mạnh của nhiều cấp nhiều
ngành mới có thể làm được. Với quyết tâm cao thì cuối cùng căn bệnh nào
cũng tìm ra được thuốc đặc trị, cũng tìm được giải pháp giải quyết đúng
đắn.
Nền văn hóa Việt Nam mấy ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển đã thể
hiện sức sống mãnh liệt. Âm mưu đồng hóa của những nền văn hóa lớn hết
đợt sóng này đến đợt sóng khác cũng khơng xóa được bản lĩnh văn hóa
Việt Nam. Có thể nói nền văn hóa Việt Nam đã được tơi luyện và có sức đề
kháng cao. Điều này cho chúng ta tin tuởng vào chặng đường phát triển sắp
tới của nền văn hóa dân tộc. Một vấn đề lớn và quan trọng đặt ra là: Nền
văn hoá tiên tiến, hiện đại do hội nhập quốc tế hình thành có mâu thuẫn, có


thủ tiêu nền văn hoá truyền thống và làm mất đi bản sắc dân tộc của văn
hoá truyền thống?
Phép biện chứng duy vật và thực tiễn xã hội cho thấy, đời sống tinh
thần có cuộc sống độc lập của nó so với nền tảng vật chất xã hội. Văn hoá,
một khi ra đời, dù là xuất phát từ tồn tại kinh tế, từ đời sống vật chất, nó trở
thành thực thể độc lập với cơ sở kinh tế - xã hội. Thực tế đã chứng minh,
những hệ tư tưởng, chính trị, văn hố đã đóng vai trị điều chỉnh và qui
định chiều hướng vận động của xã hội. Ngày nay, lồi người càng nhận rõ
rằng, văn hố khơng chỉ là cái phái sinh của điều kiện kinh tế - xã hội, mà
còn là động lực nội sinh của sự phát triển đó.
Văn hố Việt Nam với bản sắc của mình, qua bao lần tiếp biến vẫn
không bị sai lạc, phai mờ, thậm chí qua bao lần đất nước bị xâm lăng, dân
tộc bị thơn tính, nhưng bản sắc đó khơng bao giờ mất, khơng những khơng

mất mà nó ngày càng được khẳng định và phát triển. Mỗi lần tiếp biến, văn
hoá Việt Nam với bản lĩnh và sức sống của mình, lấy bản sắc dân tộc làm
tiêu chí, nó gạn lọc, tiếp thu những tinh hoa tốt đẹp của các nền văn hố
khác trên khắp thế giới, làm giàu có và đậm đà thêm, phong phú thêm cho
bản sắc của mình.
Nói như vậy khơng có nghĩa hội nhập văn hóa chỉ có đem lại những
thuận lợi, tạo ra tất cả những yếu tố tích cực cho và giữ gìn bản sắc văn hố
Việt Nam.
Chúng ta dể dàng nhận thấy: “Tồn cầu hoá và hội nhập” một mặt làm
nâng cao chất lượng sống, mặt khác cũng hình thành nên những chuẩn mực
mới lạ trong đời sống tinh thần, có thể dẫn đến "sự va chạm" giữa lối sống,
lối tư duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền thống: Lối sống và cách tư
duy hồ với thiên nhiên, tình cảm cộng đồng tình làng nghĩa xóm dường
như "mặc cảm" với lối sống đơ thị và tốn tính kinh tế có tính cá nhân, nếp
sống thanh bình dễ "dị ứng” với nhịp độ gấp gáp của tác phong công
nghiệp, ứng xử tình cảm nghiêng về đạo đức thường tương phản với văn


hố trí tuệ và nền pháp lý chặt chẽ, lối sống tiêu xài không mấy phù hợp
với truyền thống thanh đạm của con người Việt Nam…
Hội nhập quốc tế không chỉ là nhập cơng nghệ mà là hoạt động tồn
diện khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất - quản lý kinh tế - xã hội. Sự
hội nhập sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phẩm văn hố, trong đó, bên
cạnh các yếu tố tốt đẹp, có cả những yếu tố khơng phù hợp với văn hố
truyền thống, thậm chí độc hại nữa.
Chúng ta chủ động lựa chọn chính sách trong tiếp biến của cơng
nghiệp hố - hiện đại hố. Những thế mạnh trong đối sách đó là tương đối
bởi trình độ kinh tế - xã hội nước ta rất thấp so với các nước đầu tư vào ta.
Trong biết bao loại đầu tư, ở đó đồng thời cũng kèm theo những dạng văn
hố nhất định. Cái ta cần, nói chung là vượt hẳn cái ta có khả năng cho.

