Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.61 KB, 94 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA NGỮ VĂN

LỜI CẢM ƠN
~~~~~~~~~~
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ths. Nguyễn Thị Vân Anh người đã nhiệt
tình, tận tâm và chu đáo giúp đỡ
hoàn QUYÊN
thành khóa luận này.
VÕemTẤN
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, các thầy, cô trong
khoa Ngữ văn trường Đại học Quy nhơn đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học.

TÍN HIỆU NGÔN NGỮ THẨM MĨ

Mặc dù, có nhiều cố gắng để hoàn thành khóa luận hoàn chỉnh nhất. Song do
buổi đầu
làm quen với
công tác nghiên
cứu khoa học
cũng như
thời gian và kiến
THUỘC
TRƯỜNG
NGHĨA
HIỆN
TƯỢNG
thức bản thân còn nhiều hạn chế nên không thể không mắc thiếu sót. Em rất mong
nhận được
góp ý của quý
thầy, cô giáo


để khóaXUÂN
luận hoàn chỉnh
hơn.
TỰsựNHIÊN
TRONG
THƠ
QUỲNH
Em xin chân thành cảm ơn!

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Bình Định, ngày 25 tháng 05 năm 2015

Sinh viên
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
KHÓA 34

Võ Tấn Quyên

BÌNH ĐỊNH - 2015


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề.............................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu...................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................5
6. Bố cục đề tài................................................................................................5

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1 Mối quan hệ bộ ba: tín hiệu - tín hiệu ngôn ngữ - tín hiệu thẩm mĩ
1.1.1Tín hiệu..............................................................................................6
1.1.1.1 Khái niệm tín hiệu................................................................6
1.1.1.2 Phân loại tín hiệu..................................................................7
1.1.2 Tín hiệu ngôn ngữ...........................................................................9
1.1.3 Tín hiệu thẩm mĩ............................................................................11
1.1.3.1 Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ.................................................11
1.1.3.2 Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ............................................13
1.1.3.3 Một số vấn đề về tín hiệu thẩm mĩ văn chương..................18
1.2 Những vấn đề cơ bản về trường nghĩ.................................................20
1.2.1 Khái niệm về trường nghĩa.............................................................20
1.2.2 Các tiêu chí phân lập trường nghĩa.................................................21
1.2.3 Các loại trường nghĩa.....................................................................22


1.2.4 Ngữ nghĩa của trường nghĩa...........................................................23
1.3 Một số vấn đề về ngữ cảnh.................................................................24
1.4 Xuân Quỳnh –Tác giả và tác phẩm...................................................25
Tiểu kết.............................................................................................................27
CHƯƠNG 2:
BIỂU HIỆN HÌNH THỨC CỦA CÁC
TÍN HIỆU THẨM MĨ ĐIỂN HÌNH THUỘC TRƯỜNG NGHĨA
HIỆN TƯỢNG TỰ NHÊN TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
2.1 Dẫn nhập...............................................................................................28
2.2 Hình thức ngôn ngữ biểu đạt của các tín hiệu thẩm mĩ....................30

2.2.1 Tín hiệu thẩm mĩ gió.......................................................................32
2.2.2 Tín hiệu thẩm mĩ trời ......................................................................35
2.2.3 Tín hiệu thẩm mĩ mưa.....................................................................38
2.2.4 Tín hiệu thẩm mĩ biển.....................................................................40
2.2.5 Tín hiệu thẩm mĩ sông.....................................................................42
Tiểu kết.............................................................................................................44
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA THẨM MĨ CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ
ĐIỂN HÌNH THUỘC TRƯỜNG NGHĨA HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN
TRONG THƠ XUÂN QUỲNH
3.1 Dẫn nhập...............................................................................................46
3.2 Ý nghĩa thẩm mĩ của các tín hiệu: gió, trời, mưa, biển, sông............47
3.2.1 Ý nghĩa của tín hiệu gió...................................................................47
3.2.2 Ý nghĩa của tín hiệu trời..................................................................51
3.2.3 Ý nghĩa của tín hiệu mưa................................................................59
3.2.4 Ý nghĩa của tín hiệu biển.................................................................63


3.2.5 Ý nghĩa của tín hiệu sông................................................................68
Tiểu kết.............................................................................................................72
KẾT LUẬN CHUNG.......................................................................................73
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................76
BẢN PHỤ LỤC................................................................................................79


QUI ƯỚC VIẾT TẮT

-

BTKH: Biến thể kết hợp
BTQH: Biến thể quan hệ

BTTV: Biến thể từ vựng
Cbđ: Cái biểu đạt
Cđbđ: Cái được biểu đạt
TH: Tín hiệu
THTM: Tín hiệu thẩm mĩ
THVC: Tín hiệu văn chương
THNN: Tín hiệu ngôn ngữ
THNNTM: Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ
Ts: Tần suất
YNBT: Ý nghĩa biểu trưng
YNTM: Ý nghĩa thẩm mĩ


6

PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là chất liệu của văn chương, cũng giống như màu sắc đối với
hội họa, âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc... một ngôn ngữ
thông thường khi đi vào tác phẩm văn chương sẽ được chuyển hóa thành một tín
hiệu nghệ thuật, tín hiệu thẩm mĩ – ngôn ngữ hay còn gọi là tín hiệu văn chương
(THVC). Tín hiệu ngôn ngữ (THNN) nói chung và tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ
nói riêng (THNNTM) vừa là phương tiện, vừa là công cụ, vừa là thể chất của
tác phẩm văn học. Hệ thống cấu trúc ý nghĩa của THNN và THNNTM sẽ góp
phần cấu thành nên giá trị tư tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học.
Nghiên cứu tác phẩm văn học dưới góc độ tín hiệu học sẽ giúp đọc giả tiếp cận
tác phẩm ở một khía cạnh mới, khía cạnh THTM gắn liền với ngôn ngữ mà tác
giả sử dụng, qua đó thể hiện tư tưởng, phong cách sáng tác của tác giả và cụ thể
ở đây là tiếp cận tư tưởng, phong cách của nhà thơ Xuân Quỳnh. Vì vậy, chúng
tôi chọn đề tài nghiên cứu: “ Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ thuộc trường nghĩa

hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh” khóa luận sẽ đóng góp những tiền
đề cơ bản nhất cho việc nghiên cứu về THTM nói chung và THTM trong thơ
Xuân Quỳnh nói riêng.
Hiện tượng tự nhiên là những hiện tượng tồn tại trong xã hội loài người
1.

