Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.67 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ LAN ANH

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


Công trình này được hoàn thành
tại Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy

Phản biện 1: …………………………………………………….
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
…………………………………………………………………….
Phản biện 2: …………………………………………………….


……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………..

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ……giờ …. Ngày ….. tháng …. năm ……..

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
- Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH
NHTMCP .................................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm về quản trị, điều hành NHTMCP ................................. 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm NHTMCP .............................................................. 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quản trị, điều hành NHTMCP ...................... 10
1.2. Các mô hình quản trị, điều hành NHTMCP................................................. 16
1.3. Các cơ quan quản trị, điều hành trong NHTMCP ........................................ 18
1.4. Các nguyên tắc quản trị, điều hành NHTMCP ............................................ 19
1.4.1. Các nguyên tắc của OECD .................................................................... 19
1.4.2. Các nguyên tắc Basel về quản trị công ty ............................................. 24
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH

NHTMCP Ở VIỆT NAM ........................................................................................ 29
2.1. Sơ lược pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam ................ 29
2.2. Cơ quan quản trị, điều hành NHTMCP theo quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành ............................................................................................................. 35
2.2.1. ĐHĐCĐ ................................................................................................. 35
2.2.2. Hội đồng quản trị................................................................................... 43
2.2.3. Ban kiểm soát ........................................................................................ 50
2.2.4. Tổng giám đốc (Giám đốc) ................................................................... 57
2.2.5. Mối quan hệ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy quản trị, điều hành
NHTMCP ........................................................................................................ 60
2.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng pháp luật về quản trị, điều hành
NHTMCP ở Việt Nam ........................................................................................ 60
2.3.1. Vấn đề tách bạch giữa sở hữu và điều hành .......................................... 60
2.3.2. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số ...................................... 62
2.3.3. Thẩm quyền của các cơ quan quản trị, điều hành NHTMCP ............... 65
1


2.3.4. Về thành viên HĐQT độc lập................................................................ 72
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NHTMCP Ở VIỆT NAM ..................................... 75
3.1. Những định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành
NHTMCP ở Việt Nam ........................................................................................ 75
3.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng, phát triển
thị trường tài chính, tiền tệ .............................................................................. 75
3.1.2. Nâng cao năng lực quản trị, điều hành, tăng tính tự chủ cho các
NHTMCP đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ..................................... 78
3.1.3. Khắc phục những bất cập của pháp luật về quản trị, điều hành
NHTMCP ở Việt Nam .................................................................................... 81
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở

Việt Nam ............................................................................................................. 84
3.2.1. Bổ sung những quy định về điều kiện, tiêu chuẩn cho các chức danh
quản trị, điều hành ........................................................................................... 84
3.2.2. Điều chỉnh những quy định về tăng cường quyền lực cho cổ đông
nhỏ ................................................................................................................... 86
3.2.3. Bổ sung những quy định pháp luật về chế độ công khai hóa, mức độ
minh bạch thông tin trong quản trị, điều hành NHTMCP .............................. 86
3.2.4. Bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng
của những cổ đông lớn, của HĐQT và người quản lý trong quản trị, điều hành
NHTMCP ........................................................................................................ 88
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 92

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Vấn đề quản trị, điều hành ngân hàng hiện nay đang được điều chỉnh bằng
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, Luật Doanh
nghiệp năm 2005, Nghị định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16/07/2009 về tổ chức và
hoạt động của NHTM, Thông tư số 06/2010/TT-NHNN ngày 26/02/2010 hướng
dẫn về tổ chức, quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần, bổ sung,
sửa đổi giấy phép, điều lệ của NHTM. Trong đó, sự ra đời của Luật các tổ chức tín
dụng năm 2010 đã khắc phục được một số quy định tồn tại về quản trị, điều hành
NHTM như: nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT và Tổng giám đốc chưa được phân
định rõ ràng và hợp lý dẫn đến tình trạng có những ngân hàng, HĐQT can thiệp
quá sâu vào việc điều hành hoặc ngược lại, có những ngân hàng Ban điều hành lấn
át HĐQT..., hay chưa có chế độ báo cáo và công bố thông tin rõ ràng, minh bạch
dẫn đến tình trạng thông tin bất cân xứng. Tuy nhiên, hệ thống văn bản điều chỉnh

