Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Phẫu thuật điều trị dị tật thừa ngón tay cái ở trẻ em tại bệnh viện việt – đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.01 KB, 60 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhờ có bộ não phát triển và đôi bàn tay linh hoạt, khéo léo mà con
người có thể cải tạo và thay đổi tự nhiên. Đôi bàn tay là một bộ phận quan
trọng của cơ thể, với cấu trúc phức tạp, nhờ đó mà con người có thể thực hiện
được những động tác tinh vi, khéo léo và đa dạng trong cuộc sống và lao động
hàng ngày để tạo ra các máy móc, công nghệ và của cải vật chất. Ngón cái
chiếm khoảng 40-50% chức năng của bàn tay nhờ những cử động rất rộng:
gấp, duỗi, khép, dạng, xoay, đối chiếu [1].
Thừa ngón tay là dị tật bẩm sinh thường gặp nhất trong các dị tật ở chi
trên [2]. Thừa ngón tay cái gặp ở khoảng 1/3000 trẻ sơ sinh, với tỉ lệ nam gấp
khoảng 2.5 lần nữ , chiếm khoảng 50% dị tật ngón cái nói riêng và 6.6% dị tật
bàn tay nói chung. Phần lớn, thừa ngón tay cái xuất hiện ở một tay, nhưng cũng
có thể ở cả hai tay, thường là hai ngón cái, nhưng cũng có thể có 3 hoặc 4 ngón
[1], [3], [4], [5], [6], [7].
Gọi là thừa ngón nhưng không đơn giản là bàn tay có một ngón cái bình
thường và một ngón thừa mà thường thấy cả hai ngón đều thiểu sản: ngón nhỏ,
ngắn, thiểu sản khớp, giảm vận động, gân ngoại lai và nội tại thiểu sản, bám tận
và bám vào nhau bất thường….Thừa ngón cái với những biến đổi giải phẫu của
da, tổ chức dưới da, móng, dây chằng, gân, xương, khớp … gây ảnh hưởng lớn
đến thẩm mỹ, chức năng của bàn tay và tâm lý của bệnh nhân [1], [8].
Có nhiều cách để phân loại thừa ngón tay nói chung và thừa ngón tay
cái nói riêng, nhưng cơ bản đều dựa trên phân loại của Wassel (1969) dựa trên
mức thừa xương của ngón cái. Trong đó, cách phân loại của Islam (1992)
tương đối đầy đủ và đơn giản, giúp ích cho phân loại và điều trị [9], [10].
Điều trị dị tật thừa ngón tay cái chủ yếu bằng phẫu thuật nhằm loại
bỏ phần thừa và tạo hình lại một ngón cái tốt hơn, tận dụng tối đa tổ chức


2



còn lại nhằm mang lại hiệu quả cao nhất về giải phẫu, chức năng và thẩm
mỹ. Để đạt kết quả tốt nhất, cần nắm chắc giải phẫu, sinh lý và chức năng
của bàn tay. Mỗi loại thừa ngón tay cái khác nhau có đặc điểm giải phẫu,
chức năng và hình thể khác nhau, từ đó cần lựa chọn phương pháp điều trị
phù hợp [1], [11], [12].
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu chuyên sâu vào đặc điểm lâm sàng,
phân loại, phẫu thuật và kết quả phẫu thuật điều trị dị tật thừa ngón tay cái.
Các tác giả đều khuyên nên phẫu thuật sớm ở độ tuổi dưới 2 tuổi [10], [13],
[14], [15]. Tuy nhiên, ở Việt Nam còn rất ít nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về
dị tật này, và bệnh nhân thường đến khám và điều trị muộn do không có kiến
thức đầy đủ về bệnh và các phương pháp, mục đích điều trị dị tật này [16],
[17], [18],[19], [20], [21]
Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Phẫu thuật điều trị dị tật
thừa ngón tay cái ở trẻ em tại bệnh viện Việt – Đức”với hai mục tiêu chính:
1.

Mô tả đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh, phân loại dị tật

2.

thừa ngón tay cái bẩm sinh.
Đánh giá kết quả điều trị dị tật thừa ngón tay cái bẩm sinh ở trẻ em
tại bệnh viện Việt – Đức.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN


3


1.1. PHÔI THAI HỌC, GIẢI PHẪU, SINH LÝ BÀN TAY VÀ NGÓN CÁI

1.1.1. Phôi thai học hình thành chi trên
Sự phát triển về hình thái học của chi trên được tính từ khi thụ thai đến
khi hình thành các cấu trúc cơ bản của chi. Ở người, thời gian này kéo dài đến
8 tuần sau khi thụ tinh. Giai đoạn tạo cơ quan từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 8.
Giai đoạn này rất dễ bị ảnh hưởng bởi các tác nhân gây quái thai gây nên các
di tật bẩm sinh nói chung và dị tật chi nói riêng. Vào tuần thứ 4 của phôi,
mầm chi trên được hình thành từ bụng bên của phôi. Mầm chi trên mở rộng từ
đoạn cơ thứ 8 đến thứ 12 tương ứng với đốt sống cổ 6 tới đốt sống ngực thứ
2. Từ tuần thứ 5, chi phát triển, duỗi thẳng ra để tạo thành hố nách. Vào ngày
thứ 37, đĩa bàn tay hình thành mỏng dẹt như mái chèo, với các nhú nhỏ mọc
ra các ngón tay. Mạch đi vào cấp máu cho bề mặt ngoại bì và thần kinh đi
kèm. Không lâu sau, mầm sụn mọc xung quanh và các khớp được hình thành.
Tuần thứ 8, sự phân chia các ngón tay được hình thành, ngón cái tách ra so
với các ngón khác và sự phát triển về hình thái của chi trên hoàn thành với
chiều dài khoảng 3cm [3], [22], [23].
1.1.2. Đặc điểm giải phẫu, sinh lý bàn tay
1.1.2.1. Xương bàn tay
Có 27 xương, bao gồm:
• Xương cổ tay
Gồm 8 xương xếp thành 2 hàng, họp thành một khối hình lồi cầu gọi là
tụ cốt tay. Hàng trên gồm xương thuyền, nguyệt, tháp, đậu. Hàng dưới gồm
xương thang, thê, cả, móc.


Xương đốt bàn tay
Gồm 5 xương đốt bàn tay, đầu trên tiếp khớp với xương cổ tay, đầu dưới


tiếp khớp với đốt 1 ngón tay.
• Xương đốt ngón tay
Mỗi ngón có 3 đốt, trừ ngón cái có 2 đốt. Có thể gọi tên bằng cách đánh
số từ đầu trung tâm ra ngoại vi hoặc gọi là đốt gần, đốt giữa, đốt xa với các


4

ngón có 3 đốt (tương ứng là đốt 1, đốt 2, đốt 3) và gọi là đốt gần và đốt xa với
ngón cái (tương ứng là đốt 1 và đốt 2) [24-27].