nhưng các hiện tượng này hoàn toàn không phụ thuộc vào sự chi phối và quyết
định của con người, có nghĩa là dù có sự tồn tại của con người hay không thì
các hiện tượng tự nhiên vẫn tồn tại. Từ xưa đến nay, các hiện tượng tự nhiên
luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người, nó như là người bạn tâm
giao, tâm tình của con người trong mọi hoạt động từ lao động sản xuất đến sinh
hoạt cá nhân, sinh hoạt cộng đồng, xã hội. Mượn các hiện tượng tự nhiên để nói
đến tâm tư, tình cảm của con người, mượn sự đổi thay của hiện tượng tự nhiên
để nói đến sự đổi thay của con người là một chủ đề lớn luôn được các nhà thơ,
nhà văn từ xưa đến nay quan tâm và đưa vào trong sáng tác của mình. Xuân
Quỳnh cũng là nhà thơ không nằm ngoài quỹ đạo ấy. Các hiện tượng tự nhiên là


7

đối tượng phản ánh thường được Xuân Quỳnh đưa vào trong sáng tác của mình,
các hiện tượng tự nhiên xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh vừa mang những đặc
điểm chung vừa mang những đặc điểm riêng, độc đáo thể hiện phong cách, cá
tính sáng tạo riêng của Xuân Quỳnh, đó cũng là lí do thứ hai để chúng tôi lựa
chọn đề tài này nghiên cứu với mong muốn sẽ tìm hiểu những đặc điểm độc đáo
trong phong cách sáng tác của Xuân Quỳnh khi nhà thơ đưa cả một thế giới tự
nhiên phong phú vào trong thơ của mình.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh là một tác giả nữ đã
khẳng định được tên tuổi của mình. Trải qua năm tháng sống và viết, yêu thương
và lao động nghệ thuật hết mình, Xuân Quỳnh đã để lại cho đời một di sản văn

học thật đáng quý. Ngòi bút của Xuân Quỳnh đã được thử thách qua thời gian
với nhiều chủ đề khác nhau. Trong đó có những bài thơ tình yêu đạt đến đỉnh
cao. Dù đi vào những vấn đề lớn của đất nước hay trở về với những tình cảm
riêng tư, thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nói rất riêng của một tâm hồn
phụ nữ thông minh, sắc sảo, đầy nữ tính. Tình yêu và thiên nhiên đi vào thơ
Xuân Quỳnh rất tự nhiên và tràn đầy sức sống. Điều này được thể hiện rất rõ nét
qua hệ thống THNN mà nữ sĩ đã sử dụng. Đặc biệt là hệ thống THTM thuộc
trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh.
Với những lí do trên chúng tôi chọn đề tài: “ Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ
thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh” để tiến
hành nghiên cứu và với những kết quả đạt được, chúng tôi mong muốn góp thêm
một cách tiếp cận tác phẩm văn học nói chung, cụ thể ở đây là tác phẩm thơ của
nhà thơ Xuân Quỳnh nói riêng từ góc độ tín hiệu học.
2. Lịch sử vấn đề
Ở nước ta, hiện nay nghiên cứu văn học dưới góc độ lí thuyết tín hiệu học
đang rất phát triển thu hút nhiều nhà nghiên cứu , trong đó vấn đề THTM tỏ ra
rất có ưu thế, cũng đã có không ít các công trình, luận án viết về vấn đề này,
trong đó có thể kể đến các tác giả như Hoàng Tuệ, Hoàng Trinh, Trần Đình Sử,
Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Lai, Đào Thản, Đái Xuân Ninh, Đỗ Hữu Châu, Đỗ
Việt Hùng, Bùi Minh Toán…


8

Trong những năm gần đây, nhiều luận án, luận văn triển khai theo hướng
nghiên cứu này cũng đã khẳng định được ý nghĩa thực tiễn của hướng nghiên
cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học, đồng thời đã có những đóng góp quan
trọng cho lí thuyết THTM.Việc vận dụng lí thuyết THTM vào nghiên cứu văn
chương phát triển nhanh với những luận án, luận văn của các tác giả: Nguyễn
Thị Vân Anh: Tín hiệu thẩm mĩ trái tim trong thơ Xuân Diệu (2014), Lê Thị

Hồng: Tìm hiểu vấn đề tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Huy Cận (1993), Đinh Văn
Thiện: Khảo sát các nét nghĩa biểu trưng của các từ chỉ hiện tượng thiên nhiên
(1993), Trương Thị Nhàn: Tìm hiểu giá trị biểu trưng của một số từ chỉ hiện
tượng thiên nhiên trong tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (1984). Những công
trình nghiên cứu này đã góp những tiếng nói chung đối với các vấn đề THTM
văn chương. Luận án tiến sĩ của tác giả Trương Thị Nhàn: Sự biểu đạt bằng
ngôn ngữ của tín hiệu thẩm mĩ không gian trong ca dao cũng đã vận dụng các
cơ sở lí thuyết về tín hiệu, về hệ thống, trường nghĩa, về ngôn ngữ liên hội để
xem xét các THVC. Và đặc biệt Mai Thị Kiều Phượng với cuốn sách Tín hiệu
thẩm mĩ trong ngôn ngữ văn học (2008) đã có những đóng góp nhất định vào
nghiên cứu mảng THTM, đồng thời là bằng chứng khẳng định ưu thế của hướng
nghiên cứu này.
Nghiên cứu ngôn ngữ thơ ca nói chung và nghiên cứu ngôn ngữ của nhà
thơ Xuân Quỳnh nói riêng đã có rất nhiều công trình, bài viết :
1. Ngân Hà, (2001), Nữ sĩ Xuân Quỳnh - Cuộc đời để lại, Nxb Phụ nữ.
2. Vân Long, (2004), Xuân Quỳnh – Thơ và đời, Nxb Văn hóa thông tin.
3. Vũ Kim Tuyến, (2000), Thơ Xuân Quỳnh và những lời bình, Nxb Văn
hóa thông tin.
4. Thùy Trang, (2013), Xuân Quỳnh – Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học.
Tuy nhiên hướng nghiên cứu của các công trình trên về thơ ca Xuân
Quỳnh chủ yếu dưới góc độ văn học. Còn vấn đề nghiên cứu thơ Xuân Quỳnh
dưới cái nhìn của THTM thì còn rất hạn chế, trong đó nổi bật nhất là công trình
“ Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Xuân Quỳnh” (1990) của tác giả Lê Thị
Tuyết Hạnh có đi sâu nghiên cứu về THTM nhưng chỉ dừng lại ở việc khái quát


9

một số THTM xuất hiện trong thơ Xuân Quỳnh mà chưa đi sâu tìm hiểu sự biểu
hiện của bất kì một THTM cụ thể nào.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên những cơ sở lí thuyết về THTM, chúng tôi nghiên cứu tác phẩm
văn học mà cụ thể ở đây là tác phẩm thơ của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh với mong
muốn đóng góp tiếng nói chung khẳng định thêm những thành công của thơ
Xuân Quỳnh, một nhà thơ nữ tiêu biểu và đặc sắc trưởng thành trong phong trào
chống Mĩ cứu nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận tập trung ở ba nhiệm vụ cụ thể sau:
Trước hết chúng tôi sẽ hệ thống hóa các lí thuyết về tín hiệu, tín hiệu ngôn
ngữ, tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ, các nội dung về trường nghĩa, ngữ cảnh, mối
quan hệ giữa trường nghĩa với các vấn đề văn học, ngôn ngữ học, tín hiệu thẩm
mĩ…
Tiếp đến, áp dụng lí thuyết vừa trình bày vào việc miêu tả các đơn vị ngôn
ngữ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh về hình thức
biểu đạt.
