Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Cách sử dụng biện pháp ẩn dụ trong thơ Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.92 KB, 127 trang )

Vietluanvanonline.com

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM

NGUYỄN HUỆ YÊN

ẨN DỤ TU TỪ
TRONG THƠ TỐ
HỮU

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
HỌC

THÁI NGUYÊN - 2008


Vietluanvanonline.com

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN HUỆ YÊN

ẨN DỤ TU TỪ
TRONG THƠ TỐ HỮU
Chuyên ngành : Ngôn ngữ


: 60 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Quang Năng
THÁI NGUYÊN – 2008


Vietluanvanonline.com

MỤC LỤC

Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ

SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN

5

NỘI DUNG LUẬN VĂN

1.1. Khái niệm về ẩn dụ

5

1.2. Các kiểu ẩn dụ


9

1.3. Đặc điểm của ẩn dụ tu từ

17

1.4. Một số nét khái quát về nhà thơ Tố Hữu

23

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU

29

2.1. Thống kê, phân loại về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu

29

2.2. Tính chất của hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu

51

Chương 3: CHỨC NĂNG CỦA ẨN DỤ TRONG THƠ TỐ HỮU

60

3.1. Chức năng xây dựng hình tượng

60


3.2. Chức năng biểu cảm

69

3.3. Chức năng thẩm mỹ

75

3.4. Chức năng nhận thức

81

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

PHỤ LỤC

99

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, là người
mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Suốt cuộc đời gắn bó
với hoạt động cách mạng và sáng tạo thơ ca, ông đã thực sự tạo nên được
niềm yêu mến, nỗi đam mê bền chắc trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Ông là
người đã đem đến cho công chúng và cũng nhận được từ họ sự đồng cảm,
đồng điệu, đồng tình tuyệt diệu. Tố Hữu là hình ảnh tiêu biểu của một kiểu
nhà thơ mới - nhà thơ trữ tình chính trị. Con đường thơ của Tố Hữu song hành
cùng quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
1.2. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tố Hữu là một bộ phận không thể thiếu trong
vốn văn hóa tinh thần của quần chúng Cách mạng. Trong hơn nửa thế kỉ qua,
thơ Tố Hữu luôn có mặt trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn ở các cấp
học. Thơ ông đã "đốt lửa" và "truyền lửa" tới muôn triệu trái tim bạn đọc.
Đồng thời, thơ Tố Hữu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên
cứu, phê bình có tên tuổi trong nước cũng như nước ngoài. Thơ Tố Hữu được
nghiên cứu từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau. Tố Hữu được đánh giá là
"nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại" [26, tr. 407].
1.3. Thơ Tố Hữu "bắt rễ sâu và hấp thu sức mạnh trong nguồn mạch dân tộc, thể
hiện sự thống nhất cao độ giữa cách mạng và dân tộc trong hình thức tươi đẹp
của nghệ thuật. Ông tiếp thu được cả hai nguồn thơ ca dân gian và bác học, đã
kế tục sáng tạo nhiều thể thơ dân tộc, thực hiện sự thống nhất dân tộc - hiện
đại trong nghệ thuật" [26, tr. 407]. Không cố công đi tìm hình thức biểu hiện
trong sự gọt giũa cầu kì hay những kỹ xảo thơ ca mà ông có ý thức về sự kết
hợp giữa dân tộc, truyền thống và hiện đại. Cái hiện đại trong thơ ông được
thể hiện nhuần nhuyễn trên nền truyền thống và dân tộc. Ông rất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





dân tộc khi trở về với thơ ca dân gian, với thơ ca yêu nước. Ông quan tâm đến
hình ảnh, ngôn ngữ và nhạc điệu trong thơ.
1.4. Chọn đề tài "Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu", luận văn mong muốn làm rõ thế
giới nghệ thuật độc đáo trong thơ Tố Hữu, đồng thời góp phần nhìn nhận và
đánh giá đầy đủ hơn về những đóng góp của nhà thơ ở phương diện nghệ
thuật. Nghiên cứu "Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu" cũng để làm rõ những giá
trị, những kinh nghiệm và truyền thống của phương thức tu từ mà người thi sĩ
cách mạng này đã từng khai phá và sáng tạo.
1.5. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên cứu toàn
diện hoặc nhiều khía cạnh nội dung, nghệ thuật của thơ Tố Hữu: phong cách
nghệ thuật, tính dân tộc, ngôn ngữ, nhạc điệu... Tuy vậy, ẩn dụ tu từ trong thơ
Tố Hữu cho đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ. Do
vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào hướng khảo sát còn
để ngỏ này.
2. Lịch sử vấn đề
Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, ẩn
dụ tu từ đã góp phần tạo nên những nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng
ngôn từ. Phải kể tới sự đóng góp của nghệ sĩ dân gian trong ca dao - dân ca,
Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính, Xuân Diệu
hay Chế Lan trong thơ, đặc biệt là Tố Hữu.
Hơn nửa thế kỉ qua, thơ Tố Hữu trở thành một hiện tượng, một đối
tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu,
phê bình có tên tuổi như: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Hà Minh
Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử,
các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình
Thi, Hoàng Trung Thông…Từ những góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà

nghiên cứu đều thống nhất đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn, thơ Tố
Hữu có giá trị đặc sắc trong sự phát triển của nền văn học dân tộc.


