Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Kim Bảng theo hướng CNH HĐH giai đoạn 20102015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.54 KB, 48 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) là một chủ trương hết sức
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Mục tiêu của CNH - HĐH là xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc…
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH thì vấn đề chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nước ta là một nước nông
nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN nên chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phải xuất phát từ sự tồn tại khách quan của các thành phần
kinh tế trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH.
Kim Bảng là huyện bán sơn địa của tỉnh Hà Nam, thuộc vùng đồng
bằng Sông Hồng, kinh tế còn kém phát triển, thu nhập bình quân đầu người
chưa cao, kết cấu hạ tầng còn thiếu đồng bộ, cơ cấu kinh tế đã có bước
chuyển dịch tích cực nhưng chưa vững chắc; cơ cấu lao động, nhất là lao
động ở nông thôn chuyển dịch còn thấp, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao,
tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp. Vì vậy, việc vận dụng những quan điểm tư
tưởng của Đảng qua các kỳ Đại hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý đòi hỏi
phải nghiên cứu một cách khoa học, đồng bộ có hệ thống giữa lý luận và thực
tiễn kinh tế xã hội của huyện.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn đề tài: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
huyện Kim Bảng theo hướng CNH - HĐH giai đoạn 2010-2015 làm chuyên
đề thực tập tốt nghiệp của mình.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO
HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
Cơ cấu biểu hiện những yếu tố cấu thành và mối quan hệ cơ bản, tương


đối ổn định của đối tượng đó trong một thời gian nhất định. Trong cơ cấu kinh
tế mặt chủ đạo của nó là hệ thống QHSX, tức là QHSX giữa người với người
trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Các quan hệ đó phải
được biểu hiện ở lợi ích kinh tế với tư cách là động lực của sự phát trển sản
xuất.
Cơ cấu kinh tế là tổng hợp các mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành
của nền kinh tế. Đó là mối quan hệ giữa LLSX và QHSX của một nền kinh tế -
xã hội trong một thời gian nhất định. Thực chất việc thay đổi và hình thành cơ
cấu kinh tế hợp lý là một quá trình phân công lao động xã hội. “Cơ cấu kinh tế
xã hội là toàn thể những QHSX phù hợp với một quá trình phát triển nhất định
của LLSX vật chất”
1
. Từ đó ta thấy cơ cấu kinh tế không chỉ là mối quan hệ tỷ lệ
giữa các bộ phận cấu thành mà bao hàm sự phát triển của từng bộ phận trong cơ
cấu đó.
Cơ cấu kinh tế là cơ sở hình thành cơ cấu xã hội. C.Mác cũng chỉ rõ:
“…chính toàn bộ các QHSX giữa người đảm nhận sản xuất với nhau và giữa
họ với tự nhiên, tức là điều kiện trong đó họ tiến hành sản xuất, toàn bộ
những quan hệ đó hợp thành về mặt xã hội của nó”
1
.
1 C.Mác - Góp phần phê phán kinh tế chính trị học - NXB: Sự Thật - Hà Nội 1964 (Trang 17)
1 C.Mác - Tư bản quyển 3, tập 2; NXB: Sự Thật - Hà Nội 1973.(Trang 281)
Nội dung cơ cấu kinh tế quốc dân có thể xem xét trên nhiều góc độ
khác nhau:
- Cơ cấu theo ngành kinh tế kỹ thuật (công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ): Là sự kết hợp giữa các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Sự vận
động của các ngành kinh tế và các mối liên hệ của nó vừa tuân theo những
đặc điểm chung của sản xuất xã hội, lại vừa mang những nét đặc trưng của
mỗi giai đoạn, mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, phản ánh chất lượng của nền

sản xuất và chất lượng tăng trưởng. Từ việc nghiên cứu này để tìm ra những
cách thức duy trì tỷ lệ hợp lý giữa các ngành và lĩnh vực cần ưu tiên tập trung
những nguồn lực có hạn của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ trong mỗi thời
kỳ để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách hiệu
quả, hay nói cách khác, là tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý và hiện đại.
- Cơ cấu theo vùng lãnh thổ: loại cơ cấu này là sự kết hợp giữa các
vùng, lãnh thổ trong toàn quốc hoặc trong toàn bộ đơn vị cơ sở trong mỗi
vùng, hoặc cơ cấu theo địa phương. Cơ cấu này thể hiện sự phân bố LLSX, sự
phân công lao động trên các vùng lãnh thổ khác nhau và mối quan hệ giữa các
vùng lãnh thổ này trong một nền kinh tế.
- Cơ cấu các thành phần kinh tế: phản ánh mối quan hệ, tỷ lệ chủ yếu
giữa các thành phần kinh tế như kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Cơ cấu kinh tế theo các lĩnh vực: cơ cấu của khu vực sản xuất, khu
vực tích luỹ, khu vực tiêu dùng.
Với các cách tiếp cận trên đã phản ánh một số vấn đề chủ yếu của cơ
cấu kinh tế đó là:
+ Thứ nhất: cơ cấu kinh tế là tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu
thành hệ thống kinh tế (mà cụ thể là: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và
cơ cấu thanh phần kinh tế của) mỗi quốc gia.
+ Thứ hai: sự tác động qua lại, tương tác lẫn nhau giữa các ngành, các
yếu tố… Hướng vào các mục tiêu đã xác định.
+ Thứ ba: vấn đề về số lượng và tỷ trọng của các nhóm ngành và của
các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.
1.1.2. Tính chất của cơ cấu kinh tế
Mọi sự vật hiện tượng cũng như nền kinh tế quốc dân đều vận động
theo những quy luật khách quan, theo những cấu trúc và biến đổi nhất định.
Cơ cấu kinh tế phản ánh cơ bản, cô đọng nội dung của chiến lược phát triển
cơ cấu kinh tế trong từng giai đoạn.
Một cơ cấu kinh tế hợp lý phản ánh được sự vận động của quy luật