vấn đề quản trị, điều hành ngân hàng hiện nay thực sự vẫn chưa tương đồng, chưa
nghiên cứu áp dụng triệt để các nguyên tắc chung về quản trị của thế giới (các
nguyên tắc quản trị ngân hàng lành mạnh của Ủy ban Basel; các nguyên tắc của
OECD) và còn nhiều bất cập như quy định về thành viên HĐQT độc lập, về số vốn
tối thiểu của Chủ tịch HĐQT,…làm hạn chế hiệu quả quản trị, điều hành ngân hàng.
Từ năm 2011 và nhất là từ đầu năm 2012 đến nay, vấn đề chất lượng hoạt
động của các ngân hàng đang bộc lộ nhiều vấn đề đáng báo động, vấn đề thanh
khoản và nợ xấu tăng lên không ngừng. Ngoài những nguyên nhân khách quan do
điều kiện, hoàn cảnh của nền kinh tế tác động thì hạn chế về quản trị, điều hành
ngân hàng cũng là một yếu tố gây ảnh hưởng không nhỏ. Trong đề án cơ cấu lại hệ
thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 của Thủ tướng Chính phủ, một
định hướng quan trọng được đề ra là cơ cấu lại hệ thống quản trị. Đặc biệt, ngày 26
tháng 11 năm 2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật
Doanh nghiệp năm 2014, hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015 với những thay đổi
trong quy định về cơ cấu tổ chức quản trị, điều hành một CTCP sẽ trở thành cơ sở
pháp lý quan trọng cho các hoạt động tổ chức quản trị, điều hành các CTCP nói
chung và ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng.
Từ năm 2011, các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh, có
kinh nghiệm quốc tế đã được quyền bình đẳng trên mọi lĩnh vực với các ngân hàng
trong nước. Số lượng ngân hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam tăng lên
nhanh chóng. Đến thời điểm hiện nay, trên thị trường Việt Nam đã có 5 ngân hàng
100% vốn đầu tư nước ngoài, 49 văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, 50
3


chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Việc giữ thị phần và phát triển kinh doanh trong
một môi trường cạnh tranh gay gắt ngày càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Để có thể tự tin đứng vững và phát triển ngay tại “sân nhà” trong bối cảnh hiện nay
càng đòi hỏi các ngân hàng nội, đặc biệt là các NHTMCP Việt Nam cần chú trọng
đến vấn đề quản trị ngân hàng đáp ứng các tiêu chuẩn quản trị quốc tế. Vì vậy tôi

chọn đề tài “Pháp luật về quản trị, điều hành NHTM cổ phần ở Việt Nam” để
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quản trị, điều hành doanh nghiệp nói chung đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Về quản trị CTCP đã có một số công trình nghiên cứu sau:
“So sánh pháp luật về quản trị doanh nghiệp của một số nước trên thế giới – Bài
học kinh nghiệm và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật công ty ở Việt Nam”
– Đề tài đặc biệt cấp Quốc gia do PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (chủ biên), năm 2004,
Mã số: QG.04.23; “Quản trị công ty: Nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận
nguồn vốn thị trường toàn cầu” – sách do CIEM dịch với sự tài trợ của GTZ…
Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu có đề cập đến quản trị công ty như:
“Nghiên cứu so sánh quản lý CTCP theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Công hòa nhân dân Trung Hoa”, Luận văn tiến sĩ luật học của Ngô Viễn
Phú, năm 2004; “Tổ chức quản lý nội bộ CTCP – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn” Luận văn thạc sĩ luật học của Cao Thị Kim Trinh, năm 2004; “Bảo vệ quyền
lợi của cổ đông trong CTCP theo pháp luật Việt Nam – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” Luận văn thạc sỹ luật học của Bùi Minh Nguyệt, năm 2010.
Từ những năm 2000 cho đến nay, khi lĩnh vực ngân hàng phát triển mạnh mẽ
ở nước ta, đặc biệt từ năm 2006, hàng loạt ngân hàng nông thôn địa phương
chuyển đổi thành ngân hàng đô thị thì vấn đề quản trị, điều hành NHTMCP đặt ra
rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên, thực tế những công trình nghiên cứu,
những bài viết về vấn đề này còn rất ít. Ở Việt Nam hiện nay, ngoài một số bài báo
đề cập hoặc nghiên cứu các khía cạnh của vấn đề quản trị, điều hành trong
NHTMCP và các công trình nghiên cứu về quản trị trong CTCP như kể trên, thì
các công trình nghiên cứu đầy đủ về vấn đề quản trị cho NHTMCP vẫn chưa
nhiều. Năm 2009 có công trình: “Pháp luật về quản trị NHTMCP ở Việt Nam”
(2009) Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Phong Thủy. Tuy nhiên, công
trình này được nghiên cứu khi Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 chưa được ban
hành, vì vậy kiến nghị trong luận văn chỉ phù hợp với giai đoạn trước năm
2011(thời điểm Luật các Tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực).

4


Việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt
Nam” hiện nay vẫn là cần thiết nhằm tìm ra những bất cập và đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này và nâng cao hiệu quả quản trị điều hành
NHTMCP ở Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về quản trị, điều hành
NHTMCP; phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vấn đề
này tại một số NHTMCP. Trên cơ sở đó nêu ra những bất cập và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam.
3.2. Mục tiêu cụ thể
-Làm rõ khái niệm quản trị, điều hành NHTMCP; những quy định của pháp
luật về vấn đề quản trị, điều hành NHTMCP;
- Đưa ra và phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về quản trị, điều hành
NHTMCP ở Việt Nam, có so sánh với thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này ở
một số nước trên thế giới;
- Trên cơ sở đó, tìm ra những bất cập, tồn tại của pháp luật Việt Nam và đề
xuất hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về
vấn đề quản trị NHTMCP ở Việt Nam, trên cơ sở có sự so sánh, đối chiếu với pháp
luật của một số nước trên thế giới.
- Thông qua luận văn, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị không chỉ
nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này mà còn nhằm nâng cao năng lực quản trị,
điều hành của NHTMCP trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về quản