Hình 1.1: Các xương của cổ, bàn tay [28]
1.1.2.2. Cân bàn tay


Cân sâu
Căng từ xương đốt bàn 1 tới xương đốt bàn 5, che phủ các xương đốt

bàn tay và các cơ liên cốt. Cân gan tay sâu chia tay làm hai ngăn: ngăn sâu
(hay ô liên cốt) và ngăn nông.
• Cân nông
Bọc phủ bàn tay và dính ở hai rìa bàn tay vào xương đốt bàn 1 và 5. Cân
gan tay nông tách ra hai vách liên cơ: trong và ngoài chia ngăn nông làm 3 ô:
ô gan tay giữa, ô mô cái và ô mô út. Cân gan tay lại tách ra các thớ xiên dính
vào cân sâu và tạo ra các đường hầm để cho các gân gấp, cơ giun và bó mạch
thần kinh ngón tay chạy qua. Ở ngón tay, cân xe chặt các thớ và biến thành


5


các bao sợi, bao này dính vào xương biến ngón tay thành các ống nửa xương
nửa sợi để các gân gấp chui qua [24-27].
1.1.2.3. Gân, cơ ở bàn tay


Ô mô cái gan tay
Có 4 cơ đi từ các xương cổ tay tới ngón cái, gồm: cơ dạng ngắn ngón

cái, cơ gấp ngắn ngón cái, cơ đối chiếu ngón cái và cơ khép ngón cái ngắn.
Có 2 gân ở cẳng tay đi xuống là: gân cơ dạng dài và gấp dài ngón cái.
• Ô mô út gan tay
Có 4 cơ gồm: cơ gan tay bì, cơ dạng ngón út, cơ gấp ngắn ngón út và cơ
đối chiếu ngón út.
• Ô gan tay giữa
Có 4 cơ giun nằm ở ô gan tay giữa, nối gân gấp sâu và gân duỗi ngón
tay. Nằm ở ô gan tay giữa còn có các gân gấp từ cẳng tay đi xuống. Ở ngăn
sâu, giữa các xương đốt bàn tay có 8 cơ liên cốt bao gồm 4 cơ liên cốt gan tay
và 4 cơ liên cốt mu tay
Ngoài ra, ở mu tay còn có các gân duỗi ở cẳng tay đi xuống, che phủ
bằng da và không có cơ [24-27].


6

Hình 1.2: Các cơ nội tại của bàn tay [28]
1.1.2.4. Bao hoạt dịch
Bao hoạt dịch bọc quanh các gân cơ gấp. Gồm 3 loại:


Bao hoạt dịch quay: bọc gân gấp dài ngón cái, đi từ nền đốt 2 ngón cái, bao

chạy qua ô mô cái và ống cổ tay đến trên mạc hãm các gân gấp 2-3 cm, nằm



trên cơ sấp vuông.
Bao hoạt dịch trụ: bọc gân gấp ngón út,đi từ nền đốt 3 ngón út tới trên mạc
hãm gân gấp 3-4 cm. Ở gan tay, bao hoạt dịch bọc cả gân gấp nông và sâu của
ngón nhẫn, ngón giữa nên chia thành 3 tầng hoạt dịch trên, giữa, dưới gân.



Lên cổ tay bọc thêm gân gấp ngón trỏ nên có tới 4 tầng hoạt dịch.
Bao hoạt dịch gân gấp các ngón tay giữa: bọc gân gấp ngón trỏ, ngón giữa và
ngón nhẫn, đi từ nền đốt 3 các ngón tay đến trên khớp đốt bàn ngón tay
khoảng từ 1-1.5 cm [24-27].
1.1.2.5. Động mạch


7



Cung động mạch gan tay nông
Tạo nên bởi sự tiếp nối giữa động mạch trụ và nhánh gan tay nông của
động mạch quay. Cung này nằm trên các gân cơ gấp, áp ngay dưới cân gan tay
giữa, tách ra 3 nhánh động mạch gan ngón tay chung, rồi tách ra thành các động



mạch gan ngón tay riêng cấp máu cho bờ trụ ngón 2, và 2 bở các ngón 3,4,5.

Cung động mạch gan tay sâu
Do động mạch quay và nhánh gan tay sâu của động mạch trụ tạo nên.
Cung này nằm áp vào xương đốt bàn tay 3,4 ở trong ô liên cốt, tách ra các
nhánh nhỏ cho cổ tay, 4 động mạch liên cốt gam tay (3 nhánh chảy vào động
mạch gan ngón tay riêng của cung nông), động mạch liên cốt 1 tách ra 2
nhánh là động mạch chính ngón cái và động mạch quay ngón trỏ cấp máu cho
ngón cái và bờ quay ngón trỏ, 3 động mạch xiên chảy vào động mạch liên cốt



mu tay của cung động mạch mu cổ tay.
Cung động mạch mu cổ tay
Do 2 nhánh mu cổ tay của động mạch quay và trụ tạo nên [24-27].
1.1.2.6. Thần kinh



Thần kinh giữa
Đi trong ống cổ tay, dưới dây chằng vòng, chia ra các nhánh vận động
các xơ mổ cái (trừ cơ khép và bó sâu cơ gấp ngắn ngón cái), cơ giun 1 và 2;
cảm giác ngón 1, 2, 3 và nửa ngoài ngón 4 ở gan tay, ở mu đốt 2, 3 của ngón
2, 3 và nửa ngoài mu đốt 2, 3 của ngón 4.
• Thần kinh trụ
Thần kinh trụ khi tới dưới xương đậu thì chia các nhánh vận động cho
các cơ mô út, các cơ liên cốt mu và gan tay, cơ giun 3, 4, cơ khép ngón cái và
bó sâu cơ gấp ngắn ngón cái; cảm giác cho ngón 5, nửa trong ngón 4 ở gan
tay và nửa trong của mu tay (trừ mu đốt 2, 3 ngón 3 và nửa ngoài mu đốt 2, 3
ngón 4 do dây thần kinh giữa chi phổi).
• Thần kinh quay



8

Nhánh trước cảm giác của dây thần kinh quay luồn dưới cơ ngửa dài,
chày ra mu tay chia các nhánh cảm giác một phần ô mô cái (ở gan tay) và nửa
ngoài mu tay, mu đốt 1 ngón 1, 2 và nửa ngoài mu đốt 1 ngón 3 [24-26].
1.1.3. Đặc điểm giải phẫu, sinh lý ngón tay cái
1.1.3.1. Xương
Ngón cái có 1 xương đốt bàn tay và 2 xương đốt ngón tay 1 và 2. Xương
đốt bàn ngón cái tiếp khớp với xương thang của cổ tay.
1.1.3.2. Khớp
Cử động của ngón cái rất rộng, đó là nhờ 3 khớp:


Khớp cổ tay – đốt bàn ngón cái: là khớp giữa xương thang và đốt bàn ngón 1,
là khớp quan trọng nhất của ngón cái, có hình dáng kiểu yên ngựa. Khớp này
bình thường có bao khớp lỏng lẻo và là khớp cử động được nhiều nhất.
Xương đốt bàn 1 quay quanh đốt bàn 2 như cách buồm quanh quanh cột, nó
vừa xoay vừa rời xa đốt bàn 2, giúp cho ngón cái đối chiếu được với các ngón
khác, nhờ đó mà bàn tay cầm nắm được. Tại khớp này, ngón cái và xương đốt
bàn 1 có thể dạng, khép, đối chiếu và nghỉ đối chiếu được nhờ 4 cơ nội tại của
mô cái phối hợp với 4 cơ ngoại lai ( cơ duỗi dài, duỗi ngắn, dạng dài, gấp dài
ngón cái), cử động dạng ra phía xương quay đạt 35-70 0, khép đạt 100, dạng ra
phía trước gan tay đạt 700 và cử động đối chiếu tư từ thế nghỉ đối chiếu tối đa




đạt 45-600.
Khớp đốt bàn – ngón cái: là khớp ròng rọc, chỉ cho phép gấp duỗi.

Khớp gian đốt ngón cái: là khớp ròng rọc, chi cho phép gấp duỗi.


9

1.1.3.3. Gân, cơ, dây chằng


Các cơ khép ngón cái gồm: cơ khép ngón cái, liên cốt mu tay 1, gấp ngắn







ngón cái, đối chiếu ngón cái.
Các cơ dạng ngón cái gồm: cơ dạng dài, dạng ngắn.
Các cơ đối chiếu: cơ đối chiếu, gấp dài, gấp ngắn ngón cái.
Các cơ nghỉ đối chiếu: cơ dạng dài, duỗi dài, duỗi ngắn ngón cái.
Các cơ gấp ngón cái: cơ gấp dài, gấp ngắn ngón cái.
Các cơ duỗi ngón cái: cơ duỗi dài, duỗi ngắn ngón cái.
1.1.3.4. Mạch máu
Động mạch quay tận hết bằng cách đi ra phía sau nền đốt bàn ngón cái,
tiếp hợp với nhánh gan tay nông của động mạch trụ tạo thành cung động
mạch gan tay sâu. Ngay sau khi đi qua mặt sau nền đốt bàn ngón cái, cung
động mạch gan tay sâu tách ra nhánh động mạch liên cốt gan tay 1, đến giữa
đốt bàn tách ra 2 nhánh: động mạch chính ngón cái và động mạch quay ngón
trỏ. Động mạch chính ngón cái tách sớm thành 2 động mạch riêng ngón cái đi
dọc 2 bờ ngón cái (trước khi đến khớp đốt bàn – đốt 1 ngón cái) nuôi dưỡng

cho phần gan tay. Phần mu ngón cái được cấp máu từ các nhánh của động
mạch quay tách ra ở đỉnh kẽ ngón thứ nhất.
Các tĩnh mạch ở ngón tay có 2 hệ thống: hệ thống tĩnh mạch sâu đi kèm
theo động mạch mặt gan, và hệ thống tĩnh mạch nông nhỏ dày đặc làm nhiệm
vụ hồi lưu máu về.



1.1.3.5. Thần kinh
Vận động
Thần kinh giữa: vận động các cơ: dạng ngắn, đối chiếu, bó nông cơ gấp
ngắn, gấp dài ngón cái.
Thần kinh trụ: chi phối vận động bó sâu cơ gấp ngắn, khép ngón cái, liên
cốt mu tay 1.
Thần kinh quay: chi phối vận động cho cơ dạng dài, duỗi dài, duỗi ngắn
ngón cái.


10



Cảm giác
Thần kinh giữa cảm giác mặt gan tay và mu đốt 2 ngón cái.
Thần kinh quay cảm giác mặt mu đốt 1 ngón cái [24-26].

Hình 1.3: Động mạch và thần kinh của bàn tay (mặt gan) [28]
1.2. PHÂN LOẠI DỊ TẬT THỪA NGÓN TAY CÁI

Swanson (1964) đưa ra phương pháp phân loại dị tật chi bẩm sinh theo

phần tổn thương do thiếu hụt trong thời kỳ bào thai, gồm 7 nhóm. Dị tật thừa
ngón là nhóm III (Duplication) [29]. Có nhiều cách phân loại thừa ngón tay
cái, nhưng hiện nay, cách phân loại đơn giản, dễ sử dụng và áp dụng rộng rãi
nhất chủ yếu dựa trên phân loại của Wassel [9].


11

1.2.1. Phân loại thừa ngón tay cái theo Wassel
Wassel (1969) dựa vào mức thừa của xương ngón cái phân chia thừa



ngón cái thành 7 loại, bao gồm:
Loại I: Đốt ngón 2 tách đôi một phần (2%).
Loại II: Đốt ngón 2 thừa hoàn toàn: có hai đốt ngón 2 riêng biệt tiếp khớp với



một đốt ngón 1 (15%).
Loại III: Đốt ngón 2 thừa hoàn toàn, đốt ngón 1 tách đôi tiếp khớp với hai đốt



ngón 2 (6%).
Loại IV: Đốt ngón 1 thừa hoàn toàn, hai ngón cái có đốt ngón 1, 2 riêng cùng



khớp với đốt bàn (43%).

Loại V: Đốt ngón 1 thừa hoàn toàn, đốt bàn tách đôi kiểu chứ Y, mỗi nhánh



của chữ Y tiếp khớp với một ngón cái riêng (10%).
Loại VI: Đốt bàn thừa hoàn toàn, mỗi ngón có đốt bàn và 2 đốt ngón riêng



(4%).
Loại VII: Hai ngón cái với ngón cái 3 đốt (20%) [9].

Hình 1.4: Phân loại thừa ngón cái theo Wassel (1969)
1.2.2. Phân loại thừa ngón tay cái theo Islam
Islam (1992) qua nghiên cứu giải phẫu 158 trường hợp, phân thành 8
loại dựa trên cách phân loại của Wassel, có bổ sung loại VIII: thừa ngón cái
phụ (tương tự của Tada (1983)). Phân loại này khá đầy đủ, đơn giản và dễ áp
dụng rộng rãi [10, 15].
1.2.3. Phân loại thừa ngón tay cái theo Hung L và cộng sự


12

Hung L và cộng sự (1996) mở rộng phân loại của Wassel chia loại IV



thành 4 loại nhỏ:
Loại IV a: ngón bờ quay thiểu sản hoặc chỉ ở dạng vết.
Loại IV b: ngón bờ quay thiểu sản nhẹ, hai ngón cái có trục hướng về phía bờ





trụ.
Loại IV c: hai ngón cái có kích thước đề nhau.
Loại IV d: hai ngón cái tách xa nhau, xương đốt xa hướng vào nhau như càng
cua, khớp liên đốt biến dạng uốn, gập góc và xoay [30].
1.2.4. Một số phân loại khác