khách quan trong nền kinh tế. Vai trò chủ quan của con người chính là sự
nhận thức và vận dụngtheo đúng quy luật khách quanđó để xây dựng cơ cấu,
hoạch định chiến lược kinh tế - xã hội đúng đắn. Mọi sự áp đặt chủ quan,
nóng vội hay bảo thủ trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế đều mang lại tác động
xấu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nền kinh tế chỉ có thể phát triển bình thường khi giữa các mặt các bộ
phận có những mối liên hệ cân đối theo tỷ lệ hợp lý trong sự phân công lao
động xã hội. Tuy nhiên tính ổn định của cơ cấu kinh tế chỉ là tương đối, cơ
cấu kinh tế luôn luôn vận động tới một chừng mực nhất định.
Tính hai mặt, vừa ổn định (tương đối) vừa vận động biến đổi thường
xuyên của cơ cấu kinh tế nói lên tính phức tạp của việc thay đổi cơ cấu kinh
tế, đòi hỏi Nhà nước và các chủ thể quản lý cần phảI tránh cả hai xu hướng đó
là: nếu quá nhấn mạnh tính duy trì ổn định thì dễ dẫn đến tính bảo thủ, trì trệ,
lạc hậu và ngược lại, quá trình nhấn mạnh tính biến đổi sẽ rơi vào chủ quan,
nóng vội, duy ý chí.
1.1.3. Các loại hình cơ cấu kinh tế (theo ngành, vùng, thành phần kinh
tế).
Cơ cấu kinh tế của một nền kinh tế quốc dân được hình thành trên các
cơ cấu sau:
Thứ nhất, cơ cấu ngành kinh tế, bao gồm:
- Nông nghiệp - lâm nghiệp - ngư nghiệp - diêm nghiệp.
- Công nghiệp - xây dựng.
- Dịch vụ - du lịch.
Thứ hai, cơ cấu vùng kinh tế.
Thứ ba, cơ cấu các thành phần kinh tế.
1.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH
1.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình tác động có hướng đích của các
chủ thể quản lý, nhằm biến đổi từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả sang
một cơ cấu kinh tế mới hợp lý hơn, tiến bộ hơn, hiệu quả hơn. Đó là quá trình

tác động liên tục, tổng hợp trên nhiều phương diện cả ở cấp vĩ mô và vi mô.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế luôn luôn thay đổi theo
từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định.
Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ
giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến chất của
một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế
là không đồng đều.
Từ những khái niệm và nội dung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ta
có thể khẳng định: mục tiêu của sự chuyển dịch kinh tế ở nước ta theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm khắc phục tính tự cung, tự cấp khép
kín, chuyển mạnh sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, gắn thị trường
trong nước và thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường tích
luỹ nội bộ nền quốc dân để nhanh chóng đưa đất nước tiến lên văn minh và
hiện đại.
Về bản chất, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình biến đổi cấu
trúc và các mối quan hệ tương tác trong hệ thống theo những định hướng và
mục tiêu nhất định, nghĩa là đưa hệ thống đó từ một trạng thái nhất định tới
trạng thái phát triển tối ưu để đạt hiệu quả mong muốn, thông qua sự điều
khiển có ý thức của con người, trên cơ sở vận dụng đúng đắn các quy luật
khách quan. Cơ cấu kinh tế quốc dân đa dạng, phong phú, bao gồm: Cơ cấu
sản xuất, cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế xã hội, cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu các
thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế đối ngoại.
Đối với chúng ta, đây là một vấn đề khó khăn và phức tạp cả về mặt lý
luận và thực tiễn. Vì vậy, để có được một cơ cấu kinh tế hợp lý, đem lại hiệu
quả cao, đồi hỏi chung ta phải có nhận thức và quan điểm đúng đắn về vấn đề
này. đồng thời trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chúng ta phải đảm
bảo được những yêu cầu mang tính nguyên tắc sau:
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải phù hợp với mô hình kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu phát

triển của mô hình kinh tế lựa chọn.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo nền kinh tế hoạt động với
hiệu quả cao nhất.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo phát triển quy mô sản xuất
hợp lý, từng bước áp dụng phương pháp công nghiệp trong nền kinh tế quốc
dân.
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã xác
định: “Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH”
1
. Sự
nghiệp CNH - HĐH ngày nay mà Đảng ta đã chỉ ra là: “Quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh
tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một các phổ
biến sức lao động với công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại dự trên sự
phát triển công nghiệp và khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã
hội cao
” 2
.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế quốc gia, mọi khu vực
đều có sự thay đổi số lượng các nhóm kinh tế và tương quan tỷ trọng các
nhóm ngành và vùng lãnh thổ trong tổng thể nền kinh tế. Do đó, nội dung của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cái cũ, cái chưa phù hợp để xây dựng
một cơ cấu mới, tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ, biến đổi cơ cấu cũ
thành cơ cấu hiện đại và phù hợp với xu thế phát triển.
Khi phân tích cơ cấu ngành kinh tế người ta thường phân tích theo ba
nhóm ngành chính sau:
- Nhóm ngành công nghiệp bao gồm các ngành công nghiệp và xây
dựng.