Ngoài những nghiên cứu ở góc độ phê bình văn học, thơ Tố Hữu được
nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu thi
pháp thơ Tố Hữu, tính dân tộc trong nghệ thuật biểu hiện, cách sử dụng ngôn
ngữ, xây dựng hình ảnh...
Trong "Phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu", Nguyễn Văn Hạnh
có viết "Đọc thơ anh thoáng qua dễ không thấy hết được những phát hiện mới
mẻ, độc đáo. Ít thấy kỹ thuật. Thậm chí có những cái quen thuộc, "chung
chung", gần "mòn", "cũ" (…). Nó có chỗ mạnh của nó. Đó cũng là một trong
những chỗ mạnh của văn học dân gian" [23, tr. 843].
Lê Đình Kỵ đã khẳng định tính dân tộc đậm đà trong thơ Tố Hữu qua
cách sử dụng ẩn dụ trong thơ: "Tố Hữu cũng sử dụng rộng rãi lối ví von rất
quen thuộc của ca dao (…). Thông thường thì là ví von gián tiếp hơn, theo lối
mà ngày nay chúng ta gọi là ẩn dụ, nhưng ý vị và cấu trúc thì vẫn rất gần với
ca dao" [38, tr. 801].
Trong cuốn "Những thế giới nghệ thuật thơ", Trần Đình Sử có nhận
xét về thế giới ngôn từ trong thơ Tố Hữu: "Xét về ngôn từ thơ Tố Hữu là cả
một thế giới bùng cháy, tỏa sáng, nẩy nở tột cùng, dâng hiến tột độ (…). Hệ
thống hình ảnh ngôn từ ấy làm cho thơ Tố Hữu thực sự là tiếng thơ nóng bỏng,
sáng ngời, bay bổng, nhiệt huyết" [51, tr. 187]. Cũng trong bài viết này, tác giả
khẳng định "Ngôn từ thơ Tố Hữu mang tính chất hiện thực và cổ điển" [51, tr.
188].
Khảo sát ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu là hướng đi tiếp nối những
công trình đi trước nhằm tìm ra những nét mới mẻ và độc đáo trong thế giới
nghệ thuật của người nghệ sĩ cách mạng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tập Thơ Tố Hữu (NXB Văn hóa - thông tin, HN - 2002) gồm các tập

thơ: Từ ấy (1946); Việt Bắc (1954); Gió lộng (1961); Ra trận (1962-1971);
Máu và Hoa (1977); Một tiếng đờn (1992); Ta với Ta (1999). Tất cả tập sách
gồm 7 tập thơ với 284 bài thơ.
Nghiên cứu hiện tượng ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu.


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.
trữ tình)

Thi pháp học thể loại: vận dụng thi pháp thể loại (thơ

4.2. Phương pháp thống kê: Thống kê số lượng ẩn dụ tu từ được sử dụng trong các
tập thơ của Tố Hữu. Kết quả thống kê sẽ được phân loại phục vụ cho việc nghiên
cứu định lượng, miêu tả và bàn luận cụ thể về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu.
4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích đặc điểm từng kiểu loại ẩn dụ tu
từ trong thơ Tố Hữu. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét, đánh giá khái quát những
nét độc đáo về nghệ thuật sử dụng ngôn từ của nhà thơ trong việc xây dựng
các hình tượng nghệ thuật.
4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu: Luận văn so sánh cách sử dụng ẩn dụ tu từ
qua các tập thơ của Tố Hữu để làm nổi bật nét mới của các ẩn dụ tu từ trong
quá trình sáng tác của Tố Hữu.
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Về lý luận: Nghiên cứu ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu góp phần làm sáng tỏ
những nét độc đáo trong phong cách thơ Tố Hữu nhằm khẳng định tài năng
"lá cờ đầu của thơ ca cách mạng". Đồng thời, xác định giá trị của phương tiện
tu từ này trong sự phát triển của thơ ca đương đại.
5.2. Về thực tiễn: Từ việc khẳng định những đặc sắc của ẩn dụ tu từ trong thơ Tố
Hữu, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà thơ như một truyền
thống hòa nhập vào thơ ca đương đại. Nó còn góp phần thúc đẩy việc tìm hiểu

tác phẩm văn học dựa trên mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, nhất là
con đường tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm ở cấp độ từ ngữ.
6. Cấu trúc của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết: Những vấn đề liên quan đến nội dung luận
văn.
Chương 2: Đặc điểm ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu.
Chương 3: Chức năng của ẩn dụ trong thơ Tố Hữu.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN NỘI DUNG LUẬN VĂN

