Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm môn địa 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.25 KB, 14 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO DUY TIÊN
TRƯỜNG THCS CHUYÊN NGOẠI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VẼ BIỂU ĐỒ HÌNH TRÒN
CHO HỌC SINH LỚP 9
NĂM HỌC: 2015 -2016

Môn: Địa lí
Mã số: 11
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hòa
Chức vụ: Giáo viên tổ KHXH& NV

Có đính kèm
các sản
không thể
PHẦN
I: Líphẩm
DO CHỌN
ĐỀ hiện
TÀI trong bản in
 Mô hình  PHẦNI:
Đĩa CD (DVD)
 Phim
Lí DO CHỌN
ĐỀảnh
TÀI  Hiện vật khác
I. Lí do chọn đề tài
Môn địa lý 9 trong trường THCS rất bổ ích và lí thú. Nó giúp cho các em học
sinh có cái nhìn khái quát về dân cư, kinh tế xã hội nước ta. Sách giáo khoa địa lí 9
Chuyên


năm
( theo chương trình đổi mới)
được Ngoại,
thể hiệntháng
đồng3bộ
trên2016
cả kênh chữ và kênh hình.
Với cách biên soạn theo hướng “ mở”, SGK địa lí 9 hiện nay đã trình bày một số
kiến thức “ẩn” vào trong kênh hình theo câu hỏi. Giáo viên có thể tổ chức, hướng
1


dẫn HS tìm tòi, phân tích, tổng hợp và xử lí thông tin, khám phá các tri thức từ đó.
Vì vậy, kiến thức cơ bản không chỉ có ở phần kênh chữ mà còn nằm cả ở kênh
hình, ẩn chứa trong các loại lược đồ, bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh,....Như vậy, trong
quá trình học tập, học sinh vừa được tiếp nhận kiến thức, vừa rèn luyện được các kĩ
năng và nắm được phương pháp học tập. Hơn nữa, dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ
năng chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực hành động, vận dụng kiến
thức, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống.
Chương trình địa lí 9 gồm có 52 tiết học trong đó có 11 tiết thực hành (6 tiết vẽ
biểu đồ và khoảng 13 tiết bài tập về rèn luyện kĩ năng vẽ và nhận xét biểu đồ sau
các bài học của học sinh trong phần câu hỏi và bài tập). Điều đó chứng tỏ rằng,
môn Địa lí 9 hiện nay không chỉ chú trọng đến việc cung cấp lí thuyết mà còn giúp
các em học sinh rèn luyện kĩ năng địa lí cần thiết, đặc biệt kĩ năng vẽ biểu đồ. Với
nhiều loại biểu đồ khác nhau như biểu đồ hình tròn, biểu đồ hình cột, biểu đồ đồ
thị (đường biểu diễn),…đặc biệt là biểu đồ hình tròn (có nhiều bài thể hiện kiến
thức dưới dạng biểu đồ tròn và bài tập yêu cầu vẽ biểu đồ hình tròn). Thông qua
biểu đồ, các em đã thể hiện được mối tương quan về số lượng của các đại lượng,
các mối quan hệ giữa các đại lượng đã học. Hoặc từ biểu đồ đã vẽ, các em cũng có
thể phân tích, nhận xét, phát hiện tìm tòi thêm kiến thức mới trên cơ sở kiến thức