1 Văn kiện hội nghị giữa nhiệm kỳ BCH TW khoá VII trang 26
2 Văn kiện hội nghị lần thứ 7 BCH TW khoá VII trang 65
- Nhóm ngành dịch vụ bao gồm các ngành như thương mại, bưu điện,
du lịch.
- Nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành nông-lâm-ngư nghiệp.
Nếu như phân công lao động xã hội là cơ sở hình thành cơ cấu ngành
và cơ cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần
kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu
ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động
của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong cơ cấu kinh tế. Cơ cấu lãnh thổ và
cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một mặt thông nhất và đều là
biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn
với cơ cấu ngành và thống nhất trong nền kinh tế. Việc chuyển dịch cơ cấu
lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành
kinh tế, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ cho phù hợp với đặc điểm tự
nhiên, kinh tế - xã hội, phong tục tập quán truyền thống của mỗi vùng, nhằm
khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của nhiều yếu tố, có nhân tố thúc đẩy
có nhân tố kìm hãm. Sự tác động đan xen nhau đó làm cho nền kinh tế phát
triển với tốc độ và hiệu quả khác nhau. Có thể chia các nhân tố tác động cơ
cấu kinh tế theo ba nhóm sau:
- Nhóm các nhân tố địa lý, tự nhiên.
- Nhóm các nhân tố kinh tế - xã hội bên trong đất nước.
- Nhóm các nhân tố bên ngoài.
2. Tính tất yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá bao trùm toàn bộ quá trình phát
triển kinh tế. Nội dung chính của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, thực hiện cách mạng khoa học kỹ thuật và

phân công lại lao động xã hội. Do vậy nó động chạm đến tất cả các ngành
kinh tế quốc dân.
Vấn đề quan trọng là phải hiểu một cách thống nhất bản chất của quá
trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá từ đó vận dụng một cách phù hợp với điều
kiện thực tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ
này. điều đó thể hiện ở các mặt sau:
Một là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gồm những nội dung khác nhau,
có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình mang
tính qui luật, nó gắn liền với quá trình phát triển của mỗi quốc gia, mỗi địa
phương.
Ba là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ tất yếu, một quy luật
có tính phổ biến đối với tất cả các quốc gia kể từ trạng thái lạc hậu kém phát
triển và phụ thuộc sang một xã hội phát triển và văn minh.
Bốn là, mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là bảo đảm sự phát
triển kinh tế xã hội nhanh và ổn định khai thác có hiệu quả các nguồn lực
trong nước để nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, xây dựng xã
hội văn minh.
Năm là, để thực hiện được mục tiêu và nội dung cơ bản trên cần phải
có bước đi, điều kiện và những giải pháp thích ứng.
3. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế là tăng tỷ trọng phát triển
các thành phần kinh tế không thuộc khu vực kinh tế nhà nước đảm bảo sự
năng động và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế, đồng thời sắp xếp tổ
chức lại sản xuất các khu vực kinh tế nhà nước nhằm giữ vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế này.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng là tập trung ưu tiên cho sự phát triển
của các vùng miền núi trung du, vùng khó khăn, khai thác tiềm năng kinh tế
vùng này để thu hẹp dần khoảng cách giữa các vùng. Mặt khác tổ chức bố trí,
kêu gọi đầu tư vào vùng ven biển, đồng bằng, vùng có nhiều thuận lợi để

nâng cao tiềm năng kinh tế của đất nước cũng như ở từng địa phương.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế các ngành xuất phát từ thực trạng kinh tế
các ngành, đặc điểm kỹ thuật các ngành, tiềm năng và xu hướng phát triển của
chúng theo mục tiêu chung của đất nước. Hướng chung của chuyển dịch cơ
cấu ngành là tăng tỷ trọng các ngành phi sản xuất kết hợp chặt chẽ nông - lâm
nghiệp và công nghiệp chế biến, cuối cùng là tập trung ưu tiên cho phát triển
các ngành công nghiệp mũi nhọn mang tính đột phá.
Tóm lại: sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, vùng
lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó cơ cấu ngành có vai trò
quyết định vì nó phát triển theo quan hệ cung - cầu trên thị trường còn cơ cấu
thành phần kinh tế là lực lượng kinh tế quan trọng để thực hiện cơ cấu ngành.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ HUYỆN KIM
BẢNG THỜI GIAN QUA
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến cơ cấu
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Điều kiện địa lý và tài nguyên thiên nhiên: Kim Bảng là một huyện
nông nghiệp, hơn nữa lại là một huyện bán sơn địa, nằm ở phía Tây Bắc của
tỉnh Hà Nam. Có vị trí địa lý vào khoảng 20 độ 3 vĩ độ Bắc, 105 độ 30 kinh
độ Đông, Kim Bảng nằm sát ngay cạnh trung tâm tỉnh lỵ - nơi có đường quốc
lộ số 1 (huyết mạch giao thông của cả nước) chạy qua và cách Thủ đô Hà Nội
không xa (khoảng 60 km). Bên cạnh đó, Kim Bảng còn tiếp giáp với các
huyện như: Phía Tây giáp huyện Mỹ Đức của Thủ đô Hà Nội (nơi có điểm
thắng cảnh Hương Tích nổi tiếng) và huyện Lạc Thủy của tỉnh Hòa Bình (nơi
có nhiều tiềm năng phát triển du lịch và tài nguyên, khoáng sản); Phía Bắc
giáp huyện Ứng Hòa (có nhiều tiềm năng phát triển với các ngành nghề thủ
công truyền thống và các du lịch nổi tiếng); Phía Nam giáp huyện Thanh
Liêm; Phía Đông giáp thành phố Phủ Lý và huyện Duy Tiên (đây cũng là
những nơi giàu tài nguyên khoáng sản và có bề dày về lịch sử văn hóa truyền