Dựa vào những biểu hiện hình thức của các THTM đã khảo sát và phân
tích ở bước thứ hai, chúng tôi sẽ đi phân tích, làm rõ biểu hiện ý nghĩa của các
THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên để xem chúng vận hành và biến
đổi như thế nào qua mỗi hình thức biểu đạt ở trong thơ Xuân Quỳnh. Từ đó, chỉ
ra những nét đặc trưng trong phong cách sáng tác của nhà thơ Xuân Quỳnh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Thơ Xuân Quỳnh có không ít các tín hiệu thẩm mĩ nhưng trong phạm vi
đề tài này, chúng tôi chỉ chọn những THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự
nhiên làm đối tượng để khảo sát.
Tuy nhiên, đây cũng là một trường nghĩa rộng, chứa nhiều tín hiệu thẩm
mĩ. Vì thế, chúng tôi chỉ tập trung vào những tín hiệu có tần suất và giá trị thẩm
mĩ cao trong số các THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên. Và những
THTM này sẽ được xác định trên cơ sở thống kê, phân tích, đối sánh, tổng hợp
dữ liệu trong 47 bài thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh.
Nguồn tư liệu được sử dụng để khảo sát trong khóa luận:



10

1.Vân Long, ( 2010), Thơ Xuân Quỳnh ( tuyển chọn), Nxb Văn hóa thông
tin.
2. Thùy Trang, (2013), Xuân Quỳnh – tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học.
3. Mạnh Linh. (2014), Thơ Xuân Quỳnh, Nxb Văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận, chúng tôi sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
5.1 Phương pháp miêu tả, phân tích: chúng tôi sử dụng phương pháp
này để miêu tả các hình thức ngôn ngữ, các bình diện nghĩa; phân tích ngữ nghĩa,
ngữ cảnh; phân tích mối quan hệ biện chứng giữa các mặt của từng đơn vị, giữa
các bình diện, đặc biệt để tìm sự đồng nhất và đối lập giữa các nghĩa trong hệ
thống và nghĩa trong hoạt động, nghĩa từ điển và nghĩa nghệ thuật của các tín
hiệu thẩm mĩ đang nghiên cứu.
5.2 Các thủ pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi sử dụng các thao tác
này nhằm thống kê tần số xuất hiện của các THTM thuộc trường nghĩa hiện
tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh trong mọi hoàn cảnh xuất hiện của chúng
– dưới dạng hằng thể, biến thể và các yếu tố ngôn ngữ khác cùng xuất hiện với
các THTM này. Từ đó, tiến hành nhận diện và phân loại các câu thơ có chứa tín
hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên- đối tượng chúng tôi
nghiên cứu.
6.Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, khóa luận của chúng tôi được chia làm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Biểu hiện hình thức của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc
trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong thơ Xuân Quỳnh.
Chương 3: Biểu hiện ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc

trường nghĩa hiện tượng tự trong thơ Xuân Quỳnh.
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG


11

1.1. Mối quan hệ của bộ ba: tín hiệu – tín hiệu ngôn ngữ - tín hiệu
thẩm mĩ
1.1.1 Tín hiệu
1.1.1.1 Khái niệm tín hiệu
Trước hết, như ta đã biết, THTM vốn là một loại TH cho nên nó cũng
mang những đặc trưng của tín hiệu (TH) nói chung. Vậy TH là gì?
Khái niệm TH được nhắc đến lần đầu tiên trong học thuyết về THNN của
F.de Sausre. Theo ông, TH có hai mặt cái biểu đạt (cbđ – hình thức vật chất cảm
tính) và cái được biểu đạt (cđbđ – nội dung ý nghĩa). Hai mặt này “ gắn bó khăng
khít với nhau và đã có cái này là có cái kia” [37, 12]. Sau này, Ch.S.Pierce đã
đưa thêm vào cấu trúc nhị diện nhân tố thứ ba là cái lí giải (interpretant). Nhưng
phải đến khi Ch.W.Morris hệ thống hóa và xây dựng một lí thuyết tổng quan về
TH thì ba chiều của TH mới thực sự có ý nghĩa trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu
khoa học và đặc biệt với ngành tín hiệu hoc. Cả Ch.W.Morris cũng như
Ch.S.Pierce chia ra ba chiều của tín hiệu: thứ nhất là chiều kết học nghiên cứu
các TH trong mối quan hệ với các TH khác, thứ hai là chiều nghĩa học nghiên
cứu các TH trong mối quan hệ với các sự vật ở bên ngoài hệ thống TH, thứ ba là
chiều dụng học nghiên cứu các TH trong những mối quan hệ với người sử dụng
nó.
Theo F.Guiraud: “ Một TH là một kích thích mà tác động của nó đến cơ
thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác” [17,51]. Theo cách hiểu như
vậy thì bất kì hình thức vật chất nào mà có khả năng gợi ra trong kí ức của con
người một hình ảnh nào đó thì đều được coi là TH cả, không phân biệt nguồn

gốc của nó là tự nhiên hay nhân tạo, có chức năng giao tiếp hay không .
Ví dụ: Chuồn chuồn bay thấp, hoặc con cóc nghiến răng, theo quan niệm
trong dân gian của người Việt Nam ta sẽ có khả năng dự báo về ngày hôm sau
trời có mưa, một hồi chuông, tiếng kẻng, tiếng trống báo hiệu giờ ra chơi đã đến.
Câu hỏi trong câu ca dao sau là lời tỏ tình tế nhị, kín đáo:
Đêm trăng anh mới hỏi nàng:
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Với câu trả lời nhưng cũng là lời đồng ý tế nhị cho lời tỏ tình:


12

Chàng hỏi thì thiếp xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Theo A.Schaff TH được hiểu: “ Một sự vật, vật chất hay thuộc tính của
nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành TH nếu như trong quá trình giao tiếp, nó
được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của một ngôn ngữ để
truyền đạt một tư tưởng nào đó về thực tế, tức về thế giới bên ngoài hay về
những cảm thụ nội tâm” [17,51]. Như vậy, A.Schaff chỉ thừa nhận là TH khi nó
mang những chức năng giao tiếp được con người sử dụng nhằm trao đổi tư
tưởng, tình cảm của mình trong đời sống.
Dù TH được hiểu theo nghĩa hẹp hay rộng thì các ý kiến đều thống nhất
cho rằng TH là khái niệm quan hệ không phải là khái niệm tự thân, muốn một cái
gì đó trở thành TH thì nó phải nằm trong một hệ thống nhất định và có mối quan
hệ với các sự vật khác. Để thuận tiện trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi lấy
định nghĩa rộng của F.Guiraud làm xuất phát điểm bởi vì nó phát hiện ra những
đặc trưng TH học của các TH ngôn ngữ.
Kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả Đỗ Hữu Châu
đã chỉ ra những đặc tính như là dấu hiệu nhận biết của một TH, gồm các nhân tố
sau: thứ nhất, nó phải có một hình thức cảm tính - Tức là TH phải cho phép con

người cảm nhận được bằng các giác quan thông thường.Thứ hai, nó phải gợi ra,
đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó hay còn gọi là phải mang một nội
dung ý nghĩa “một TH là một khái niệm về quan hệ giữa cbđ và cđbđ (ý nghĩa)”.