của bài học. Như vậy, biểu đồ hình tròn nói riêng và các loại biểu đồ nói chung đã
chiếm một vị trí quan trọng trong dạy học địa lí.
Vẽ biểu đồ, nhìn vào chúng ta tưởng chừng như rất đơn giản nhưng vẽ được
biểu đồ không chỉ đúng mà còn đẹp thì không phải dễ nhất là biểu đồ hình tròn.
Một số học sinh cho rằng, vẽ biểu đồ hình tròn là đơn giản nhất và các em đã thực
hiện được tương đối thành thạo các kĩ năng vẽ của loại biểu đồ này. Xong trên thực
tế, nhiều em học sinh lớp 9 kĩ năng vẽ biểu đồ hình tròn còn rất yếu hoặc kĩ năng
này còn chưa được các em coi trọng hoặc cũng có thể do các em chủ quan hoặc do
1 phần các em chưa cẩn thận trong việc trình bày. Chính vì vậy, là giáo viên địa lí
trực tiếp giảng dạy các em, tôi rất coi trọng việc rèn luyện kĩ năng vẽ biểu đồ hình
tròn nói riêng cho các em để giúp các em thực hiện kĩ năng này ngày càng tốt hơn.
Với những lí do trên, tôi đã mạnh dạn viết lại những điều tôi đã và đang thực
hiện với đề tài “ Rèn luyện kĩ năng vẽ biểu đồ hình tròn cho học sinh lớp 9”.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu kĩ năng vẽ biểu đồ hình tròn cho học sinh lớp 9 giúp cho giáo viên
và học sinh có những kinh nghiệm để đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả giảng dạy và học tập môn Địa lí, đồng thời củng cố nâng cao việc
rèn luyện kĩ năng vẽ biểu đồ hình tròn nói riêng và các loại biểu đồ nói chung.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài này cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
2


1. Nghiên cứu để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài, đó là cơ sở về về “ biểu đồ
hình tròn” và việc “ rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ hình tròn” cho học sinh.
2. Điều tra, tìm hiểu để nắm được thực trạng việc rèn luyện kỹ năng vẽ biểu
đồ hình tròn của học sinh lớp 9 trường THCS Chuyên Ngoại.
3. Đề xuất một số ý kiến về các biện pháp nhằm củng cố, nâng cao kỹ năng vẽ
biểu đồ hình tròn cho học sinh lớp 9 trường THCS Chuyên Ngoại.
IV. Các phương pháp nghiên cứu

Đối với đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp.
1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
2. Phương pháp quan sát: nhằm tìm hiểu việc rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ
hình tròn của học sinh trong giờ học.
3. Phương pháp điều tra: nhằm đánh giá thực trạng có bao nhiêu học sinh còn
yếu - kém khi thực hành kỹ năng vẽ biểu đồ hình tròn.
4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Thông qua kết quả các bài
kiểm tra có thể đánh giá chất lượng và hiệu quả các bài tập về kỹ năng vẽ biểu đồ
hình tròn của học sinh.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Để giảng dạy địa lý theo phương pháp dạy học tích cực thì việc rèn luyện kỹ
năng biểu đồ cho học sinh là một việc rất quan trọng, đặc biệt là vẽ biểu đồ hình
tròn đối với học sinh lớp 9 vì biểu đồ có chứa dựng nhiều nội dung kiến thức mà
kênh chữ không biểu hiện hết. Rèn luyện kỹ năng biểu đồ địa lý cho học sinh lớp
chín giúp các em hiểu và nắm bắt kiến thức một cách có hiệu quả hơn, chủ động
hơn, nhớ kiến thức lâu hơn. Bên cạnh đó, còn rèn cho học sinh khả năng tư duy
logic, kỹ năng so sánh các đối tượng địa lý và rèn cho học sinh tính tỉ mỉ, cẩn thận,
chính xác trong việc học địa lý từ đó giúp các em yêu thích bộ môn hơn, say mê
nghiên cứu khoa học địa lý.