1.1. KHÁI NIỆM VỀ ẨN DỤ

1.1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu ẩn dụ
Vấn đề ẩn dụ luôn được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều cấp độ khác
nhau của truyền thống học thuật riêng biệt như các học thuyết của triết học,
tâm lý học, phong cách học, ngôn ngữ học và gần đây là dụng học và ngôn
ngữ học tri nhận. Trong các công trình nghiên cứu thuộc về ngôn ngữ học
truyền thống, ẩn dụ thường chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn trong phần từ vựng
học và tu từ học với qun điểm coi nó là một phương thức phát triển nghĩa mới
của từ (ẩn dụ từ vựng) hoặc là một biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ).
Lý thuyết về ẩn dụ có một lịch sử lâu dài và đầy sóng gió, bắt đầu từ
triết học thời Hi Lạp cổ đại với tên tuổi của triết gia Aristotle - một trong
những người thầy triết học. Ông đã xem ẩn dụ là hình thức trang trí trong
ngôn ngữ nghệ thuật và hùng biện bằng phương thức chuyển nghĩa từ giống
đến loài, từ loài sang giống hoặc dựa trên cơ sở tương tự.

Ở Trung Hoa cổ đại, trong các công trình nghiên cứu của các học giả,
ẩn dụ thể hiện qua khái niệm tỉ (chỉ cách ví von, bóng gió) và ẩn chứa trong
lời diễn khởi đầu của các bài dân ca sau này được ghi lại trong tác phẩm Kinh
Thi nổi tiếng.
Thời hiện đại, ẩn dụ cũng xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu
của các nhà ngôn ngữ trên thế giới như R. Jakobon, J.Cohen, P. Ricoeur,
Samuel Levin và sau này là G. Lakoff và Mark Tumer,... ở những góc độ
nghiên cứu khác nhau.


Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng chú ý về ẩn dụ
của các nhà Việt ngữ học, các nhà nghiên cứu văn học. Đáng chú ý là các
công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn
Tu, Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa, Nguyễn Đức Tồn, …
1.1.2. Các quan niệm về ẩn dụ
1.1.2.1. Ẩn dụ là một phương thức chuyển nghĩa của từ
Ẩn dụ là nét độc đáo của ngôn ngữ tự nhiên. Ẩn dụ được nghiên cứu
trong rất nhiều lĩnh vực theo những góc độ và những cách thức khác nhau.
Trên thế giới, người đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về ẩn dụ là
Aristotle trong cuốn Thi học. Trong tác phẩm này, Aristotle đã nói rằng ẩn dụ
là sự áp dụng cho một sự vật nào đó một cái tên mà cái tên này vốn thuộc về
một sự vật khác hoặc là từ loại cho đến chủng hoặc từ chủng cho đến loại, từ
loại nhỏ sang loại nhỏ khác dựa vào sự đồng dạng. Aristotle đã phát biểu lý
thuyết về phép so sánh rút gọn, lý thuyết về bản chất so sánh rút gọn của ẩn
dụ. Theo đó, ẩn dụ được xem như một phần so sánh được rút gọn bằng cách
loại bỏ từ so sánh "như là", "là" v.v...Chẳng hạn, theo Aristotle, ẩn dụ người
là chó sói là một phép rút gọn từ một phép so sánh người giống như là một
con chó sói (so sánh trong tiếng Việt: mặt hoa là rút gọn từ phép so sánh: Mặt
(người) tươi như hoa).
Trong các sách nghiên cứu ẩn dụ trong và ngoài nước, cho đến nay, ẩn

dụ thường được coi là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm
giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau. Theo A.A.Refor-matxkij thì
"ẩn dụ theo nghĩa chiết tự là "sự chuyển đổi", là trường hợp chuyển nghĩa
điển hình nhất. Sự chuyển nghĩa theo ẩn dụ dựa trên sự giống nhau của các sự
vật về màu sắc, hình thức, đặc tính vận động v.v..." [Dẫn theo 59, tr. 1]. Theo
Ju. X. Xtepanov thì "Bản thân từ Meta phora từ tiếng Hy Lạp cũng có nghĩa là
"sự chuyển nghĩa" và " khi một từ, tuy vẫn còn liên hệ với biểu vật mới, thì
hiện tượng ngôn ngữ đó là ẩn dụ" [Dẫn theo 60, tr. 1].


Các nhà ngôn ngữ học trong nước cũng có quan điểm tương tự. Nguyễn
Văn Tu cho rằng:
Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên gọi của một sự vật
khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan hệ đó
chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ, theo
tưởng tượng của ta mà gọi một sự vật chỉ có vài dấu hiệu chung với
sự vật mà từ biểu thị trước thôi. Chính nhờ những dấu hiệu chung
gián tiếp ấy mà ta thấy mối quan hệ giữa các vật khác nhau [63, tr.
159].
Đỗ Hữu Châu cũng quan niệm: "Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật hiện
tượng này bằng tên gọi của một sự vật hiện tượng khác, giữa chúng có mối
quan hệ tương đồng". [7, tr. 54]. Sau này, trong công trình Từ vựng - ngữ
nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu giải thích một cách cụ thể hơn: "Cho A là một
hình thức ngữ âm, X và Y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn là tên gọi của X
(tức X là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là phương thức
lấy tên gọi A của X để gọi tên Y (để biểu thị Y), nếu như X và Y có nét nào
đó giống nhau" [8, tr. 145].
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: "Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự
giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau" [21, tr.
162].