thống của tổ tiên người Việt từ thủa khai thiên, lập địa)… Nối liền phía Đông
với phía Tây là dòng sông Đáy và các trục đường quốc lộ 21A, 21B, đường
60; từ phía Bắc xuống phía Nam được nối liền bởi dòng sông Nhuệ, các
đường tỉnh lộ Biên Hòa và hệ thống đường liên huyện, liên xã
1
.
1 BCH Đảng bộ huyện Kim Bảng 2008 “Lịch sử Đảng bộ huyện Kim Bảng 1930 - 2005” (Trang 17).
Hiện nay, Kim Bảng có 17 xã và 02 thị trấn (trong đó có 06 xã, 01 thị
trấn miền núi) với tổng diện tích khoảng 18.708 ha. Điểm dài nhất là 18,7 km,
điểm rộng nhất là 14,2 km, thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Diện tích đất
nông nghiệp là 13.635,26 ha, chiếm gần 80% diện tích đất tự nhiện. Địa hình
của Kim Bảng rất đa dạng, bao gồm: vùng đồi núi, nửa đồi núi, vùng đồng
chiêm trũng và được phân đôi bởi dòng sông Đáy chạy dọc huyện thành hai
vùng tả ngạn và hữu ngạn. Vùng tả ngạn sông Đáy nhìn chung là đất nông
nghiệp với một vùng đồng bằng rộng lớn, chủ yếu là đất phù sa trẻ, độ phì
cao. Do quá trình thủy lợi hóa và cải tạo đất, cả vùng tả ngạn đất đai màu mỡ,
rất thích hợp cho các loại cây trồng bốn mùa xanh tốt. Còn vùng hữu ngạn là
vùng bán sơn địa, có những cánh đồng lớn, nhỏ khác nhau nhưng chủ yếu là
đồi, núi và đất rừng rộng lớn (7.400 ha). Đây được coi là kho “tiền rừng” của
Kim Bảng, bởi nơi đây thuộc vùng tài nguyên khoáng sản đa dạng, phong phú
với các dãy núi đá vôi có trữ lượng hàng tỷ mét khối. Trong các dãy núi này
có nhiều loại đá quý hiếm, đá trắng, đá đen, đá bích đào, đá vân vàng, đá màu
da báo; ngoài ra còn có các loại than bùn, đất sét trắng rất thuận lợi cho việc
khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, góp phần quan trọng để đẩy mạnh
phát triển kinh tế. Trên địa bàn huyện Kim Bảng hiện nay có nhiều nhà máy
xi măng như: Xi măng Nội thương (Bộ thương mại), xi măng X77 (Bộ quốc
phòng), xi măng Tân Phú Xuân, xi măng Bút Sơn và các nhà máy sản xuất
gạch, ngói, sản xuất đồ gốm… khai thác tài nguyên, khoáng sản với trữ lượng
lớn hàng năm nhưng nhìn chung vẫn chưa đủ khả năng để khai thác hết tiềm
năng vốn có.

- Về khí hậu: cũng như các huyện khác của đồng bằng sông Hồng, Kim
Bảng có khí hậu mang đặc điểm của khí hậu đồng bằng sông Hồng: nhiệt đới
gió mùa, có mùa đông lạnh hơn nhiều so với điều kiện trung bình vĩ tuyến.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23
0
C. Lượng mưa trung bình năm khoảng
1.800 mm đến 2.200 mm; thấp nhất là 1.300mm, cao nhất là 4.000mm.
- Điều kiện dân số: hiện nay, Kim Bảng có 2 thị trấn và 17 xã (trong đó
có 7 xã miền núi), huyện đóng tại thị trấn Quế. Dân số trên 135.000 người.
Mật độ dân số trung bình 696 người/km2, tỷ lệ phát triển dân số hàng năm
1,08%. Người trong độ tuổi lao động chủ yếu là trình độ phổ thông, lao động
chân tay, truyền nghề bằng kinh nghiệm trong từng gia đình, từng làng xóm,
từ đời này qua đời khác
1
.
Với vị trí địa lý, tự nhiên và nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào như
vậy, Kim Bảng rất có lợi thế để phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
và có điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-
hiện đại hoá.
2.1. 2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
Về kinh tế: Kim Bảng vốn là huyện một huyện bán sơn địa với địa hình
kiến tạo không bằng phẳng, độ cao chênh nhau ngay giữa chính từng cánh
đồng tạo thành nhiều khu ngập nước (vùng trũng - được gọi là vùng đồng
chiêm trũng). Trước đây, do công tác thủy lợi còn nhiều yếu kém nên mỗi
mùa mưa lớn, lũ sông Hồng rót vào sông Đáy, cộng với lũ rừng ngang đổ ra
làm đồng điền ngập lụt, khiến cho đồng ruộng ở nơi đây nằm sâu trong đất
bùn, dẫn đến những vùng đất này bị úng triền miên, màu đất thường đen hoặc
nâu nhạt, độ phì nhiêu kém, độ PH cao Chính vì vậy, vùng đất này được
mệnh danh là "sống ngâm da, chết ngâm xương".
Trong khi đó, từ thời xa xưa trở lại đây nguồn sống chính của người

dân Kim Bảng lại chủ yếu là từ nông nghiệp, mặc dù có kết hợp đáng kể nghề
1 BCH Đảng bộ huyện Kim Bảng 2008 “Lịch sử Đảng bộ huyện Kim Bảng 1930 - 2005” (Trang 10).
thủ công và buôn bán nhỏ trong vùng nhưng cũng chẳng thấm vào đâu nên việc
phát triển kinh tế của huyện gặp không ít những khó khăn.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước và sự cố gắng, nỗ lực của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương, kinh tế của huyện phát triển với tốc độ nhanh và bền vững: Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 11,8%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, du lịch giảm dần tỷ trọng
sản xuất nông nghiệp trong tổng giá tri sản xuất của huyện; sản xuất công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đang có bước phát triển khá với giá trị sản xuát
tăng bình quân hàng năm 29,6%; hoạt động dịch vụ, thương mai với sự tham
gia của nhiều thành phàn kinh tế đảm bảo cung cấp hàng hoá phục vụ nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt của nhân; các loại hình dịch vụ trên các lĩnh vực du lịch,
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, bưu chíng
viễn thông đều phát triển mạnh; sản xuất nông nghiệp thuỷ sản đã từng bước
phát triển theo hướng đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu mùa vụ và
sản xuất hàng hoá với mức tăng trưởng bình quân đạt 4,1%/năm
Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được đầu tư phát triển: Hệ thống giao
thông được đầu tư nâng cấp; kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và phúc lợi dân
sinh theo hướng công nghiêp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn với
việc đầu tư hàng vạn ngày công, hàng chục tỷ đồng. Các tuyến đê sông đáy
sông con thường xuyên được tu bổ; xây dựng trạm bơm Quế Lâm và một số
trạm bơm ở mọt số xã có sức tưới tiêu lớn; hệ thống kênh mương được kiên
cố hoá; nâng cấp hệ thống các trạm biến thế điện, lưới điện, hệ thống bưu
chính viễn thông; hệ thống đường giao thông nông thôn được bê tông hoá, rải
nhựa hoặc đá cấp phối với chiều dài 852,44km, kinh phí đầu tư hàng vài chục
tỷ đồng. 100% các xã có trường học cao tầng; 100% các xã có trụ sở mới; xây
dựng hạ tầng kỹ thuật các cụm công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp; trùng tu tôn
tạo di tích lịch sử chùa bà Đanh, Ngũ Động Thi Sơn,chuẩn bị điều kiện xây