3


Việc rèn luyện kỹ năng biểu đồ địa lý cho học sinh lớp 9 còn có khả năng
bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng, bồi dưỡng năng lực tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh giúp cho bộ môn địa lý bớt khô cứng, đồng thời
giúp người thầy có điều kiện để phối hợp nhiều phương pháp dạy học và các hình
thức dạy học đa dạng, hiệu quả hơn, nâng cao khả năng tư duy và khả năng độc lập
sáng tạo của học sinh. Dựa vào biểu đồ người thầy có thể nêu ra những vấn đề cho

học sinh suy nghĩ, nhận thức, phát triển tư duy địa lý và khai thác những nét đặc
trưng quan trọng của địa lý.
II. Cơ sở thực tiễn :
1.Những thuận lợi khi rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ hình tròn cho học
sinh.
Đa số học các tiết học thực hành về vẽ biểu đồ, học sinh đều có hứng thú
tham gia học tập tốt. Bởi những giờ học này không nặng về kiến thức lý thuyết, mà
chủ yếu rèn luyện cho học sinh kỹ năng thực hành. Ngay cả những bài tập về vẽ
biểu đồ cho về nhà các em cũng rất hứng thú. Với biểu đồ hình tròn, các em đều
thích vẽ vì cho rằng nó đơn giản hơn các loại biểu đồ khác.
Thông qua các bài tập về vẽ biểu đồ hình tròn học sinh cũng có cơ hội để thể
hiện khả năng của mình, các em không chỉ biết ghi nhớ, củng cố kiến thức lý
thuyết đã học mà còn biết mô hình hóa các kiến thức đó thông qua các bài tập biểu
đồ.
Bản thân tôi khi dạy về vẽ biểu đồ hình tròn cho học sinh cũng cảm thấy nhẹ
nhàng hơn. Bởi không nặng nề về nội dung kiến thức lý thuyết mà chủ yếu đi sâu
về các bước tiến hành, dẫn dắt học sinh các thao tác để các em hoàn thành được bài
tập của mình.
Thông qua việc vẽ biểu đồ hình tròn, tôi có cơ hội để đánh giá về việc rèn
luyện kỹ năng địa lí của học sinh, phát hiện ra những học sinh có kỹ năng thực
hiện tốt hoặc thực hiện còn yếu để kịp thời có biện pháp điều chỉnh khắc phục
4


nhằm nâng cao việc rèn luyện kĩ năng vẽ các loại biểu đồ cho học sinh đồng thời
nâng cao được chất lượng dạy và học bộ môn này.
2.Những khó khăn khi rèn luyện kỹ năng vẽ biểu đồ hình tròn cho học sinh.
Qua điều tra khảo sát ở các lớp của trường, hầu hết các em đều cho rằng vẽ
biểu đồ hình tròn là dễ nhất. Nhưng trong thực tế khi thực hiện thì không phải như
vậy.

Nhiều em chưa có ý thức chuẩn bị tốt các đồ dùng học tập cho bài thực hành
như thước kẻ, bút chì, compa, hộp màu… còn coi nhẹ yêu cầu của bài thực hành
nên cũng ảnh hưởng nhiều tới các bài tập về vẽ biểu đồ như: hình vẽ chưa đẹp, vẽ
chưa chuẩn xác.
Nhiều em chưa xác định được yêu cầu của bài. Nếu bài cho số liệu thô mà yêu
cầu vẽ biểu đồ hình tròn thì việc xử lí số liệu là gặp khó khăn.
Có nhiều em ý thức chưa tốt đối với bài làm của mình, rất cẩu thả trong việc
vẽ và chú giải.
Khi giáo viên hướng dẫn các bước tiến hành, một số học sinh vẫn chưa chịu
để ý, quan tâm dẫn đến các em còn lúng túng khi tiến hành các thao tác: ví dụ cách
xử lý số liệu hoặc cách chọn tỷ lệ, vẽ không đúng theo chiều kim đồng hồ mà lấy tỉ
lệ tự do.
Thời gian thực hành còn ít nên giáo viên bị hạn chế rất nhiều về thời gian để
sửa chữa, uốn nắn cho các em nhất là học sinh yếu.
Bên cạnh các bài tập thực hành vẽ biểu đồ hình tròn trên lớp còn có nhiều
các bài tập thực hành vẽ biểu đồ hình tròn ở nhà. Nếu không có biện pháp kiểm
tra, đánh giá kịp thời thì nhiều em sẽ coi nhẹ việc thực hiện các bài tập này, hoặc
có những lỗi sai sót mắc phải mà giáo viên không kịp thời phát hiện ra để giúp các
em sửa chữa.
5