Đào Thản đã giải thích khá rõ ràng, cụ thể khái niệm ẩn dụ trong mối
quan hệ với sự so sánh: "Ẩn dụ cũng là một lối so sánh dựa trên sự giống
nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất, hoặc chức năng của hai đối
tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song song hai phần đối tượng và
phần so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần để so sánh" [53, tr. 143].
Theo quan điểm của Nguyễn Đức Tồn thì bản chất của ẩn dụ là: "phép
thay thế tên gọi hoặc chuyển đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng này
sang sự vật, hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở sự liên tưởng đồng nhất hóa
chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có ở chúng" [61, tr. 8].


Lần đầu tiên, trong sự phân tích ẩn dụ trong quan hệ với so sánh,
Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra một cách cụ thể, rõ ràng cái mà lâu nay người ta
vẫn nói ẩn dụ là so sánh ngầm. Và thực chất "về lôgic, chỉ có sự đồng nhất
hoặc tương đồng hoàn toàn giữa các sự vật thì mới cho phép có thể dùng cái
này để thay thế cái kia được (cũng giống như nguyên tắc thay thế phụ tùng,
máy móc trong khoa học kỹ thuật" [60, tr. 5].
1.1.2.2. Ẩn dụ là một biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ)
Cù Đình Tú cho rằng: "Ẩn dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên
gọi biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở mối
quan hệ liên tưởng về nét tươnghs hiểu của đồng giữa hai đối tượng" [65, tr.
179].
Đinh Trọng Lạc quan niệm:
Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng, dựa
trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc
tưởng tượng ra) giữa khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) A
được định danh với khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động tính
chất) B có tên gọi được dùng chuyển sang cho A [34, tr. 52].
Theo Nguyễn Thái Hòa: "Phép ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa
của một đối tượng này thay cho đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét

nghĩa tương đồng" [36, tr. 194].
Hữu Đạt cũng quan niệm:
Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra. Người tiếp nhận
văn bản khi tiếp cận với phép ẩn dụ phải dùng năng lực liên tưởng
để quy chiếu giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật,
hiện tượng tồn tại ngoài văn bản. Như vậy, thực chất của phép ẩn
dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên
cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc[13, tr. 302].
Theo Nguyễn Đức Tồn, ẩn dụ tu từ:


Được sử dụng như một biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi
cảm, gợi hình và giá trị thẩm mỹ cho sự diễn đạt. Cho nên có thể
gọi nó là ẩn dụ lâm thời hay ẩn dụ tu từ. (…) Ẩn dụ lâm thời hay ẩn
dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng, do vậy mới có khả năng cùng chỉ
một đối tượng nhưng mỗi người lại có thể có cách diễn đạt bằng
hình ảnh ẩn dụ khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau [61, tr. 4].
Như vậy, qua những cách hiểu và định nghĩa nêu trên, có thể thấy
rằng, trong Việt ngữ học, ẩn dụ ẩn dụ được xem xét theo hai góc độ. Thứ
nhất, ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa cơ bản của đơn vị
từ vựng dựa vào mối tương đồng giữa sự vật - đối tượng. Theo góc độ này, ẩn
dụ là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học. Thứ hai, ẩn dụ là một biện pháp
tu từ nhằm tạo nên những biểu tượng trong nhận thức của con người. Ở góc
độ này, ẩn dụ là đối tượng nghiên cứu của phong cách học, được coi là biện
pháp tu từ (ẩn dụ tu từ). Với tư cách là biện pháp tu từ, ẩn dụ tu từ được khảo
sát trong những ngữ cảnh cụ thể, gắn liền với văn bản. Nếu tách khỏi văn
cảnh thì giá trị ngữ nghĩa của nó sẽ không còn tồn tại.
1.2. CÁC KIỂU ẨN DỤ

1.2.1. Quan niệm của Đỗ Hữu Châu

Theo Đỗ Hữu Châu, ẩn dụ có các kiểu sau đây:
+ Ẩn dụ hình thức là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức
giữa các sự vật. Ví dụ, những ẩn dụ trong các từ chân trong chân bàn, chân
núi, chân tường, từ mũi trong mũi thuyền, mũi đất, mũi dao; từ cánh trong
cánh buồm, cánh đồng, cánh quạt...là những ẩn dụ chỉ hình thức.
+ Ẩn dụ chỉ cách thức là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách
thức thực hiện giữa hai hoạt động, hiện tượng.Ví dụ, nắm tư tưởng, cắt hộ
khẩu chỉ rõ cách thức nhận thức tư tưởng, cách thức chuyển hộ khẩu cũng
giống như cách chúng ta cắt, nắm một sự vật vật lí cụ thể nào đó.