trị, điều hành NHTMCP và thực tiễn áp dụng tại một số ngân hàng.
- Phạm vi nghiên cứu: tác giả sẽ tập trung vào thực tiễn hoạt động áp dụng
pháp luật về quản trị, điều hành ở một số NHTM nhà nước sau cổ phần hóa
(Vietcombank, Vietinbank) và một số NHTM thành lập theo hình thức CTCP từ
ngay ban đầu.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để tiếp cận nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống và hiệu quả, tác giả sử
dụng tổng hợp các phương pháp: phân tích luật, so sánh, tổng hợp, thống kê, khảo
sát, diễn giải, suy luận logic để làm rõ quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề
5


quản trị, điều hành NHTMCP và thực trạng áp dụng pháp luật ở một số ngân hàng
của Việt Nam.
7. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu tại thành phố Hà Nội là một trong hai thành phố lớn
của cả nước, nơi mà hoạt động ngân hàng diễn ra sôi động và đa dạng nhất, yêu cầu
về quản trị ngân hàng đặt ra cấp thiết hơn bất cứ nơi nào. Sự cạnh tranh giữa các
ngân hàng trong nước với nhau và sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước với
ngân hàng ngoại ngày càng khốc liệt đòi hỏi các ngân hàng ngày càng phải nâng cao
năng lực về mọi mặt, đặc biệt là năng lực quản trị điều hành ngân hàng.
Chính vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu vấn đề pháp luật về quản trị, điều hành
ngân hàng có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
8. Bố cục của luận văn
Bố cục của luận văn bao gồm ác phần sau đây:
Phần mở đầu
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quản trị, điều hành NHTMCP
Chương 2. Thực trạng pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam
Chương 3. Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị,
điều hành NHTMCP

Kết luận chung
Danh mục tài liệu tham khảo

6


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH
NHTMCP
1.1. Khái niệm, đặc điểm về quản trị, điều hành NHTMCP
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm NHTMCP
1.1.1.1 Khái niệm NHTMCP
NHTM là tổ chức hoạt động kinh doanh cung cấp các dịch vụ ngân hàng tìm
kiếm lợi nhuận. Ở Việt Nam, tại khoản 2, Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng 2010
quy định “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng”. Theo đó, NHTM
là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Khi NHTM được tổ chức dưới hình thức CTCP thì có tên gọi cụ thể là
NHTMCP. Có thể hiểu NHTMCP là loại hình tổ chức tín dụng được tổ chức dưới
hình thức CTCP; được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ định nghĩa như vậy thì vấn đề quản trị, điều hành NHTMCP chịu
sự điều chỉnh của nhiều quy phạm pháp luật khác nhau, trong đó cơ bản là các quy
định pháp luật về các tổ chức tín dụng và quy định về các CTCP (luật Doanh nghiệp).
1.1.1.2. Đặc điểm của NHTMCP
Thứ nhất, Bản thân NHTMCP là doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của
ngân hàng cũng có những “đặc thù” so với các công ty. Đó là sự đa dạng về các
đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý. Thành phần tham gia điều hành hoạt động
của loại hình doanh nghiệp này hết sức đa dạng, phức tạp và chủ yếu phân chia lợi
ích (cổ tức) theo tỷ lệ góp vốn (cổ phần). Các cá nhân, tổ chức góp vốn sẽ đều có

những quyền hạn nhất định trong việc tham gia điều hành, quản trị hoạt động của
doanh nghiệp. Vì vậy, việc điều chỉnh hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể
là quan trọng nhưng hết sức phức tạp.
Thứ hai, NHTMCP là loại hình tổ chức tín dụng kinh doanh nhằm mục đích
lợi nhuận, song vốn tự có thường không ổn định. Hoạt động kinh doanh chủ yếu
dựa trên vốn huy động từ xã hội, nhưng nguồn huy động này lại chịu tác động từ
nhiều yếu tố biến động như ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế…hoặc đôi khi
chỉ là hoạt động của một ngành, một lĩnh vực lớn như Bất động sản, chứng
khoán…Chính vì vậy, hoạt động của NHTMCP thường chứa đựng tính rủi ro cao.

7


Thứ ba, NHTMCP là loại hình doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong
việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội, các hoạt động của loại hình
doanh nghiệp này có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất nước, nếu
đổ vỡ sẽ có thể gây tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Tại cùng một thời điểm, các
ngân hàng chịu rủi ro hơn về quản trị so với doanh nghiệp thông thường vì tính
không rõ ràng hay cụ thể hơn là phạm vi cát cứ, chuyển rủi ro, lợi ích của cá nhân
và sự chiếm dụng công khai (hoạt động ngầm, hoạt động cho vay nội gián, chiếm
đoạt…) lớn hơn so với các doanh nghiệp phi tài chính.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của quản trị, điều hành NHTMCP
1.1.2.1. Khái niệm quản trị, điều hành NHTMCP
Trong NHTMCP, quản trị, điều hành nhằm điều khiển và kiểm soát hoạt
động của ngân hàng. Quản trị không đơn thuần chỉ là việc quản trị, thực hiện các
quyết định và tổ chức nội bộ của các ngân hàng mà còn là việc quản trị thanh
khoản (khả năng thanh toán và quy mô của ngân hàng), quản trị tài sản có (tích
sản), quản trị tài khoản nợ (tiêu sản), quản trị vốn, quản trị tín dụng với nội dung
cơ bản là phân tích tín dụng.
Như vậy, quản trị có thể hiểu là việc tổ chức nội bộ; đưa ra và thực hiện các