Chính vì những lý do trên tôi chọn đề tài: "Rèn kĩ năng vẽ biểu đồ hình tròn
cho học sinh lớp 9" mong được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp.
III. Một số giải pháp rèn kĩ năng vẽ biểu đồ hình tròn
1. Tìm hiểu về “Biểu đồ”
Biểu đồ là một hình vẽ cho phép mô tả một cách dễ dàng động thái phát triển
của một hiện tượng (như quá trình phát triển kinh tế qua các năm, dân số qua các
năm), mối tương quan về độ lớn giữa các đại lượng (như so sánh sản lượng lương
thực giữa các vừng…) hoặc cơ cấu thành phần của một tổng thể (ví dụ như cơ cấu

của nền kinh tế).
Theo “ Sổ tay thuận ngữ Địa lí” của Nguyễn Dược – Trung Hải – NXB Giáo
dục thì biểu đồ là hình thức trực quan hoá các số liệu thống kê trong các mối quan
hệ giữa số lượng , thời gian và không gian bằng cấu trúc đồ hoạ. Ví dụ: biểu đồ cơ
cấu ngành công nghiệp, biểu đồ phát triển dân số thế giới, biểu đồ mật độ dân số,
biểu đồ phân bố dân cư…
Các loại biểu đồ rất phong phú, đa dạng: hình tròn, hình cột, hình vuông,
đường biểu diễn, biểu đồ kết hợp cột và đường,… Mỗi loại biểu đồ lại có thể được
dùng để biểu hiện nhiều chủ đề khác nhau. Vì vậy, khi vẽ biểu đồ, việc đầu tiên là
phải đọc kỹ đề bài để tìm hiểu chủ đề định thể hiện trên biểu đồ (thể hiện động thái
phát triển, so sánh tương quan độ lớn hay thể hiện cơ cấu), sau đó căn cứ vào chủ
đề đã được xác định để lựa chọn loại biểu đồ thích hợp nhất.
2. Khi rèn luyện kỹ năng về biểu đồ hình tròn cần nắm được:
Biểu đồ hình tròn thường được dùng để thể hiện cơ cấu thành phần của một
tổng thể.
Khi vẽ biểu đồ hình tròn cần chú ý những điểm sau đây:
+ Nếu đề bài cho số liệu thô (số liệu tuyệt đối) thì việc đầu tiên phải xử lý
sang số liệu tinh ( số liệu tương đối - tỉ lệ %). Khi đó cần phải chú ý vẽ hình tròn
(hoặc vuông) có độ lớn khác nhau theo tổng thể của số liệu tuyệt đối. Tính tỉ lệ
6


đường tròn (R – r). Nhưng đối với học sinh THCS thì tỉ lệ đường tròn chỉ yêu cầu
ở mức độ tương đối. Vì vậy, chỉ cần đường tròn sau to hơn đường tròn trước một
chút (nếu số liệu cho là tăng), đường tròn sau nhỏ hơn một chút (nếu số liệu cho là
giảm).
+ Nếu bài cho số liệu tương đối thì không cần phải xử lí số liệu mà tiến hành
các bước vẽ luôn
+ Để chia các đại lượng chính xác theo tỉ lệ cần lấy tỉ lệ x 3,60 để tính góc ở
tâm.

+ Khi vẽ đường tròn, vẽ 1 bán kính trùng với phương kim đồng hồ chỉ 12 giờ
và vẽ theo chiểu kim đồng hồ.