Thứ ba, TH phải được nhận thức bởi một chủ thể nào đó. Thứ tư, TH phải nằm
trong một hệ thống TH nhất định.
1.1.1.2 Phân loại tín hiệu
Các nhà nghiên cứu TH học đã phân các TH thành các loại khác nhau:
Ch.S.Pierce phân chia TH thành ba loại chính: Hình hiệu (icons), chỉ hiệu
(index), và ước hiệu (symbol) dựa theo tiêu chuẩn quan hệ giữa cbđ và cđbđ mà
F.de Saussure đã đưa ra. Theo đó, đại đa số THNN là thuộc loại ước hiệu, loại
TH mà mối quan hệ cbđ và cđbđ là hoàn toàn võ đoán, không giải thích nguyên
do. Loại TH này sẽ mất tư cách là TH nếu không có người lí giải.


13

K.Buhler chia các TH thành: symbole (TH chỉ ra sự vật, đối tượng),
symptome (TH bộc lộ trạng thái tâm sinh lí, tư tưởng, tình cảm của người nói),
signal (TH gây tác động tâm sinh lí cho người nghe).
Morris dựa vào mối quan hệ giữa TH với các loại sự vật mà chúng biểu thị
để chia TH thành hai loại: chỉ hiệu (Single indexes) và định hiệu (Singnes
caracterisant). Tiếp theo, ông lại phân chia các định hiệu ra thành hình hiệu và
biểu trưng (symbole).
A.Chaff xuất phát từ cơ sở chỉ xem TH gắn liền với chức năng giao tiếp,
nên ông tiến hành phân loại TH như sau: đầu tiên ông phân TH thành TH nhân
tạo và TH tự nhiên (TH đích thực). TH tự nhiên lại chia thành TH hư và TH thực
có khả năng bộc lộ nhất định. TH thực có khả năng bộc lộ nhất định lại được
chia thành: lệnh hiệu và định hiệu. Các định hiệu lại được chia thành: định hiệu
đích thực và Symbole.
P.Guiraud từ năm 1950 đã đưa ra bảng phân loại TH. Ông phân chia TH

dựa trên mối quan hệ giữa thực tế với nhận thức của con người. Trong đó tác giả
quan tâm tới những TH biểu hiện (TH không giao tiếp). Những TH biểu hiện về
bản chất là các hình hiệu và chức năng của chúng không phải là công cụ giao
tiếp mà là công cụ để phản ánh, miêu tả thực tế khách quan. Ví dụ như bức ảnh,
bản nhạc… chúng là sản phẩm của các loại hình nghệ thuật và thuộc đối tượng
nghiên cứu của nghệ thuật học P.Guiraud tiếp tục phân chia TH thành TH tự
nhiên và TH nhân tạo. Trong TH nhân tạo ông lại phân chia thành TH giao tiếp
và TH không giao tiếp. Ông còn dựa theo đặc tính thể chất của TH mà phân chia
TH thành các TH thị giác, TH thính giác, TH xúc giác. Theo đặc tính chuyển mã
hay chưa chuyển mã, ông chia các TH thành TH thứ cấp (còn gọi là kí hiệu) và
TH sơ cấp… P.Guiraud cũng chỉ ra sự xâm nhập lẫn nhau của các loại tín hiệu.
Tác giả Đỗ Hữu Châu cũng đã đưa ra bảng phân loại TH theo quan điểm
riêng của mình. Theo ông, TH là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các
phương diện khác nhau có thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau. Mỗi lần
vận dụng một tiêu chí phân loại là có một kết quả phân loại. Những tiêu chí phân
loại mà Đỗ Hữu Châu đưa ra là: 1/ Dựa vào đặc tính thể chất của cái biểu hiện.


14

2/ Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu. 3/ Dựa vào mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ. 4/
Căn cứ vào chức năng xã hội của tín hiệu.
Dựa vào mặt thể chất của TH có thể phân chia ra được các loại TH như:
TH màu sắc, TH âm thanh…. Trong đó, THNN được coi là một loại TH đặc biệt.
1.1.2 Tín hiệu ngôn ngữ
Trên cơ sở lí thuyết TH học, mỗi TH gồm có hai mặt là cbđ (tức hình thức
vật chất cảm tính) và cđbđ (tức nội dung ý nghĩa) F.de Saussure xác định THNN
như sau: “THNN kết liền thành một không phải một sự vật với một tên gọi mà là
một khái niệm với một hình ảnh âm thanh. Hai yếu tố này gắn bó khăng khít với
nhau và đã có cái này sẽ có cái kia. Trong đó khái niệm được gọi là cái được

biểu đạt (cđbđ) và hình ảnh âm thanh được gọi là cái biểu đạt (cbđ)” [30,121].
Nó như hai mặt của một tờ giấy, hễ mất mặt này thì mặt kia không thể tồn tại,
hay nói cách khác, THNN là một tổng thể hai mặt không thể tách rời. Từ đó, F.de
Saussure đã chỉ ra hai đặc điểm của THNN đó là tính võ đoán và tính hình tuyến
của THNN. Tính võ đoán của F.de Saussure được hiểu là mối quan hệ giữa cbđ
và cđbđ là hoàn toàn không có một lí do xác đáng nào. Nghĩa là nếu không có
cbđ này thì có thể sử dụng cbđ khác làm vỏ cho các đơn vị ngôn ngữ mà người ta
vẫn có thể hiểu nếu như cấp cho chúng các thế đối lập cần thiết nhằm xác định
giá trị của đơn vị đó.
Ch.S.Pierce cũng có quan niệm tương tự. Ông cho rằng đại đa số THNN
thuộc loại ước hiệu, loại TH mà mối quan hệ giữa cbđ và cái cđbđ là hoàn toàn
võ đoán, không giải thích được nguyên do. Loại TH này sẽ mất tư cách là TH
nếu không có cái lí giải.
F.de Saussure chỉ rõ rằng : “ Thường người ta không nói bằng TH riêng lẻ,
mà bằng từng nhóm TH, từng khối có tổ chức, vốn cũng là TH” [26,221]. Sau
này, Ch.W.Morris cũng đồng tình với F.de Saussure về quan điểm cho rằng tất cả
các tín hiệu đều nằm trong quan hệ với các tín hiệu khác và quy định lẫn nhau.
Do đó, các tín hiệu luôn nằm trong một hệ thống nhất định. Ngôn ngữ là một loại
TH đặc biệt, nó lập thành một hệ thống với những cấp độ và quan hệ đặc thù của
ngôn ngữ.


15

Trong cuốn Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ là
hệ thống tín hiệu sơ cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật chất,
đó là những âm thanh do bộ máy cấu âm của con người tạo ra. Ông đặc biệt lưu
ý vấn đề chức năng và đặc tính đa chức năng của các THNN so với các hệ thống
TH nói chung và TH mang chức năng giao tiếp nói riêng. Nếu như các TH khác
ở từng hệ thống chỉ thực hiện được một chức năng TH học thì ngôn ngữ không

chỉ thuần túy mang chức năng giao tiếp mà đồng thời còn là công cụ để tư duy,
để tổ chức xã hội, để duy trì sự sống của con người và còn mang chức năng thi
pháp… Trong đó, chức năng giao tiếp được coi là chức năng xã hội quan trọng
nhất của ngôn ngữ.