Trong một xã hội nghèo, sự thâm nhập ồ ạt từ bên ngồi làm đảo lộn nhiều
thói quen, nếp sống, kể cả suy nghĩ của nhân dân ta trên một bình diện rộng
hơn bao giờ hết.
Những năm gần đây, không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn, điều
kiện sống, tiện nghi sinh hoạt, lối sống đã có sự thay đổi lớn, sự thay đổi đó
diễn ra khơng chỉ ở bề ngoài mà cả ở chiều sâu. Sự khủng hoảng một số
mặt trong nhiều phương diện đời sống đang hình thành liên quan đến từng
gia đình. Trước đây một số người đi tìm sự thoả mãn lối sống của họ ở
nước ngồi, thì nay lối sống đó đã nảy nở tại Việt Nam, trên một số lĩnh
vực lối sống đó đã khống chế lối sống truyền thống Việt Nam, nhiều cách
sinh hoạt, cách sống, cách nghĩ... thực sự đã xung đột với những chuẩn
mực mà nhân dân ta cho là lành mạnh. Nhiều hiện tượng trước đây hoàn
toàn xa lạ thì nay ở khơng ít người được xem như là chuyện bình thường:
bạo lực, kích dâm, xem tiền là tối thượng, xem hưởng thụ vật chất là mục
đích của cuộc đời. Đồng minh của lối sống buông thả là luận điệu tự do,
dân chủ không ranh giới. Tất cả những cái đó nếu khơng kịp thời ngăn
chặn, đến một lúc, an ninh quốc gia, thậm chí độc lập dân tộc sẽ là cái bia


bắn phá, lối sống dân tộc, văn hoá dân tộc sẽ bị coi là lạc hậu, lạc lõng.
2.2. Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tôc.
Hiện nay, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và những biến thể của nó đang là
một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm ở Việt Nam. Nỗi ám ảnh
về bản sắc hiện diện ở khắp nơi, từ những diễn ngôn chính trị như "xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc", "hội nhập
nhưng không hòa tan" cho đến các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội như
xây dựng thương hiệu Việt, tự kiểm điểm tính cách dân tộc hay phê bình
văn học nghệ thuật. Không thể phủ định, đây là một định hướng đúng đắn,
một mối quan tâm lành mạnh của toàn xã hội khi Việt Nam ngày càng tham

gia một cách toàn diện hơn vào q trình tồn cầu hóa nhưng tự bản thân
những khát vọng bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc cũng đặt ra những câu
hỏi hóc búa đối với toàn xã hội, trước hết là trong việc xác định bản sắc
văn hóa dân tộc và sau đó là việc ứng xử với bản sắc văn hóa đó.
«Bản» là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân của một sự vật;
«Sắc» là thể hiện ra ngồi. Nói bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam tức
là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân của dân tộc
Việt Nam. Nói những hạt nhân giá trị hạt nhân tức là không phải nói tất cả
mọi giá trị, mà chỉ là nói những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, chúng
mang tính dân tộc sâu sắc đến nỗi chúng biểu hiện trong mọi lĩnh vực như:
văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, trong sinh hoạt,
giao tiếp, ứng xử hằng ngày của người Việt Nam.
Những giá trị hạt nhân đó khơng phải tự nhiên mà có, nó được tạo
thành dần dần và được khẳng định trong quá trình lịch sử xây dựng, củng
cố và phát triển của nhà nước Việt Nam. Những giá trị đó khơng phải là
khơng thay đổi trong q trình lịch sử. Có những giá trị cũ, lỗi thời bị xóa
bỏ, và có những giá trị mới, tiến bộ được bổ xung vào. Có những giá trị
tiếp tục phát huy tác dụng, dưới những hình thức mới. Dân tộc Việt Nam,


