Tải bản đầy đủ (.docx) (169 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện chương mỹ, thành phố hà nội giai đoạn 2000 – 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.39 KB, 169 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam có nhiều đổi mới. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH là con đường đã được Đảng và
Nhà nước ta xác định là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia
văn minh, hiện đại. Cơ cấu kinh tế hợp lý là đảm bảo cho sự phát triển,
tăng trưởng đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành
trọng điểm mũi nhọn nhằm tạo ra tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Ngoài
ra, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn dẫn tới giải phóng sức sản xuất xã
hội, khai thác có hiệu quả những tiềm năng của đất nước, thu hút được
nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để tạo ra những công ăn việc làm cho
người lao động.
Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
đòi hỏi Việt Nam phải có những bước đi mang tính đột phá để tận dụng
những cơ hội, vượt qua những thách thức khi đã vào sân chơi lớn WTO,
nhiệm vụ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa nền kinh tế Quốc Dân được đặt
lên hơn bao giờ hết, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Chương Mỹ, một huyện thuộc Thành phố Hà Nội, trong những năm
qua thực hiện đường lối phát triển chung của cả nước, nền kinh tế có
nhiều biến đổi. Đây là huyện cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong địa bàn huyện, mà còn
thỏa mãn nhu cầu của thành phố và một số vùng khác. Trong giai đoạn
hiện nay, thực hiện nhất quán đường lối phát triển chung của cả thành
phố nói riêng và cả nước nói chung, nền kinh tế của huyện Chương Mỹ có
sự chuyển dịch theo hướng tích.
1


Là một người con của quê hương, với mong muốn tìm hiểu và có


những đóng góp trên cơ sở những nghiên cứu của mình trong việc xác định
và phát triển một cơ cấu kinh tế hợp lí của huyện, dưới sự hướng dẫn khoa
học của GS.TS. Đỗ Thị Minh Đức, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giai
đoạn 2000 – 2013 ” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Địa lí
kinh tế.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
Trong lịch sử phát triển kinh tế đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế
khác nhau, thuật ngữ “Cơ cấu kinh tế” được Mac Ăng Ghen đưa ra đầu
tiên và được xem như một hệ thống trong mối quan hệ biện chứng giữa
các yếu tố như trong – ngoài, nội dung – hình thức, tự nhiên – nhân tạo
[1].
Thực tiễn đã chứng minh được rằng cơ cấu kinh tế hợp lý là động
lực to lớn để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của một quốc gia nhất là
trong những năm gần đây, các vấn đề về tài nguyên môi trường đang bị
suy thoái một cách nghiêm trọng, cùng với sự phát triển của xã hội nhu
cầu cuộc sống của con người ngày càng cao làm cho vấn đề kinh tế ngày
càng được coi trọng; trong đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trở thành
đối tượng thật sự hấp dẫn của nhiều ngành khoa học.
J. Fonratier là người đầu tiên nghiên cứu tổng hợp, có hệ thống và
đưa ra lý thuyết “ba khu vực hoạt động kinh tế - xã hội”. Theo đó, tất cả
các hoạt động kinh tế được chia ra làm ba khu vực cơ bản và có sự
chuyển dịch cơ cấu cũng như lao động theo ba khu vực đó. Những vấn đề
mang tính quy luật về chuyển dịch CCKT cũng đã được Ernst Eghel ( nhà
kinh tế học người Đức ) đề xướng: Dựa trên nghiên cứu về nhu cầu
2


lương thực, thực phẩm, quy luật Eghel đã định hướng nghiên cứu tiêu

dùng của các loại hàng hóa khác. Từ đó dẫn đến sự chuyển dịch CCKT
theo ngành và lãnh thổ [13].
Trong hệ thông lý luận phát triển kinh tế trên thế giới, lý luận về
giai đoạn phát triển kinh tế là một bộ phận quan trọng, tiêu biểu cho lý
luận này là nhà lihj sử kinh tế người Mỹ, Walter W. Rostow. Trong cuốn
“Các giai đoạn phát triển kinh tế” ông đã đưa ra một cách tổng hợp theo
lịch sử về những bước khởi đầu của quá trình phát triển kinh tế hiện đại.
Theo mô hình Rostow, quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được
chia thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng CCKT đặc
trưng thể hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy [13]. Việc chuyển giai
đoạn phát triển kinh tế thể hiện ở sự thay đổi tuần tự các ngành chủ đạo.
Các mô hình trên đặt vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa 2 ngành
công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch CCKT ngành từ
nông nghiệp thuần túy sang nông – công nghiệp rồi đến hiện đại.
2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng vào tháng 12 năm 1986
đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về
việc chuyển dịch CCKT, các quá trình nghiên cứu này được đồng thời diễn
ra trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Trong cuốn “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nền
kinh tế của quốc dân” của tác giả Ngô Đình Giao đã trình bày cơ sở lý
luận và sự cần thiết của chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Đồng
thời tác giả còn đền xuất những phương hướng và biện pháp chuyển
dịch CCKT và xây dựng CCKT theo ngành, theo thành phần và các vùng
lãnh thổ ở nước ta theo hướng CNH - HĐH [5].