Vì vậy, THNN vừa là TH giao tiếp, vừa có thể là TH nhận thức, TH biểu
hiện… Riêng đối với chức năng giao tiếp, cũng có sự phân biệt các chức năng
khác nhau có liên quan đến các nhân tố khác nhau của hoạt động giao tiếp: chức
năng miêu tả, chức năng dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng cú học.
Từ các phương diện chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý
nghĩa tín hiệu của chúng trên tất cả những đơn vị mang ý nghĩa ( tức các đơn vị
có hai mặt): từ, cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản. Một từ, ngữ hay một câu nói nào
đó có thể vừa mang những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc
lộ những đặc điểm về địa phương, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lí của người
nói… Chẳng hạn, khi đọc những câu thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu,
chúng ta có thể biết nhà thơ đang đề câp đến các địa danh của vùng núi rừng Tây
Bắc:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ở bất kì cấp độ nào, mỗi THNN đều phải bao hàm một hình thức ngữ âm
(cbđ) tương ứng với một nội dung ngữ nghĩa (cđbđ) và giá trị của THNN cũng
do những mối quan hệ thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định. Vậy những mối quan
hệ hệ thống của THNN là những quan hệ nào? F.de Saussure đã nêu hai loại


16

quan hệ chung nhất: thứ nhất, quan hệ đồng nhất – đối lập và quan hệ khác biệt.
Thứ hai, quan hệ hình tuyến và quan hệ trực tuyến [30,145].

Trong ngôn ngữ học hiện đại, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến các loại
quan hệ như: quan hệ tôn ti (giữa các cấp độ của ngôn ngữ) và quan hệ hiện thực
hóa (giữa bình diện trừu tượng và bình diện cụ thể, giữa điển dạng và hiện
dạng).
Chính các nguyên tắc đồng nhất và đối lập, kết hợp (hay tuyến tính) và
liên tưởng (hay trực tuyến), điển dạng (hay hằng thể) và hiện dạng (hay biến thể)
trong hệ thống ngôn ngữ sẽ là những cơ sở lí thuyết quan trọng giúp chúng ta lí
giải về các THNN trong quá trình hoạt động thực hiện các chức năng của ngôn
ngữ trong giao tiếp, trong đó có giao tiếp nghệ thuật (giao tiếp của văn học) có
liên quan đến những nhiệm vụ mà đề tài này cần giải quyết.
Chính vì vậy mối quan hệ giữa hai mặt của THNN đã được Đỗ Hữu Châu
đặt trong chức năng xã hội của ngôn ngữ. Sự hiện thực hóa chức năng xã hội của
ngôn ngữ được biểu hiện trong hoạt động của toàn bộ hệ thống; qua những mối
quan hệ ngang (tuyến tính, ngữ đoạn, tiếp đoạn cú đoạn: khả năng kết hợp của
các yếu tố ngôn ngữ với nhau để tạo thành một đơn vị cao hơn) và mối quan hệ
giữa các cấp độ của hệ thống ngôn ngữ. Trong các kết hợp cụ thể, mối quan hệ
giữa hình thức ngôn ngữ (cbđ) và ý nghĩa (cđbđ) rất khác nhau.
1.1.3 Tín hiệu thẩm mĩ
1.1.3.1 Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ
Ở mỗi ngành nghệ thuật đều có một cách thức riêng để thể hiện. Nếu tác
phẩm hội họa là sự phô diễn của những đường nét, màu sắc, tác phẩm âm nhạc là
sự hòa thanh, tác phẩm điêu khắc là cách tổ chức các hình khối… thì tác phẩm
văn học là “ nghệ thuật” tổ chức ngôn từ. Bước vào thế giới nghệ thuật, các TH
thông thường chuyển hóa thành THTM, mang những đặc thù của nghệ thuật.
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu tác phẩm văn chương, thuật ngữ
THTM cũng chính là TH ngôn ngữ thẩm mĩ (THNNTM). Khái niệm THNNTM
khác với TH và THNN ở chỗ THNNTM vừa là quan hệ, vừa là khái niệm vật tự
thân có nghĩa là bản thân nó đã mang tính thẩm mĩ. Để thuận lợi cho việc nghiên
cứu chúng tôi thống nhất tên gọi ngôn ngữ thẩm mĩ cũng là THTM.



17

Từ sự phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện nghệ thuật, Đỗ Hữu
Châu đã có kiến giải cụ thể về THTM ngôn ngữ: THTM là phương tiện sơ cấp
của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú pháp –
THTM. THNN tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức – cbđ của THTM [13,18].
Để trả lời cho câu hỏi: Thế nào là một THTM? Đỗ Hữu Châu chủ trương căn cứ
vào sự tương ứng của THTM với các vật quy chiếu thuộc thế giới hiện thực:
THTM phải tương ứng với một vật quy chiếu nào đấy trong thế giới hiện thực.
Chẳng hạn như một con thuyền, một dòng sông, hay một nỗi buồn nào
đó[12,576].
Từ đó có thể hiểu THTM chính là toàn bộ những yếu tố hiện thực, những
chi tiết, những sự vật, hiện tượng của đời sống được đưa vào tác phẩm vì mục
đích biểu hiện ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.
Từ những điều đã được trình bày trên đây, để hiểu rõ mối quan hệ giữa
THNN và THTM, ta có sơ đồ sau:

Cbđ

Cbđ

Âm thanh

Cđbđ

Ý nghĩa ngôn ngữ

TH ngôn ngữ


THTM
Cđbđ

Ý nghĩa thẩm mĩ

Từ sơ đồ này, có thể thấy rằng cả cái hợp thể cbđ và cđbđ tạo thành THNN
đã trở thành cbđ cho một cđbđ mới là ý nghĩa thẩm mĩ của THTM trong tác
phẩm văn học. Chính vì thế, trong văn học không được đồng nhất phương tiện
văn học THTM và THNN thông thường được sử dụng làm chất liệu của tác
phẩm văn học. Chính sự khác biệt có tính vượt cấp này là do vai trò quyết định
của chủ thế sáng tạo. Điều đó khiến cho, nói theo Ch.Bally, giữa cách dùng ngôn
ngữ hàng ngày và ngôn ngữ của nhà văn có một vực thẳm không vượt qua được
[21,9].
Điều đáng chú ý ở đây là nếu mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ trong ngôn
ngữ tự nhiên có thể là võ đoán thì mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ trong tín hiệu


18

thẩm mĩ lại luôn có lí do và là lí do liên hội. THNN tự nhiên muốn trở thành
THTM trong tác phẩm nghệ thuật thì phải trải qua một quá trình khái quát hóa
nghệ thuật mang tính biểu trưng để đạt đến ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.