với tư cách là chủ thể sáng tạo, thường xuyên kiểm nghiệm những giá tri
hạt nhân đó, quyết định những thay đổi và bổ sung cần thiết, tái tạo những
giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khơng nên có tư tưởng tĩnh và siêu hình đối với những giá trị hạt nhân
đó, thậm chí đối với những giá trị mà chúng ta vốn cho là thiêng liêng nhất.
Nếu dân tộc khơng có ý thức giữ gìn, bồi dưỡng, tái tạo để trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác thì chúng cũng bị mai một và tàn lụi đi.
Chúng ta thử so sánh bản sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong những
người cuộc Cách mạng Tháng tám sôi sục, trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, Nhật, Mỹ với cái gọi là "Bản sắc" chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

trong những năm tháng cuối đời nhà Nguyễn thì thấy rõ. Hay là đối với chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam thời kỳ Lê Mạt với chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam thời Lý -Trần. Khơng thể nói, đấy là cùng một bản sắc chủ nghĩa yêu
nước được!
Có người hỏi có thể có những giá trị bản sắc là tiêu cực, hay là đã nói
bản sắc là nói cái gì tiến bộ, tích cực, xứng đáng được trao truyền và thừa
kế.
Như trên vừa nói, khơng nên có cái nhìn tĩnh tại và siêu hình đối với bản
sắc dân tộc. Cái gì sống đều thay đổi và phải thay đổi. Bản sắc dân tộc cũng
vậy. Giai cấp lãnh đạo phải sáng suốt và chủ động đối với quá trình diễn
biến của bản sắc dân tộc. Những giá trị nào lỗi thời phải xóa bỏ, những giá
trị mới nào cần bổ sung thêm vào, những giá trị nào cần kế thừa, nhưng
dưới một hình thức mới, và hình thức mới đó thêm ra sao? Trong những
bước chuyển cách mạng, những sự kiện đổi đời của dân tộc ta như cuộc
cách mạng Tháng tám, chiến thắng của Ngô Quyền kết thúc đêm dài mười
thế kỷ Bắc thuộc, sự kiện Tây Sơn..., bộ phận lãnh đạo của dân tộc thời bấy
giờ phải nghiêm túc kiểm nghiệm lại những giá trị bản sắc đương thời của
dân tộc. Khơng phải khơng có lý do mà sau 10 thế kỷ Bắc thuộc, bộ phận
lãnh đạo của dân tộc thời bấy giờ đã gạt bỏ Nho giáo và chấp nhận tư tưởng


Phật giáo. Cũng với những lý do xác đáng, dân tộc ta kinh qua cuộc cách
Mạng tháng tám đã chấp nhận hệ tư tưởng Mác-Lênin như là dòng tư tưởng
chủ lưu hiện nay của mình.
Những cuộc kiểm nghiệm như thế cũng cần được tiến hành khi xảy ra
giao tiếp văn hóa rộng rãi giữa các nền văn hóa khác nhau, ví dụ giữa văn
hóa Việt Nam và văn hóa Xơ Viết, văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ,
Trung Hoa, văn hóa Việt Nam và văn hóa Âu, Mỹ... khơng có biên giới.
Thời đại hiện nay là thời đại của kỹ thuật giao thông liên lạc và thông tin
cực kỳ phát triển. Trái đất như bị thu nhỏ lại hàng mấy trăm lần, so với