3


Khi nghiên cứu về lí luận của vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

tác giả Đỗ Hoài Nam “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển
những ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam” Nxb Khoa học-xã hội Hà
Nội 1996; cũng như tác giả Bùi Tất Thắng “Chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở Việt Nam” Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 2006.. đã trình bày các
khái niệm, quan điểm, những lí luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
[13].
Đi sau những vấn đề chung ấy là các nhân tố ảnh hưởng đến việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà Bùi Tất Thắng “Những nhân tố ảnh hưởng
đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa ở
Việt Nam” Nxb Khoa học-xã hội Hà Nội 1997 đã đưa ra. Trong đó, tác giả
đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố khoa học công nghệ; đây được xem như
chìa khóa của một cơ cấu kinh tế hợp lí, phát triển đúng xu thế và đảm
bảo hiệu quả kinh tế cao nhất về mọi mặt [14].
Tác giả Lê Du Phong và Nguyễn Thành Độ trong cuốn “Chuyển dịch
CCKT trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới” đã phân tích thực
trạng chuyển dịch CCKT theo ngành và thành phần kinh tế thời kì 1991 –
1997. Làm rõ yêu cầu của việc chuyển dịch CCKT trong thời kỳ hội nhập,
đưa ra một số mô hình chuyển dịch CCKT trên thế giới [9].
Trong xu thế hiện nay, toàn cầu hóa cùng với hội nhập kinh tế quốc
tế đã đem đến cho nền kinh tế nước ta nói chung, cũng như nền kinh tế
các tỉnh, huyện nói riêng những sự thay đổi đáng kể; việc bắt nhịp và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí sẽ đem lại cho các vùng lãnh thổ những
sự phát triển tốt và hiệu quả nhất.
Tóm lại, các tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong điều kiện kinh tế xã hội mới; phân tích những nhân tố tác
động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phân tích sư tương tác
4


giữa cơ cấu ngành kinh tế và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn ở

Việt Nam. Mỗi tác giả nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một góc
độ khác nhau và đây là nguồn tư liệu quan trọng làm tài liệu tham khảo
cho luận văn; cùng với một số các luận văn nghiên cứu về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế các huyện Hoài Đức, Thạch Thất…
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đặt vấn đề về việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
trước và sau khi thực hiện phương án sát nhập. Vì vậy, tác giả chọn vấn
đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
giai đoạn 2000 - 2013 làm đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Vận dụng cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về cơ cấu kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế vào địa bàn huyện Chương Mỹ, nhằm đánh
giá cơ cấu và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện từ 2000 –
2013, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của huyện trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan cơ sở lí luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành cơ cấu kinh tế
huyện Chương Mỹ.
- Phân tích thực trạng cơ cấu và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chương Mỹ giai đoạn 2000 – 2013.
- Đề xuất các giải pháp xây dựng cơ cấu kinh tế huyện Chương Mỹ
đến 2020 và 2025.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
5


Nội dung phạm vi lãnh thổ nghiên cứu toàn bộ cơ cấu kinh tế

huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, trong đó chú trọng phân tích tình
hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn huyện theo phương diện ngành và
lãnh thổ.
Thời gian nghiên cứu: số liệu được lấy trong khoảng thời gian
2000 – 2013.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Các quan điểm nghiên cứu
- Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Mọi hiện tượng sự vật địa lý đều tồn tại trong không gian lãnh thổ
nhất định với những quan hệ chặt chẽ giữa các sự vật hiện tượng đó với
các thành phần còn lại trong phạm vi lãnh thổ tự nhiên cho đến kinh tế
xã hội. Khoa học địa lí tìm ra sự phân hóa của các sự vật hiện tượng và
dự kiến sự phân bố của chúng trong không gian.
Huyện Chương Mỹ được coi như một thể tổng hợp tương đối hoàn
chỉnh cả về tự nhiên và kinh tế - xã hội, trong đó các yếu tố tự nhiên, kinh
tế, xã hội có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau, vì vậy phải có vai
nhìn tổng thể dựa trên quan điểm tổng hợp lãnh thổ để thấy rõ, và phân
tích hết những mối quan hệ giữa các thành phần đó với nhau, tìm ra
được tính hợp lý, bền vững cho sự phát triển chung kinh tế - xã hội và
khai thác hiệu quả nhất tiềm năng của huyện.
- Quan điểm hệ thống
Kinh tế huyện Chương Mỹ là một hệ thống nhỏ trong hệ thống kinh
tế chung của thành phố Hà Nội, đồng thời lại chứa đựng trong nó những
hệ thống cấp thấp hơn. Vì vậy, cần phải có cách tiếp cận dưới quan điểm
hệ thống để thấy được các tác động qua lại giữa các hệ thống này, và