dựng chùa Tam Chúc (Ba Sao) - chùa quý nhất Đông Nam Á, tạo thành quần
thể du lịch tâm linh tam giác (Chùa Bái Đính - chùa Ba Sao - Chùa Hương).
Các ngành nghề truyền thống về sản xuất tiểu thủ công nghiệp như:
Mây giang đan xuất khẩu, thêu ren, gốm son, bê tông thương phẩm đã được
khôi phục và phát triển.
Về an sinh xã hội: được quan tâm đầu tư đúng mức, từng bước phù
hợp với phát triển kinh tế. Huyện thường xuyên quan tâm và giải quyết việc
làm, xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân; mạng lưới
y tế từ huyện đến cơ sở tiếp tục được đầu tư nâng cấp, đội ngũ y bác sỹ được
chuẩn hoá đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân; giáo dục - đào tạo
phát triển cả về loại hình và qui mô, chất lượng giáo dục năm sau cao hơn
năm trước; việc ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất được thường xuyên
tổ chức thực hiện và đạt được nhiều kết quả tốt.
2.1.3. Về tình hình an ninh – quốc phòng: Tình hình an ninh chính
trị, an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo luôn ổn định và được cấp uỷ từ huyện
đến cơ sở thường xuyên quan tâm. Cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang
huyện Kim Bảng vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, nhiều cơ quan ban ngành của huyện được tặng huân chương cao quý của
Đảng và Nhà nước. Huyện nhiều năm liên tục là đơn vị xuất sắc dẫn đầu
phong trào thi đua của khối huyện, thành phố trong tỉnh.
Tất cả những điều kiện nêu trên đã và đang có tác động mạnh mẽ đến
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Kim Bảng theo hướng CNH -
HĐH giai đoạn 2010-2015
2.2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Kim
Bảng trong thời gian qua.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần X, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XVII, XVIII; Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XXIII, XXIV; Đảng bộ, quân và dân huyện Kim Bảng
đã phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, chung sức đồng lòng

khai thác tiềm năng thế mạnh của huyện, vượt lên mọi khó khăn tập trung
lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện từng bước
tạo ra những chuyển biến tiên bộ trong đời sống kinh tế xã hội của huyện. Đặc
biệt tronh lĩnh vực kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông
thôn.
2.2.1 Thực trạng cơ cấu kinh tế
Thực hiện nghị quyết Đai hội Đảng bộ huyện Kim Bảng lần thứ XXIII
với mục tiêu chung đến 2010 là “Tập trung khai thác mọi nguồn lực để
chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển ngành nghề, dịch
vụ ở nông thôn”. Trong 5 năm qua, Đảng bộ và nhân huyện Kim Bảng đã nỗ
lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu
rất quan trọng:
Kết quả chung:
Kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
đúng hướng. Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN), nông nghiệp,
dịch vụ đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra.
Biểu: Cơ cấu kinh tế của huyện năm (2008 - 2010)
Cơ cấu % Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Công nghiệp, xây dựng % 16,4 20 42
Nông - lâm - Thuỷ sản % 70,1 62,7 29
Dịch vụ % 13,5 17,3 29
Nguồn: Phòng thống kê huyện Kim Bảng
- Cơ cấu kinh tế năm 2008:
+ Công nghiệp, xây dựng: 16,4 % (mục tiêu 20,7%)
+ Nông - lâm - thuỷ sản: 70,1 % (mục tiêu 60,4%).
+ Dịch vụ: 13,5 % (mục tiêu 18,9%).
- Cơ cấu kinh tế năm 2009:
+ Công nghiệp, xây dựng: 20 % (mục tiêu 30%)
+ Nông - lâm - thuỷ sản: 62,7 % (mục tiêu 50,4%).
+ Dịch vụ: 17,3 % (mục tiêu 19,6%).