chục năm về trước. Do đó sự tiếp xúc văn hóa giữa các dân tộc sống cách
xa nhau là tất nhiên và tất yếu. Qua những cuộc tiếp xúc đó, bản sắc văn
hóa của các dân tộc đều có sự thay đổi, bên cạnh những cái khẳng định.
Thật là vô lý nếu chúng ta gạt bỏ mọi yếu tố tiến bộ và cái hay, đẹp của văn
hóa nước khác chỉ vì chúng ta sợ bị ngoại lai. Nhưng cũng sẽ là vô lý hơn,
nếu chúng ta tiếp thu hàng loạt khơng có phê phán mọi yếu tố của văn hóa
nước ngồi, chỉ vì chúng là mới lạ, tân kỳ.
Những yếu tố tiến bộ của văn hóa nước ngồi, một khi đã được dân
tộc ta chấp nhận và biến thành sở hữu của mình rồi, thì chúng có thể trở
thành một bộ phận của giá trị bản sắc văn hóa Việt Nam, của dân tộc Việt
Nam. Khơng ai có thể phủ nhận rằng, nhiều yếu tố Phật giáo, Nho giáo,
mặc dù bắt nguồn từ nước ngoài, nhưng đã trở thành bộ phận khăng khít
của bản sắc dân tộc và văn hóa Việt Nam, đã được dân tộc Việt Nam biến
thành sở hữu thật sự của mình.
Nói tóm lại, cái lỗi thời nhưng khơng được cải tiến, cái tốt nhưng lại
bị cường điệu, cái tốt ngoại lai nhưng khơng được bản địa hóa nhuần
nhuyễn đều có thể biến thành tiêu cực và tạo trở ngại cho sự phát triển bình
thường của nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, mà chúng tôi khẳng định, những
giá trị bản sắc của dân tộc Việt Nam, của nền văn hóa Việt Nam cần phải
được bộ phận lãnh đạo của dân tộc thường xuyên kiểm nghiệm, theo dõi,


gìn giữ, cải tiến, bổ sung, gạt bỏ những cái lỗi thời, đổi mới những hình
thức khơng cịn thích hợp, tiếp thu và bản địa hóa mọi tinh hoa của văn hóa
nước ngồi... khiến cho những giá trị gọi là bản sắc văn hóa của dân tộc ta
phát huy tới mức cao nhất của hai tác dụng xúc tác và hội tụ, đối với sự
phát triển toàn diện và mọi mặt của dân tộc Việt Nam chúng ta. Tác dụng
xúc tác là tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển. Tác dụng hội tụ là tác
dụng gắn bó, kết hợp với mặt, các yếu tố thành một hệ thống nhất.
2.3. Thành quả của việc vận dụng vào xây dựng và phát triển nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đối với nước ta những năm vừa qua, trong quá trình mở cửa giao lưu
với thế giới, chúng ta không chỉ tiếp thu những giá trị hiện đại, tiên tiến mà
còn bổ sung, điều chỉnh một số nét của các giá trị truyền thống cho phù hợp
với thời đại, thẩm thấu và làm đa dạng thêm bản sắc của dân tộc. Chúng ta
ngày càng ý thức rõ hơn về quá trình hội nhập. Trong quá trình thực tiễn
phát triển đất nước, chúng đã được những thành quả trong việc xây dựng và
phát huy bản sắc văn hóa đó là:
Q trình hội nhập văn hóa đã làm cho các quốc gia đang ngày càng
xích lại gần nhau hơn bởi những giá trị truyền thống chung, đồng thời tạo
điều kiện cho mỗi dân tộc phát huy nét độc đáo, đặc trưng của mình. Quá
trình này cũng sẽ tạo điều kiện cho thế giới luôn tồn tại trong sự thống nhất
chung của tất cả những cái riêng, cái đặc thù; cái chung không bài trừ cái
riêng mà cùng với cái riêng làm tiền đề cho nhau để cùng thúc đẩy nhau
phát triển và tiến bộ.
Vận dụng quy luật phủ định của phủ định, ta không thể bảo vệ thụ
động bản sắc mà chỉ hòa nhập cọ sát và biến đổi bản sắc mới xuất hiện và
chói sáng. Từ Truyện Kiều, thơ Nôm hay tranh khắc gỗ dân gian, tuồng
chèo, nhạc Cung Đình Huế, Quan Họ hay Ca trù... chứa đựng bản sắc dân
tộc vì từng là sự giao thoa, cọ sát, khai thác lẫn nhau của các dòng văn
nghệ, văn hóa khác nhau. Gần đây thì cái áo dài, cái nón tới tranh sơn mài,