quyết định của đại hội cổ đông thông qua HĐQT, đồng thời quản lý, kiểm soát
hoạt động điều hành của ngân hàng.
Điều hành là các hoạt động nghiệp vụ được tiến hành nhằm duy trì hoạt
động bình thường, ổn định, phát triển của ngân hàng, thường được tiến hành bởi
những chủ thể có quyền lực nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động quản trị và điều hành không hoàn toàn tách biệt mà có
sự gắn kết chặt chẽ với nhau, trong quản trị có điều hành, trong điều hành thể hiện
yếu tố quản trị.
Phạm vi đề tài này đề cập đến những vấn đề liên quan đến tổ chức nội bộ
đối với các cơ quan quản lý, điều hành trong ngân hàng và những quy định pháp
luật liên quan, cụ thể là việc phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ giữa các thành
viên, cơ quan trong ngân hàng như các cổ đông, HĐQT, BKS, Ban điều hành và
các quan quan giúp việc khác.
1.1.2.2. Đặc điểm của quản trị, điều hành NHTMCP
Thứ nhất, hoạt động của ngân hàng chịu sự tác động mạnh mẽ từ các thông tin
về tài chính được đưa ra từ nhiều nguồn khác nhau và khó nhận định đánh giá. Cùng
với đó là sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý; nhiều khoản nợ
ngắn hạn dẫn đến độ rủi ro trong hoạt động là rất cao và rất dễ dẫn đến phá sản; chịu
8


sự quản lý chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe và chi tiết do tầm quan trọng trong
hệ thống, nếu đổ vỡ có thể gây ra tổn thất lớn và trên phạm vi rộng.
Vai trò của quản trị, điều hành NHTMCP rất quan trọng vì quản trị tốt, ngân
hàng có thể minh bạch hơn, giá trị cao hơn và tạo điều kiện giám sát hiệu quả hơn.
Thứ hai, quản trị, điều hành được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa quản lý
và sở hữu NHTMCP. NHTMCP do các cổ đông là chủ sở hữu, nhưng để công ty
tồn tại và phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của Ban điều
hành, sự giám sát của BKS và sự đóng góp của người lao động, những người này
không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải

có một cơ chế để nhà đầu tư cũng như cổ đông có thể hướng hoạt động của ngân
hàng phát triển đem lại hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, quản trị, điều hành NHTMCP xác định quyền hạn và trách nhiệm
giữa các nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong ngân hàng, bao gồm các cổ
đông, HĐQT, Ban điều hành, BKS. Đồng thời, quản trị, điều hành ngân hàng cũng
lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra các quyết định trong ngân hàng, qua
đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro liên quan
đến hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với các bên có liên quan, những xung
đột lợi ích tiềm năng và từ việc không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ
các quy định về công bố thông tin và không minh bạch.
1.2. Các mô hình quản trị, điều hành NHTMCP
Khi nghiên cứu về cơ cấu tổ chức hay cấu trúc quản trị nội bộ của các CTCP
nói chung và các ngân hàng cổ phần trên thế giới nói riêng, người ta nhận thấy có
hai mô hình cơ bản, đó là cấu trúc hội đồng hai lớp (dual board hay two-tier board
model) (còn có cách gọi khác là mô hình đa hội đồng) và hội đồng đơn lớp (hay
còn gọi là mô hình đơn hội đồng) (unitary board hay one-tier board model). Việc tổ
chức theo mô hình nào tùy thuộc vào điều kiện thực tế và truyền thống, cơ chế
pháp lý của từng nước.
Điển hình cho mô hình hội đồng hai lớp là mô hình các CTCP của Đức và
một số nước châu Âu. Trong pháp luật công ty của Đức, Áo, Thụy Sĩ và Hà Lan
hay một số nước châu Âu khác gồm có cấu trúc bộ máy quản trị - điều hành đặc
biệt. Ở Đức, mô hình này có hai cấp bậc, bậc trên là Ban Giám sát (Supervisory
Board) và bậc dưới là Ban Quản lý (Management Board), trong đó các cổ đông và
người lao động sẽ bầu chọn thành viên của Ban giám sát. Theo đó, cấu trúc mô
hình một CTCP nói chung sẽ bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS và Tổng giám đốc
(giám đốc).
9