6


giữa các yếu tố trong cùng một hệ thống để đánh giá chính xác các vấn

đề nghiên cứu, và làm cho quá trình nghiên cứu trở nên thông suốt hơn.
- Quan điểm lịch sử và viễn cảnh
Quan điểm này được vận dụng trong đề tài nghiên cứu các yếu tố
kinh tế trong suốt quá trình từ quá khứ tới hiện tại, và tương lai để thấy
được nguyên nhân của sự biến đổi cũng như xu hướng phát triển trong
tương lai.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập và xử lí số liệu
Phân tích đánh giá thực trạng nền kinh tế theo khía cạnh ngành và
lãnh thổ là những công việc phức tạp, các chỉ tiêu đánh giá có liên quan
đến nhiều lĩnh vực. Để thực hiện đề tài này, đòi hỏi phải thu thập tài liệu
từ nhiều nguồn khác nhau, tổng hợp, lựa chọn, xử lí tư liệu đã thu thập
được để phục vụ cho nhu cầu của đề tài.
Phương pháp thống kê, xử lí số liệu trong phòng là một phương
pháp quan trọng trong khi nghiên cứu thực hiện đề tài. Các số liệu thu
thập được từ nhiều nguồn khác nhau cần được chọn lọc, cân đối và xử lí
để thấy được vị trí những chuyển biến của nền kinh tế huyện Chương Mỹ.
- Phương pháp phân tích hệ thống
Thực trạng nền kinh tế Chương Mỹ được nhận biết thông qua
phân tích mối quan hệ không gian và thời gian về các ngành, các lĩnh vực
kinh tế, các mối quan hệ tự nhiên và kinh tế - xã hội, các mối quan hệ
hình thức và bản chất. Khi phân tích các điều kiện thuận lợi và khó khăn
của huyện, đặt chúng trong mối quan hệ cho cả bên trong và bên ngoài
để lựa chọn phương án tối ưu nhất. Quá trình phân tích, đánh giá được
tiến hành trên cơ sở so sánh, tổng hợp để rút ra bản chất các hiện tượng
phục vụ cho đề tài.
7


- Phương pháp bản đồ, biểu đồ, và công nghệ GIS

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng công nghệ GIS
đề thành lập bản đồ chuyên đề tự nhiên, kinh tế - xã hội, tiến hành thu
thập các số liệu thống kê, xử lí, phân tích so sánh, đối chiếu bản đồ và xây
dựng các biểu đồ, và thực hiện trực quan hơn thực trạng sự phân bố địa
lý kinh tế - xã hội, các mối quan hệ giữa chúng và định hướng mối quan
hệ kinh tế của huyện.
- Phương pháp khảo sát, thực địa
Phương pháp khảo sát, thực địa là phương pháp quan trọng, đặc
trưng khi thực hiện các đề tài khoa học địa lý. Để hoàn thành đề tài,
chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực địa trên địa bàn huyện về một số
nội dung nhất định .
6. Những đóng góp của đề tài
- Kế thừa, đúc kết và làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực tiễn về cơ
cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng và sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của huyện trong giai đoạn nói trên.
- Đánh giá quá trình chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cơ cấu kinh tế huyện Chương Mỹ từ 2000 -2013.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần thúc đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Chương Mỹ trong thời gian
tới.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo,
phụ lục, các bản đồ, biểu đồ và bảng biểu, nội dung của đề tài được trình
bày trong 4 chương:
8


Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế và sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế

Chương 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu và sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội
Chương 3. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Chương
Mỹ 2000 – 2013
Chương 4. Định hướng và các giải pháp chủ yếu về cơ cấu kinh tế
và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Chương Mỹ đến năm 2020 và
2025.

9


NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
1. Cơ sở lí luận
1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1. Một số khái niệm
Ngày nay, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy phân
công lao động xã hội. Các ngành, lĩnh vực được phân chia theo tính chất
sản phẩm, chuyên môn kỹ thuật. Khi các ngành, lĩnh vực kinh tế hình
thành, nó đòi hỏi phải giải quyết các mối quan hệ giữa chúng với nhau.
Mối quan hệ đó vừa thể hiện sự hợp tác, hỗ trợ nhau, song cũng cạnh
tranh nhau để phát triển. Sự phân công và mối quan hệ hợp tác trong hệ
thống thống nhất là tiền đề cho quá trình hình thành cơ cấu kinh tế.
Việc quan niệm đúng đắn về cơ cấu kinh tế có ý nghĩa rất lớn, đó là
cơ sở để xây dựng một cơ cấu kinh tế khoa học, tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Một cơ cấu kinh tế hợp lý với các bộ phận
kết hợp một cách hài hòa, cho phép khai thác các nguồn lực của đất

nước một cách có hiệu quả, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
cao và phát triển ổn định, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn
hóa tinh thần của nhân dân.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lí thuyết hệ thống, cơ
cấu kinh tế được hiểu là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố của
nền kinh tế quốc dân ( các lĩnh vực sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu
dùng; các ngành kinh tế quốc dân: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; các
thành phần kinh tế xã hội như: quốc doanh, tập thể, cá thể và các vùng

10


kinh tế ). Giữa các yếu tố có mối quan hệ hữu có tương tác qua lại cả về
chất lượng và số lượng, trong không gian và các điều kiện kinh tế xã hội
cụ thể, và chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu
kinh tế là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ
xã hội [10].
Như vậy, cơ cấu kinh tế có tính khách quan, tính lịch sử, tính mục
tiêu rõ ràng, là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của hệ thống kinh tế xã
hội. Các nhân tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải gắn bó với nhau và phụ
thuộc nhau làm điều kiện cho nhau trong mối quan hệ nhân quả. Những
mối quan hệ trong cơ cấu kinh tế thể hiện ở trình độ phát triển của phân
công lao động xã hội, của chuyên môn hóa và hợp tác hóa, của sự trao
đổi lao động với nhau dưới các hình thức nhất định. Cơ cấu kinh tế càng
phức tạp ( phát triển cả chiều rộng và chiều sâu ) thì trình độ phát triển
của phân công lao động xã hội càng cao.
Khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội, C. Mác đã viết: “
Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với
quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất ”. C. Mác
còn nhấn mạnh, khi phân tích cơ cấu kinh tế phải chú ý đến hai khía cạnh