- Cơ cấu kinh tế năm 2010:
+ Công nghiệp, xây dựng: 42 % (mục tiêu 40,4%)
+ Nông - lâm - thuỷ sản: 29 % (mục tiêu 29,4%).
+ Dịch vụ: 29 % (mục tiêu 30,2%).
Qua bảng biểu diễn cơ cấu kinh tế của huyện năm (2008 - 2010), tỷ trọng
các ngành nông, lâm, Thuỷ sản có xu hướng giảm, công nghiệp, dịch vụ có xu
hướng tăng, song tốc độ vẫn còn chậm, cơ cấu kinh tế còn nặng về nông nghiệp
được khái quát qua năm 2010.
Năm 2010, huyện Kim Bảng đã đạt được kết quả như sau:
+ Nông, lâm, thủy sản tăng bình quân 4,1%/ năm (mục tiêu 4% trở lên).
+ CN - TTCN tăng bình quân 26,9%/ năm, (mục tiêu 24% trở lên).
+ Dịch vụ tăng bình quân 13%/ năm (mục tiêu tăng 8% trở lên).
- Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bình quân đạt 74 tỷ đồng/năm,
tăng 196% (mục tiêu 25 tỷ đồng).
- Thu ngân sách vượt kế hoạch bình quân 24,4%/ năm (mục tiêu 5%).
+ Đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao. Thu nhập bình quân đầu
người đến năm 2010 vượt mục tiêu Đại hội.
+ Phần kinh tế huyện: 10,7 triệu đồng, vượt 50,7% (mục tiêu 7,1 triệu
đồng).
+ Tính cả địa bàn: 17,2 triệu đồng, vượt 31,3% (mục tiêu 13,1 triệu
đồng).
- Lương thực bình quân đầu người hàng năm 543 kg (mục tiêu 450 kg).
- Tập trung phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết các vấn đề xã hội.
+ Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2010 giảm còn dưới 6% (mục tiêu dưới
10%).
+ Giải quyết việc làm cho 11.910 lao động (mục tiêu 10.000 lao động).
+ Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên đến năm 2010 đạt 0,93%, đạt mục tiêu
Đại hội (mục tiêu dưới 1%).
+ Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 18,5%, vượt mục
tiêu Đại hội (mục tiêu 19,5%).

+ Tỷ lệ dân cư sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 90%, đạt chỉ tiêu
Nghị quyết giữa nhiệm kỳ (Nghị quyết 90%).
+ Tỷ lệ rác thải được thu gom đạt 86,8%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết
giữa nhiệm kỳ (Nghị quyết trên 82%)
1.2. Kết quả cụ thể:
+ Về phát triển nông – lâm nghiệp, thuỷ sản
Sản xuất nông, lâm, thủy sản phát triển khá toàn diện, đảm bảo an ninh
lương thực, chuyển dịch mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao chất
lượng nông sản. Cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2010: chăn nuôi, thủy
sản 43,3% (mục tiêu 38,2%), trồng trọt 52,1% (mục tiêu 57,8%), dịch vụ 4,6%
(mục tiêu 4%). Tích cực ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, năm 2010:
tỷ lệ lúa lai đạt 40% DT, lúa chất lượng đạt 26% DT. Năng suất lúa bình quân
đạt 117,8 tạ/ha/năm, vượt mục tiêu Đại hội (mục tiêu 109 tạ/ha/năm). Mô hình
cánh đồng cho giá trị thu 50 triệu đồng/ha/năm (nay là 80 triệu đồng) được mở
rộng diện tích từ 1.060 ha năm 2005 lên 2500 ha năm 2010, nâng giá trị sản xuất
trên 1 ha canh tác đạt lên 73 triệu, vượt mục tiêu Đại hội (mục tiêu 42 triệu
đồng). Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2010 là 71.650 tấn, vượt mục tiêu
Đại hội (mục tiêu 65.240 đến 66.200 tấn). Duy trì diện tích trồng cây vụ đông từ
2800 - 3000 ha (mục tiêu 2.800 ha); chuyển dịch đất cốt cao, đất mạ mùa sang
trồng cây màu, cây hàng hóa, cây xuất khẩu đạt hiệu quả cao. Trồng 170,64 ha
rừng, đạt 94,8%KH.
Tập trung phát triển chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm, năm 2010: Đàn
lợn 74.600 con, vượt 16,4%; đàn trâu bò 7.840 con, vượt 14,6%; đàn gia
cầm 710.000 con, vượt 9,2%. Hoàn thành quy hoạch điểm chăn nuôi tập
trung; xây dựng 02 khu chăn nuôi tập trung ở Nhật Tân, Đồng Hóa. Chủ
động phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, không có dịch bệnh
lây lan.
Làm tốt công tác phòng chống lụt, bão và 04 tại chỗ. Hệ thống đê, kè,
thủy lợi nội đồng được tu bổ, đầu tư nâng cấp kịp thời phục vụ sản xuất.
Thành lập hợp tác xã ít xã viên ở Khả Phong. Chất lượng hoạt động HTX dịch

vụ nông nghiệp được nâng lên, đảm nhiệm từ 6 - 8 khâu dịch vụ, tạo điều kiện
thúc đẩy sản xuất phát triển. Triển khai xây dựng thí điểm mô hình xây dựng
nông thôn mới tại xã Thi Sơn và thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn
mới ở các xã, thị trấn.
Chỉ đạo quản lý, sử dụng có hiệu quả đất đai, tài nguyên khoáng sản;
cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt 98,17%KH
1
.
+ Về công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN)
Sản xuất CN – TTCN đạt tốc độ tăng trưởng cao ở cả 04 khu vực. Các
cụm CN – TTCN đã cơ bản hoàn chỉnh hạ tầng cơ sở để thu hút đầu tư. Các
làng nghề, làng có nghề từng bước ổn định sản xuất và nâng cao chất lượng
sản phẩm. Tiềm năng khai thác, chế biến đá, sản xuất vật liệu xây dựng được
phát huy, năm 2010 giá trị sản xuất vật liệu xây dựng và giá trị sản xuất tại
các cụm CN - TTCN chiếm 82,77% trong tổng giá trị sản xuất CN –TTCN;
ngành nghề TTCN nông thôn được phát triển. Bình quân 05 năm giá trị sản
xuất CN – TTCN (không tính công nghiệp TW) tăng 26,9% (vượt 2,69% so
chỉ tiêu Đại hội), đến hết năm 2010 đạt 766,820 tỷ đồng, tăng 11,66% so với
mục tiêu Đại hội.
Thu hút thêm 33 nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại 4 cụm CN –
TTCN, nhiều doanh nghiệp đầu tư lớn, giá trị sản xuất cao như: Công ty Fecon,
công ty May Hoà Bình, Tổ chức mở 188 lớp học nghề cho trên 6.000 lượt lao
động. Tổng số lao động sản xuất CN - TTCN toàn huyện đến năm 2010 đạt
30.000 người, trong đó: lao động chuyên 13.200 người góp phần chuyển dịch
cơ cấu lao động sang sản xuất phi nông nghiệp (năm 2010 đạt 49,7%). Chỉ đạo
xây dựng quỹ khuyến công các cấp góp phần đạt nhanh các tiêu chí làng nghề,
1 Nguồn: Huyện uỷ Kim Bảng 2010 “Báo cáo của BCH Đảng bộ huyện khoá 23 trình Đại hội huyện lần thứ 24
” Trang 2
làng có nghề, được tỉnh công nhận 03 làng nghề (Quyết Thành, Nhật Tân, Lạc
Nhuế), 31 làng có nghề và đang đề nghị duyệt làng nghề Phương Thượng; công