Như vậy có thể thấy, trong ngôn ngữ văn chương THNNTM cũng tồn tại
ba mối quan hệ chính: quan hệ giữa các TH với nhau trong ngôn ngữ, quan hệ
giữa các TH trong ngôn ngữ văn học với thực tế, quan hệ giữa TH với các nhân
vật giao tiếp trong tác phẩm ngôn ngữ văn học.
Từ sự phân tích như trên thì trong nội dung của khóa luận này, chúng tôi
thống nhất sử dụng khái niệm THTM của Bùi Minh Toán: THTM là loại TH có
chức năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc về cái
đẹp. Nó cũng như mọi loại TH khác, cần có hai mặt: cái biểu đạt và cái được

biểu đạt nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mĩ [25,1].
1.1.3.2 Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ
a. Đặc tính về nguồn gốc: việc chỉ ra nguồn gốc của THTM là bước đầu
để xác định hai phương diện quan trọng của nó là: mặt thể chất và mặt tinh thần.
THTM được sinh ra từ nhiều nguồn gốc, trước hết là từ thế giới hiện thực
đa sắc màu với những sự vật, hiện tượng phong phú tồn tại một cách hiển nhiên
không phụ thuộc vào ý thức con người và một thế giới mang màu sắc chủ quan
rõ nét đó là thế giới tâm trạng – thế giới của cảm xúc, suy tư, những buồn vui,
trăn trở… được người nghệ sĩ lựa chọn vào tác phẩm nghệ thuật của mình nhằm
mục đích thẩm mĩ.
THTM còn có nguồn gốc từ những tưởng tượng logic hoặc phi logic của
người nghệ sĩ. Đó là phút thăng hoa nghệ thuật, phút xuất thần của những điều
phi thường, kì diệu mà đôi khi nếu lấy những tri thức của đời sống đời thường
khó lòng lí giải nổi.
THTM còn có nguồn gốc từ các sự kiện ngôn ngữ như từ địa phương,
đoạn đối thoại , những yếu tố ngôn ngữ như âm, vần, thanh; cấu trúc ngữ pháp
câu; cách trình bày ngôn bản... trong tác phẩm.
b. Đặc tính về cấp độ: tùy theo từng nhà nghiên cứu mà quan điểm về
phân chia cấp độ THTM cũng khác nhau. Đỗ Hữu Châu phân biệt THTM ở hai
cấp độ cơ bản:


19

Cấp độ cơ sở: THTM ứng với một chi tiết, hiện tượng thuộc thế giới
khách quan: Biển, mặt trời, con thuyền... Đó là những THTM đơn hay THTM cơ
sở có chức năng tham gia cấu tạo nên những THTM ở cấp độ cao hơn trong tác
phẩm. THTM đơn được tạo nên bằng các từ hay cụm từ, có thể là những từ ngữ,
thành ngữ, điển cố hay những hình ảnh đơn lẻ, mang ý nghĩa thẩm mĩ. Đỗ Hữu
Châu viết : “ Phương tiện sơ cấp của văn học là tín hiệu thẩm mĩ. Rồi cái THTM

đó được thể hiện bằng các tín hiệu ngôn ngữ thông thường...”[11,564]
Cấp độ xây dựng (TH phức): là loại THTM ứng với nhiều sự vật, hiện
tượng được xây dựng từ những tín hiệu thẩm mĩ đơn. Loại tín hiệu phức được
tạo ra để biểu hiện những ý nghĩa thẩm mĩ mới trong tác phẩm văn chương.
THTM được chúng tôi nghiên cứu là những TH đơn. Mỗi TH ứng với một
yếu tố hiện thực ( yếu tố của các hiện tượng tư nhiên như biển, núi, mây, mưa,
gió...) và được cụ thể, đa dạng, phức tạp hóa bằng các hình thức ngôn ngữ nhất
định. Nghiên cứu các hình thức biểu đạt này sẽ là cách thức để phát hiện ra các
ý nghĩa thẩm mĩ của các THTM.
c. Đặc tính tác động: đặc tính này có cơ sở từ bản chất của TH như ý kiến
của P. Guiraud mà chúng tôi đã từng dẫn ở trên: “ Một TH là một kích thích mà
tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác”. Hiệu
quả tác động của THTM trước hết là hình thành nên những hình tượng nghệ
thuật. Như vậy có thể hiểu, hình tượng nghệ thuật, đó là sản phẩm của thế giới
tinh thần được THTM làm đầy lên trong thế giới chủ thể tiếp nhận.
Đặc tính tác động của THTM còn được thể hiện ở chức năng giao tiếp
nghệ thuật mang tính đối thoại hoặc đặc thù của nó. Khi đó THTM là TH đặc
biệt có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giới, tư tưởng của chúng ta, do đó nó
trở thành yếu tố kích thích của sự điều chỉnh sống động những tâm trạng xã hội
khác nhau.[24,17]
d. Đặc tính biểu hiện: đây là đặc tính quan trọng liên quan đến sự hiện
thực hóa chức năng chung của nghệ thuật – đó là chức năng phản ánh hiện thực.
THTM phải mang nội dung hiện thực nhất định, phải gắn với hiện thực. Điều
này có nghĩa là mỗi THTM ứng với sự vật hiện tượng thuộc thế giới vật chất hay
tinh thần.


20

Theo F. de Saussure: “TH là một thực thể có hai mặt nội dung và hình

thức không tách rời nhau; trong đó dấu hiệu vật thể có vai trò rất quan trọng đối
với người tiếp nhận. Nếu không có nội dung thì không có gì để truyền đạt; và
nếu có nội dung nhưng không qua lời nói, chữ viết thì người tiếp nhận cũng
không thể biết được nội dung mà người nói muốn truyền đạt.” [26,105].
M.B. Khrapchenco cho rằng: “ THTM phải có chức năng thay thế ( thay
thế những hiện tượng trong thay thế)” [11,572]. Theo Đỗ Hữu Châu: “THTM
phải ứng với một sự vật, hiện tượng nào đó trong thế giới hiện thực, phải có vật
quy chiếu trong thế giới hiện thực”. Sự biểu hiện (hay tái hiện) hiện thực của
THTM trong những ngành nghệ thuật khác nhau nói chung đều dựa trên năng
lực miêu tả, thay thế, tái hiện, dẫn các sự vật, hiện tượng, các phạm vi khác nhau
của đời sống vào trong tác phẩm, vào những phương tiện vật chất được sử dụng.
Trong hội họa đó là những đường nét, màu sắc. Trong âm nhạc, đó là những âm
thanh, nhịp điệu, tiết tấu có khả năng khơi gợi những hiện thực của đời sống, của
tâm hồn. Trong văn học đó là những từ ngữ, kết cấu mang nội dung biểu vật,
biểu niệm nhất định, gắn với hiện thực… phản ánh trình độ nhận thức, năng lực
cảm xúc của con người. Mặt khác, sự biểu hiện của THTM còn liên quan đến
quá trình liên tưởng ở chủ thể tiếp nhận, bởi vậy lượng thông tin biểu hiện trong
THTM cũng không phải nhất thành bất biến.
d. Đặc tính biểu cảm ( bộc lộ): đặc tính này thể hiện chức năng thông
báo của THTM trong mối quan hệ của nó với nhân tố người viết ( hay tác giả).