+ Cần lựa chọn các ký hiệu thích hợp để thể hiện các thành phần trên biểu đồ.
Sau khi vẽ xong phải có chú giải, giải thích các ký hiệu sử dụng trên biểu đồ.
+ Tên biểu đồ.
Với những kĩ năng cần phải nắm được khi vẽ biểu đồ hình tròn ở trên, tôi
nhận thấy để vẽ loại biểu đồ này cũng không đơn giản. Nếu đề bài cho số liệu
tương đối thì học sinh có thể dễ nhận biết và tiến hành vẽ luôn được. Nhưng nếu đề
bài cho số liệu tuyệt đối (thô) thì không phải học sinh nào cũng nhận ra là vẽ biểu
đồ hình tròn và cần phải xử lí số liệu trước khi vẽ.
3. Các bước cần tiến hành khi vẽ biểu đồ hình tròn:

7


Trước khi làm một bài tập thực hành về vẽ biểu đồ hình tròn, giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh tiến hành các thao tác, các bước, các công việc cụ thể để
hoàn thành yêu cầu của bài thực hành.
Thông thường gồm 4 bước sau:
- Bước 1: Nêu mục đích, yêu cầu của bài tập.
VD: Vẽ biểu đồ cơ cấu kinh tế nước ta.
- Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành các thao tác, các bước, các công
việc cụ thể thùy thuộc vào nội dung bài tập.
VD: Phải xử lý số liệu thích hợp trước khi vẽ biểu đồ, các bước cần thiết khi
vẽ biểu đồ cụ thể.
- Bước 3: Học sinh thực hiện các công việc theo sự hướng dẫn của giáo viên.
- Bước 4: Tổng kết, đánh giá.
4 . Lưu ý một số lỗi học ssinh thường mắc khi vẽ biểu đồ.
+ Chia tỷ lệ chưa chính xác ( ví dụ với số liệu 23,2% mà học sinh chia tới 1/4

hình tròn là chưa hợp lí).
+ Học sinh kí hiệu không rõ ràng, hoặc nhầm lẫn các kí hiệu này với kí hiệu
khác cho nên yêu cầu đưa ra khi vẽ biểu đồ là học sinh phải lập luôn bảng chú giải
ngay bên cạnh hoặc phía dưới biểu đồ đã vẽ.
+ Một số học sinh thường quên ghi đơn vị, hoặc ghi tên biểu đồ không đầy đủ
( ví dụ như cơ cấu diện tích gieo trồng các nhóm cây) lỗi này cũng làm mất đi một
phần điểm của học sinh.
+ Khi vẽ biểu đồ phải xử lí số liệu ra %, 1 số em phần tổng thể vẫn để số liệu
nguyên, không ghi tên bảng số liệu. Có em còn ghi cả % vào tất cả các số liệu khi
đã đổi ra %. Ví dụ:
Năm
Các nhóm cây
Tổng số

1990

2002

9040,0

12831,4

Cây lương thực

71,6%

64,8%

8



Cây công nghiệp

13,3%

18,2%

Cây thực phẩm, cây ăn quả, cây khác
15,1%
17,0%
Như vậy, phần trình bày của các em vẫn chưa đạt yêu cầu và các em vẫn chưa
hiểu được bản chất của vấn đề.
+ Các em còn nhầm lẫn cho rằng vẽ biểu đồ cơ cấu có 2 hình tròn là 2 biểu đồ
cho nên chú giải cho 2 biểu đồ và tên 2 biểu đồ. Biểu đồ có 2 hình tròn, các em
không trình bày song song mà vẽ hình trên, hình dưới cũng làm mất đi mĩ quan của
biểu đồ.
+ Có một số bài tập sau yêu cầu học sinh sau khi vẽ biểu đồ phải rút ra nhận
xét sự thay đổi của các đại lượng hoặc sự vật, hiện tượng địa lí đã vẽ, song một số
em vẫn chưa coi trọng, hoặc chỉ nhận xét sơ sài thì cũng sẽ mất điểm hoặc không
được điểm tối đa vì thế bước nhận xét sau khi vẽ biểu đồ cũng rất quan trọng, giáo
viên bộ môn cũng cần quan tâm, hướng dẫn cho học sinh thấy được vai trò quan
trọng của các công việc này.
- Nếu người giáo viên bộ môn nào thực hiện được tốt các công việc dẫn dắt,
chỉ đạo các bước tiến hành cho học sinh và học sinh thực hiện tốt thì bài thực hành
rèn kỹ năng vẽ biểu đồ hình tròn sẽ đạt kết quả cao. Qua việc nắm được 1 số lỗi
của các em khi vẽ biểu đồ hình tròn, tôi nhận thấy cần phải rút kinh nghiệm cho
bản thân cũng như cho các em. Nên theo tôi cần phải thực hiện 1 số biện pháp
sau:.
5. Các biện pháp chủ yếu để giải quyết vấn đề
- Cho học sinh nắm chắc phần kiến thức lí thuyết về biểu đồ hình tròn.