tác xây dựng làng nghề, làng có nghề vượt kế hoạch trước 01 năm
2
.
Bảng thống kê tổng số doanh nghiệp đầu tư vào các cụm CN -
TTCN
Tên cụm Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2020
Tổng
Biên hoà 2 1 2 1 1 7
Kim Bình 3 0 1 2 1 1 8
Thi Sơn 4 0 4 2 2 1 13
Nhật Tân 11 0 6 2 3 1 23
Tổng 20 1 13 7 6 4 51
Nguồn: Phòng Công thương huyện Kim Bảng
+ Xây dựng hạ tầng cơ sở
Khai thác tốt các nguồn vốn để triển khai các dự án trọng điểm: giao
thông, thủy lợi; kiên cố hóa trường lớp; trụ sở làm việc của UBND; nhà văn hóa
các xã, các trạm cấp nước sinh hoạt tập trung, xây dựng nhà văn hóa thôn, xóm;
cải tạo, nâng cấp hệ thống cống, rãnh thoát nước thải gắn với xây dựng mô hình
nông thôn mới.

Hệ thống giao thông được đầu tư, nâng cấp và đưa vào sử dụng hiệu
quả: đường tỉnh 7,7km (ĐT 498B, ĐT 9031); đường huyện 17,4km (Nguyễn
Uý –Kim Bình, Đại Cương – Nhật Tân); đường liên xã 4,2km (Tân Sơn – Lê
Hồ) và đường giao thông nông thôn 65,97km (chưa kể đầu tư của Trung
ương, của tỉnh cho các đường quốc lộ, tỉnh lộ. Cải tạo, nâng cấp xong sân vận
động, bến xe khách, xây dựng trụ sở làm việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
2 Nguồn:
Huyện uỷ Kim Bảng 2010 “Báo cáo của BCH Đảng bộ huyện khoá 23 trình Đại hội huyện lần thứ 24 ” Trang 3
thể, phòng Tài chính – Kế hoạch, hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư Tam
Chúc, Các công trình phục vụ sự nghiệp văn hoá – xã hội được quan tâm
đầu tư: xây dựng mới 6 trạm y tế; cải tạo, nâng cấp Bệnh viện đa khoa huyện;
kiên cố hóa 406 phòng học, 9 nghĩa trang liệt sỹ, 05 nhà văn hoá xã, 99 nhà
văn hóa thôn, xóm, Từng bước bàn giao lưới điện nông thôn cho ngành điện
quản lý.
Thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, đã giao 618,27ha đất thực
hiện các dự án. Hoàn thành quy hoạch thị trấn Tượng Lĩnh, Nhật Tân; quy
hoạch phát triển thị trấn, thị tứ; các điểm xây dựng nông thôn mới; chỉnh
trang 81 điểm khu dân cư, 30 điểm khu dân cư mới với tổng diện tích 158,94
ha
3
.
+ Phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch, tài chính, ngân hàng
Hệ thống thương mại, dịch vụ phát triển phù hợp với quy hoạch thị
trấn, thị tứ, các điểm xây dựng nông thôn mới. Cải tạo, nâng cấp 15 chợ hiện
có, xây dựng mới 02 chợ (Tân Sơn và Hoàng Tây); các chợ còn lại cơ bản
được chỉnh trang; xây dựng 17 cửa hàng kinh doanh xăng dầu. Quản lý thị
trường được chú trọng. Du lịch sinh thái, du lịch tâm linh bước đầu được
hình thành như khu du lịch Tam Chúc, Ngũ động sơn, Chùa Bà Đanh. Giá trị
sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm là 13%, đến năm 2010 tổng
mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ đạt 836 tỷ đồng, giá trị hàng xuất

khẩu đạt 30 tỷ đồng.
Thu ngân sách bình quân tăng 21,6%/năm so kế hoạch tỉnh giao. Thực
hiện tốt quản lý thu, chi ngân sách; phân cấp ngân sách, phân cấp nguồn thu;
điều chỉnh các hợp đồng bất hợp pháp, bất hợp lý ở các xã, thị trấn để tăng
3
Huyện uỷ Kim Bảng 2010 “Báo cáo của BCH Đảng bộ huyện khoá 23 trình Đại hội huyện lần thứ 24 ” Trang 4
thu; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đáp ứng nhu cầu về chi thường
xuyên, đột xuất và phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Hoạt động tín dụng, ngân hàng đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và
đời sống nhân dân; dư nợ tăng bình quân trên 20%. Hoạt động bưu chính
viễn thông ngày càng phát triển, số máy điện thoại đạt 67 máy/100dân, đáp
ứng nhu cầu thông tin liên lạc.
+ Phát triển lĩnh vực Văn hoá; Giáo dục-Đào tạo; Khoa học – Công
nghệ và Môi trường.
- Về văn hoá, thông tin, thể thao
Công tác tuyên truyền được đổi mới nội dung và hình thức thông tin tuyên
truyền, hướng vào các ngày lễ, ngày kỷ niệm, gương điển hình tiên tiến, phục
vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Phong trào xây dựng làng, cơ quan, gia
đình văn hóa được chú trọng về chất lượng, đã có 27 làng, xóm văn hóa được
công nhận (hiện có 149 làng, xóm văn hoá được công nhận). Đầu tư xây dựng
05 nhà văn hóa xã; 93,2% số thôn xóm có nhà văn hoá, vượt 6,2% mục tiêu ĐH.
Thành lập và duy trì hoạt động 192 câu lạc bộ hát dân ca; các câu lạc bộ thơ, các
lễ hội truyền thống, các trò chơi dân gian được duy trì và phát triển.
Thu hút 24,1% dân số, 20,5% gia đình thường xuyên luyện tập thể
thao. Có 176/199 thôn, xóm đã có sân để hoạt động thể dục, thể thao.
- Về giáo dục- đào tạo.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các ngành học, bậc học; cơ
sở vật chất trường học được quan tâm đầu tư. Thực hiện tốt các cuộc vận
động trong ngành giáo dục; tỷ lệ lên lớp, tốt nghiệp, thi học sinh giỏi vượt
mục tiêu Đại hội đề ra. Năm học 2009-2010: tỷ lệ trẻ huy động đến lớp mẫu

