Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

VẬN DỤNG dạy học PHÂN hóa vào dạy học GIẢI PHƯƠNG TRÌNH vô tỉ ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.65 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

------------

PHẠM THỊ THU

VẬN DỤNG DẠY HỌC PHÂN HÓA
VÀO DẠY HỌC GIẢI PHƯƠNG TRÌNH VƠ TỈ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2014

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

------------

PHẠM THỊ THU

VẬN DỤNG DẠY HỌC PHÂN HÓA
VÀO DẠY HỌC GIẢI PHƯƠNG TRÌNH VƠ TỈ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
Chun ngành : LL&PPDH bộ mơn Tốn
Mã số : 60.14.01.11


TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn

HÀ NỘI, 2014

2


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa
Tốn - Tin, Phịng sau đại học, các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Phương
pháp giảng dạy Toán trường Đại học sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp
đỡ tác giả trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình làm luận
văn.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cơ giáo trong Ban giám
hiệu, tổ Tốn trường THPT Bình Thanh, Kiến Xương, Thái Bình đã giúp đỡ
tác giả trong quá trình thử nghiệm sư phạm.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lịng biết ơn tới gia đình, tới những
người thân, bạn bè đồng nghiệp cũng như bạn bè trong nhóm Lý luận và
Phương pháp dạy học bộ mơn Tốn K22 đã tận tình giúp đỡ, cổ vũ, động
viên tác giả trong suốt q trình học tập và hồn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 9 năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Thu

3



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Viết tắt
ĐC
ĐK
GV
HS
Nxb
THPT
TN
Tr

4

Viết đầy đủ
Đối chứng
Điều kiện
Giáo viên
Học sinh
Nhà xuất bản
Trung học phổ thông
Thử nghiệm
Trang


MỤC LỤC

5



..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... . . .

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Giáo dục có vị trí vơ cùng quan trọng trong xã hội hiện đại ngày nay.
Đại hội Đảng khóa VII đã khẳng định “ Giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Tầm quan
trọng của giáo dục đào tạo trong sự nghiệp đổi mới hiện đại hóa đất nước đã
đặt lên vai đội ngũ giáo dục nhiều trách nhiệm nặng nề…”
Luật giáo dục nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ
về phương pháp giáo dục phổ thông như sau: “ Phương pháp giáo dục phổ
thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng năng lực tự
học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”. (Trích luật giáo dục
2005- chương II, mục 2, điều 2)
Tiếp đó là nghị quyết hội nghị lần II Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa VII khẳng định: “Cuộc cách mạng về phương pháp
giảng dạy phải hướng vào người học, rèn luyện và phát triển khả năng suy
nghĩ, khả năng giải quyết vấn đề một cách năng động, độc lập, sáng tạo ngay
trong quá trình học tập ở nhà trường phổ thông. Áp dụng những phương pháp
giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng
lực giải quyết vấn đề”.
Giáo dục phổ thơng giúp người học có thêm kiến thức để tiếp tục học
lên hoặc đi vào cuộc sống. Cũng như các ngành khoa học khác toán học cũng
giữ một vị trí quan trọng. Nó giúp con người ta có tư duy sáng tạo, phát triển
trí tuệ, rèn luyện kĩ năng, tính tự lập, tính chính xác,…
Thực tế cho thấy, mức độ tiếp thu kiến thức của HS khơng đồng đều,

có sự phân hóa rõ rệt giữa HS khá, giỏi với HS trung bình, yếu. Để HS hứng
thú đồng thời có sự tiến bộ trong học tập thì GV cần phải thực hiện các pha
phân hóa. Dạy học phân hóa phát huy được tính tích cực, chủ động của người
học. Bên cạnh đó dạy học phân hóa cịn khắc phục được hiện tượng không
6


đồng đều, chưa hiệu quả của các phương pháp dạy học khác.
Phương trình là một nội dung có vị trí quan trọng trong toán học. Chủ
đề này được đưa vào trường phổ thông, thể hiện trong nhiều chương, phần
của SGK mơn Tốn. Trong các kì thi do tính đa dạng về chủng loại, cách giải
của phương trình vơ tỉ nên học sinh thường hay lúng túng và gặp khó khăn.
Xuất phát từ những lí do trên, đề tài được chọn là: “Vận dụng dạy học
phân hóa vào dạy học giải phương trình vơ tỉ ở trường THPT”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Xây dựng những biện pháp vận dụng dạy học phân hóa vào nội dung
giải phương trình vơ tỉ ở trường THPT.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy học phân hóa.
- Xây dựng các biện pháp sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả trong dạy
hoc phân hóa.
- Vận dụng những biện pháp sư phạm vào dạy học những dạng phương
trình vơ tỉ.
- Thử nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của đề tài.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

- Đối tượng nghiên cứu: Quá trình vận dụng dạy học phân hóa vào dạy
học giải phương trình vơ tỉ ở trường THPT.

- Khách thể và phạm vi nghiên cứu: Học sinh và giáo viên ở THPT
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

Có thể xây dựng những biện pháp sư phạm để vận dụng dạy học phân hóa
trong giải phương trình vơ tỉ cho học sinh THPT và nhờ vậy sẽ giúp học sinh
hứng thú học tập góp phân nâng cao chất lượng dạy học phương trình vơ tỉ.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc và nghiên cứu các tài liệu về lí
luận dạy học mơn tốn, nghiên cứu các tài liệu về các vấn đề có liên quan đến
đề tài.
- Phương pháp điều tra, quan sát, tìm hiểu: Tiến hành thăm lớp, dự giờ
trao đổi, tìm hiểu ý kiến của một số đồng nghiệp có kinh nghiệm, có tâm
huyết và quan tâm đến đề tài.
7


- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm tại trường phổ
thông đối với học sinh nhằm kiểm nghiệm thực tiễn tính khả thi và hiệu quả
của đề tài nghiên cứu.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm
các phần sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Một số biện pháp dạy học phân hóa nội dung phương trình
vơ tỉ ở trường THPT
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