Để đạt đến một giá trị thẩm mĩ nhất định, THTM không thể chỉ dừng ở nội dung
đơn thuần tái tạo hiện thực. Ngoài những thông tin về hiện thực, THTM còn
thông tin về những cảm xúc, tâm trạng nhất định của người nghệ sĩ với bạn đọc.
Chính vì vậy, nằm trong cấu trúc của THTM, tính biểu cảm là một đặc tính quan
trọng, mang dấu ấn chủ quan của người sáng tác. M.B. Khrapchenco đã chỉ ra
rằng: “có một hệ số cảm xúc nhất định, một cơ cấu cảm xúc thuộc cấu trúc
THTM”. Cũng theo tác giả “cảm xúc vừa là cái để truyền đạt trong THTM vừa là
cái xác định gián tiếp các đối tượng và hiện thực làm cơ sở cho việc hiểu một
THTM”.[24,23]



21

e. Đặc tính biểu trưng: tính biểu trưng là đặc tính của THTM khi xét
trong mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ. Đây là mối quan hệ có lí do, liên quan đến
năng lực biểu trưng của các yếu tố, các chi tiết, các sự vật, hiện tượng được đưa
vào làm THTM trong tác phẩm. Tính biểu trưng là khả năng gợi ra một đối
tượng khác ngoài sự thể hiện cụ thể các dấu hiệu đó và được cộng đồng chấp
nhận.
Ch.S. Pierce cho rằng: “ biểu trưng có quan hệ với đối tượng của nó chỉ
qua một nghĩa có tính chất ước lệ mà người ta gán cho nó trong một hoàn cảnh
nào đó… Nghĩa đó là do con người trong cộng đồng đặt ra mà thôi.” [11,186].
Biểu trưng, một mặt có tính hình tượng cụ thể, cái biểu hiện nó là một đối tượng
nào đó được quy chiếu từ hiện thực. Mặt khác, đó là ý nghĩa xã hội nào đó được
cả cộng đồng chấp nhận. Tính chất ước lệ chung cho cái biểu hiện này chính là
tính có lí do trong THTM nói chung. Đặc tính này còn cho thấy lối tư duy, quan
niệm xã hội… gắn với một cộng đồng nào đấy, từ đó hình thành ý nghĩa xã hội
nào đó, được cả cộng đồng chấp nhận.
f. Tính hệ thống: TH nói chung và THTM nói riêng bao giờ cũng thuộc
về một hệ thống nhất định, bởi vậy nó chịu sự chi phối của những yếu tố khác
trong cùng hệ thống thông qua những quan hệ nhất định.
F.de Saussure đã chỉ ra rằng: “ thường người ta không nói bằng TH riêng
lẻ, mà bằng từng nhóm TH, từng khối có tổ chức vốn cũng là TH” [29,107]. Và
khi nói đến vấn đề tính có tổ chức ở lĩnh vực này, ta không thể không nói đến
tính hệ thống – một đặc tính làm nên bản chất TH của ngôn ngữ. Theo Nguyễn
Lai, khi nói đến tính hệ thống của ngôn ngữ, bên cạnh cách nhìn theo hướng lịch
đại dĩ nhiên ta còn phải nhìn nó theo hướng đồng đại. Đối lập trong bản thân nó
và đối lập với cái xung quanh nó.
Tính hệ thống của THTM được xem xét từ hai khía cạnh: khía cạnh nội
tại (cấu trúc), với những quy luật thuộc về cấu trúc tác phẩm. Khía cạnh ngoại

tại ( chức năng) với những quy luật về sự hoạt động thực hiện các chức năng
giao tiếp của sáng tạo nghệ thuật.
Riêng khía cạnh cấu trúc tác phẩm, cần phân biệt hai bình diện: bình diện
trừu tượng và bình diện cụ thể của hệ thống. Thuộc bình diện trừu tượng là


22

những điển dạng ( hằng thể) của THTM cùng những mối quan hệ giữa các điển
dạng làm nên cấu trúc bề sâu, bất biến của tác phẩm. Thuộc bình diện cụ thể là
những hiển dạng (hay biến thể) của THTM cùng những mối quan hệ giữa các
hiện dạng làm nên cấu trúc bề mặt, mang tính cụ thể biểu kiến của tác phẩm.
Nghiên cứu THTM thực chất là nghiên cứu những biến thể của nó qua mỗi lần
xuất hiện, chính vì vậy, thực chất của việc nghiên cứu hệ thống THTM là nghiên
cứu cấu trúc hình thức, mang tính cụ thể, biểu kiến của tác phẩm nghệ thuật. Đây
chính là vấn đề hằng thể và biến thể sẽ được bàn tiếp ở mục sau.
g. Tính trừu tượng và cụ thể: đây cũng chính là vấn đề hằng thể và biến
thể của THTM. Trong Tín hiệu học, người ta phân biệt điển dạng (hay hằng thể)
và hiện dạng (hay biến thể) của mỗi TH. Điển dạng là TH trong tính trừu tượng
bất biến của nó, còn gọi là hằng thể của TH. Hiện dạng là TH trong tính cụ thể,
khả biến của nó, còn gọi là các biến thể của TH. Trên thực tế, người ta chỉ gặp
các hiện dạng hay biến thể của TH với những biểu hiện không hoàn toàn giống
nhau trong những lần xuất hiện.
Đối với THTM cũng vậy, nghiên cứu các THTM trên thực tế chính là
nghiên cứu các biến thể của chúng. Như vậy, có thể hiểu biến thể của THTM là
THTM trong các lần xuất hiện của nó. Ở mỗi lần xuất hiện, THTM được biểu đạt
bằng một hình thức cbđ – biến thể, mang một nội dung cđbđ – biến thể, đồng
thời có những mối quan hệ mới với những yếu tố cùng xuất hiện trong hệ thống
mà THTM tham gia, và được cảm nhận với cảm xúc mới…
Ngoài ra, có thể xác định mối quan hệ hằng thể - biến thể giữa các THTM

– sự vật hiện tượng mang tính khái quát, chung ấy. Chẳng hạn, cây với tư cách
THTM khái quát, chung hay hằng thể, có thể được biểu hiện qua những biến thể
- tính chất, đặc điểm của cây như: vươn thẳng, xanh tươi… nhằm diễn đạt ý
nghĩa về sự sống mãnh liệt, hình ảnh ẩn dụ của những con người hiên ngang,
bất khuất.
Biến thể của TH nói chung, THTM nói riêng được chia ở hai dạng sau:
Biến thể từ vựng: đây là tập hợp những từ ngữ gần nghĩa hoặc cùng
trường nghĩa có thể thay thế cho nhau. Đây là cơ sở cho sự lựa chọn của các nhà
văn, nhà thơ. Chẳng hạn như trong thơ Xuân Quỳnh, TH thuyền và TH biển


23

(trong bài: thuyền và biển) được dùng để thay thế cho tình yêu của người con trai
(thuyền) và người con gái ( biển). Đây chính là những biến thể từ vựng. Mỗi tên
gọi như vậy, nói như W.Humboldt là “ biểu hiện quan điểm riêng của chúng ta
về đối tượng”.