Phân loại Tada (1983): dựa trên 156 trường hợp, cũng chia thừa ngón cái
thành VII loại, loại I đến loại VI tương tự Wassel,nhưng khác loại VII: thừa
ngón cái thừa phụ (floating), không có liên quan xương hoặc khớp với ngón
chính. Tác giả không xếp loại VII Wassel vì cho rằng đây là một dạng khác và



cách phân loại không dựa trên mức thừa ngón [15].
Phân loại của Ogino và cộng sự (1996): qua 113 trường hợp thừa ngón cái
được phẫu thuật từ 1976 – 1991 thấy rằng có những loại và Wassel không đề
cập đến như thừa ngón cái phụ, thừa ngón lệch về phía quay (cả 2 ngón đều
lệch về phía quay) hoặc loại kết hợp với thiểu sản cơ mô cái. Việc xếp loại
này vào phân loại Wassel rất khó, mặt khác, tác giả còn thấy loại thừa ngón
cái 3 đốt xuất hiện ở cả loại III, IV, V, VI của Wassel. Vì vậy, Ogino đưa thêm
loại thừa ngón cái phụ và loại lệch về phía quay vào phân loại của Wassel và
loại thừa ngón cái 3 đốt không được xếp thành loại riêng (loại VII Wassel) mà




được phân loại theo mức thừa ngón cái [14].
Phân loại theo S.Guero (1995): dựa theo ứng dụng phẫu thuật chia thành 2

-

loại:
Loại xa: tương ứng loại I, II, III Wassel, phẫu thuật chủ yếu là sửa chữa múp

-

ngón, móng và giường móng.
Loại gần: tương ứng loại IV, V, VI Wassel, phẫu thuật chủ yếu là khâu lại chỗ
bám của cơ mô cái và mở rộng khoảng kẽ ngón 1-2 [31].
1.3. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG DỊ TẬT THỪA NGÓN TAY CÁI


13

1.3.1. Biến đổi giải phẫu
1.3.1.1. Kích thước
Ngón to hơn bình thường: thừa ở mức đốt 2 (loại I, II).
Hai ngón đều bé hơn ngón cái bình thường ở tay kia ( loại III, IV, V, VI).
Nếu chỉ cắt đơn thuần một ngón, ngón giữ lại thường thiểu sản. Có thể tăng
kích thước bằng cách chuyển vạt từ ngón cắt bỏ, phần mô mềm sẽ cải thiện
dinh dưỡng và kích cỡ của ngón [32].
Thường thấy thiểu sản ở phần giữa hai ngón cái nên ngón cái bé, ngắn
hơn bình thường, cũng có thể dài hơn bình thường trong trường hợp ngón cái
có 3 đốt (loại VII) [8].
1.3.1.2. Da, tổ chức dưới da

Bao quanh toàn bộ trục xương nên ngón cái trông như một ngón lớn
hoặc bao bọc riêng mỗi trục xương [8].
1.3.1.3. Móng tay
Có thể có một móng duy nhất, to hơn bình thường, thường có một rãnh
dọc ở giữa (loại I, II).
Hai móng riêng biệt (loại III, IV), nhỏ hơn bình thường [8], [32].
1.3.1.4. Xương
Phần xương ngón cái rất thay đổi về hình dáng, kích thước. Xương có
thể thừa ở mức đốt bàn ngón, đốt 1, đốt 2: thừa một phần hoặc hoàn toàn,
cân xứng hoặc khác nhau về kích thước, độ dài. Boutros gặp một trường
hợp đặc biệt: có 2 đốt bàn trong khi chỉ có 1 đốt ngón 1, không có trong bất
cứ phân loại nào.
Xương ngón thừa chỉ là một mẩu nhỏ hoặc nằm ở khớp gian đốt ngón
kia (theo phân loại của Tada: Loại VII) [8], [15] .
Xương thiểu sản hay gặp ở ngón cái phía bờ quay, ngón phía bờ trụ
thường phát triển tốt hơn. Vì vậy, khi phẫu thuật thường hay cắt bỏ ngón thừa
phía bờ quay.


14

Có thể gặp hình dạng bất thường của đốt ngón hoặc đốt bàn: ví dụ xương
delta, khi phát triển tạo góc gây biến dạng về trục [6], [8], [33].
Thừa ngón cái 3 đốt: 1 hoặc cả 2 ngón cái có 3 đốt, ngón thừa có thể là
đốt hình delta hoặc hình chữ nhật [8], [34]. Tùy thuộc vào số lượng đốt và cấu
trúc khớp, xương sụn, S.Islam còn chia ngón cái 3 đốt thành 3 nhóm:


Nhóm 1: Ngón cái có 3 đốt nhưng không có khớp giữa các đốt ngón và đốt





bàn.
Nhóm 2: Ngón cái 3 đốt với 2 khớp giữa chúng.
Nhóm 3: ngón cái 3 đốt nhưng chỉ có 1 khớp gian đốt [35].
Xương đốt bàn 1 cũng có thể ngắn và khoang liên cốt 1 co lại [34].
1.3.1.5. Khớp
Khớp có thể bình thường.
Cứng khớp ở nhiều mức độ, thiểu sản, cốt hóa khớp. Mặt khác, khớp dẹt
gây hạn chế vận động khớp. Một số trường hợp khớp gian đốt hoặc khớp bàn
ngón bị cứng do khớp bán động sụn [32].
Diện khớp to ra hoặc có 2 diện khớp: hay gặp ở đốt bàn ngón (loại IV)
hoặc đốt 1 (loại II).
Chung một mặt khớp, một bao khớp và hệ thống dây chằng bên. Khi
tách rời một khớp như vậy dễ dẫn đến thiếu hụt cấu trúc ở các bờ của khớp
hoặc khớp không vững [8].
Dây chằng bên: đảm bảo cho khớp vững và thẳng trục. Trường hợp thừa
ở mức đốt 2 (loại II) hoặc đốt 1 (loại IV) chỉ có 2 dây chằng bên giữ 2 ngón
cái. Ngón phía bờ quay có 1 dây chằng bên quay trong khi ngón phía bờ trụ
có 1 dây chằng bên trụ. Hai ngón được giữ với nhau ở giữa do sự cốt hóa thứ
phát, chỗ này thường ở trong khớp. Nếu cắt bỏ một ngón mà không tái tạo lại
dây chằng thì ngón dữ lại sẽ không vững và lệch trục [32].
1.3.1.6. Gân, cơ
Không có gân, thiểu sản hoặc bất thường về vị trí, số lượng của gân nội
tại và ngoại lai.