8



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DẠY HỌC PHÂN HÓA
Mục này được viết dựa trên dạy học phân hóa trong giáo trình phương
pháp dạy học mơn Tốn của Nguyễn Bá Kim [9].
1.1.1 Khái niệm dạy học phân hóa
Trong lịch sử giáo dục, học sinh là một danh từ chung chỉ những người
tiếp thu tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Lớp học là một tập thể
thống nhất, gồm những học sinh cùng một trình độ, cùng một lứa tuổi… có
cùng một mục tiêu chung.
Theo từ điển tiếng việt, phân hóa chia ra thành nhiều bộ phân khác hẳn
nhau. Có nhiều tiêu chí để chia như chia theo lứa tuổi, theo trình độ, theo giới
tính, theo dân tộc…Ở đây chỉ giới hạn chia theo năng lực và nhu cầu của
người học.
Dạy học phân hóa xuất phát từ sự biện chứng của thống nhất và phân
hóa, từ sự yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu dạy học đối với tất cả
mọi học sinh, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả
năng của cá nhân.
Dạy học phân hóa là cách thức dạy học địi hỏi phải tổ chức, tiến hành
các hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực,
nhu cầu nhận thức, các điều kiện nhận thức nhằm tạo ra những kết quả học
tập và sự phát triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng trong
giáo dục, tức là đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học.
1.1.2 Tư tưởng chủ đạo
Việc kết hợp giữa giáo dục diện “đại trà” với giáo dục diện “mũi
nhọn”, giữa “phổ cập” với “nâng cao” trong dạy học tốn ở trường phổ thơng
cần được tiến hành theo các tư tưởng chủ đạo sau:
i) Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền tảng
Việc dạy học tốn phải lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung

của học sinh trong lớp làm nền tảng, phải hướng vào những yêu cầu thật cơ
bản. Chúng ta phải tinh giảm những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp với
yêu cầu cơ bản. Mỗi học sinh bình thường đều có khả năng học được, nắm
9


được chương trình phổ thơng. Nhưng giữa các học sinh lại có sự khác biệt về
đặc điểm tâm lí cá nhân khiến cho học sinh này có khả năng và hứng thú
nhiều hơn một mặt nào đó so với học sinh kia; học sinh khác lại có khả năng,
sở trường hứng thú nhiều hơn về mặt khác trong quá trình học tập. Do đó,
ngồi việc làm cho mọi học sinh đều đạt được những yêu cầu của chương
trình và phát triển toàn diện. Mặt khác, cần phát huy sở trường, hứng thú,
năng khiếu của từng học sinh. Vì vậy, nội dung và phương pháp dạy học
trước hết cần phải phù hợp với trình độ và điều kiện chung này.
ii) Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên
trình độ chung.
Giáo viên phải phát hiện ra những học sinh yếu kém để trong quá trình
giảng dạy có biện pháp phù hợp. Cố gắng làm sao để những học sinh yếu kém
đạt được những tiền đề cần thiết để có thể hịa vào học tập đồng loạt theo
trình độ chung.
iii) Có những nội dung bổ sung và biện pháp phân hóa giúp học sinh
khá, giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những yêu
cầu cơ bản.
Đối với những học sinh khá giỏi trên cơ sở đã đạt được những yêu cầu
cơ bản và để tạo cho học sinh khá giỏi phát huy được tối đa năng lực, sở
trường,…Giáo viên cần có những bổ sung, đào sâu kiến thức giúp học sinh
khá giỏi nâng cao kiến thức.
1.1.3 Phương hướng phân hóa
Dạy học phân hóa có thể được thực hiện theo hai hướng:
- Phân hóa nội tại (cịn gọi là phân hóa trong), tức là dùng những biện

pháp phân hóa thích hợp trong một lớp học thống nhất với cùng một kế hoạch
học tập, cùng một chương trình và sách giáo khoa.
- Phân hóa về tổ chức (cịn gọi là phân hóa ngồi), tức là hình thành
những nhóm ngoại khóa, lớp chun, giáo trình tự chọn,…
1.1.4 Những ưu điểm, nhược điểm của dạy học phân hóa
i) Ưu điểm của dạy học phân hóa
Dạy phân hóa phát huy tốt khả năng cá thể hóa hoạt động của người
10


học, đưa người học trở thành chủ thể của quá trình nhận thức, tiếp thu kiến
thức một cách chủ động, sáng tạo phù hợp với năng lực nhận thức của bản
thân. Bên cạnh đó giáo viên có cơ hội hiểu và nắm được mức độ nhận thức
của từng người học để từ đó đề ra những biện pháp tác động, uốn nắn kip thời
và đánh giá một cách khách quan, chính xác.
Dạy học phân hóa gây được hứng thú cho mọi đối tượng học sinh, xóa
bỏ mặc cảm tự ti của đối tượng học sinh có nhịp độ nhận thức thấp cùng tham
gia tìm hiểu nội dung, yêu cầu của bài.
Dạy học phân hóa trong giờ học tốn khơng cần yêu cầu các phương
tiện thiết bị hiện đại, mà nó phù hợp với thực trạng điều kiện vật chất còn
thiếu thốn của nước ta.
ii) Nhược điểm của dạy học phân hóa
Nhược điểm lớn nhất của dạy học phân hóa là trước khi lên lớp người
giáo viên phải chuẩn bị bài soạn, hệ thống bài tập phân hóa được chọn lọc
một cách kỹ lưỡng, cần phải đầu tư nhiều thời gian và cơng sức.
Số lượng HS trong lớp học đơng, có sự chênh lệch nhau về trình độ có
thể gây khó khăn cho các giáo viên mới, GV dạy thay chưa kịp nắm được
trình độ nhận thức của từng HS.
Giáo viên cần phải nắm được lực học của các học sinh trong lớp để đưa
ra được biện pháp phân hóa phù hợp với từng đối tượng học sinh, tránh việc