chất lượng và số lượng của những quá trình sản xuất xã hội [10].
Trong từ điển Bách khoa Việt Nam viết: “ Cơ cấu kinh tế là tổng thể
các ngành, lĩnh vực, bộ phân kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn
định hợp thành ”. Từ định nghĩa này có thể nhấn mạnh đến hai nội dung
chủ yếu: thứ nhất, đó là tổng thể của các bộ phận hợp thành, và thứ hai
là chúng có mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định theo một tương quan
hay tỷ lệ nhất định [10].
Kế thừa các quan niệm trên, có thể định nghĩa về cơ cấu kinh tế
như sau: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế
11


với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương
đối ổn định hợp thành [11].
Về bản chất của cơ cấu kinh tế phải được thể hiện ở ba khía cạnh
chính sau đây:
+ Phương diện hệ thống: đó là các pham trù tập thể và bộ phận.
Một hệ thống lớn bao gồm nhiều phân hệ (hệ thống nhỏ). Điều này không
có nghĩa là chỉ cần cộng các phân hệ lại là có được hệ thống. Vì thế, cơ
cấu kinh tế trước hết là tổng thể với tư cách như một chỉnh thể. Trong
chỉnh thể đó bao gồm nhiều bộ phận như các nhóm ngành (lĩnh vực) và
các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của mỗi quốc gia.
+ Trong tổng thể nền kinh tế đất nước, các nhóm ngành (lĩnh vực)
và các yếu tố cấu thành của hệ thống kinh tế được sắp xếp theo một số
lượng và tỷ lệ nhất định. Việc sắp xếp nếu được thực hiện một cách
khách quan, khoa học, phù hợp với xu thế chung của thời đại thì sẽ có cơ
cấu kinh tế hợp lý, nền kinh tế phát triển nhanh và ngược lại.
+ Các nhóm ngành (lĩnh vực) và các yếu tố cấu thành hệ thống
kinh tế không phải hoạt động động đơn lẻ độc lập, mà có mối quan hệ tác
động qua lại với nhau để làm sao có thể đạt được các mục tiêu đã định

trước.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mối quan
hệ biện chứng giữa quy mô và cơ cấu kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng.
Chúng phản ánh cả hai mặt số lượng và chất lượng của sự phát triển
trong một tổng thể thống nhất, và chúng cần được nhận thức theo bản
chất vận động, và phát triển để phục vụ việc hoạch định chính sách và chỉ
đạo thực hiện. Sự phát triển biện chứng tư duy kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở nước ta đã đạt được những điểm mới trong thời gian qua
gắn với những diễn biến thực tiễn.
12


Từ quan điểm còn đơn giản về công nghiệp hóa những năm 1960,
khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương bắt đầu đổi mới tư
duy kinh tế, thực sự tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Thực tiễn
trải qua các Đại hội Đảng, các quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngày một hoàn thiện. Đặc biệt mục tiêu và các quan điểm công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đã được xác định trong cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa
xã hội của Đại hội VII ( 1991 ), và sau đó đã được từng bước hoàn thiện
trong các văn kiện Đại hội VIII ( 1996 ) và Đại hội IX ( 2001 ) của Đảng.
Các Nghị quyết Trung ương ( khóa IX ) mới đây đã làm sáng tỏ thêm một
bước rất quan trọng về việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là các quan điểm chỉ đạo việc xây dựng chủ
trương, chính sách và tổ chức thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
nước ta.
1.1.2. Các khía cạnh biểu hiện
Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều bộ
phận hợp thành, có nhiều mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cơ cấu
kinh tế là một phạm trù kinh tế tổng hợp nhiều mặt, nhiều mối quan hệ
của nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, nhưng ở mỗi nước, trong

mỗi thời kì phải biết tập trung giải quyết những khâu quan trọng mà
chiến lược kinh tế - xã hội đặt ra. Muốn thực hiện được điều đó cần phải
nắm vững bản chất của cơ cấu kinh tế tức là cần xem xét các khía cạnh
biểu hiện của nó, hay nói cách khác là cần xem xét từng loại cơ cấu cụ
thể của nền kinh tế quốc dân.
Có thể khái quát các khía cạnh biểu hiện của cơ cấu nền kinh tế:
a) Cơ cấu kinh tế theo ngành
Cơ cấu kinh tế theo ngành là bộ phận cơ bản của cơ cấu kinh tế, nó
phản ánh mối liên kết kinh tế và công nghệ sản xuất, là cốt lõi của chiến
13


lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thực hiện thắng
lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra [13].
Cơ cấu kinh tế theo ngành là tổ hợp các ngành hợp thành nền kinh
tế quốc dân, các tương quan tỷ lệ biểu hiện mối quan hệ giữa các nhóm
ngành của nền quốc dân [13]. Nó phản ánh trình độ phân công lao động
xã hội của nền kinh tế, phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Vì
thế, hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo ngành để thúc đẩy nền kinh tế, hoàn thành các mục tiêu đề ra. Đây
cũng là một nhiệm vụ quan trọng của các nước đang phát triển.
Đứng trên góc độ tính chất của nền sản xuất, nền kinh tế quốc dân
được phân chia thành khu vực sản xuất vật chất và khu vực sản xuất phi
vật chất.
+ Khu vực sản xuất vật chất là tổng hợp các ngành sản xuất ra của
cải vật chất để phục vụ cho đời sống con người (nông – lâm – ngư
nghiệp, công nghiệp và xây dựng cơ bản), là nơi tạo ra sản phẩm xã hội
và thu nhập quốc dân chủ yếu của một đất nước.
+ Khu vực sản xuất phi vật chất là tổng hợp những ngành dịch vụ
phục vụ cho đời sống của con người và xã hội. Ngày nay, trên thế giới, do