+ Ẩn dụ chức năng là những ẩn dụ dựa dựa vào sự giống nhau về chức
năng giữa các sự vật. Ví dụ, các ẩn dụ chức năng như chốt trong giữ chốt, cửa
trong cửa sông, cửa rừng.
+ Ẩn dụ kết quả là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động
của các sự vật đối với con người.Ví dụ, ấn tượng nặng nề là muốn nói tới tác
động của ấn tượng đối với lí trí, tình cảm của chúng ta cũng giống như một
vật nào đó có trọng lượng lớn mà chúng ta phải mang, phải gánh, làm chúng
ta cử động khó khăn, đi đứng chậm chạp, không nhẹ nhàng, thanh thoát.
Trong những ẩn dụ kết quả, có một loại đáng được chú ý đặc biệt,
đó là những ẩn dụ dùng tên gọi của những cảm giác thuộc giác quan này để
gọi tên những cảm giác của giác quan khác hay những "cảm giác"của trí
tuệ, tình cảm. Ví dụ, chua, ngọt, mặn, cay, chát... là những cảm giác vị giác
được dùng để gọi các cảm giác thính giác nói chua loét, lời nói ngọt ngào,
nói cay quá...
Sự phân loại các ẩn dụ theo cơ chế nét nghĩa đồng nhất không phải
bao giờ cũng tách bạch, dứt khoát. Trong rất nhiều ẩn dụ không chỉ một mà
thường là một số nét nghĩa cùng tác động. Ví dụ, trong những từ như: mũi,
chân cả hai nét nghĩa hình dáng và vị trí phối hợp với nhau tạo nên các nét
nghĩa ẩn dụ của chúng (trong chân bàn thì có nét nghĩa hình dáng nhưng

trong chân núi thì chủ yếu là nét nghĩa vị trí).
1.2.2. Quan niệm của Nguyễn Thiện Giáp
Theo Nguyễn Thiện Giáp, ẩn dụ có các kiểu sau:
+ Ẩn dụ hình thức. Ví dụ, Bướm, loài côn trùng có cánh bay. Cái mắc
áo có hình con bướm cũng được gọi là bướm. Mũi là bộ phận có đặc điểm
nhọn, nhô ra. Phần đất nhô ra cũng được gọi là mũi đất.
+ Ẩn dụ chuyển tính chất của sự vật này sang sự vật hoặc hiện tượng
khác. Ví dụ:


Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên
sầu
(Vũ Đình Liên)
+ Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó.
Ví dụ, tình cảm khô khan; lời nói ngọt ngào.
+ Ẩn dụ chức năng. Ví dụ, bến trong bến xe, bến tàu điện… không
giống nhau về hình dạng, không giống nhau về vị trí … với bến sông, bến đò.
Nó chỉ giống bến sông, bến đò ở chức năng đầu mối giao thông.
+ Ẩn dụ đặc điểm hình thức, dáng vẻ bên ngoài.Ví dụ, người phụ nữ
hay ghen gọi là Hoạn Thư; người đàn bà đẹp gọi là Tây Thi.
+ Ẩn dụ màu sắc.Ví dụ, màu da trời - màu xanh như da trời; màu cánh
sen - màu hồng như màu của cánh sen; màu cốm - màu xanh như màu của cốm.
+ Ẩn dụ chuyển tên con vật thành con người. Ví dụ, cún con của mẹ;
bồ câu của anh.
+ Ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng. Ví dụ, hạt nhãn là cái cụ thể chỉ phần
bên trong của quả được dùng để chỉ trung tâm quan trọng nhất của một vấn đề.
1.2.3. Quan niệm của Cù Đình Tú
Theo Cù Đình Tú, trên lý thuyết, nếu như có bao nhiêu khả năng
tương đồng thì có bấy nhiêu khả năng cấu tạo ẩn dụ tu từ. Có thể nêu một số

khả năng tương đồng được dùng làm cơ sở để tạo ra các ẩn dụ tu từ:
+ Tương đồng về màu sắc. Ví dụ:
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
(Nguyễn Du)
(Lửa và hoa lựu có màu sắc như nhau (màu đỏ), lửa biểu thị hoa).
+ Tương đồng về tính chất. Ví dụ:


Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hàng thế kỉ bỗng
bừng lên ánh bình minh của thời đại.
(Bóng đêm và chế độ thực dân phong kiến có tính chất như nhau (tăm
tối), bóng đêm biểu thị chế độ thực dân phong kiến).
+ Tương đồng về trạng thái. Ví dụ:
Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh
(Tố Hữu)
(Ngôi sao lặn và Bác Hồ qua đời có trạng thái như nhau (không còn),
sao lặn biểu thị Bác Hồ từ trần).
+Tương đồng về hành động. Ví dụ:
Thay mặt cho tất cả các tổ chức ấy chỉ có một mình anh ủy viên
thường trực trẻ tuổi. Con sông nhỏ hứng đủ trăm dòng suối trút xuống.
(Hứng đủ trăm dòng và nhận giải quyết mọi việc có hành động (tiếp
nhận) giống nhau, do đó dùng hành động hứng đủ trăm dòng biểu thị nội
dung: "nhận giải quyết mọi việc").
+ Tương đồng về cơ cấu. Ví dụ:
Thầy quen nhẫn nại như một người đan rổ: tay bắt từng nan một, uốn
nắn cho khéo, vào khuôn vào khổ. Nhiều nan bị gãy nhưng rổ vẫn thành rổ.
(Rổ có nhiều nan có cơ cấu tương tự lớp có nhiều trò, rổ biểu thị lớp
học trò).
1.2.4. Quan niệm của Đinh Trọng Lạc
Đinh Trọng Lạc chia ẩn dụ thành các kiểu nhóm sau: ẩn dụ, ẩn dụ bổ

sung và ẩn dụ tượng trưng. Ngoài ra, ông cũng coi nhân hóa và vật hóa là
những biến thể của ẩn dụ.
+ Ẩn dụ hình tượng là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa. Ví dụ:


Hoa thơm bán một đồng mười
Hoa tàn nhị rữa bán đôi lạng
vàng
(Ca dao)
Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa
(Nguyễn Du)
Nàng rằng khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
(Nguyễn Du)
Phượng những tiếc cao, diều hay liệng
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi
(Nguyễn Trãi)
Ở nghĩa gốc, từ hoa là tên gọi cơ quan sinh sản hữu tính của một loại
thực vật thường có màu sắc đẹp và hương thơm. Từ hoa khi thì dùng để ví
người phụ nữ đẹp, khi thì được dùng để ví người tình nhân hào hoa phong
nhã, khi lại dùng để ví người có phẩm chất cao đẹp. Như vậy, hoa đồng nghĩa
với tốt đẹp, cao quý…
Có thể nói, ẩn dụ hình tượng là phương thức bình giá riêng của cá
nhân nhà văn, nhà thơ. Bằng những sắc thái ý nghĩa, bằng ý nghĩa hình tượng
tìm kiếm được, ẩn dụ hình tượng tác động vào trực giác của người nhận và
đem lại khả năng cảm thụ sáng tạo.
+ Ẩn dụ bổ sung (ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) là sự kết hợp của hai
hay nhiều từ chỉ những cảm giác sinh ra từ trung khu cảm giác khác nhau làm
cho cảm giác phong phú, đa chiều, đa vị, đa nghĩa. Ẩn dụ bổ sung được chia

ra một số loại như sau:


+ Thị giác + nhiệt: Cái màu xanh này mát quá
+ Thính giác + vị giác: Câu chuyện nhạt phèo
+ Thị giác + khứu giác: Thấy thơm rồi đó
+ Khứu giác + vị giác: Một mùi đăng đắng
+ Thính giác + xúc giác: Một tiếng sắc nhọn
Ví dụ:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Hãy tự buông cho khúc nhạc
hường Dẫn vào thế giới của du
dương….
(Xuân Diệu)
Khúc nhạc của nhà thơ không chỉ nghe bằng tai mà nghe bằng làn da,
bằng lưỡi… thấm vào tâm hồn. Lúc này mọi giác quan được huy động đến tột
cùng và dẫn tới sự giao thoa, xuyên thấm. Phải là nghệ sĩ mới có cái nghe kì
diệu đến vậy! Dường như ngôn ngữ đưa ta vào một thế giới mới, một thế giới
huyền diệu hơn, phong phú hơn và đánh thức trong ta những cảm quan nghệ
thuật hằng ấp ủ trong lòng mỗi người.
+ Ẩn dụ tượng trưng là sự kết hợp của một khái niệm trừu tượng với
một khái niệm về cảm giác. Ví dụ:
Cỏ cây một màu khổ não/ Xanh ve mãi lên một niềm hoài vọng/ Màu
đỏ giận dữ
(Nguyễn Tuân)
Ở đây có sự kết hợp của các từ ngữ: màu với khổ não, màu đỏ với
giận dữ. Sự kết hợp đó được thực hiện trên cơ sở khác loại, bởi vì một khái
niệm thì trừu tượng, một khái niệm thì cụ thể.



Ẩn dụ tượng trưng là đặc điểm của ngôn ngữ thơ. Nó trở thành một
phương tiện tu từ đắc lực trong việc bộc lộ tâm hồn sâu kín qua cái cảm quan
kì diệu của con người.
Ví dụ:
Tai nương nước giọt mái nhà Nghe
trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ
loi
(Huy Cận)
+ Nhóm biến thể ẩn dụ
- Nhân hóa
Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ
ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu
hiệu của đối tượng không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu
tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày
tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình.Ví dụ:
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối
Đêm bâng khuâng đôi miếng lẫn trong cành
(Xuân Diệu)
Về mặt hình thức, nhân hóa được cấu tạo theo 2 cách. Thứ nhất là,
dùng từ ngữ chỉ tính chất hoạt động của con người để biểu thị tính chất, hoạt
động của đối tượng không phải là con người.Ví dụ:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên
sầu


(Vũ Đình Liên)



Thứ hai là, coi đối tượng không phải là người như con người để trao
gửi, trò chuyện, tâm sự. Ví dụ:
Núi cao chi lắm núi ơi ?
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
(Ca dao)
- Vật hóa
Vật hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng một hình
thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược chiều lại với nhân hóa, tức là lấy
những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người nhằm mục đích
châm biếm, đùa vui, nhiều khi qua đó để thể hiện tình cảm, thái độ sâu kín
của mình. Ví dụ:
Gái chính chuyên lấy được chín
chồng Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi
chơi
Đến khi quanh đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng
(Ca dao)
Bài ca dao trên đem tới cho người đọc tiếng cười vui vẻ và sảng khoái.
Ở đó, hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược chiều lại với nhân hóa
được thể hiện nhằm mục đích châm biếm, đùa vui hóm hỉnh mà thâm thúy.
Qua đó, người viết thể hiện tình cảm, thái độ của mình trước hiện thực một
cách sâu sắc và thấm thía.
Tóm lại, theo Đinh Trọng Lạc, nhóm ẩn dụ thực chất là phương thức
chuyển nghĩa theo mối liên tưởng tương đồng giữa hai sự vật, trong đó cái
được so sánh gọi tên thay cho cái so sánh. Đó là cơ chế chuyển từ trường
nghĩa này sang một trường nghĩa khác. Cụ thể là:



(1). Từ trường thể chất sang trường tinh thần, ta có ẩn dụ và ẩn dụ tượng
trưng.
(2). Từ trường sự vật sang trường con người, ta có nhân hóa, ngược lại
ta có vật hóa.
(3). Từ trường cảm giác này sang trường cảm giác khác, ta có ẩn dụ bổ
sung [34, tr. 215].
Trên đây là cách phân loại ẩn dụ của một số nhà nghiên cứu ngôn
ngữ như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Cù Đình Tú và Đinh Trọng
Lạc. Quan niệm và cách phân loại về ẩn dụ tu từ được trình bày theo
những cách khác nhau nhưng không hề mâu thuẫn, đối lập mà chúng bổ
sung cho nhau nhằm đem đến một cách hiểu đầy đủ và thống nhất về ẩn
dụ tu từ. Cách phân loại trên dựa vào cơ sở quan hệ liên tưởng tương
đồng, làm rõ tính chất mở và khả năng sinh sản lớn lao của ẩn dụ tu từ.
Mặt khác, cách phân loại này cũng thống nhất với cách phân loại hoán dụ tu
từ (dựa trên liên tưởng lô gích khách quan).
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨN DỤ TU TỪ

1.3.1. Phân biệt ẩn dụ tu từ với ẩn dụ từ vựng
Ẩn dụ từ vựng là ẩn dụ nghĩa chuyển đã được cố định hóa trong hệ
thống ngôn ngữ, được đưa vào trong từ điển và được toàn dân sử dụng.
Trong khi đó, ẩn dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng. Nó được dùng với
nghĩa ngữ cảnh, cách chuyển đổi tên gọi lâm thời hay những cách dùng tiếng
Việt có tính cách cá nhân. Ẩn dụ loại này được sử dụng như một biện pháp tu
từ nhằm tăng sức gợi cảm, gợi hình và giá trị thẩm mỹ cho sự diễn đạt.
Ví dụ:
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba
chân
(Ca dao)



Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời
(Nguyễn Du)
Ở câu trên, từ chân trong cụm từ kiềng ba chân, nét nghĩa vị trí dưới
cùng của chân (người) được giữ lại. Nét nghĩa này đã được cố định hóa trong
nghĩa của từ trên. Bởi thế, mọi người đều có thể sử dụng và sử dụng trong
mọi ngữ cảnh khi cần thiết.
Ở câu dưới, Kim Trọng gọi mình là kẻ chân mây cuối trời tức là kẻ đi
xa trong cuộc chia li này. Như vậy, chân trong cụm từ chân mây cuối trời
được dùng để chỉ Kim Trọng. Chỉ trong văn cảnh này mới cho phép ta hiểu
như vậy, nếu tách khỏi văn cảnh thì nghĩa đó không còn nữa.
1.3.2. Phân biệt ẩn dụ tu từ với so sánh tu từ
Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Đinh Trọng
Lạc đã khẳng định: "So sánh tu từ là cách đối chiếu hai đối tượng khác loại
của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có cùng
một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới
về đối tượng" [34, tr. 154]. Về bản chất, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa
vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau.
Tuy nhiên cần phân biệt ẩn dụ tu từ với so sánh tu từ.
Sự giống nhau giữa ẩn dụ tu từ và so sánh tu từ chính là cách liên
tưởng để rút ra được nét tương đồng giữa hai đối tượng khác loại. Nét tương
đồng này là cơ sở để hình thành nên ẩn dụ tu từ cũng như so sánh tu từ.
Ví dụ:
Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi
(Nguyễn Du)