yêu cầu quá cao hoặc quá thấp đối với học sinh.
1.2 QUY TRÌNH DẠY HỌC PHÂN HĨA
Mục này được viết dựa trên dạy học phân hóa trong giáo trình phương
pháp dạy học mơn Tốn của Nguyễn Bá Kim [9].
1.2.1 Nhiệm vụ của thầy trước khi lên lớp
i) Phân hóa được đối tượng học sinh
Nhiệm vụ của GV là phải nghiên cứu được những mặt mạnh, những
mặt còn hạn chế của từng học sinh để có những biện pháp phù hợp. Có như
vậy mới giúp cho tất cả các học sinh đều tiếp thu được kiến thức mong muốn.
Trong quá trình dạy học, giáo viên phải thường xuyên theo dõi, tìm
hiểu, kiểm tra phân loại học sinh, có thể chia học sinh làm 3 nhóm như sau:
11


nhóm học sinh khá giỏi, nhóm học sinh trung bình và nhóm học sinh yếu
kém. Từ đó, đề ra được những yêu cầu khác nhau với từng nhóm đối tượng đó
kể cả hoạt động trên lớp và việc làm bài tập về nhà. Mỗi nhóm đối tượng có
một biểu hiện và cách suy nghĩ học tập khác nhau. Cụ thể:
- Đối với học sinh khá giỏi thì nhận thức của các em rất tốt, có tư duy
nhanh trong các bài tập khó nhưng dễ chủ quan trong những bài tập đơn giản.
Vì vậy, điều quan trọng là giáo viên cần phải rèn luyện cho các em lòng ham
học, hứng thú, sự say mê, tính cẩn thận,…Trong giờ học cần cho các em khai
thác được những bài tập theo các góc độ khác nhau chứ không đơn thuần làm
theo hướng dẫn, hay theo một cách nhất định.
- Đối với những học sinh trung bình thì mức độ nhận thức của các em
thấp hơn so với những học sinh khá giỏi và chỉ nắm được những kiến thức cơ
bản trong sách giáo khoa, cần đến sự hỗ trợ của giáo viên trong những bài tập
ở mức độ nâng cao hơn.
- Còn đối với học sinh diện yếu kém thì cần phải có sự hỗ trợ của giáo
viên rất nhiều. Chỉ cần các em nắm được lí thuyết trong sách giáo khoa và có

thể vận dụng lí thuyết để làm được bài tập đơn giản. Bên cạnh đó giáo viên cần
phải tìm ra ngun nhân học kém tốn: có em học kém vì khơng có khả năng
học tốn nhưng có em lại học kém vì những nguyên nhân khác (như tác động
của gia đình, bạn bè xung quanh, tư tưởng khơng tập trung,…) để từ đó có
những biện pháp giáo dục, giúp đỡ các em như thường xuyên theo dõi, động
viên kịp thời, xây dựng lịng tin ở bản thân,…Ngồi ra, giáo viên cũng cần
nghiên cứu những đặc điểm tư duy, về phương pháp suy nghĩ thể hiện ở những
đặc điểm sau như hổng kiến thức, tiếp thu chậm, phương pháp học tập tốn
chưa tốt. Khơng nên đồng nhất các em học kém toán với nhau mà GV cần nắm
được điểm yếu của từng học sinh để có những biện pháp giúp đỡ kịp thời.
ii) Thiết kế bài học
- Nghiên cứu nắm vững những nội dung và yêu cầu của bài học: Vì chỉ
khi nắm vững nội dung kiến thức bài học thì giáo viên mới có thể hình thành
được các phương pháp dạy học để thiết kế được những tình huống học tập lí
tưởng, đạt được mục đích dạy học của mình. Giáo viên cần làm cẩn thận và
12


xem xét nhiều khía cạnh của bài tập.
- Thiết kế các pha dạy học: Giáo viên nên sử dụng kết hợp với các
phương pháp dạy học khác. Khi đưa các yếu tố phát hiện và giải quyết vấn đề
cùng với kết hợp với hệ thống câu hỏi phân hóa vào bài học sẽ phát triển được
tư duy, tăng cường tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo cho các đối
tượng học sinh. Những tri thức mới được kiến tạo nhờ quá trình phát hiện và
giải quyết vấn đề học sinh được khám phá, phân tích vấn đề để tìm ra hướng
giải quyết. Tạo ra tình huống có vấn đề sẽ giúp học sinh chủ động trong việc
tìm ra tri thức mới. Có nhiều cách để tạo tình huống có vấn đề như:
+ Khai thác, kiểm tra bài cũ để đặt vấn đề mới cần nghiên cứu.
+ Đưa ra một mâu thuẫn để tìm cách giải quyết.
+ Đặt vấn đề từ tình huống thực tiễn.

+ Chọn một bài tốn mà dung kiến thức mới giải quyết nhanh hơn.
Trong dạy học phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề giáo viên
đặt học sinh vào một tình huống có vấn đề sau đó đưa ra một hệ thống câu hỏi
dẫn dắt. Làm theo cách này thì học sinh vừa nắm được tri thức mới, phát triển
được tư duy sáng tạo đồng thời giải quyết được các tình huống đặt ra.
iii) Ra bài tập phân hóa cho học sinh
Tùy theo lớp học và trình độ nhận thức của học sinh mà giáo viên xây
dựng hệ thống bài tập khác nhau. Trong tiết bài tập, giáo viên có thể xây dựng
một hệ thống bài tập phân hóa cho các đối tượng học sinh cũng có thể sử
dụng 1 bài tập phân hóa cho nhiều đối tượng học sinh, bài tập giải bằng nhiều
cách để phân loại học sinh. Đồng thời cần chuẩn bị bài tập về nhà với nhiều
mức độ khác nhau tùy theo từng nhóm đối tượng học sinh.
iv) Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến q trình học tập
Ngồi việc chú trọng đến kiến thức thì để giờ học đạt kết quả tốt thì
giáo viên cũng cần xem xét đến những tác động từ môi trường, phương tiện
dạy học, điều kiện. Nếu học sinh được học trong điều kiện thuận lợi thì sẽ
giúp các em học tập tốt hơn. Sử dụng phương tiện dạy học cũng giúp giáo
viên có thời gian quan tâm đến học sinh nhiều hơn, có thể theo sát, giúp đỡ
đến từng học sinh trong lớp.
13