- Khi có bài tập yêu cầu vẽ biểu đồ, giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài, bảng
số liệu để xác định biểu đồ thích hợp cần thể hiện.
- Khi hướng dẫn học sinh vẽ biểu đồ hình tròn, muốn cho các em vẽ được đẹp
và chính xác thì việc đầu tiên là giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị đầy đủ
các đồ dùng cần thiết cho tiết học: máy tính cá nhân, thước kẻ, compa... để giúp
học sinh chủ động trong khi vẽ biểu đồ hình tròn.
9


- Hướng dẫn học sinh tính toán nếu đề bài ra cần phải xử lí số liệu.
- Hướng dẫn học sinh tính các góc ở tâm.
- Hướng dẫn học sinh chú giải và tên biểu đồ. Lưu ý các em, nếu biểu đồ có 2
hình tròn thì cần phải xử lí như thế nào.
- Trong giảng dạy, giáo viên cần lựa chọn các phương pháp tích cực trên cơ
sở coi trọng nhận thức của học sinh, tăng cường vai trò tổ chức lĩnh hội, khám phá
kiến thức. Trong giờ giảng, giáo viên giành nhiều thời gian cho học sinh tự làm
việc với sách giáo khoa, biểu đồ, lược đồ và với các thiết bị học tập khác để học
sinh tự chủ động tìm ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tất cả các
khâu này, giáo viên phải thể hiện chu đáo, tỉ mỉ, hết sức cụ thể trong bài soạn,
hướng dẫn học sinh ôn lại những kiến thức đã học để vận dụng vào giải thích sau
khi vẽ biểu đồ.
- Giáo viên cần chuẩn bị một số phương pháp dạy học cần thiết như phương
pháp thực hành kết hợp với nêu - giải quyết vấn đề, phương pháp kiểm tra đánh giá
trực tiếp trên lớp nhằm giúp học sinh nhận ra ưu - nhược điểm trong bài tập của
mình để sửa chữa
5. Bài tập cụ thể:
Bài 10: Vẽ và phân tích biểu đồ về sự thay đổi cơ cấu diện tích đất trồng
phân theo các loại cây.
1. Yêu cầu học sinh đọc đề bài:
- Đọc kĩ yêu cầu đề bài.

- Đọc kĩ bảng số liệu để.
=> Từ đó xác định được biểu đồ cần vẽ là biểu đồ hình tròn.
2. Giáo viên nêu cho học sinh quy trình vẽ biểu đồ hình tròn.
* Đây là một bài thực hành khó bởi vì số liệu thô, nên giáo viên cần hướng
dẫn học sinh xử lí số liệu.
Đối với bài này cần tiến hành theo các bước sau đây.
- Bước 1: Lập bảng số liệu đã xử lí theo mẫu. Chú ý làm tròn số sao cho các thành
phần phải đúng 100%.
10