15


Gân bám lệch tâm và vào 2 bờ xương nên thường thấy nghiêng các đốt
sang hai bên.
Cơ dạng ngắn, đối chiếu, bó nông cơ gấp ngắn, nếu có, thường bám vào ngón
bờ quay. Bó sâu cơ gấp ngắn, cơ khép, cơ liên cốt mu tay 1 bám vào bờ trụ [8].
Các gân gấp và duỗi từ cẳng tay xuống bám vào nhau hoặc bám vào vị
trí bất thường. Gân gấp dài thường bám vào ngón phía bờ trụ. Gân dạng dài,
duỗi dài thường bám vào ngón phía bờ quay. Vì vậy, khi cắt bỏ một ngón nếu
không khâu phục hồi lại các gân này sẽ làm cho ngón giữ lại gấp yếu hoặc
không gấp được (nếu cắt bỏ ngón phía bờ trụ) hoặc ngón bị khép hoặc không
duỗi được ( nếu cắt bỏ ngón phía bờ quay).
Giữa gân gấp và gân duỗi có dải cân chung khiến cho khớp nghiêng và
phát triển bất thường gây ra biến dạng ngón cái.
Một gân tách đôi và bám vào từng ngón, giữa chúng nối với nhau bằng
những sợi ngang [1], [8], [34].
1.3.1.7. Mạch máu, thần kinh
Những bất thường thay đổi tùy theo mức độ thiểu sản, có thể gặp:




Các mạch máu, thân kinh phân chia thành nhánh nhỏ.
Một hệ thống mạch máu, thần kinh chung cho cả 2 ngón.
Hệ thống mạch máu, thần kinh riêng cho mỗi ngón.
Theo Kitayama: 74% các trường hợp chỉ có một động mạch cho cả 2
ngón. Khi cắt bỏ một ngón phải chắc là ngón giữ lại có đủ mạch máu, thần
kinh. Kitayama và Tsukada qua nghiên cứu cự cấp máu của 2 ngón cái cho
rằng loại thừa ngón cái 3 đốt là một dạng thừa ngón khác vì ưu thế của cung
động mạch gan tay nông khi phân nhánh cho động mạch ngón tay [8].
1.3.1.8. Mối quan hệ giữa 2 ngón cái với nhau và với bàn tay
Hai ngón cân xứng và nghiêng về hai bên của trục ngón tay.

Một ngón nhỏ hơn, nằm ở bờ quay hoặc bờ trụ của ngón kia, thậm chí
ngón thừa chỉ là một nhú da nằm lồi lên.
Ngón bờ quay thường thiểu sản hơn ngón bờ trụ.


16

Tuy nhiên, hay gặp nhất là bất thường vị trí: ngón cái bình thường ở vị
trí 90o so với mặt phẳng các ngón tay có thể nằm trên cùng một mặt phẳng với
các ngón khác. Ngón thừa có thể nằm ở khoang liên cốt 1.Thường gặp thừa
ngón ở 1 tay, thừa cả 2 tay cũng gặp nhưng tỷ lệ thấp [1], [8].
1.3.2. Các dị tật phối hợp
Dị tật thừa ngón cái có thể kèm theo một số dị dạng và hội chứng liên quan
đến hệ thống gân cơ, nội tạng, tạo máu, thần kinh…S.Guero phẫu thuật 106
trường hợp từ 1977 – 1992 thấy có 30% có dị dạng phối hợp [31]. Trong 237
bệnh nhân, Tada gặp 32 trường hợp (13.5%) có dị dạng phối hợp: 6 ở tay bên kia,













10 ở chân, 21 ở các cơ quan (có 5 bệnh nhân bị cả ở chân và cơ quan khác) [15].

Thừa ngón tay cái có thể kèm theo:
Dính ngón
Cong ngón
Bàn tay vẹo
Thừa, dính ngón chân [6], [8], [36].
Các hội chứng kèm theo thường gặp
HC thiếu máu Blackfan – Diamond
HC Bloom
HC tay – tim Holt – Oram
HC thừa dính ngón + ngắn xương sườn (Majewski).
HC thừa dính ngón + đầu hình tháp (Carpenter).
Các dị dạng phối hợp thường gặp:
Không có xương chày, dị dạng cột sống.
Hở vòm miệng, hẫu môn không đúng….[6], [8], [37], [38].
1.3.3. Các giả thuyết sinh bệnh học
Các nguyên nhân của dị tật này đến nay chưa được biết chính xác. Tuy
nhiên một số giả thuyết sau đây được chấp nhận nhiều nhất:
Nụ chi bắt đầu xuất hiện từ tuần thứ 3 thời kỳ bào thai, ngón cái phát
triển từ trung mô ở phía bờ quay của cuống bàn tay. Sự biệt hóa tất cả các yếu
tố của trục ngón cái hoàn thành vào tuần thứ 8. Vì vậy các hiện tượng gây ra
thừa ngón cái phải diễn ra trước tuần thứ 8 của thời kỳ bào thai. Mặc dù
người ta không biết chính xác điều gì xảy ra trong tử cung nhưng các nghiên


17

cứu gần đây cho rằng thừa ngón cái là do rối loạn phản ứng giữa lá phôi giữa
và trung mô ở nụ chi bên quay khi bắt đầu tăng sinh tế bào tối đa. Điều này
dẫn đến sự tách rời các thành phần của ngón cái: xương, gân, thần kình, mạch
máu với sự thiểu sản của mỗi bên [1], [29], [39].

Yasuda trong các nghiên cứu của mình cho rằng thừa ngón cái là biểu
hiện sự mất thăng bằng phản ứng giữa lá phôi ngoài và lá phôi giữa.
Scott và cộng sự thấy sự tiếp xúc của bào thai trong tử cung với cytóine
arabinoside và 5-flurodeoxyuridine dẫn đến sự tồn tại kéo dài của các tế bào
lá phôi ngoài cảm ứng, sự xuất hiện của chúng là nguồn gốc sự tăng trưởng
quá mức của lá phôi giữa là yếu tố quan trọng gây ra thừa ngón [32].
Vấn đề di truyền: thường được xem là di truyền qua nhiễm sắc thể trội
mặc dù các số liệu đưa ra không có sức thuyết phục [8]. Woolf nghiên cứu 33
trường hợp chỉ có 2 có lịch sử gia đình và 1 có ngón cái thừa ở 3 đốt [6].
S.Guero trong 106 trường hợp chỉ thấy 2% có nguồn gốc gia đình sơ với 14%
của Miura [31], [40]. Orioli thấy 9% di truyền qua nhiễm sắc thể trội [41].
Trong nghiên cứu trên 237 bệnh nhân từ 1960 – 1981, Tada gặp 19 trường
hợp (8%) có lịch sử gia đình: 3 trường hợp ở các cặp song sinh, 8 ở các anh
chị em ruột, 4 ở bố mẹ và 4 ở họ hàng cũng có dị tật này [15]. Gần đây, nhiều
tác giả phát hiện thấy trong một số trường hợp thừa ngón cái được di truyền
qua nhiễm sắc thể 7q36 [42], [43], [44], [45], [46].
1.4. ĐIỀU TRỊ DỊ TẬT THỪA NGÓN TAY CÁI

Chủ yếu là phẫu thuật
1.4.1. Chỉ định




Phẫu thuật được chỉ định cho hầu hết trường hợp thừa ngón tay cái
Chỉ có rất ít trường hợp không phẫu thuật:
Ngón thừa chỉ là một nhú phần mềm rất nhỏ.
Ngón cái lớn hơn bình thường nhưng 2 ngón đối xứng và không tách đôi.