1.2.2 Nhiệm vụ của học sinh trước khi lên lớp
Trước khi lên lớp thì học sinh cần phải thực hiện các yêu cầu sau:
Thực hiện tốt nhiệm vụ được giao về nhà: Học và làm bài tập ở nhà,
nghiên cứu trước nội dung bài học, chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ học tập cần
thiết cho giờ học. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà học sinh cần phải thực
hiện tốt trước khi lên lớp.
Học sinh cần hiểu rõ được những kiến thức cơ bản để làm bài tập chứ
không phải học một cách máy móc, dập khn, vận dụng linh hoạt được các

kiến thức đã biết để làm bài tập. Ngoài ra, những học sinh khá giỏi cần làm
thêm những bài tập nâng cao, những bài tập có tính suy luận, tính tư duy cao.
1.2.3 Quy trình tổ chức dạy học phân hóa
i) Tổ chức các pha dạy học đồng loạt
- Kết hợp và sử dụng các phương pháp dạy học khơng truyền thống
nhằm mục đích giúp học sinh tiếp thu tốt các tri thức khái niệm và định lí.
Các phương pháp này có ưu điểm là tạo ra tình huống gợi vấn đề, điều khiển
học sinh hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo.
- Đối xử cá biệt trong các pha dạy học đồng loạt sẽ thu hút tất cả các
đối tượng học sinh trong lớp tham gia tìm hiểu nội dung bài học bằng cách
giao nhiệm vụ phù hợp cho từng đối tượng học sinh. Nêu những câu hỏi khó
hơn cho các em có nhận thức nhanh và những câu hỏi dễ, những câu hỏi có
tính chất gợi mở cho những học sinh có nhận thức chậm.
ii) Điều khiển các pha phân hóa
- Trong việc điều khiển học sinh hoạt động trong các pha phân hóa giáo
viên có thể đưa ra những yêu cầu khác nhau cũng như mức độ hoạt động độc
lập của học sinh. Tùy theo từng nội dung học tập mà GV có thể hướng dẫn
nhiều hơn cho đối tượng học sinh này, ít hơn hoặc không gợi ý cho đối tượng
học sinh khác tùy theo khả năng và trình độ.
- Việc tổ chức điều khiển q trình giải bài tập phân hóa có thể được
thực hiện theo các bước sau:
+ Bước 1: Giáo viên tổ chức, giao nhiệm vụ cho các đối tượng học sinh
và đặt ra mục đích yêu cầu rõ ràng cho học sinh.
14


+ Bước 2: Từng cá nhân tiến hành làm việc độc lập dưới sự quan sát,
hướng dẫn, gợi mở của giáo viên. Giáo viên có thể định ra yêu cầu khác nhau
với từng nhóm đối tượng về mức độ hoạt động.
+ Bước 3: Thảo luận nhóm hoặc làm chung cả lớp. Nếu thảo luận nhóm

thì giáo viên gọi bất kì hoặc nhóm cử đại diện một thành viên lên bảng trình
bày. Nếu làm việc chung cả lớp thì tùy vào mức độ câu hỏi mà giáo viên chỉ
định học sinh trình bày phương án giải quyết.
+ Bước 4: Tổng kết
Nhờ sự phân hóa như vậy giáo viên có thể thấy rõ sự tiến bộ của từng
học sinh để điều chỉnh cách dạy cho phù hợp. Đồng thời, giáo viên quan tâm
cá biệt bằng cách động viên những học sinh thiếu tự tin, lưu ý những học sinh
hay mắc sai lầm, uốn nắn được một số học sinh nhận thức nhanh nhưng kết
quả không cao do vội vàng, chủ quan, lôi cuốn những học sinh có nhận thức
chậm theo kịp tiến trình giờ học.
iii) Giao bài tập phân hóa về nhà
Trong dạy học phân hóa, ngồi các pha dạy học trên lớp thì giáo viên
cũng có thể phân hóa bài tập về nhà. Bài tập giao về nhà phải phù hợp với
mức độ nhận thức của học sinh. Có hai cách để phân hóa bài tâp về nhà là
phân hóa theo số lượng bài tập và phân hóa về nội dung bài tập.
1.3 NHỮNG HÌNH THỨC CỦA PHÂN HĨA
Mục này được viết dựa trên dạy học phân hóa trong giáo trình phương
pháp dạy học mơn Tốn của Nguyễn Bá Kim [9].
Trong q trình dạy học ta có thể phân hóa theo các hình thức sau:
- Phân hóa theo sự nhận thức của học sinh: Tức là lấy sự phân nhịp độ
làm căn cứ phân hóa. Nhịp độ nhận thức được tính bằng lượng thời gian
chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác, từ nhiệm vụ này sang nhiệm
vụ khác. Đối với hình thức này phân học sinh trong lớp thành ba nhóm: nhóm
nhận thức nhanh, nhóm nhận thức trung bình và nhóm nhận thức chậm. Khi
phân chia nhóm theo hình thức này trong q trình thảo luận nhóm giáo viên
cần quan tâm nhiều hơn đến nhóm có nhận thức trung bình và nhận thức
chậm. Những học sinh có nhận thức chậm mặc dù làm những bài tập rất đơn
15