khoa học kỹ thuật phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, người
ta dành ngày càng nhiều lao động cho lĩnh vực sản xuất phi vật chất để
phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người. Vì thế các ngành dịch
vụ đã trở thành những ngành kinh tế quan trọng đem lại thu nhập đáng
kể cho nền kinh tế đất nước.
Một cách tổng quát có thể chia cơ cấu kinh tế thành:
+ Khu vực I: Nông nghiệp (nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp).

14


+ Khu vực II: Công nghiệp (khai thác, chế biến, phân phối điện
nước) và xây dựng.
+ Khu vực III: Dịch vụ (gồm thương mại, du lịch, tài chính, ngân
hàng…).
Đây là cách phân loại được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Theo
cách phân loại này thì khu vực I và khu vực II là khu vực sản xuất vật
chất, khu vực III là khu vực sản xuất phi vật chất.
Trên phương diện tổ chức nền sản xuất xã hội, nền kinh tế quốc
dân bao gồm nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp của
các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải…Đây
cũng là những đơn vị của nền kinh tế quốc dân, những đơn vị nhỏ này
được kết hợp thành các tổ chức kinh tế ngành thuộc các ngành sản xuất
vật chất và các ngành sản xuất phi vật chất. Khi các ngành này kết hợp
lại sẽ tạo thành cơ cấu thống nhất của nền kinh tế quốc dân.
Việc xác định cơ cấu và lĩnh vực kinh tế hợp lý nhằm khai thác tốt
tiềm năng kinh tế của đất nước, khả năng đóng góp trong việc tăng sản
xuất của các ngành và lĩnh vực cũng như triển vọng của nó trong việc
đảm bảo tăng trưởng cao và sự phát triển ổn định của nền kinh tế trong

tương lai.
b) Cơ cấu theo thành phần kinh tế
Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở để hình thành các thành
phần kinh tế. Cơ cấu theo thành phần kinh tế phản ánh khả năng cũng
như năng lực sản xuất của mỗi thành viên và các tổ chức xã hội. Trong
đó kinh tế quốc doanh nắm những ngành then chốt, mũi nhọn, các doanh
nghiệp trọng yếu đảm đương những ngành mà các doanh nghiệp không
muốn đầu tư kinh doanh do những yếu tố về nguồn vốn, trình độ khoa
học kỹ thuật, công nghệ quá lớn.
15


Các nhà kinh tế chia các hình thức sở hữu thành 3 nhóm như sau:
- Nhóm 1: Các thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà nước (KTQD)
- Nhóm 2: Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế hỗn hợp.
- Nhóm 3: Các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế có khả năng và điều kiện tồn tại, vận động
và phát triển riêng, giữa chúng có sự hợp tác, hỗ trợ nhau, cạnh tranh
với nhau trong khuôn khổ pháp luật và định hướng chính sách của Nhà
nước. Song việc phát triển kinh tế đất nước và các thành phần kinh tế
hợp lý có ý nghĩa quan trọng bởi vì đó là lực lượng sản xuất nhạy bén,
năng động theo sự thay đổi của thị trường và những thay đổi nhu cầu
tiêu dùng của con người, có khả năng phát huy được các nguồn lực về
vốn, lao động, kỹ thuật để khai thác và phát triển có hiệu quả các thế
mạnh của đất nước để thúc đẩy sự phân công lao động và sản xuất.
Ở nước ta, các thành phần kinh tế đã được xác định với vai trò khác
nhau của mỗi thành phần trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường:
- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là động lực thúc đẩy sự

tăng trưởng kinh tế. Thành phần kinh tế này bao trùm các ngành kinh tế
then chốt gắn liền với việc quản lý tài nguyên của đất nước, với an ninh
quốc phòng và các lĩnh vực quan trọng khác.
- Kinh tế tập thể có ý nghĩa quan trọng với nhiều hình thức tổ chức
trên cơ sở tham gia tự nguyện, bình đẳng, dân chủ và cùng có lợi.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ với tiềm năng to lớn có vai trò quan
trọng, lâu dài đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta. Từ
sau đổi mới, thành phần này có điều kiện phát triển nhanh và chiếm tỷ
trọng cao trong nhiều ngành kinh tế.
16