giáo đạt 98,8%, đến nhà trẻ đạt 43,3%, học sinh lớp 5 được công nhận hoàn
thành chương trình tiểu học 100%, học sinh lớp 9 được công nhận tốt nghiệp
THCS đạt 98,26%, học sinh tốt nghiệp THPT đạt 78,3%. Có 937 phòng học,
trong đó 90,3% được kiên cố hóa. Năm 2010 có 39/64 trường đạt chuẩn
Quốc gia, chiếm 60,9% (Mầm non 9/20; Tiểu học: 24/25 trường; THCS:
6/19 trường). Tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn: Mầm non (26%), Tiểu học
(79,8%), THCS (19%) [7, tr. 4-5]. Tiếp tục củng cố các loại hình giáo dục
mầm non, duy trì và giữ vững số trường lớp các ngành học, bậc học, cấp
học. Giáo dục mầm non thực hiện tốt huy động tối đa số trẻ trong độ tuổi đi
học đến trường. Số học sinh tiểu học, THCS được duy trì. Giữ vững, nâng
cao chất lượng các tiêu chuẩn PCGD. Toàn huyện có 19/19 xã, thị trấn đạt
tiêu chuẩn PCGD.
Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao qua việc thực hiện
chương trình giáo dục mầm non mới; chương trình giáo dục phổ thông tiếp
tục đánh giá sâu và điều chỉnh ở một số môn học; thực hiện tích hợp một số
nội dung trong giảng dạy; hướng dẫn dạy học dựa trên chuẩn kiến thức, kỹ
năng; chú trọng phụ đạo cho học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh khá giỏi.
Chất lượng giáo dục ngày càng ổn định và nâng cao. Việc ứng dụng công
nghệ thông tin tiếp tục có những chuyển biến tốt.
- Khoa học – Công nghệ và Môi trường: Tiếp nhận chuyển giao các
tiến bộ khoa học kỹ thuật cho 16.770 lượt người, đã áp dụng nhiều mô hình
mới (lúa chất lượng, cây xuất khẩu, máy gặt đập liên hoàn ).
Chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội gắn với làm tốt công tác bảo vệ môi
trường. Các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh, làng nghề, làng có nghề đã thực
hiện các biện pháp bảo vệ môi trường; phát động phong trào thu gom bao, bì
thuốc bảo vệ thực vật, rác thải. Quy hoạch 4,26 ha đất xây dựng điểm thu
gom rác thải; các đội vệ sinh chuyên ở 191/199 thôn, xóm đã duy trì nền
nếp. Cải tạo, xây dựng mới 28.000m rãnh thoát nước thải ở thôn, xóm.
+ Về sự nghiệp y tế - dân số, gia đình và trẻ em
Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, tập trung đầu tư cơ sở

vật chất, trang thiết bị y tế và nâng cao chất lượng đội ngũ y, bác sỹ; công tác
khám, chữa bệnh cho nhân dân được đảm bảo Hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh
được củng cố và phát triển; 19 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; bệnh viện
đa khoa huyện áp dụng nhiều kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị. Công tác
khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi được quan tâm. Tỷ lệ trẻ
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 18,5% (mục tiêu 19,5%). Tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên 0,93% (mục tiêu 1,0%). Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm còn 9,4%.
Giám sát chặt chẽ dịch bệnh, không có dịch bệnh bùng phát, lây lan.
+ Giải quyết việc làm, giảm nghèo và thực hiện chính sách xã hội
Mở 2187 lớp đào tạo ngắn hạn cho 10.447 lượt người, nâng tỷ lệ lao động
qua đào tạo lên 34%. Giải quyết việc làm mới cho 11.867 lao động, đạt
111,867% KH, trong đó xuất khẩu 2.085 lao động (đạt 119,14% KH); giải quyết
việc làm thêm cho 30.815 lao động (đạt 105,17% KH) nâng hệ số sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn lên 85%. Khai thác được 127 tỷ đồng cho 11.900 lượt
hộ nghèo vay để phát triển sản xuất. Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm, năm
2010 giảm còn dưới 6%, vượt mục tiêu Đại hội (mục tiêu dưới 10%).
Thực hiện tốt chính sách xã hội và chính sách người có công. Tổ chức
thăm tặng quà các đối tượng nhân các ngày lễ, tết với tổng 68923 xuất quà, trị
giá 3,773 tỷ đồng. Huy động mọi nguồn lực xóa 655 nhà không an toàn cho gia
đình chính sách và hộ nghèo. Chăm lo thường xuyên đối với người cao tuổi,
người tàn tật, trẻ em mồ côi, người bị nhiễm chất độc màu da cam, người có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
2.2.2. Thực trạng cơ cấu vùng (cụm), thành phần kinh tế.

×