Biến thể kết hợp: cùng một TH nhưng nó có sự biến đổi ít nhiều do kết
hợp với những TH khác nhau ở trước và sau nó. Trong ngôn ngữ, đây là kết quả
của tính hình tuyến; khi trở thành THTM thì từ ngữ đó cũng biến đổi ít nhiều
trong quan hệ với từ ngữ đi trước và đi sau. Có thể nói, biến thể kết hợp là biến
thể của các TH cùng hiện diện trong lời nói. Khi xuất hiện trong những tổ hợp
khác nhau TH ít nhiều biến đổi để tạo nên những tình cảm, cảm xúc khác nhau.
Có thể nói mối quan hệ giữa hằng thể và biến thể là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, giữa cái bất biến và cái khả
biến, cái vô hình và cái biểu kiến, phải thấy được mối quan hệ hai mặt này thì
mới đánh giá được giá trị của THTM.
1.1.3.3 Một số vấn đề về tín hiệu thẩm mĩ văn chương (THTMVC)
Văn chương là một khái niệm rộng dùng để chỉ tất cả các loại hình của
văn học, trong đó có thơ. Nghiên cứu TH thơ cũng chính là nghiên cứu THVC

cho nên trong đề tài khóa luận này chúng tôi thống nhất dùng tên gọi THVC
cũng là để chỉ cho TH thơ được nghiên cứu.
THNN khi bước vào thế giới văn chương sẽ được chuyển hóa thành
THVC và mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ trong THVC được biểu hiện như sau:
Cbđ của THVC là THNN với 2 mặt: cbđ là âm thanh ngôn ngữ hoặc chữ
viết; cđbđ là ý nghĩa ngôn ngữ. Nhưng do THVC mang tính chất phi vật thể, việc
cảm thụ các THVC diễn ra một cách gián tiếp, mang tính ước lệ, cho nên
YNTM, hình tượng nghệ thuật chỉ diễn ra trong ý thức của chủ thể sáng tạo và
chủ thể tiếp nhận, chỉ được cảm thấy chứ không hiện ra bằng chất liệu cụ thể.
Cũng như chính từ tính chất phi vật thể này mà THVC có khả năng khơi gợi ý
nghĩa với số lượng phong phú phức tạp; THVC cũng mang đậm sắc thái tinh
thần, sắc thái tâm lí, và phụ thuộc vào các nhân tố của ngữ cảnh giao tiếp nghệ
thuật. Theo Nguyễn Lai: “đó là kết quả của quá trình chuyển mã ngữ nghĩa hết


24

sức phức tạp theo nguyên tắc cộng hưởng có định hướng của nhiều vòng đồng
tâm” [tìm hiểu sự chuyển hóa từ mã ngôn ngữ sang mã hình tượng].
Cđbđ của THVC: do tính đa trị của ngôn ngữ nên cbđ của THVC không
được rạch ròi những nội dung thông tin ngữ nghĩa, thông tin cảm xúc, giá trị văn
hóa, tư tưởng… trong một THNN cụ thể, mà những nội dung này đan lồng vào
nhau, hàm chứa trong nhau. Ví dụ:
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc

Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
(Tiếng gà trưa)
Ta không thể gọi rõ ràng từng thành phần thông tin, thành phần biểu cảm
hay những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc, lịch sử trong một THNN, cũng
như việc giải mã nó không chỉ đơn thuần là một lớp nghĩa.
THTM là một khái niệm có tính liên ngành, bởi vậy phải xem xét nó dưới
nhiều góc độ. Trong khóa luận này, chúng tôi mong muốn sẽ tìm ra được những
cơ sở lí luận chung nhất cho việc nhìn nhận những THTM trong tác phẩm văn
học, và là những yếu tố thuộc cấu trúc hình thức của ngôn ngữ tác phẩm. Có
nghĩa THTM là yếu tố ngôn ngữ thuộc tác phẩm văn học làm thành hình thức
của tác phẩm… Như vậy, nghiên cứu THTM chính là việc nghiên cứu ngôn ngữ
như là một yếu tố cấu thành tác phẩm, gắn với thể loại và phong cách tác giả và
cụ thể ở đây chính là ngôn ngữ cấu thành nên các tác phẩm, gắn với phong cách
của nhà thơ Xuân Quỳnh.


25

1.2 Những vấn đề cơ bản về trường nghĩa
1.2.1 Khái niệm về trường nghĩa
Ở Việt Nam, lý thuyết trường nghĩa được giới thiệu vào những năm 1970.
Đến nay nó vẫn được coi là một trong những mô hình nghiên cứu chiếm ưu thế
của ngữ nghĩa học cấu trúc và miêu tả. Có rất nhiều các công trình đã giới thiệu,
vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu các trường nghĩa, nghĩa của từ như các
tác giả: Đỗ Hữu Châu, Đái Xuân Ninh, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức Dân,
Nguyễn Văn Tu, Hoàng Phê, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Đức Tồn, Bùi Minh
Toán, Lý Toàn Thắng…
Do thế giới phản ánh vào ngôn ngữ mang tính tổng thể, liên tục

(continium) chính vì vậy hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ là rất lớn, rất phức
tạp và không kín cho nên “ yếu tố của nó sẽ không phải trực tiếp là từng đơn vị
từ vựng nữa mà là từng hệ thống con, và quan hệ trong hệ thống từ vựng biểu
hiện qua quan hệ giữa các hệ thống con đó.Mỗi hệ thống con là một trường từ
vựng” [11,34].
Các nhà ngôn ngữ học Lyon, Jackendoff, Fishman, Hudson… đã chỉ ra
rằng: việc đưa yếu tố này hay yếu tố khác vào từng “ trường” đều chịu áp lực chỉ
đạo của tâm lý học ý thức. Bằng so sánh, đối chiếu… chúng ta tìm ra sự tương
đồng hay đối lập giữa các sự vật, hiện tượng để “chia cắt” chúng thành từng “lát”
thích ứng với tư duy, thói quen ngôn ngữ của chúng ta. Vì vậy khi nghiên cứu “
bức tranh ý niệm về thế giới trong ngôn ngữ” chúng ta không thể không chú ý
đến cách thức tư duy riêng – lối cảm, lối nghĩ riêng của từng dân tộc, từng thời
đại phản ánh vào các ý nghĩa ngôn ngữ.
Có nhiều quan niệm về trường nghĩa, trong nội dung của khóa luận này
chúng tôi thống nhất sử dụng quan niệm trường nghĩa của tác giả Đỗ Hữu
Châu:“trường nghĩa là một tổ chức các từ và các biến thể sử dụng từ có quan hệ
với nhau làm thành một hệ thống. Hệ thống này cho thấy mối liên kết của chúng
dựa theo một cái gì đó là nét nghĩa chung có tính phạm trù” [17,211]
Từ những định nghĩa trên, chúng tôi nêu ra cách hiểu về trường nghĩa như
sau: Trường nghĩa là một tập hợp các từ có mối quan hệ nào đó với nhau về ngữ
nghĩa làm thành một tiểu hệ thống trong hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ.


×