lụa, sơn dầu từ thời Đông Dương tới Đổi Mới, Thơ Mới, tiểu thuyết, kiến
trúc "Đông Dương", cải lương... đều là những suối nguồn, và "kho chứa"
của bản sắc dân tộc. Nó trừu tượng song khơng chung chung mà nằm ở các
tác phẩm cụ thể của các tác giả cụ thể. Nếu có những nghiên cứu nhận dạng
được những nét chung nào đó của các tác phẩm, tác giả đó thì ta có thể gọi
tên "bản sắc dân tộc" ta.
Giữ gìn bản sắc khơng co vào cố thủ trong tính riêng biệt , khước từ

giao lưu văn hoá. Trên thế giới này khơng có một nền văn hố nào có tính
thuần nhất bản địa. Sự thay đổi giữa các nền văn hố là do trao đổi. Khi
trao đổi ngừng thì cả hai địa bàn đều chững lại trong phát triển. Đây là
phép biện chứng của nhân tố ngoại sinh trong sự phát triển nội sinh. Tuy
nhiên sự hội nhập các giá trị văn hóa khác với sự tha hóa về văn hóa cũng
như sự lai giống tốt khác với lai ghép vào cơ thể những gien lạ hoắc, gây
nên sự biến dị , thậm chí những qi thai.
Chẳng nói gì xa. Nửa đầu thế kỷ XX, văn hoá và lối sống Pháp, theo
đó là Âu châu, xâm nhập vào ta nhanh và mạnh, tưởng như ngự trị, trong
khi văn hoá dân tộc có dấu hiệu suy yếu. Thế mà những năm 20 - 30 và đầu
40, dưới sự tác động của làn sóng ấy và cùng với vốn liếng văn hố giàu
bản sắc có sẵn, đã nảy nở cả một nền văn học - nghệ thuật Việt Nam mới
hầu như chỉ tầng lớp tiểu tư sản mới hình thành tạo ra, với văn xuôi và thi
ca, âm nhạc, hội hoạ, sân khấu, phê bình văn học… cịn âm vang đến tận
ngày nay. Cuộc hội họa đầu của thời mới bị đứt quãng ấy đã làm cho văn
hoá Việt, con người Việt phong phú hơn, bổ túc những nét mới cho bản
sắc. Ta chối bỏ những cái gì đó, ta tiếp thu và sản sinh ra những cái gì đó
mới hơn, phù hợp hơn, có sức nâng cao ta lên.
Cuộc hội nhập thời nay mạnh mẽ hơn, toàn diện và toàn cục, sức chi
phối, sức tác động của nó khơng thể so sánh với trước được. Song ta sở hữu
cả một vốn liếng gien, vốn liếng bản sắc của ta vô cùng sâu lắng, vơ cùng
dai bền, khơng việc gì phải e ngại! Thử xem, mình bắt chước ăn cá sống


với mù tạt theo kiểu Nhật, nhưng thêm vào đấy là rau diếp cá, lá cải xanh,
củ cải sống. Mình hát nhạc pop, nhạc rock, song giai điệu và cách thể hiện
thì chẳng giống ai. Thậm chí, ở những sân bay quốc tế này nọ, cứ gặp dăm
ba đồng bào mình túm tụm, là nhận ra ngay. Ấy là trong cuộc sống thường
nhật, chứ ở những phạm trù lớn lao như cách nghĩ, cách sống, cách phấn
đấu… mình chẳng giống ai hết.