- Kinh tế tư bản tư nhân đang có những đóng góp nhất định cho
nền kinh tế với tiềm lực về vốn, kỹ thuật, công nghệ, quản lý và thị
trường.
- Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn với hình thức liên
doanh giữa nhà nước với tư bản trong và ngoài nước.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong những năm gần dây
được phát triển mạnh hướng vào việc phát triển hàng hóa và dịch vụ
xuất khẩu công nghệ và việc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Đảng ta nhấn mạnh: chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật sản xuất nhỏ đi lên xã hội
chủ nghĩa…và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế đảm bảo cho mọi
người tự do làm ăn theo pháp luật [28].
c) Cơ cấu kinh tế lãnh thổ
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ phản ánh khả năng kết hợp, khai thác
tài nguyên, tiềm lực kinh tế xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu
phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất [1].
Cơ cấu kinh tế quốc dân có nhiều loại khác nhau. Nhưng dù là loại
hình nào thì nó cũng là sản phẩm của phân công lao động xã hội, được

biểu hiện cụ thể dưới hai hình thức cơ bản nhất là phân công lao động
theo ngành và phân công lao động theo lãnh thổ.
Về phương diện địa lý, nền kinh tế quốc dân được xây dựng trên toàn
bộ lãnh thổ kinh tế đất nước. Những đơn vị kinh tế lãnh thổ dựa trên điều
kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khác nhau, có các nguồn tài nguyên: lao
động, đất đai, rừng, biển và kết cấu hạ tầng hình thành các vùng kinh tế có
các yếu tố khác nhau dẫn đến hình thành một cơ cấu kinh tế vùng lãnh
thổ. Tất cả các vùng kinh tế khác nhau đều có những mối liên hệ tác động

17


qua lại lẫn nhau trong cùng một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất
trong cả nước.
Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ được hình thành chủ yếu do sự bố trí
không gian sản xuất. Phát triển kinh tế lãnh thổ là phát triển chung nhiều
mặt, có tính tổng hợp, trong đó có ưu tiên một số ngành gắn liền với sự
hình thành phân bố dân cư và lao động. Cơ cấu lãnh thổ là biểu hiện vật
chất cụ thể của phân công lao động theo lãnh thổ. Cơ cấu ngành và cơ cấu
lãnh thổ là hai mặt của một thể thống nhất, đều có sự biểu hiện của sự
phân công lao động xã hội trong một lãnh thổ nhất định, nhưng cơ cấu
lãnh thổ còn biểu hiện sự chuyên môn hóa theo lãnh thổ rõ ràng trong sự
phát triển nền kinh tế.
Sự hình thành và phát triển kinh tế theo lãnh thổ dựa trên nhiều
mặt tổng hợp, trong đó ưu tiên cho một vài ngành gắn liền với sự hình
thành và phân bố dân cư và lao động, dựa trên những thế mạnh của
những đơn vị lãnh thổ đó như tài nguyên thiên nhiên, nhân văn, hệ thống
kết cấu hạ tầng. Trên phạm vi cả nước nói chung và các tỉnh nói riêng
đều có những khu vực, những vùng lãnh thổ có những thế mạnh khác
nhau, là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo lãnh thổ. Song

chúng không tách rời mà có những mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau
trong suốt không gian kinh tế thống nhất. Phân công lao động theo
ngành và theo thành phần kinh tế chỉ được chuyển dịch một cách đúng
đắn trên một phạm vi lãnh thổ cụ thể.
Việc xác định cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lý nhằm xóa bỏ tình
trạng phát triển lẻ tẻ, chia cắt nền kinh tế, góp phần vào việc thúc đẩy
các ngành kinh tế phát triển, sử dụng có hiệu quả tiềm năng của mỗi
vùng, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, ổn định, trong đó có cả vấn đề
môi trường sinh thái. Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay,

18


thì sự phát triển kinh tế theo lãnh thổ có ý nghĩa to lớn vì các vùng kinh
tế sẽ được phát triển theo hướng chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa. Sự
thiết lập các mối quan hệ giữa các vùng tạo ra sự hỗ trợ hợp tác để các
thế mạnh của mỗi vùng có thể là hạt nhân để phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Cơ cấu lãnh thổ có tính trì trệ hơn so với cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh
vực và thành phần kinh tế, vì nó chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Do
đó, những sai lầm và khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu lãnh thổ sẽ ảnh
hưởng lâu dài đến phát triển kinh tế.
1.1.3. Ý nghĩa của việc xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý
Cơ cấu kinh tế là một cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái sản
xuất mở rộng. Cơ cấu kinh tế hợp lý được xem xét trên các điều kiện:
- Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với các quy luật khách quan;
- Cơ cấu kinh tế phản ánh được khả năng khai thác sử dụng nguồn
lực kinh tế trong nước và đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế và khu
vực…nhằm tạo ra sự cân đối và phát triển bền vững;
- Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, chính

trị của khu vực và thế giới.
Những điều kiện này mang tính định tính nhưng có khả năng phản
ánh đầy đủ tính chất của cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ là yết tố
quan trọng để đảm bảo sự ổn định của đất nước và vùng lãnh thổ. Sự
phát triển luôn luôn đòi hỏi có một cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với các
điều kiện cụ thể để đem lại hiệu quả cao nhất và có thể điều chỉnh được
một cách nhanh chóng để thích ứng với những thay đổi của hoàn cảnh
khách quan và phù hợp với các mục tiêu, định hướng phát triển. Bởi cơ
cấu kinh tế không cố định mà luôn ở trạng thái động, không có khuôn
19