giản nhưng các em có thể khơng làm được do khơng nắm được lí thuyết, cịn
những học sinh có nhận thức trung bình lí thuyết nắm được nhưng có thể
khơng biết vận dụng vào để làm bài tập.
- Phân hóa theo hứng thú: Căn cứ vào đặc điểm hứng thú học tập của
học sinh để tổ chức cho người học tìm hiểu khám phá nhận thức.
- Phân hóa theo học lực: Căn cứ vào học lực có thực của người học để
có những tác động sư phạm phù hợp với người học.
Các hình thức của dạy học phân hóa
1.3.1 Dạy học ngoại khóa
- Mục đích của dạy học ngoại khóa là: Gây hứng thú cho học sinh học
tập bổ sung, đào sâu mở rộng kiến thức nội khóa, tạo điều kiện gắn liền nhà
trường với đời sống, lý thuyết với thực hành. Rèn luyện cách thức làm việc
tập thể phân hóa phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu.
- Nội dung: Dạy học ngoại khóa bổ sung nội khóa nhưng khơng bị hạn
chế bởi chương trình, mở rộng, đào sâu chương trình. Thực hiện tốt ngun lý
giáo dục: học đi đơi với hành, giáo duc kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn liền với lao động xã hội.
- Tổ chức: dạy học ngoại khóa có tính chất tự nguyện không bắt buộc.
- Phương pháp tiến hành sinh động hấp dẫn.
- Hình thức dạy học ngoai khóa: nói chuyện chun đề, thăm quan, họp
báo, câu lac bộ toán học…
Việc kiểm tra dạy học ngoại khóa nên có tính chất quần chúng để học
sinh thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình với tập thể. Khuyến khích những
hình thức kiểm tra, nhận xét công khai kết quả học tập trước lớp, toàn trường.
1.3.2 Dạy học bồi dưỡng học sinh giỏi
Bồi dưỡng học sinh giỏi là việc làm rất quan trọng và cần thiết, cần
được thực hiện ngay trong những tiết học đồng loạt, bằng những biện pháp
phân hóa nội tại thích hợp. Hai hình thức thường tổ chức là: Nhóm học sinh
giỏi tốn và lớp phổ thơng chun tốn.
- Nhóm học sinh giỏi toán gồm những học sinh cùng một lớp hoặc

trong cùng một khối, có năng lực về tốn, u thích nghiên cứu tốn và tự
16


nguyện xin bồi dưỡng nâng cao về toán. Để đảm bảo học sinh khơng học lệch,
nhóm khơng nhận một học sinh nào kém về một mơn khác, dù rằng có thành
tích cao về tốn.
Trong những buổi sinh hoạt ngoai khóa, học sinh giỏi tốn chính là lực
lượng nịng cốt của nhà trường.
Mục đích bồi dưỡng nhóm học sinh giỏi tốn: Nâng cao hứng thú học
tập mơn tốn, đào sâu và mở rộng tri thức trong giáo trình. Giáo viên làm nổi
bật vai trị của mơn tốn trong đời sống, bồi dưỡng tác phong, phương pháp
nghiên cứu và thói quen tự đọc sách cho học sinh.
Nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi được chú trọng bởi các phần: Nghe
thuyết trình những kiến thức bổ sung cho nội khóa, giải các bài tập nâng cao,
học chuyên đề toán, thăm quan thực hành và ứng dụng tốn.
- Lớp phổ thơng chun tốn:
Hiện nay ở nước ta đang tập hợp những học sinh giỏi tốn ở trường phổ
thơng thành những lớp đặc biệt, giao cho một số trường đại học hoặc các
trường chuyên phụ trách. Những lớp này được gọi là những lớp phổ thơng
chun tốn.
Mục đích của những lớp học này là phát hiện những học sinh có năng
lực về tốn, bồi dưỡng các em phát triển tốt về mặt này trên cơ sở giáo dục
tồn diện, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, một số có
thể trở thành nhân tài cho đất nước. Để thực hiện tốt mục đích đào tạo lớp
chun tốn, chương trình các môn học ở các lớp này được Bộ giáo dục và
Đào tạo quy định là chương trình phân hóa phổ thơng có thêm một số giờ tốn
và ngoại ngữ. Trong đó chú trọng những ứng dụng thực tiễn của tốn học,
tăng cường một số yếu tố về logic học, bổ sung một số yếu tố về toán học
hiện đại…

1.3.3 Dạy học giúp đỡ học sinh yếu kém toán
- Trong trường phổ thơng, những học sinh có kết quả tốn thường xun dưới
trung bình gọi là những học sinh yếu tốn. Việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ
năng đối với những học sinh này đòi hỏi nhiều thời gian và công sức hơn đối
với học sinh khác. Song song với việc giảng dạy trên lớp, giáo viên cần tách
17


riêng đối với nhóm học sinh yếu kém ngồi giờ lên lớp.
- Nội dung giúp đỡ học sinh yếu kém nên nhằm vào những phương hướng sau:
+ Đảm bảo trình độ xuất phát của học sinh: Cần trang bị cho các em
những tiền đề cần thiết để đảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết trên lớp.
+ Lấp “lỗ hổng” về kiến thức, kỹ năng: Đây là một điểm yếu rõ nét và
phổ biến của học sinh yếu kém. Thông qua những giờ lý thuyết và thực hành,
giáo viên tập cho học sinh có ý thức phát hiện ra lỗ hổng kiến thức của mình
và biết tra cứu tài liệu, sách vở để tự lấp chỗ hổng đó.
+ Luyện những bài tập vừa sức: Do tính vững chắc của kiến thức cần
được coi trọng, người giáo viên cần dành thì giờ để học sinh tăng cường luyện
tập vừa sức mình.
+ Đảm bảo học sinh hiểu đề bài, tăng số lượng bài tập cùng thể loại và
vừa mức độ.
+ Sử dụng các bài tập phân bậc cần trang bị cho họ những hiểu biết sơ
đẳng về phương pháp học toán đó là: Nắm được lý thuyết mới làm bài tập,
đọc kỹ đầu bài, hình vẽ cẩn thận… Đấu tranh kiên trì với thói quen xấu của
học sinh như chưa học lí thuyết đã làm bài tập, khơng đọc kỹ đầu bài đã lao
vào làm bài, hình vẽ cẩu thả…
1.4 NHỮNG BIỆN PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA
Mục này được viết dựa trên dạy học phân hóa trong giáo trình phương
pháp dạy học mơn Tốn của Nguyễn Bá Kim [9].
1.4.1 Đối xử cá biệt ngay trong những pha dạy học đồng loạt