Hai đối tượng được so sánh ở đây (hoa và người con gái, con bướm và

chàng trai) có sự tương đồng là sự tinh túy, xinh đẹp; sự kiếm tìm cái đẹp và
tình yêu. Hoa gắn liền với hương thơm, màu sắc. Hoa đẹp nhưng chóng tàn,
giống như người con gái đẹp nhưng tuổi xuân mau phai nhạt. Mối quan hệ
của bướm với hoa (bướm say hoa, bướm gần hoa, bướm lượn vành bén
hoa…) là mối quan hệ để duy trì nòi giống nếu xét trên quan điểm sinh học.
Thiếu sự cộng sinh ấy thì cả cây và bướm đều bị đe dọa tuyệt diệt. Từ sự
tương đồng ấy, người con gái trong ca dao muốn nói tới cảnh ngộ của mình
và lời oán thán đối với chàng trai nọ trong tình yêu đôi lứa.
Ẩn dụ cũng được xây dựng trên liên tưởng tương đồng như thế. Ví dụ,
nói về đứa con yêu bé bỏng của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có liên
tưởng thú vị và ý nghĩa: Mặt trời của bắp thì mọc trên đồi/ Mặt trời của mẹ
em nằm trên lưng. Điểm gặp gỡ ở hình ảnh thơ là ánh sáng, là sự cần thiết của
ánh sáng đối với con người và vạn vật.
Tuy nhiên giữa chúng lại có những điểm khác nhau rõ rệt. So sánh tu
từ có cấu tạo gồm hai vế là đối tượng được so sánh và đối tượng được dùng
để so sánh. Ẩn dụ là so sánh ngầm ẩn. Suy nghĩ, tình cảm trong ẩn dụ được
thể hiện gián tiếp. Nếu như so sánh là cụ thể hóa nhận thức và tình cảm đối
với đối tượng thỉ ở ẩn dụ, phương pháp chuyển nghĩa thông qua những sự vật
cụ thể lại khái quát hóa, trừu tượng hóa một vấn đề nào đó, đồng thời đưa ra
một thể thống nhất mới của hình tượng nghệ thuật, tạo nên những trường
nghĩa mới.
Ví dụ:
Đôi ta là bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi chưng thày mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc mâm vàng xa nhau.
(Ca dao)


Bài ca dao trên gồm 2 vế: vế trước biểu đạt sự so sánh đồng nhất giữa

sự vật đôi ta (anh và em) với đũa ngọc và mâm vàng đẹp và quý. Đôi đũa
ngọc ấy được đặt trong mâm vàng vừa hòa hợp lại vừa cao sang và đáng trân
trọng. Trong vế đầu của bài ca dao này thì đũa ngọc và mâm vàng là những sự
vật vật chất cụ thể. So sánh trên gồm có 2 vế theo kiểu cấu tạo: A như B rất
quen thuộc trong lối ví von của ca dao. Như vậy, so sánh giúp cho câu thơ
thêm sinh động và đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mỹ.
Vẫn là đũa ngọc - mâm vàng nhưng ở vế sau của bài ca lại là cách nói
ẩn dụ tu từ. Ở đây, đũa ngọc, mâm vàng không còn là những sự vật cụ thể mà
là hình ảnh tượng trưng biểu thị chàng trai và cô gái trong quan hệ tình cảm
với nhau. Hình ảnh này chỉ có một vế - đối tượng được dùng để biểu thị đũa
ngọc, mâm vàng. Đối tượng được biểu thị là đôi ta (cặp uyên ương trời sinh
đang sống trong những phút giây ngọt ngào hạnh phúc) thì ẩn đi. Cái điều gắn
kết tưởng chừng không thể khác được trong suy nghĩ và trong cuộc sống đã bị
cắt chia, bị xé lẻ và bị đẩy về hai phương trời, hai dòng đời khác nhau.
1.3.3. Phân biệt ẩn dụ tu từ với hoán dụ
"Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm
hay một nét tiêu biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng
đó" [36, tr. 203].
Ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ đều có những tính chất giống nhau: rút
gọn lời nói và tạo hình, vay mượn ngôn ngữ để làm giàu ngôn ngữ, mang vào
ngôn ngữ những yếu tố lạ, tạo bất ngờ, gây cảm xúc.
Ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ có điểm khác nhau: ẩn dụ được xây
dựng trên liên tưởng tương đồng còn hoán dụ lại dùng cái quan hệ tất yếu
để kết hợp những yếu tố có cùng với nhau một mẫu số chung, thành một hệ
thống lôgic.
Ví dụ:


Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông dường

nào Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu
(Xuân Quỳnh)
Hình ảnh con thuyền di động khắp nơi trên biển cả mênh mông sóng
vỗ, mối quan hệ khăng khít giữa thuyền và biển cũng chính là hình ảnh, tâm
trạng của đôi bạn tình đang yêu nhau tha thiết. Như vậy, ẩn dụ trên được xây
dựng trên trường liên tưởng. Còn hoán dụ áo chàm trong câu thơ của Tố Hữu
được xây dựng trong mối quan hệ gần gũi khách quan:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm
nay…
(Tố Hữu)
Áo chàm - chiếc áo người dân miền núi Việt Bắc thường mặc (mang
đậm màu sắc dân tộc) để chỉ người dân Việt Bắc trong cuộc tiễn đưa cán bộ
cụ Hồ.
Ẩn dụ và hoán dụ là hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản của các
đơn vị ngôn ngữ. Trong một từ nhiều nghĩa, có thể nghĩa này được chuyển
theo phương thức ẩn dụ, nghĩa kia lại theo hoán dụ. Ví dụ:
Từ chân trong từ điển được giải thích với một số nét nghĩa như sau:
(1).

Bộ phận cuối cùng của cơ thể người (hay động vật), dùng để đi, đứng, thường
được coi là biểu tượng của hoạt động đi lại của con người (hay động vật).
Nước đến chân mới nhảy.

(2).

Chân con người, coi là biểu tượng của cương vị, phận sự của một người với
tư cách là một thành viên một tổ chức. Có chân trong hội đồng.



×