Đại hội đồng cổ đông

Ban Kiểm soát

Hội đồng quản trị
ản trị

Tổng giám đốc
(Giám đốc)
Sơ đồ mô hình Hội đồng hai lớp
Ngược lại, các quốc gia theo truyền thống pháp luật Anh – Mỹ (common
law - thông luật hay hệ thống pháp luật Ănglô – Xắcxông) như Mỹ, Anh, Úc,
Canada, Hồng Kông… thường có cấu trúc quản trị nội bộ theo mô hình hội đồng
đơn lớp (unitary board hay one-tier board model), trong đó gồm ĐHĐCĐ và chỉ
một HĐQT, gồm có các thành viên HĐQT điều hành hoặc không điều hành, thực
hiện chức năng quản trị các hoạt động của công ty. Mô hình này không có một cơ
quan độc lập để giám sát hoạt động của các thành viên HĐQT trong khi nó được
giao quá nhiều quyền lực để thực thi nhiệm vụ. Sự sụp đổ của hàng loạt tập đoàn,
công ty lớn, đặc biệt là các công ty niêm yết ở Mỹ đầu những năm 2000 như
Enron, Woldcom, Polycom… đã khiến hình thành xu hướng tìm kiếm và chỉ định
những người độc lập để bầu vào HĐQT - chính là thành viên độc lập không điều
hành của HĐQT, những người có thể đưa ra các ý kiến khách quan, độc lập trong
công tác quản trị công ty. Mỹ và các nước theo thông luật chính là nơi xuất phát
của ý tưởng thành viên HĐQT không điều hành, thành viên độc lập (non-executive
board member).
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị (có thành viên độc lập)
Tổng giám đốc
(Giám
đốc)
Sơ đồ mô hình
cấu

trúc hội đồng đơn lớp
Mô hình cơ cấu tổ chức của CTCP theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005
nói chung và mô hình cơ cấu tổ chức của NHTMCP theo Luật các Tổ chức tín
dụng 2010 nói riêng, với ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS, Ban Giám đốc (BGĐ) được
phân định quyền và nghĩa vụ nhằm đảm bảo việc thực hiện một cơ cấu quản trị hiệu
quả. Nó không giống như hội đồng đơn lớp trong pháp luật Anh và Mỹ vì có sự tồn
10


tại của thiết chế BKS, một cơ quan độc lập với nhiệm vụ giám sát những người quản
lý - điều hành ngân hàng (gồm cả HĐQT và Ban điều hành). Cũng có nhiều quan
điểm cho rằng mô hình quản trị CTCP nói chung và NHTMCP của Việt Nam nói
riêng là hội đồng hai lớp. Tuy mô hình này gần giống với mô hình hội đồng hai lớp
trong pháp luật Đức, song nó khác biệt ở chỗ BKS trong doanh nghiệp cổ phần ở
Việt Nam do ĐHĐCĐ bầu ra và có chức năng cơ bản nhất là giám sát công tác quản
lý, điều hành của HĐQT và BGĐ. Theo Điều 123 của Luật Doanh nghiệp 2005,
BKS không có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của
HĐQT, tổng giám đốc và người quản lý công ty và tham gia quyết định các vấn đề
quan trọng của công ty như Hội đồng giám sát ở Đức.
1.3. Các cơ quan quản trị, điều hành trong NHTMCP
Ở Việt Nam, NHTMCP được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những quy
định chung của Luật Doanh nghiệp về CTCP và những quy định cụ thể của Luật
các tổ chức tín dụng năm 2010. Bộ máy quản trị, điều hành của NHTMCP gồm:
ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS và Ban điều hành. Theo Điều 95 Luật Doanh nghiệp 2005
quy định “CTCP có ĐHĐCĐ, HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc; đối với
CTCP có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên
50% tổng số cổ phần của công ty phải có BKS…”.
Mặc dù sau ngày 01/7/2015 Luật Doanh nghiệp 2014 chính thức có hiệu lực,
thì CTCP có thể chọn một trong hai mô hình hoặc có BKS hoặc không có BKS
(Điều 134 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Tuy nhiên Điều 32 Luật Các tổ chức tín

dụng 2010 vẫn quy định “Cơ cấu tổ chức quản lý của tổ chức tín dụng được thành
lập dưới hình thức CTCP bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS, Tổng Giám đốc (Giám
đốc)”. Vì vậy, BKS vẫn sẽ là thiết chế bắt buộc phải có trong tổ chức của một
NHTMCP ở Việt Nam hiện nay.
ĐHĐCĐlà cơ quan quyết định cao nhất, có thẩm quyền bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm thành viên HĐQT và thành viên BKS; quyết định những vấn đề quan
trọng nhất trong tổ chức, hoạt động của NHTMCP trên cơ sở thống nhất ý chí của
các cổ đông.
HĐQT là cơ quan quản trị NHTMCP, có thẩm quyền quyết định các vấn đề
có liên quan đến quyền lợi, mục đích của NHTMCP, trừ những vấn đề thuộc thẩm
quyền của ĐHĐCĐ. HĐQT phải chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐvề kết quả hoạt
động cũng như những sai phạm trong quản lý, điều hành, vi phạm điều lệ, vi phạm
pháp luật gây thiệt hại cho ngân hàng.
11


BKS trực thuộc ĐHĐCĐ, thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động tài
chính của ngân hàng.
Tổng giám đốc (Giám đốc) do HĐQT bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm,
phải chịu trách nhiệm trước HĐQT. Tổng giám đốc thực hiện việc điều hành ngân
hàng. Giúp việc cho Tổng giám đốc (Giám đốc) có các Phó Tổng giám đốc (Phó
giám đốc), Kế toán trưởng và bộ máy chuyên môn nghiệp vụ.
1.4. Các nguyên tắc quản trị, điều hành NHTMCP
1.4.1. Các nguyên tắc của OECD
OECD đưa ra một số nguyên tắc quản trị công ty, bao gồm một số nguyên
tắc chính như sau:
- Đảm bảo cơ sở cho một khuôn khổ quản trị công ty hiệu quả;
- Quyền của cổ đông và các chức năng sở hữu cơ bản;
- Đối xử bình đẳng với cổ đông;
- Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan trong quản trị công ty;