- Bước 2: Vẽ biểu đồ cơ cấu theo quy tắc: Bắt đầu vẽ từ "Tia 12 giờ", vẽ theo chiều
kim đồng hồ.
- Bước 3: Đảm bảo tính chính xác: Phải vẽ các hình quạt với tỉ trọng của từng
thành phần trong cơ cấu. Ghi trị số phần trăm vào các hình quạt tương ứng (chú ý
để hình vẽ đẹp: Các trị số phần trăm ở từng biểu đồ cơ cấu có ít thành phần và bán
kính lớn thường biểu thị trong hình tròn).
- Vẽ đến đâu kẻ vạch (tô màu) đến đó. Đồng thời thiết lập bảng chú giải.
- Bước 4: Ghi tên biểu đồ
3. Giáo viên hướng dẫn tổ chức cho học sinh tính toán.
- Bước 1: Giáo viên dùng bảng phụ kẻ sẵn khung của bảng số liệu (bỏ trống).
- Bước 2. Hướng dẫn xử lí bảng số liệu. Cách tính:
+ Tổng số diện tích gieo trồng là 100%.
+ Biểu đồ hình tròn có góc ở tâm là 3600
=> nghĩa là 1,0 % ứng với 3,60 (góc ở tâm )
+ Năm 1990 tổng số diện tích gieo trồng là 9040 nghìn ha -> cơ cấu diện tích
100%.
+ Tính cơ cấu diện tích gieo trồng cây lương thực (là x).
9040 <-> 100%
6474,6 x 100

6474,6 <-> x
x=
= 71,6%
9040
+ Góc ở tâm trên biểu đồ đường tròn cây lương thực là.
71,6 x 3,6 = 2580
+ Tương tự cách tính trên, cho học sinh tính cơ cấu diện tích và góc ở tâm
trên biểu đồ của các cây trồng còn lại.
- Bước 3: Học sinh điền kết quả vào bảng số liệu mới:
* Kết quả xử lý số liệu (đơn vị %)
Năm
1990
2002
Các nhóm cây
Tổng số
100,0
100,0
Cây lương thực
71,6
64,8
Cây công nghiệp
13,3
18,2
Cây thực phẩm, cây ăn quả, cây khác
15,1
17,0
4. Tổ chức cho học sinh vẽ biểu đồ.
- Đối với bài này không yêu cầu học sinh so sánh quy mô diện tích gieo trồng các
loại cây năm 1990 và năm 2002 để tính toán bán kính của biểu đồ tròn, mà bán
kính cho trước.

- Biểu đồ năm 1990 có bán kính 20mm và năm 2002 có bán kính 24mm.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ biểu đồ năm 1990 trên bảng.
- Học sinh vẽ tiếp biểu đồ năm 2002, thiết lập bảng chú giải.
11


Năm 1990
Năm 2002
Biểu đồ thể hiện cơ cấu diện tích gieo trồng các nhóm cây
ở nước ta năm 1990 - 2002
IV. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiếnvào thực tiễn
Qua quá trình áp dụng cách vẽ biểu đồ hình tròn vào các tiết thực hành, các
bài tập Địa lí lớp 9 đã thu được kết quả như sau.
- Về tâm lí: Đã từng bước tạo được sự hứng thú, khơi dậy lòng say mê học
tập môn Địa lí ở học sinh.
- Về kiến thức: Học sinh biết cách sử dụng số liệu từ đó xác định được loại
biểu đồ cần vẽ, chiếm lĩnh kiến thức một cách nhanh chóng và chắc chắn.
- Về kĩ năng: Kĩ năng xử lí số liệu - cách vẽ biểu đồ được thuần thục, chính
xác. Học sinh nắm được các bước tiến hành trong khi vẽ biểu đồ. Tỉ lệ học sinh tự
rèn luyện được kĩ năng vẽ biểu đồ chiếm tỉ lệ cao. Từ đó tỉ lệ học sinh đọc và phân
tích bảng số liệu, xác định loại biểu đồ thích hợp đối với bài yêu cầu cao hơn so
với khi chưa được áp dụng.
Đồng thời học sinh vận dụng các kiến thức Địa lí vào cuộc sống thực tiễn một
cách dễ dàng và hiệu quả.
Chính vì vậy mà số học sinh khá giỏi tăng lên và số học sinh yếu kém giảm hẳn
đi so với năm trước.
Khối 9:
Năm học
2008-2009
2009-2010