Theo tư tưởng chủ đạo là lấy trình độ phát triển chung của học sinh
trong lớp làm nền tảng do đó những pha cơ bản là những pha dạy học đồng
loạt. Tuy nhiên, ngay trong những pha này, thông qua quan sát, vấn đáp và
kiểm tra, người thầy giáo cần phát hiện những sự sai khác giữa các học sinh
về tình trạng lĩnh hội và trình độ phát triển, từ đó có những biện pháp phân
hóa nhẹ, chẳng hạn như:
- Lơi cuốn đơng đảo học sinh có trình độ khác nhau vào quá trình dạy học bằng
cách giao nhiệm vụ phù hợp với từng loại đối tượng, khuyến khích học sinh
yếu kém khi họ tỏ ý muốn trả lời câu hỏi, tận dụng những tri thức và kĩ năng
18


-

riêng biệt của từng học sinh,…
Phân hóa việc giúp đỡ, kiểm tra và đánh giá học sinh. Tùy từng đối tượng học
sinh mà việc giúp đỡ khác nhau. Đối với những học sinh có lực học yếu kém,
trung bình thì giáo viên cần quan tâm, giúp đỡ nhiều hơn so với những học
sinh có lực học khá, giỏi về một nội dung học tập cụ thể nào đó. Cịn khi kiểm
tra, đánh giá học sinh thì cũng cần đến sự phân hóa. Cụ thể như: mức độ kiểm
tra dành cho học sinh yếu kém, trung bình thấp hơn so với những học sinh
khá giỏi, có những câu hỏi gợi mở để những học sinh đó có thể trả lời được.
Cịn khi đánh giá thì tiêu chuẩn học sinh có lực học yếu kém, trung bình sẽ
thấp hơn so với học sinh có lực học khá giỏi.
1.4.2 Tổ chức những pha phân hóa trên lớp
Trong lớp học ln có ba nhóm đối tượng học sinh khác nhau: nhóm
khá giỏi, nhóm trung bình và nhóm yếu kém. Trong q trình dạy học vào
những thời điểm thích hợp có thể thực hiện những pha phân hóa tạm thời, tổ
chức cho học sinh hoạt động một cách phân hóa. Biện pháp này được thực
hiện khi trình độ học sinh có sự sai khác lớn, có nguy cơ yêu cầu quá cao

hoặc quá thấp nếu cứ dạy học đồng loạt.
Ở những lúc nhất định trong q trình dạy học có thể thực hiện những
pha phân hóa tạm thời, tổ chức cho học sinh hoạt động một cách phân hóa.
Biện pháp này được áp dụng khi trình độ học sinh có sự sai khác lớn có nguy
cơ yêu cầu qua cao hoặc quá thấp nếu cứ dạy học đồng loạt.
Ở những pha này, thầy giáo giao cho học sinh những nhiệm vụ phân
hóa (thường thể hiện thành những bài tập phân hóa), điều khiển q trình giải
những bài tập này một cách phân hóa và tạo điều kiện giao lưu gây tác động
qua lại trong những người học. Điều đó có thể được minh họa bởi sơ đồ sau:

Ra bài tập phân

Tác động qua lại giữa

hóa:

các học trị:

- Phân bậc
- Số

lượng

phân hóa

19

- Thảo luận trong lớp
- Học theo cặp
- Học theo nhóm



Hoạt

động

của

học sinh

Điều khiển phân hóa của thầy
giáo:
- Phân hóa mức độ độc lập hoạt
động của trò
- Quan tâm cá biệt
Những khả năng phân hóa biểu thị trong sơ đồ trên cịn có thể được tổ
hợp với nhau và như vậy chúng khá đa dạng. Chúng có thể được áp dụng ở tất
cả các chức năng điều hành quá trình dạy học. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu về
lí luận dạy học mơn Tốn cho thấy rằng dạy học phân hóa ở các chức năng
củng cố và đảm bảo trình độ xuất phát là thuận lợi nhất.
Sau đây là một vài giải thích về các khả năng phân hóa trong sơ đồ trên:
- Ra bài tập phân hóa
Bài tập phân hóa có mức độ cao thấp khác nhau, phù hợp với từng loại
đối tượng, từng lớp học khác nhau.
Ý đồ ra bài tập phân hóa là để những học sinh khác nhau có thể tiến
hành những hoạt động khác nhau phù hợp với trình độ khác nhau của họ.
Có thể phân hóa về yêu cầu bằng cách sử dụng những bài tập phân bậc:
những bài tập có mức độ khó dễ khác nhau cho từng nhóm đối tượng học
sinh. Cũng có thể trong một bài tập có sự phân bậc, có những hoạt động dành
cho các đối tượng học sinh. Có những phần dành cho học sinh khá giỏi nhưng

cũng có những hoạt động dành cho học sinh trung bình và học sinh yếu kém.
Cũng có thể phân hóa về mặt số lượng. Để kiến tạo một kiến thức, rèn
luyện một kĩ năng nào đó, một học sinh này có thể cần nhiều bài tập cùng loại
nhiều hơn một số học sinh khác. Nên ra đủ liều lượng bài tập như vậy cho
20