- Công bố thông tin và tính minh bạch;
- Trách nhiệm của HĐQT;
Mỗi nguyên tắc trên bao gồm nhiều nguyên tắc và phù hợp với các loại hình
công ty trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, có thể chia các nguyên tắc quản trị công ty
theo thông lệ quốc tế thành 4 nhóm chính, bao gồm:
(i) Các nguyên tắc về cơ cấu, tổ chức của công ty đại chúng, bao gồm các
nguyên tắc về cơ cấu HĐQT, Ban giám đốc, BKS, cơ chế hoạt động phối hợp và
chế độ thù lao của các bộ máy này.
(ii) Các nguyên tắc về nghĩa vụ và trách nhiệm của thành viên HĐQT và
Ban giám đốc, những người có liên quan và xã hội.
(iii) Các nguyên tắc về thực hiện quyền của cổ đông và đại hội cổ đông.
(iv) Các nguyên tắc về minh bạch và công bố thông tin.
Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, ba nguyên tắc quan trọng trong quản
trị công ty đối với NHTMCP, đó là Nguyên tắc về cơ cấu và tổ chức HĐQT, Ban
Giám đốc, BKS; Nguyên tắc về Quyền và nghĩa vụ của HĐQT, Ban Giám đốc, BKS;
và Nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp:
Thứ nhất, Nguyên tắc về cơ cấu và tổ chức HĐQT, Ban giám đốc, BKS
Điều 43, Điều 44 và Điều 48 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định
về cơ cấu HĐQT, Ban giám đốc, BKS đối với tổ chức tín dụng là CTCP bao gồm
một số nội dung như nhiệm kỳ, số lượng, bộ phận giúp việc.
Thứ hai, Nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ của HĐQT, Ban giám đốc, BKS
12


Điều 45, Điều 46, Điều 47 và Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
quy định về quyền và nghĩa vụ của HĐQT, Ban giám đốc, BKS đối với tổ chức tín
dụng là CTCP.
Thứ ba, Nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp
Điều 50 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có quy định về tiêu chuẩn, điều
kiện đối với người quản lý, điều hành và một số chức danh khác của tổ chức tín dụng.

1.4.2. Các nguyên tắc Basel về quản trị công ty
Bản hướng dẫn các nguyên tắc quản trị công ty tại các NHTMCP đã được
Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2006, bao
gồm 14 nguyên tắc cơ bản được chia thành 6 nhóm, nội dung cơ bản của các
nguyên tắc Basel được tóm tắt như sau:
- Với HĐQT: đây là phần quan trọng nhất trong các nguyên tắc Basel, bao
gồm bốn nguyên tắc đầu tiên quy định rõ ràng về trách nhiệm chung của HĐQT,
trình độ, năng lực của HĐQT, thông lệ và cơ cấu riêng của HĐQT cũng như các
cấu trúc của công ty.
- Với Ban điều hành: nguyên tắc thứ năm của Basel quy định: “Dưới sự chỉ
đạo của HĐQT, Ban Giám đốc phải đảm bảo các hoạt động của ngân hàng phù hợp
với chiến lược kinh doanh, mức độ chấp nhận rủi ro/khẩu vị rủi ro và các chính
sách mà HĐQT phê chuẩn”. Theo đó, Ban điều hành phải đảm bảo rằng tất cả hoạt
động của doanh nghiệp phải nhất quán với chiến lược kinh doanh, mức độ chấp
nhận và chính sách rủi ro đã được HĐQT phê duyệt.
- Với công thức quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ: bốn nguyên tắc tiếp theo
của Basel dành để quy định đối với công tác này cho thấy tầm quan trọng của các
công tác này.
- Với chế độ đãi ngộ: nguyên tắc mười và mười một của Basel quy định rằng
“HĐQT phải tích cực giám sát việc xây dựng và vận hành hệ thống lương thưởng,
cũng như phải kiểm tra và soát xét hệ thống lương thưởng để đảm bảo hệ thống
hoạt động như dự định;
- Với các doanh nghiệp có cơ cấu phức tạp: hai nguyên tắc tiếp theo của
Basel quy định rằng HĐQT và Ban điều hành phải hiểu biết về cơ cấu hoạt động
và rủi ro mà doanh nghiệp phải đương đầu, họ phải nắm rõ và tìm biện pháp phân
tán rủi ro được phát hiện. Cụ thể,
- Với việc công khai và minh bạch: nguyên tắc 14 của Basel quy định việc
quản trị ngân hàng phải đảm bảo được tính minh bạch đối với cổ đông và các bên
liên quan đến công ty.
13