18

Chỉ định phẫu thuật không chỉ nhằm đạt được số lượng ngón bình
thường mà còn là giá trị thẩm mỹ và chức năng: trục, vị trí, độ vững, hình
dáng, chiều dài, kích thước và vận động ngón cái [8].
1.4.2. Tuổi phẫu thuật
Chức năng cầm nắm của bàn tay phát triển vào giữa tháng thứ 4 và 7.
Chức năng của ngón cái xuất hiện vào tháng thứ 12 và khả năng vận động tự
chủ xuất hiện vào tháng thứ 18. Kiểu bàn tay chức năng phát triển từ 2-3 tuổi.
Do vậy, phẫu thuật nên được tiến hành giữa 1-2 tuổi. Mặt khác, phẫu thuật ở
thời điểm này làm giảm nguy cơ của gây mê và chảy máu từ xương rất hay
gặp ở trẻ nhỏ [1], [8], [39], [34].
Có nhiều ý kiến khác nhau đối với việc lựa chọn thời điểm phẫu thuật tốt
nhất cho dị tật thừa ngón tay cái.
Một số tác giả phẫu thuật muộn vì khi đó các cấu trúc giải phẫu đã rõ
ràng, thuận tiện cho việc can thiệp [15].
Nếu phẫu thuật quá sớm sẽ khó nhận thấy các bất thường giải phẫu và
khó đạt kết quả tốt với nguy cơ biến dạng tăng lên sau mổ. Tuy nhiên, nếu
phẫu thuật sớm sẽ có những ưu điểm sau:
-

Một số bất thường giải phẫu nếu không được can thiệp sớm sẽ dẫn đến biến
dạng lệch trục, gấp góc, xoay trục … ngày càng trầm trọng.

-

Ngón tay mới được tạo hình sớm có điều kiện phục hồi chức năng trước khi
chức năng của ngón được hình thành đầy đủ.

-


Giải quyết vấn đề tâm lý cho bệnh nhân và gia đình [2].
Theo Tada, thời gian thích hợp nhất là từ 6 tháng tuổi đối với loại I – VI
và 3 tháng tuổi đối với loại thừa ngón cái phụ [15].
Theo Marks và Bayne, thời gian này là 3 năm trong khi Ogino là 10 – 12 tháng
[14], [39].
Leclereq cho rằng phẫu thuật quá sớm thì các cấu trúc giải phẫu rất nhỏ,
nhưng có thể tránh được cứng khớp, thời gian đối với loại I đến loại VI là 12
– 18 tháng, loại thừa ngón cái phụ là dưới 12 tháng [47].


19

Lựa chọn thời điểm phẫu thuật phụ thuộc vào:
-

Loại dị tật thừa ngón: đơn giản hay phức tạp, mức độ biến dạng giải phẫu,
chức năng bị ảnh hưởng nhiều hay ít.

-

Các dị tật khác kèm theo: dị tật ở tim, hệ tiêu hóa, tiết niệu… cần ưu tiên xử
trí các dị tật này trước. Bệnh nhân mắc các bệnh về tâm thần, không có chỉ
định phẫu thuật.

-

Kinh nghiệm của phẫu thuật viên, khả năng gây mê, hồi sức, trang thiết bị y
tế…[2]
1.4.3. Nguyên tắc điều trị

Đánh giá trước mổ: Loại thừa ngón, mức độ thiểu sản của mỗi ngón, độ
vững của khớp, lệch trục của xương, co khép của ngón cái… khi lựa chọn phương
pháp phẫu thuật vì những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến kết quả [14].
Mê tĩnh mạch hoặc gây tê đám rối cánh tay. Garo hơi.
Phẫu thuật: phẫu tích tỷ mỉ, không gây tổn thương, bộc lộ và đánh giá sự
biến đổi giải phẫu của da, phần mềm, xương, khớp, gân cơ, mạch máu, thần



kinh [32], [47].
Da, phần mềm: cố gắng giữ tối đa, tận dụng da, phần mềm từ ngón cắt bỏ để tạo



hình cho ngón được giữ lại có hình dáng, kích thước gần như bình thường.
Móng tay: thường giữ lại ngón cùng với móng của nó. Đối với trường hợp
chỉ có 1 móng và to: cắt bỏ mầm móng, nên cắt bỏ phần mầm móng bên
quay hoặc trụ vì cắt bỏ phần giữa mầm móng có thể để lại rãnh dọc giữa
móng. Quan điểm về tạo hình thẩm mỹ: khi kích thước mỗi móng nhỏ hơn
80% kích thước móng bình thường thì cần tạo hình lại móng từ hai móng



của 2 ngón tay [48].
Xương: tùy theo mức độ có thể cắt bỏ một phần hoặc hoàn toàn đốt bàn, đốt
ngón 1, 2 của một ngón. Kết hợp xương bằng chỉ thép hoặc kim Kirschner.



Nếu cần có thể đục xương sửa trục.

Khớp: cần tạo diện khớp bình thường như đục bỏ một diện khớp đốt bàn ngón
với loại IV [49].


20



Dây chằng: cần giữ lại hệ thống dây chằng bên khi cắt bỏ một ngón, có thể



tăng độ vững của dây chằng bằng các tổ chức phần mềm bên ngón.
Gân, cơ: khâu lại đúng vị trí giải phẫu đối với gân bám lệch trục hoặc bất
thường để đảm bảo chức năng của khớp và cân bằng lực cơ, khâu lại chỗ bám
của các gân cơ vào ngón đã cắt bỏ. Cắt bỏ dài gân chung giữa gân gấp và gân



duỗi, nếu thiếu hoặc thiểu sản gân cần ghép gân.
Mạch máu, thần kinh: bảo tồn tối đa để đảm bảo nuôi dưỡng, cảm giác, vận
động cho ngón giữ lại, tránh nguy cơ hoại tử hoặc thiểu dưỡng sau mổ.
Có thể bất động bằng băng hoặc nẹp bột qua khuỷu, khuỷu gấp 90o.
Chăm sóc, theo dõi sau mổ.
Luyện tập, phục hồi chức năng [1], [8], [11], [50].
1.4.4. Các phương pháp phẫu thuật
Gồm 3 kỹ thuật chính




Cắt bỏ
Đơn giản nhất, cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ ngón thừa. Thường chỉ áp
dụng trong những trường hợp ngón giữ lại gần như bình thường và ngón cắt
bỏ nhỏ, nằm ngoài trục xương của ngón giữ lại. Trong những trường hợp
khác, cắt bỏ đơn thuần không đem lại kết quả thẩm mỹ và chức năng tối đa,
làm tăng nguy cơ biến dạng, ngón yếu hoặc không vững khi trẻ lớn, vì vậy
ngày nay ít được sử dụng.