mẫu. Nó phụ thuộc vào những điều kiện tất yếu, cụ thể theo không gian
và thời gian. Vì thế, việc lực chọn một cơ cấu kinh tế hợp lý để đáp ứng
tốt nhất yêu cầu phát triển kinh tế xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng
hiện nay.
Để xác định được một cơ cấu kinh tế hợp lý phải căn cứ vào các
điều kiện tự nhiên, các điều kiện kinh tế xã hội, chính trị ở trong nước và
những chính sách đối ngoại của đất nước cũng như việc phải tính đến
những thay đổi của thị trường quốc tế. Một cơ cấu kinh tế hợp lý là một
cơ cấu kinh tế thích ứng nhất với các điều kiện cụ thể và đem lại hiệu quả
kinh tế cao nhất. Nghĩa là nó phải tạo ra sự ổn định, tăng trưởng và sự
phát triển của nền kinh tế xã hội.
Những ý nghĩa của cơ cấu kinh tế đem lại là:
- Khai thác tối đa những ưu thế và thuận lợi về tài nguyền thiên
nhiên nói chung như: đất đai, địa hình, khí hậu, vị trí địa lý, tài nguyên
thiên nhiên và các điều kiện kinh tế xã hội, các quan hệ đối ngoại. Thích
ứng linh hoạt và tận dụng được mọi thuận lợi của xu hướng phát triển
trên thế giới.

- Cơ cấu kinh tế hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh
tế phát triển với số lượng và chủng loại hàng hóa đa dạng và phong phú,
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân.
- Đảm bảo và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của mỗi ngành,
mỗi vùng, mỗi thành phần, tạo khả năng phát triển cho cả tổng thể và
từng bộ phận trong tổng thể.
- Tạo khả năng tích lũy nhiều nhất ở những ngành mũi nhọn,
những vùng trọng điểm, bù đắp cho vùng, ngành không có điều kiện tích
lũy, đảm bảo tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân, tăng cường sức
mạnh an ninh, chính trị, sự ổn định và bảo vệ đất nước.
20


1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.2.1. Khái niệm
Cơ cấu kinh tế luôn có sự thay đổi tùy theo từng thời kỳ phát triển
bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi
về số lượng các ngành, sự thay đổi về tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các
thành phần kinh tế do sự xuất hiện hoặc biến mất của một ngành nào đó
và tốc độ tăng trường giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế là không
đều. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái
khác cho phù hợp với những điều kiện phát triển được gọi là sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế [10].
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ đơn thuần là sự thay đổi
về vị trí mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở là một cơ cấu kinh tế hiện
tại đang có cho nên nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cái
cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp với lợi thế và tiềm năng để xây dựng một
cơ cấu mới tiên tiến và hoàn thiện nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu
mới hiện đại và phù hợp hơn.

Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự điều chỉnh cơ cấu trên
ba mặt biểu hiện của cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu theo thành
phần kinh tế nhằm mục đích hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
theo mục tiêu kinh tế xã hội đã được xác định cho từng thời kỳ phát
triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế mang tính khách quan thông qua nhận
thức chủ quan của con người. Trong qua trình chuyển dịch cơ cấu đã
hình thành các khái niệm:
- Điều chỉnh cơ cấu: Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa
trên cơ sở thay đổi một số mặt, một số yếu tố của cơ cấu làm cho nó thích
21


ứng với điều kiện khách quan từng thời kỳ, không tạo ra sự thay đổi đột
biến tức thời [10].
- Cải tổ cơ cấu: Đó là quá trình chuyển dịch đem đến sự thay đổi cơ
bản về bản chất cơ cấu kinh tế so với thực trạng ban đầu, nhanh chóng
tạo ra sự đột biến, nhảy vọt trong nền kinh tế [10].
Tốc độ phát triển các hoạt động kinh tế của các ngành, các vùng và
các thành phần kinh tế không phải bao giờ cũng đồng đều và nhịp nhàng
với nhau, vì trong quá trình đó có nhiều yếu tố tác động đến xu hướng
phát triể của mỗi ngành. Vì thế cơ cấu kinh tế cũng có sự biến đổi song
mức độ ít phức tạp hơn. Mặc dù có sự biến đổi, nhưng nếu cơ cấu kinh tế
vẫn còn thích ứng, chưa gây ra những trở ngại cho sự phát triển của
từng bộ phận và cả tổng thể thì chưa đòi hỏi phải xác định lại cơ cấu
kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu chỉ có thể diễn ra khi:
- Có sự thay đổi lớn về điều kiện phát triển.
- Có khả năng và giải pháp mới làm thay đổi phương thức khai
thác các điều kiện hiện tại.

- Trong quan hệ phát triển giữa các bộ phận của cơ cấu kinh tế có
những trở ngại dẫn đến hạn chế lẫn nhau làm nảnh hưởng đến sự phát triển
chung.
1.2.2.Tính tất yếu khách quan của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một đặc trưng vốn có của quá trình
phát triển kinh tế lâu dài điều này được quy định bởi những tính chất
(hay bản chất) của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trên quan điểm hệ thống,
nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp và năng động bao gồm
nhiều yếu tố có bản chất khác nhau (tự nhiên, kinh tế, xã hội) hoạt động
theo quy luật khác nhau, thường xuyên tác động qua lại vơi nhau, cùng
22