Từ chỗ chỉ là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, hợp tác quốc tế về thanh tra và
giám sát ngân hàng, Uỷ ban Basel ngày nay đã trở thành cơ quan xây dựng và phát
triển các chuẩn mực ngân hàng được quốc tế công nhận. Những nguyên tắc được
xây dựng bởi cơ quan này đã trở thành một trong những căn cứ quan trọng để các
Ngân hàng thương mại xây dựng và củng cố cơ cấu tổ chức nội bộ cũng như kiểm
soát hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời cũng là căn cứ để các cơ quan quản
lý nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như Việt Nam đưa ra những quy
định mang tính pháp quy điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng thương mại,
trong đó có hoạt động quản trị, điều hành. Việc không tuân thủ hoặc tuân thủ
không nghiêm túc những nguyên tắc này một phần cũng gây nên những khủng
hoảng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần thời gian vừa qua
như vấn đề nợ xấu, thanh khoản giảm... Chính vì vậy, trong thời gian tới, việc hoàn
thiện pháp luật về hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ nói chung và pháp luật
về quản trị, điều hành các ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng cần chú ý vận
dụng các nguyên tắc của Ủy ban Basel một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình
thực tế tại Việt Nam.

Kết luận Chương 1
Trong chương này, tác giả đã cố gắng làm rõ những vấn đề mang tính lý
luận về quản trị, điều hành NHTMCP như khái niệm NHTMCP theo quy định
pháp luật Việt Nam, khái niệm quản trị, điều hành NHTMCP; làm rõ những đặc
điểm của NHTMCP Việt Nam cũng như đặc điểm của quản trị, điều hành các ngân
hàng này. Bên cạnh đó, qua việc nghiên cứu pháp luật về quản trị công ty một số
nước và cơ cấu tổ chức một số ngân hàng trên thế giới, tác giả cũng khái quát
những mô hình quản trị, điều hành phổ biến hiện nay; những cơ quan quản trị, điều
hành NHTMCP đồng thời làm rõ những nguyên tắc cơ bản nhất trong quản trị,
điều hành NHTMCP ở Việt Nam trong tình hình hiện nay.


14


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH
NHTMCP Ở VIỆT NAM
2.1. Sơ lược pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam
Thực tiễn quản lý hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng cho thấy, tổ chức
tín dụng là những đối tượng cần được quản lý chặt chẽ, vì đây là những doanh
nghiệp có các hoạt động ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất nước và
là những tổ chức có được quyền lực rất lớn trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn
huy động từ xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ, sự lạm dụng quyền lực trong nội
bộ của một tổ chức tín dụng thường là những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng,
gây ra sự mất lòng tin trong dân cư và đe doạ sự mất ổn định của cả hệ thống tổ
chức tín dụng. So với Luật các tổ chức tín dụng 1997, Luật các tổ chức tín dụng
2010 đã bổ sung nhiều quy định đặc thù liên quan đến quản trị, điều hành của tổ
chức tín dụng. Các quy định này chủ yếu là các quy định được luật hóa từ các quy
định của Nghị định số 59/2009/NĐ-CP, Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN và các
văn bản quy phạm pháp luật khác do NHNN ban hành, có tham khảo “25 nguyên
tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả của Ủy ban Basel” nhằm bảo đảm hoạt
động của tổ chức tín dụng được an toàn, hiệu quả. Những thay đổi chủ yếu về quản
trị, điều hành của tổ chức tín dụng năm 2010 so với Luật các tổ chức tín dụng 1997
bao gồm:
Thứ nhất, giảm bớt các thủ tục hành chính
Thứ hai, nâng cao yêu cầu đối với người quản lý, điều hành của tổ chức tín dụng
Thứ ba, khẳng định chính sách đại chúng hóa các NHTMCP
Thứ tư, các quy định đặc thù về quản trị, điều hành được xây dựng theo hình
thức pháp lý của tổ chức tín dụng.
Thứ năm, yêu cầu cao hơn đối với hoạt động kiểm toán độc lập
2.2. Cơ quan quản trị, điều hành NHTMCP theo quy định pháp luật Việt
Nam hiện hành

2.2.1. ĐHĐCĐ
Cổ đông của NHTMCP là những người góp vốn/người sở hữu cổ phần của
NHTMCP.Cũng giống như CTCP thông thường, NHTMCP có số lượng cổ đông
rất lớn, có cổ đông là cá nhân và cũng có cổ đông là tổ chức.Nhưng chỉ các cổ
đông có quyền biểu quyết mới được tham gia ĐHĐCĐ.ĐHĐCĐ/tập hợp các cổ
đông (chủ sở hữu NHTMCP) là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của
NHTMCP.
2.2.2. Hội đồng quản trị
Thực tế hiện nay, mô hình tổ chức và quản lý NHTMCP được phân biệt chủ
yếu theo chức năng với hai cơ cấu quyền lực là cấp quản trị điều hành và cấp quản lý
15