từng loại đối tượng. Những học sinh còn thừa thời gian, đặc biệt là học sinh
giỏi, sẽ nhận thêm những bài tập khác để đào sâu và nâng cao.
- Điều khiển phân hóa của thầy giáo
Trong việc điều khiển học sinh giải bài tập, thầy giáo có thể định ra yêu
cầu khác nhau về mức độ độc lập của học sinh, hướng dẫn nhiều hơn cho học
sinh này, ít hoặc không gợi ý cho học sinh khác, tùy theo khả năng và trình độ
của họ. Giáo viên có thể áp dụng dạy học theo nhóm đối tượng học sinh để
việc phân hóa được hiệu quả.
Đồng thời thầy giáo cần quan tâm cá biệt: động viên học sinh nào đó có
phần thiếu tự tin, lưu ý học sinh này thường hay tính tốn nhầm lẫn, nhắc nhở
học sinh kia đừng hấp tấp, chủ quan. Bên cạnh đó cần động viên, giúp đỡ
những học sinh yếu kém để họ tiến bộ trong học tập
- Tác động qua lại giữa những người học
Trong q trình điều khiển học sinh học tập nói chung và giải bài tập nói
riêng, cần phát huy những tác động qua lại giữa những người học bằng các hình
thức học tập khuyến khích sự giao lưu giữa họ như thảo luận trong lớp, học theo
cặp và học theo nhóm. Với những hình thức này, có thể tận dụng chỗ mạnh của một
số học sinh này để điều chỉnh nhận thức những học sinh khác. Tác dụng điều chỉnh
này có một số ưu điểm so với tác dụng của thầy giáo: có tính thuyết phục, nêu
gương, khơng có tính chất áp đặt. Đương nhiên, những hình thức này khơng phải
chỉ có tác dụng một chiều: học sinh khá, giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém. Thực tiễn
cho thấy rằng những liên kết chỉ có một chiều sớm muộn cũng sẽ bị phá vỡ. Chỉ
những liên kết hai bên cùng có lợi mới có sức sống nội tại. Trong trường hợp của

chúng ta, những hình thức học tập theo cặp, học theo nhóm (trong giờ học trên lớp)
khơng phải chỉ có lợi cho học sinh yếu kém. Điều quan trọng là thơng qua các hình
thức này, học sinh, cụ thể là các thành viên trong một cặp hoặc một nhóm được rèn
luyện cách thức làm việc để cùng hoạt động chung, trong đó có sự phân cơng, phân
nhiệm, có trao đổi ý kiến, có diễn đạt, lí giải, thuyết phục để tìm ra con đường hoặc
phương án giải quyết vấn đề. Tình huống làm việc như trên: cùng thực hiện một
nhiệm vụ, có sự giao lưu trong tập thể và phát triển những những mối quan hệ xã
hội là một tình huống vẫn thường xảy ra trong đời sống. Học sinh dù khá giỏi hay
21


yếu kém cũng đều cần tập hoạt động trong những tình huống như vậy.
Trong khi chỉ đạo học tập theo cặp hoặc theo nhóm, người thầy giáo
cần lưu ý:
Thứ nhất, cần tập dượt cho học sinh cách thức làm việc tập thể có giao
lưu ý kiến, có phân cơng phân nhiệm, có người điều khiển, chịu trách nhiệm;
cần gợi động cơ cho học sinh đối với cách làm việc này bằng cách thức làm
việc thường diễn ra trong thực tế.
Thứ hai, cần thay đổi vai trò người thực hiện và người kiểm tra, thay
đổi phân công phân nhiệm để tập cho một người có thể thực hiện nhiều chức
năng khác nhau, có thể hồn thành nhiều nhiệm vụ khác nhau.
Thứ ba, cần tạo cho mọi thành viên trong cặp hoặc nhóm có ý thức và
thói quen tự kiểm tra và rút kinh nghiệm trong hoạt động.
1.4.3 Phân hóa bài tập về nhà
Trong dạy học phân hóa, chúng ta khơng chỉ thực hiện những pha phân
hóa trên lớp mà cịn ở những bài tập về nhà. Trong việc làm này người thầy
giáo cần lưu ý:
- Phân hóa về số lượng bài tập cùng loại phù hợp với từng loại đối
tượng để cùng đạt một yêu cầu. Tùy đặc điểm của các nhóm đối tượng học
sinh mà giáo viên giao số lượng bài tập thích hợp. Chẳng hạn, học sinh yếu

kém thì cần giao những bài tập áp dụng lí thuyết và những bài tập tính tốn,
trái lại đối với những học sinh khá giỏi thì cần giao những bài tập có tính suy
luận, những bài tập phát triển tư duy sáng tạo.
- Phân hóa về nội dung bài tập: Bài tập mang tính vừa sức để tránh địi
hỏi q cao đối với học sinh yếu kém và quá thấp đối với học sinh giỏi.
- Phân hóa u cầu về mặt tính độc lập: Bài tập cho diện yếu kém chứa
nhiều yếu tố dẫn dắt hơn bài tập cho diện khá giỏi.
- Ra riêng những bài tập nhằm đảm bảo trình độ xuất phát cho những
học sinh yếu kém để chuẩn bị cho bài học sau.
- Ra riêng những bài tập nâng cao cho học sinh giỏi.

22


1.5 PHÂN BẬC HOẠT ĐỘNG
Mục này được viết dựa trên những thành tố cơ sở của phương pháp dạy
học trong giáo trình phương pháp dạy học mơn Tốn của Nguyễn Bá Kim [9].
1.5.1 Tư tưởng chủ đạo
Dạy học phải lấy xác định được những mức độ yêu cầu thể hiện ở
những hoạt động mà học sinh phải đạt được hoặc có thể đạt được vào lúc cuối
cùng hay ở những thời điểm trung gian. Phân bậc được hiểu theo cả góc độ vĩ
mơ và vi mơ. Theo nghĩa vĩ mơ thì phân bậc là những mức độ của một hoạt
động trong những giai đoạn khác nhau của toàn bộ thời gian học ở trường phổ
thông, của một lớp hay một cấp học nào đó. Cịn theo nghĩa vi mơ thì phân
bậc là những mức độ hoạt động ở những mức khó khăn hay mức độ yêu cầu
trong một khoảng thời gian ngắn, trong một tiết học.
1.5.2 Những căn cứ để phân bậc hoạt động
i) Sự phức tạp của đối tượng: Đối tượng càng phức tạp thì hoạt động đó
càng khó thực hiện. Vì vậy có thể dựa vào sự phức tạp để phân bậc hoạt động.
ii) Sự trừu tượng, khái quát của đối tượng: Đối tượng của hoạt động