vận động và phát triển để hình thành nên một cơ cấu kinh tế nhất định
cho từng giai đoạn. Cơ cấu kinh tế vì vậy mang tính khách quan bởi nó
phản ánh sự tác động của các quy luật phát triển khách quan. Vai trò của
yếu tố chủ quan trong việc xác định cơ cấu là thông qua nhận thức ngày
càng sâu sắc những quy luật đó mà người ta phân tích, đánh giá xu thế
phát triển khác nhau để tìm ra những phương án thay đổi cơ cấu có hiệu
quả nhất trong điều kiện cụ thể của từng đất nước.
Bên cạnh đó, mỗi một cơ cấu kinh tế còn mang tính lịch sử và xã
hội. Cơ cấu của một nền kinh tế quốc dân khác nhau qua từng thời kỳ,
từng giai đoạn lịch sử, chịu sự tác động của các yếu tố khách quan và
chủ quan khác nhau. Mặt khác, dù trong thời kỳ nào, dưới hình thái xã
hội nào thì nền kinh tế chỉ phát triển khi giữa những bộ phận của quá
trình tái sản xuất xã hội xác lập được những mối quan hệ cân đối những
tỷ lệ của sự phân công lao động xã hội do những điều kiện kinh tế - xã hội
quy định, Theo C.Mác: “Sự tất yếu phải phân công lao động theo tỷ lệ
nhất định quyết không để bị biểu hiện của nó có thể thay đổi”. Vì thế,
trong nhiều tiến trình đổi mới nền kinh tế nếu không có sự chuyển biến

đáng kể tỷ lệ giữa các lĩnh vực kinh tế theo cơ cấu tiến bộ, hợp lý sẽ
không có sự phát triển ổn định và lâu bền.
Từ những tính chất trên, có thể thấy rằng, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế luôn biến động vì nó gắn liền với sự biến đổi, phát triển không ngừng
bản thân các yếu tố bộ phận trong nền kinh tế và của những mối quan hệ
giữa chúng. Trong mỗi giai đoạn phù hợp với trình độ phát triển nhất
định sẽ xuất hiện khả năng hình thành một chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hợp lý cùng với giai đoạn đó. Nếu sự phát triển kinh tế trong thực tế tiến
sát tới cơ cấu hợp lý ấy thì nền kinh tế sẽ phát triển thuận lợi. Trong
trường hợp sự phát triển kinh tế không tương ứng với những điều kiện
23


hiện có của đất nước và với những quy luật khách quan của quá trình
phát triển sản xuất xã hội thì nó kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Do
vậy, việc xác định đúng đắn cơ cấu kinh tế và việc xây dựng mô hình cơ
cấu kinh tế trong tương lai, hay nói cách khác sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Phát triển mạnh và bền
vững là một yếu tố khách quan, có giá trị quan trọng trong công cuộc
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
Dưới góc độ kinh tế thì các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tổng thể các điềukiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên, dân số và lao động, khoa học và công nghệ, đường
lối chính sách, thị trường, truyền thống và kinh nghiệm sản xuất bao
gồm cả trong nước và ngoài nước; cùng với xu hướng phát trển của thời
đại và sự ổn định về chính trị trong nước, có khả năng khai thác để sản
xuất hàng hóa hay cung những dịch vụ góp phần phát triển kinh tế.
- Theo góc độ khai thác, các nhân tố được chia thành hai nhóm:

+ Nhóm mang tính chất sản xuất vật chất: gồm cơ sở của quá trình
sản xuất là tài nguyên thiên nhiên, dân số và lao động, khoa học và công
nghệ, nguồn vốn. Đây là nhóm nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất tạo nên sản phẩm hàng hóa.
Ở các quốc gia khác nhau, từng thời kỳ khác nhau thì mức độ tham
gia phụ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất, tính chất của nền kinh
tế.
+ Nhóm mang tính chính trị xã hội: bao gồm thể chế chính trị,
đường lối chính sách truyền thống và tính cộng đồng, kinh nghiệm quản
lý sản xuất và kinh doanh. Đây là những nhân tố không trực tiếp tham
24


gia vào quá trình sản xuất nhưng góp phần quan trọng vào sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Hiện nay cả hai nhóm này có mối quan hệ
mật thiết với nhau, cùng hỗ trợ nhau để đảm bảo sự phát triển nhành và
ổn định của nền kinh tế.
- Căn cứ vào nguồn gốc chia ra các nhân tố sau:
+ Vị trí địa lý: vị trí trong khu vực. vị trí về kinh tế, vị trí về chính trị.
+ Tài nguyên thiên nhiên: đất, nước, khí hậu, biển, rừng, khoáng
sản.
+ Kinh tế xã hội: dân số và lao động, nguồn vốn, chính sách và xu
thế phát triển, khoa học và công nghệ.
- Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ có thể chia ra các nhóm nhân tố;
+ Nhóm các nhân tố trong nước: tài nguyên thiên nhiên và các
nhân tố kinh tế xã hội: lao động, nguồn vốn trong nước, khoa học và
công nghệ trong nước, đường lối chính sách phát triển, thị trường trong
nước.
+ Nhóm các nhân tố nước ngoài: nguồn vốn, khoa học và công
nghệ, kinh nghiệm quản lý sản xuất và kinh doanh, thị trường xuất khẩu.

Hai nhóm nhân tố này cũng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, hợp
tác và bổ xung cho nhau dựa trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có
lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau. Xu hướng hiện nay là kết hợp các nhân tố nội lực và ngoại lực
tạo nên sức mạnh tổng hợp để khai thác hợp lý và có hiệu quả các nguồn
lực.
Trong các tiêu chí để phân loại các nhân tố nói trên thì sự phân
loại các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo nguồn gốc là phù hợp với địa lý kinh tế hơn cả. Vì vậy, khi xem

25


×