Một thành quả vững chắc nữa trong giữ gìn bản sắc là chúng ta khơng
sợ tồn cầu hóa tấn cơng mà cịn tấn cơng ngược lại nó. Xin nêu hai ví dụ:
thức ăn và y phục.
Thức ăn là yếu tố mạnh nhất trong bản sắc, cho nên nó phát triển với
tồn cầu hóa. Su-si của Nhật ngày nay tồn cầu hóa thực đơn khắp năm
châu bốn biển. Mà đơn giản quá: chỉ chút cơm bọc rau câu. Thế giới nhà
giàu càng chán mỡ càng chuộng su-si. Nắm yếu điểm đó, su-si tiến cơng
trên thị trường chuộng thức ăn nhẹ: nó đùa với cái bao tử, hư hư thực thực,
ăn vào như có như khơng.
Phở của ta bây giờ cũng thế, cũng tồn cầu hóa trong nhu cầu
“fastfood”. Trái với su si, nó thực chất, làm một tơ bự là giải quyết xong
bữa trưa, mà mùi vị lại đậm đà, kích thích. Chưa nói đến chả giị (nem rán)
chẳng những đi vào các nhà hàng sang trọng mà còn đi vào tận căn-tin của
các trường học, các xe đẩy trên đường phố. Học trò thấy nem rán, chưa ăn
đã thèm chảy nước miếng.
Nhưng dù là nem rán hay phở, dù phở do bếp Tàu nấu hay dù nem rán
đang lai giống với bánh tráng Thái Lan, cái đặc biệt, cái khác với Tàu, với
Thái của Việt Nam, cái làm cho món ăn Việt Nam được ưa chuộng trên thế
giới, cái làm cho con người Việt Nam muôn đời vẫn tự định nghĩa mình là
Việt Nam bất chấp khơng gian, bất chấp luật quốc tịch, vẫn là cái đó, cái
mùi thum thủm, cái vị mặn mặn, mà nếu thiếu nó cuộc đời nhạt nhẽo như
thiếu tố quốc: “cái chai nước mắm”, nước mắm là đại nguyên soái bách


chiến bách thắng. Thực dân, đế quốc, bá quyền, Bắc thuộc, Tây thuộc...
chẳng coi nó ra gì. Nhưng đối với Việt Nam đó là “bản sắc”.
“Áo dài” là y phục của dân tộc, là yếu tố then chốt thứ hai của bản
sắc. dài tuy khơng phải là truyền thống lâu đời, chỉ là y phục cải cách từ
những năm 1930 thơi, cũng là thời trang chế biến để thích nghi với thời đại
mới. Nhưng nó thành cơng bao nhiêu, thân thương bao nhiêu, yêu kiều ban

nhiêu, thích hợp bao nhiêu! Nó đi vào lịng dân tộc như thể nó đã được khai
sinh từ thuở dân tộc cịn nằm nơi. Và nó hãnh diện phất phới trên thế giới,
thế giới thán phục nó. Ngày nay, thời trang tha hồ vẽ vời, thêm bớt, nhân
lên nhiều kiểu mới, nhưng nó vẫn là nó, vẫn là nhan sắc vơ địch. Cái gì hợp
với dân tộc qua bao nhiêu thử thách, cái ấy là bản sắc, cái ấy không sợ ma
nào ám, kẻ cướp nào lấy! Như vậy thì chẳng sợ ai. Như chén nước mắm.
Như chiếc áo dài. Muôn đời của dân tộc.
2.4. Những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng và giữ gìn bản sắc
dân tộc trong q trình tồn cầu hố và hội nhập văn hóa hiện nay.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong
điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế, trước mắt chúng ta cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết sau:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nước, tạo sự chuyển biến cơ bản và bước phát triển
mạnh mẽ trong xây dựng, nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chúng ta nhất định phải đẩy mạnh hơn nữa phong trào ''Toàn dân
đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá'' gắn chặt với cuộc vận động chính trị
sâu rộng trong tồn Đảng, tồn dân, toàn quân học tập và thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống, làm chuyển biến mạnh mẽ công
tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân, nhất là đối với cán bộ chủ chốt các cấp và thanh niên.


Chúng ta phải gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hoá với nhiệm vụ trung tâm
xây dựng kinh tế và nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, bảo đảm hoạt
động văn hoá tiến hành đồng bộ với hoạt động kinh tế, hình thành nền tảng
tinh thần vững chắc cho xã hội. Cũng cần nói thêm rằng, để thực hiện tốt
các nhiệm vụ cụ thể về xây dựng và phát triển văn hoá, trong khi đặt lên

hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người với những đức tính cơ bản, tốt đẹp,
chúng ta phải xây dựng và phát triển hài hoà các nhiệm vụ khác, từ xây
dựng mơi trường văn hố, phát triển văn học - nghệ thuật, thông tin đại
chúng, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá đến việc bảo tồn và phát
triển văn hoá các dân tộc thiểu số, chính sách văn hố đối với tơn giáo và
hợp tác quốc tế về văn hoá...
Chúng ta tiếp tục tăng cường các nguồn lực và phương tiện cho hoạt
động văn hoá, trước hết và tăng mức đầu tư từ ngân sách cho phát triển sự
nghiệp văn hoá đi đơi với việc huy động sự đóng góp của các tầng lớp nhân
dân và sử dụng một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực đó; sớm xây dựng
và thực hiện chiến lược tuyển chọn, đào tạo, phát triển các tài năng văn
hoá, nghệ thuật; tăng cường và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với văn hoá.
Để làm được điều đó, trước hết là cán bộ, đảng viên, cần nâng cao
nhận thức và trình độ lãnh đạo trên lĩnh vực văn hố, song song với các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội ...; nêu cao tinh thần gương mẫu về tư
tưởng, đạo đức, lối sống; nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tư tưởng
theo phương châm ''nói đi đơi với làm”, đã nói là làm để cho các quyết định
lần này được quán triệt trong từng cán bộ, đảng viên, nhất và cán bộ chủ
chốt, và mọi tầng lớp nhân dân. Các cấp, các ngành cần có ngay các
chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ thể để đưa những nội dung đó thấm
sâu vào từng địa phương, từng ngành, từng đơn vị, từng cộng đồng, từng
gia đình, từng con người, tạo thành phong trào thi đua sôi nổi, xây dựng
con người mới và mơi trường văn hố mới phong phú, lành mạnh, phát huy


những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta. Nếu như mỗi ngày, mỗi
người chúng ta đều làm được một việc tốt hay vài ba việc tốt, và tồn xã
hội đều làm như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi được các hiện tượng
tiêu cực, làm cho xã hội ta ngày càng tốt đẹp hơn, nền văn hoá của chúng ta

ngày càng được nâng cao hơn.


KẾT LUẬN.
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về
xu hướng phát triển của sự vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào
cũng không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp
trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ
hơn chu kỳ trước. Vì vậy, quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra
theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định
nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn
nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, trong thời đại ngày nay, hội nhập đang trở thành một xu thế
khách quan. Dân tộc Việt Nam, hay bất cứ một dân tộc nào khác khơng thể
nằm ngồi quĩ đạo đó. Hội nhập là con đường tất yếu, là lẽ sống còn của cả
dân tộc. Vấn đề đặt ra là chúng ta hội nhập như thế nào. Rõ ràng, chúng ta
với tư thế chủ động, hội nhập trên cơ sở tự khẳng định mình, nổ lực để vượt
lên chính mình, nghĩa là, thơng qua q trình hội nhập, chúng ta có thể
nhận thức đầy đủ hơn, có ý thức hơn trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc
của dân tộc mình. Đồng thời trong q trình đó, chúng ta sẽ thấy được
những hạn chế của những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ để
tìm cách khắc phục. Một khi đã nhận thức được như vậy, chắc chắn chúng
ta sẽ kết hợp hài hoà các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, trên cơ
sở bảo tồn bản sắc dân tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa, loại bỏ dần các yếu
tố lỗi thời, tăng cường giao lưu, học hỏi với bên ngồi thì sẽ vượt qua được
những thử thách, sẽ khơi dậy được vai trò động lực của các giá trị truyền
thống. Với tinh thần và bản lĩnh của người Việt Nam, chúng ta sẽ “phát huy
tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa”, kết hợp sức mạnh dân tộc với những ưu

thế của thời đại để phát triển đất nước và từng bước khẳng định vị thế bản
lĩnh của dân tộc mình trước cộng đồng./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc - Nguyễn Văn Huyên.
2/ Bản sắc và toàn cầu hóa - GS. Cao Huy Thuần
3/ Đừng quá sợ đánh mất bản sắc dân tộc - Kim Hạnh
4/ Một văn hóa mới cho hội nhập hơm nay - Ngun Ngọc
5/ Bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam - GS. Minh Chi (Học viện
Phật giáo Việt Nam)



×