càng trừu tượng, khái quát có nghĩa là yêu cầu thực hiện hoạt động càng cao.
iii) Nội dung của hoạt động: Nội dung của hoạt động chủ yếu là những
tri thức liên quan tới hoạt động và những điều kiện khác của hoạt động. Nội
dung hoạt động càng gia tăng thì hoạt động càng khó thực hiện, vì thế nội
dung cũng là một căn cứ để phân bậc hoạt động.
iv) Sự phức tạp của hoạt động: Một hoạt động phức tạp là một hoạt
động gồm nhiều thành phần. Gia tăng những hoạt động thành phần cũng có
nghĩa là nâng cao yêu cầu đối với hoạt động.
v) Chất lượng của hoạt động: Là tính độc lập hoặc độ thành thạo.
vi) Phối hợp nhiều phương diện làm căn cứ để phân bậc hoạt động
1.5.3 Điều khiển quá trình học tập dựa vào sự phân bậc hoạt động
Để giờ dạy đạt hiệu quả cao thì người giáo viên cần biết lợi dụng sự
phân bậc hoạt động để làm căn cứ để điều khiển quá trình học tập thường theo
những hướng sau:

23


i) Chính xác hóa một mục tiêu
Nếu khơng có sự phân bậc hoạt động thì người ta thường đưa ra những
mục tiêu chung chung. Nhờ phân bậc hoạt động mà ta có thể đề ra được
những mục tiêu một cách chính xác, thiết thực hơn.
ii) Tuần tự nâng cao yêu cầu khi cần thiết
Dùng sự phân bậc hoạt động để nâng cao yêu cầu đối với học sinh.
Điều này sẽ giúp học sinh nhận được kiến thức phù hợp với mình và dần dần
nâng cao mức độ địi hỏi từ đơn giản đến phức tạp.
iii) Tạm thời hạ thấp yêu cầu khi cần thiết
Trong q trình học tập đơi khi gặp khó khăn trong khi hoạt động, ta có
thể tạm thời hạ thấp yêu cầu. Sau khi học sinh đã đạt được nấc thang thấp
này, yêu cầu lại tuần tự được nâng cao. Làm như thế sẽ giúp học sinh tiếp thu

được kiến thức mà không quá sức.
iv) Dạy học phân hóa
Sự phân bậc hoạt động tạo khả năng dạy học phân hóa. Nó được lợi
dụng để dạy học phân hóa nội tại theo cách cho những học sinh thuộc những
loại trình độ khác nhau đồng thời thực hiện những hoạt động có cùng nội
dung nhưng trải qua hoặc ở những mức độ yêu cầu khác nhau.
1.6 BÀI TẬP PHÂN HĨA
Mục này được viết dựa trên dạy học phân hóa trong giáo trình phương
pháp dạy học mơn Tốn của Nguyễn Bá Kim [9].
1.6.1 Khái niệm bài tập phân hóa
Bài tập phân hóa là những bài tập có ý đồ để những học sinh khác nhau
có thể tiến hành những hoạt động khác nhau phù hợp với trình độ phát triển
khác nhau của họ.
1.6.2 Tác dụng của bài tập phân hóa
Thơng qua bài tập phân hóa giúp học sinh khắc sâu tri thức, học sinh
trung bình và yếu kém nắm được kiến thức cơ bản; những học sinh khá giỏi
trên nền tảng của kiến thức cơ bản làm được những bài tập có tính tư duy,
sáng tạo từ đó phát huy trí tuệ.

24


1.7 MỐI QUAN HỆ GIỮA DẠY HỌC PHÂN HÓA VỚI CÁC PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC KHÁC
Thực tế giảng dạy cho thấy khơng có một phương pháp dạy học nào là
vạn năng, muốn giờ học đạt hiệu quả cao thì người giáo viên cần biết kết hợp
nhiều phương pháp, phương tiện dạy học khác nhau trong bài học để tạo
hứng thú cho học sinh và giờ học đạt kết quả cao nhất. Vì vậy, nên áp dụng
dạy học phân hóa với các phương pháp dạy học khác, sử dụng các phương
tiện dạy học khác trong quá trình dạy học. Sự phối hợp các phương pháp dạy

học khơng truyền thống có khả năng nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy
học. Giúp học sinh tích cực chủ động trong giờ học, là người làm chủ kiến
thức chứ không phải tiếp nhận tri thức một cách thụ động. Mỗi phương pháp
dạy học đề có ưu, nhược điểm khác nhau nên khi dạy học chúng ta nên kết
hợp nhiều phương pháp để phát huy được tối đa các ưu điểm và khắc phục
các nhược điểm của từng phương pháp. Cụ thể:
- Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, đặc biệt là trong những tình huống
dạy học khái niệm và dạy học các tri thức mới. Nếu trong phần gợi vấn đề chúng
ta kết hợp với dạy học phân hóa sẽ giúp cho tất cả các HS cùng tham gia vào quá
trình khám phá ra tri thức mới tùy theo năng lực của từng em. Làm như vậy khơng
chỉ những HS khá giỏi, có năng lực học tốn, có tư duy nhanh mới khám phá ra
những tri thức mới mà cả những HS có lực học trung bình và yếu cũng sẽ khám
phá ra những tri thức mới. Trong hệ thống những câu hỏi dẫn dắt HS đi tìm tri
thức mới, chúng ta cần quan tâm đến những câu hỏi mang tính tái hiện tri thức,
những câu hỏi khơng địi tư duy sâu để giúp những HS có nhận thức chậm cùng
tham gia, hịa mình vào q trình học tập chung của lớp. Khi kết hợp giữa dạy học
phân hóa với phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề chúng ta khơng chỉ xem
xét mặt tích cực của nó mà cần xét đến cả những mặt hạn chế để tìm ra cách khắc
phục để giờ học đạt được hiệu quả cao.
- Phương pháp dạy học chương trình hóa cũng có nhiều ưu điểm góp
phần vào việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của từng HS. Khi sử dụng
phương pháp này chúng ta dễ dàng đánh giá được năng lực học tập, sự tiến bộ
và những sai lầm thường hay mắc phải của từng HS. Dạy học chương trình
25


×