Kết hợp
Phẫu thuật Bilhaut – Cloquet: Cắt bỏ hình chêm giữa phần giữa của hai
ngón, phần còn lại được ghép với nhau, thường được áp dụng với loại I và II.
Giường móng được ghép lại thành một móng. Kết hợp hai xương bằng chỉ
thép hoặc đinh. Ưu điểm: có thể tạo ra một ngón có kích thước gần như bình
thường. Phẫu thuật dễ nếu hai ngón cân xứng về hình dạng, kích thước và sự
sai lệch của các đoạn nhỏ. Tuy nhiên phẫu thuật này có nhiều nhược điểm: rối
loạn sự phát triển của đốt ngón, co cứng khớp gian đốt và biến dạng móng
tay. Phẫu thuật này có thể mở rộng để kết hợp hai ngón đối xứng (từ loại III


21

trở lên) hoặc không đối xứng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố tạo thêm sự phức tạp để
nắn chỉnh đều gây cản trở chức năng và thẩm mỹ. Theo Ogino, chỉ nên thực
hiện phẫu thuật Bilhaut Cloquet khi cả hai ngón thiểu sản nặng nhưng cân
xứng nhau và chiều rộng của mỗi móng tay bé hơn 2/3 móng bình thường.
Thực tế có nhiều tác giả thay đổi phẫu thuật này, sử dụng phần xương
của một ngón nhưng được tăng cường bởi chuyển da, mô mềm từ ngón bị cắt
bỏ. Điều này giúp cho ngón cái có kích thước tương đối bình thường và tránh

được cứng khớp. Nếu các gân ngoại lai và nội tại không đủ hoặc bám chính
vào phần cắt bỏ, chúng phải được chuyển cho ngón còn lại. Mạch máu, thần
kinh phải được kiểm tra kỹ để chắc chắn đảm bảo nuôi dưỡng mô còn lại.
Phẫu thuật Kélikian: cắt bỏ toàn bộ ngón cái thiểu sản hơn, đục xương
sửa trục nền đốt ngón 1 để chỉnh lại trục ngón cái.
Phẫu thuật Cheng: cắt bỏ một trong hai ngón, giữ lại một phần móng và
phần mềm.


Sửa chữa
Được áp dụng khi cần một sốt thay đổi hoặc sửa lại những biến dạng còn
lại hoặc thứ phát sau mổ. Thường gặp ở những bệnh nhân đã được điều trị
bằng cách cắt bỏ đơn thuần, không khâu lại chỗ bám gân, không sửa xương,
bất thường thân xương hoặc khớp không vững. Thậm chí ngay cả những biến
dạng đã được sửa chữa vẫn có thể gặp biến dạng thứ phát.
Thiếu hụt nếp móng có thể sửa chữa với mô tại chỗ hơn là mượn phần
nếp móng từ ngón kia. Gân bám bất thường hoặc lệch tâm được giải phóng
toàn bộ hoặc một phần và được khâu lại chỗ bám. Trục xương bất thường để
sửa trục và nắn lại. Khớp không vững được làm vững bằng sửa chữa dây
chằng bao khớp hoặc làm cứng sụn, đôi khi cần làm cứng khớp đối với bệnh
nhân lớn. Sửa sẹo da, cắt bó xương lồi làm cứng khớp khi bệnh nhân đã hết
tuổi phát triển.
Bệnh nhân nên được theo dõi chặt chẽ tới khi ngừng lớn vì hiếm khi
ngón cái bình thường hoàn toàn nhưng có thể được cải thiện bằng sữa chữa


22

thì 2. Điều này được áp dụng cho tất cả các kiểu phẫu thuật để tạo ra ngón cái
có trục, chiều dài, kích thước, độ vững và vận động tốt nhất [1], [8], [15],

[31], [39], [40].
1.4.5. Điều trị cụ thể cho từng loại




(Theo phân loại của Wassel)
Loại I:
Cắt bỏ ngón bờ quay (thường thiểu sản hơn).
Phẫu thuật Bilhaut Cloquet [1].
Loại II:
Cắt bỏ ngón thiểu sản hơn, thường là ngón bờ quay.
Sửa mặt khớp của chỏm đốt ngón 1, gọt sụn khớp, khâu lại dây chằng
bên và bao khớp phía ngón cắt bỏ vào ngón giữ lại.
Khâu lại đúng vị trí gân gấp, duỗi. Chuyển gân duỗi của ngón cắt bỏ tới



nền đốt 2 để sửa lệch trục của khớp gian đốt.
Đục xương sửa trục đốt ngón 1 nếu khớp gian đốt 1-2 còn lệch trục [1].
Nếu 2 ngón cân xứng: phẫu thuật Bilhaut Cloquet [37].
Loại III:
Cắt bỏ ngón thừa, đảm bảo độ vững và trục khớp gian đốt.
Khâu lại gân gấp, duỗi, tạo hình khớp (như loại II).
Một số tác giả sử dụng kỹ thuật khác: thay đổi phẫu thuật Bilhaut



Cloquet (Cheng) hoặc phẫu thuật Kélikian, áp dụng cho cả loại I và II [13].
Loại IV:

Cắt bỏ ngón thiểu sản hơn, thường là ngón bờ quay. Trường hợp ngón
giữ lại vẫn nhỏ: tăng cường thêm bằng vạt từ ngón cắt bỏ.
Đốt bàn thường có hai diện khớp và mặt khớp không tương ứng với đốt
I, cần sửa mặt khớp của chỏm đốt bàn, gọt sụn khớp, khâu lại dây chằng bên
(tương tự loại II).
Cơ dạng ngắn ngón cái thường bám vào ngón bờ quay, cần chuyển cho
ngón bờ trụ (để ngón còn lại không vẹo về phía trụ).
Nếu vẫn còn vẹo về phía bờ trụ: đục xương hình chêm ở đốt bàn, găm
kim Kirschner hoặc buộc vòng chỉ thép hình số 8 để giữ. Đối với vẹo ngón ở
đốt ngón 1 hoặc khớp gian đốt có thể đục xương thêm ở chỏm đốt ngón 1.
Phẫu thuật Bilhaut Cloquet ít được áp dụng.