2010-2011
2011-2012

Giỏi
21.5
22.4
37.6
38.7

Khá
30.4
30,7
35.3
38.8

TB
30,3
33,3
14.6
15.2

Yếu
17.8
13.6
12.5
7.3
12

Ghi chú
Kém

0
Khi chưa áp dụng đề tài
0
0
Khi đã áp dụng đề tài
0


Đó là những gì tôi đã làm trong quá trình dạy học sinh lớp 9 cách vẽ biểu đồ
hình tròn. Cách làm đó có thể còn những hạn chế nhất định nhưng ở một mức độ
nào đó đã góp phần vào việc phát huy tính tích cực chủ động của HS trong việc
tiếp thu kiến thức, tạo hứng thú học tập cho các em và nhất là đảm bảo cho tất cả
các em được bình đẳng, chủ động rèn luyện kĩ năng vẽ biểu đồ trong học tập.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Tóm lại, rèn kỹ năng vẽ và nhận xét biểu đồ trong việc dạy-học môn Địa Lí
trong nhà trường là hết sức cần thiết và quan trọng, hơn thế nữa nó còn góp phần
thay đổi phương pháp dạy học truyền thống bằng phương pháp mới nhằm phát huy
tính tích cực, tự giác, tính độc lập, sáng tạo của học sinh. Đồng thời nó cũng góp
phần làm thay đổi cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh-từ kiểm tra,
đánh giá bằng lý thuyết suông chuyển sang kiểm tra, đánh giá cả kỹ năng và khả
năng vận dụng kiến thức. Từ nhận thức đó trong những năm qua, tôi đã đúc kết và
áp dụng tương đối thành công nội dung theo đề tài đã chọn này để giảng dạy môn
Địa Lí tại trường THCS Chuyên Ngoại. Vấn đề này đã được tôi áp dụng vào quá
trình nghiên cứu soạn giảng giúp học sinh học tập môn địa lý lớp 9 đạt được một
số kết quả nhất định. Qua bài này giúp tôi thêm kinh nghiệm trong việc nghiên cứu
để soạn giảng địa lý, giúp cho bài học sinh động hơn, khoa học hơn, góp phần “Đổi
mới phương pháp giảng dạy”.
Về phía học sinh: các em chủ động nắm bắt kiến thức phát huy được khả
năng tư duy sáng tạo.

Với đề tài này tôi hi vọng nó sẽ góp phần nào đó giải quyết những khó khăn
của một số giáo viên khi sử dụng biểu đồ trong giảng dạy và giúp học sinh có thói
quen sử dụng biểu đồ trong học tập địa lý 9.
Trong điều kiện thời gian có hạn, trình độ còn hạn chế vì vậy đề tài này
không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong sự cộng tác của bạn đọc. Sự đóng
góp chân thành của các bạn sẽ được bổ sung ngay vào đề tài và nó có tác dụng
13


rộng rãi để chúng ta cùng áp dụng nó vào trong công việc giảng dạy và học tập
môn địa lý lớp 9 ở THCS.
PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khi thực hiện đề tài này, tôi đẫ tham khảo một số tài liệu sau:
1. Sách giáo khoa Địa lý 9 – Nguyễn Dược – NXB GD 2005.
2. Sách giáo viên Địa lý 9 - Nguyễn Dược – NXB GD 2005.
3. Kĩ thuật dạy học Địa lý ở trường phổ thông – PGS.TS nguyễn Đức Vũ –
NXB GD 2007
4. Rèn kĩ năng thực hành Địa lý.
5. Sách thiết kế Địa lý 9.
6. Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng Địa lý ở trường THCS – Phạm Thị Sen –
NXB GD 2009.
Xác nhận của cơ quan

Chuyên Ngoại, ngày 1 tháng 3 năm 2016
Người Viết

Nguyễn Thị Hòa

14




×