23

Biến dạng zig zag: ngoài khớp đốt bàn cần sửa trục và làm vững khớp
gian đốt, nếu không biến dạng zig zag sẽ nặng lên sau mổ: rạch một đường ở
bờ trụ của khớp gian đốt, khâu nếp gấp dây chằng bên trụ, chuyển gân duỗi từ
ngón cắt bỏ tới nền đốt 2 phía trụ của ngón giữ lại, sau khi đã nắn thẳng trục,


cố định khớp với kim Kirschner [47].
Loại V:
Cắt bỏ ngón thừa (bờ quay).
Chuyển tất cả các gân cơ ngoại lai và nội tại bám vào ngón bờ quay
cho ngón bờ trụ, thường thấy gân dạng ngắn, đối chiếu, duỗi ngắn và bó
nông gấp ngắn ngón cái bám vào ngón bờ quay nhưng gân khép ngón cái




bám vào ngón bờ trụ.
Đục xương sửa trục đốt bàn nếu còn lệch trục [32].
Loại VI:
Cắt bỏ ngón thừa (bờ quay). Nếu 2 ngón cân xứng, theo Leclercq, nên
giữ lại ngón bờ quay vì khoảng kẽ ngón 1-2 được rộng hơn; nếu giữ lại ngón
bờ trụ có thể mở rộng khoảng này bằng cách tạo hình 4 vạt chữ Z khi co hẹp
nhẹ và vừa hoặc vạt xoay từ mu tay khi co hẹp nặng.
Chuyển tất cả các gân cơ ngoại lai và nội tại bám vào ngón bờ quay cho
ngón bờ trụ.
Một số trường hợp phần xa ngón bờ trụ và phần gần ngón bờ quay rất tốt
trong khi phần gần ngón bờ trụ và phần xa ngón bờ quay thiểu sản: có thể
chuyển phần xa ngón bờ trụ tới phần gần đốt bàn ngón bờ quay [14], [11].



Loại VII:
Cắt bỏ ngón cái 3 đốt.
Nếu ngón cái 2 đốt thiểu sản vừa và đốt thừa của ngón 3 khá lớn nên giữ
lại ngón 2 đốt vì nguy cơ không vững khi lấy đi đốt thừa. Nếu ngón cái 2 đốt
rất lệch trục hoặc quá thiểu sản trong khi ngón cái 3 đốt vững và thẳng trục
hơn: giữ lại ngón 3 đốt. Đốt thừa không nên lấy bỏ trừ khi cần làm ngắn ngón,
nên làm cứng sụn hoặc làm dính với đốt ngón 1 hoặc 2.
Nếu 2 ngón đều 3 đốt: cắt ngón bé hơn, lấy bỏ đốt thừa hoặc làm dính
với khớp gian đốt ngón giữ lại. Nếu 2 ngón có hình dướng, kích thước và


24

chức năng như nhau, tốt nhất là cắt bỏ ngón bờ quay vì dây chằng bên trụ
được giữ nguyên. Nếu mọi yếu tố tương đương: giữ lại ngón có khả năng gấp

tốt hơn vì gấp tốt hiếm khi đạt được bằng chuyển gân trong khi có thể làm
được với khả năng duỗi [15], [33], [47].


Loại thừa ngón cái phụ:
Cắt bỏ ngón thừa đơn thuần.
Phẫu thuật thường đơn giản và không để lại di chứng gì [15].
1.4.6. Các biến chứng, di chứng
Các biến chứng và di chứng chứng thường gặp sau mổ là:



Biến dạng móng tay
Hay gặp sau phẫu thuật Bilhaut Cloquet, do khi khâu, 2 mép của giường
móng và mầm móng để lại một rãnh dọc ở giữa. Mặt khác, do đường kính của
2 móng ít khi tương đương nên móng tay thường không cân xứng.



Cứng khớp
Là biến chứng hay gặp. Thường do biến dạng hoặc thiểu sản khớp hoặc
sau phẫu thuật Bilhaut Cloquet: hay gặp cứng khớp gian đốt. Một nguyên
nhân nữa cũng thường gặp là sau cắt bỏ đốt delta đối với ngón 3 đốt.



Khớp không vững
Khớp không vững sang bên: Leclercq gặp 7/20 trường hợp. Chủ yếu là
loại IV rồi đến loại II, VII. Theo Tada, trong 96 bệnh nhân khám lại vì di
chứng thấy 37 trường hợp lại IV mổ lại vì biến chứng này.




Quá duỗi: hiếm gặp, thường không cần điều trị.
Lệch trục
Vẹo ngón đơn thuần: nguyên nhân do mặt khớp chéo vát trong loại II,
IV, VI; do xương lệch trục trong lại I, II, V; do gân gấp và duỗi bám bất
thường kiểu “dây cung”. Vẹo phía quay dễ chấp nhận hơn phía trụ vì các



ngón còn đối chiếu được.
Biến dạng hình Z: đốt xa lệch về phía bờ quay, đốt gần lệch về phía bờ trụ.
Co hẹp khoảng kẽ ngón


25

Thường gặp ở loại IV, V, VI, VII gây khó khăn cho bệnh nhân cầm nắm
vật lớn. Có thể mở rộng khoảng kẽ ngón bằng tạo hình chữ Z với 4 vạt, nếu

-

cần phối hợp với vạt xoay mu tay.
Các biến chứng, di chứng khác
Không đối chiếu được: do không khâu lại ô mô cái
Không tạo thành gọng kìm ở đầu búp ngón
Thiểu sản ngón còn lại
Hoại tử ngón: do thiếu mạch nuôi, hoặc tổn thương mạch nuôi
Nhiễm trùng

Sẹo gây biến dạng
Biến dạng tạo góc và xoay [1], [5], [8], [11], [13], [15], [34], [47].
1.4.7. Đánh giá kết quả điều trị
Có nhiều cách để đánh giá kết quả điều trị. Tựu chung lại dựa trên đánh
giá về mặt hình thể, chức năng và cảm nhận chủ quan của bệnh nhân và gia
đình. Dưới đây là một số cách đánh giá sau mổ:
1.4.7.1. Đánh giá kết quả theo Wassel và Tuch

-

Sự đặc trưng nổi trội của ngón cái.

-

Chức năng: viết, cầm, nắm.

-

Sự vận động của khớp

-

Sự đối chiếu của ngón tay cái với chỏm xương bàn của ngón V.

-

Độ dạng của khoảng kẽ giữa ngón 1 và ngón 2.

-


Tính vững chắc của khớp.

-

Sự nghiêng vẹo của đốt xa so với trục đốt gần.

-

Hình ảnh X-quang sau mổ.

-

Thẩm mỹ của ngón cái đã mổ so với bên lành.

-

Ý kiến của cha mẹ bệnh nhân.
Kết quả về mặt thẩm mỹ dựa vào kích thước của ngón cái và sự hài lòng
của bệnh nhân và cha mẹ bệnh nhân. Tuy nhiên, kết quả này thường mang
tính chất chủ quan và khá phức tạp [16], [14], [15].
1.4.7.2. Đánh giá kết quả theo Tada


×