kinh doanh. Trong đó, cấp quản trị, điều hành là HĐQT. HĐQT là cơ quan quản trị
NHTMCP, do Đại hội đồng cồ đông bầu ra, người đại diện cho quyền lợi của các cổ
đông. HĐQT phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước các cổ đông/ĐHĐCĐ
và trước công ty. HĐQT gồm Chủ tịch HĐQT và một số thành viên chuyên trách, làm
việc theo chế độ tập thể. Về nguyên tắc, HĐQT thực hiện chức năng quản lý đối với
mọi hoạt động của NHTMCP, chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn; ban hành
điều lệ, các cơ chế, quy chế tổ chức và hoạt động của ngân hàng.
2.2.3. Ban kiểm soát
2.2.3.1. Vị trí, vai trò của BKS
BKS là tổ chức thay mặt cổ đông để kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh
quản lý và điều hành của NHTMCP. BKS là cơ quan kiểm tra hoạt động tài chính
của ngân hàng; giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, hoạt động của hệ thống
kiểm tra và kiểm toán nội bộ của ngân hàng
Xét trong mối quan hệ với các bộ phận khác trong CTCP nói chung và
NHTMCP nói riêng như ĐHĐCĐ, HĐQT, Ban điều hành thì BKS đóng vai trò
kiểm tra, giám sát và kiềm chế, đối trọng với HĐQT và Ban điều hành để các hoạt
động của công ty được hoạt động minh bạch vì lợi ích của các cổ đông.

2.2.4. Tổng giám đốc (Giám đốc)
Nếu HĐQT đóng vai trò định hướng chiến lược thì Tổng giám đốc là người
thực thi chiến lược. Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì Tổng
giám đốc là người điều hành cao nhất của NHTMCP, chịu trách nhiệm trước HĐQT
về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
cũng có một số quy định về Tổng giám đốc với điều kiện chặt chẽ, đảm bảo sự minh
bạch trong việc điều hành kinh doanh cũng như mang lại hiệu quả tốt cho hoạt động
quản trị. Tổng giám đốc không được là Thành viên HĐQT, thành viên Hội đồng
thành viên, thành viên BKS của tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức đó là
công ty con của tổ chức tín dụng; và không được đồng thời là Tổng giám đốc (Giám
đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) của doanh nghiệp khác dù là tổ chức tín
dụng hay doanh nghiệp trong các ngành nghề khác (khoản 3 Điều 34).
2.2.5. Mối quan hệ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy quản trị, điều hành
NHTMCP
Như nội dung đã trình bày ở phần trên, các cơ quan trong tổ chức quản trị,
điều hành NHTMCP có những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng tựu chung
lại, hoạt động của các cơ quan này đều nhằm mục tiêu là đảm bảo cho hoạt động
của ngân hàng đạt hiệu quả, an toàn và tuân thủ đúng pháp luật, điều lệ của ngân
hàng, vì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và lợi ích của cổ đông, vì vậy, mối
quan hệ trong hoạt động của các cơ quan này là một đòi hỏi khách quan.
16


Công việc, nhiệm vụ và quyền hạn của ĐHĐCĐ, HĐQT và của Tổng giám
đốc NHTMCP là một chuỗi thống nhất, trong đó có sự phân công, phân cấp rõ
ràng. ĐHĐCĐ và HĐQT là các cơ quan hoạch định, quyết định các vấn đề có tính
chất định hướng, chính sách, mục tiêu hoạt động và phát triển của ngân hàng.Tổng
giám đốc là cơ quan điều hành hoạt động hàng ngày của ngân hàng để thực hiện
chủ trương, kế hoạch mà ĐHĐCĐ và HĐQT đề ra.
Mối quan hệ trong kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan quản trị, điều hành

hoạt động NHTMCP được thể hiện trên các mặt: với chức năng là cơ quan có thẩm
quyền quyết định cao nhất của NHTMCP, ĐHĐCĐ, thông qua các hoạt động như
xem xét sai phạm và quyết định hình thức xử lý đối với thành viên HĐQT, việc
xem xét, thông qua báo cáo của HĐQT, BKS cũng như việc bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm thành viên các cơ quan này đã thực hiện vai trò giám sát đối với hoạt động
của thành viên HĐQT, thành viên BKS.
2.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng pháp luật về quản trị, điều hành
NHTMCP ở Việt Nam
2.3.1. Vấn đề tách bạch giữa sở hữu và điều hành
Sự tách bạch giữa sở hữu và điều hành tại NHTMCP một mặt giải quyết bài
toán sống còn; mặt khác, cũng làm nảy sinh những mâu thuẫn tiềm ẩn về lợi ích
trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người điều hành.Đứng trên phương diện bản
năng mà nói, con người luôn có xu hướng tối đa hóa lợi ích của bản thân.Chủ sở hữu
và người điều hành ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ; tuy nhiên, cách thức mà
họ thực hiện để đạt được lợi ích kỳ vọng của mình lại hoàn toàn khác nhau.
2.3.2. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số
Cổ đông thiểu số được hiểu là những cổ đông sở hữu một tỷ lệ nhỏ cổ phần và bị
hạn chế về khả năng quản lý, cũng như kiểm soát các hoạt động trong CTCP. Các cổ
đông lớn với số biểu quyết lớn hơn do đó tiếng nói lớn hơn khi họ liên thủ, thỏa hiệp lại
với nhau thì hầu hết các quyết định dễ dàng được thông qua. Một thực tế nữa là cổ đông
lớn thường nằm trong các cơ quan như HĐQT, BKS, vì vậy họ dễ dàng thỏa hiệp với
nhau. Cổ đông nhỏ cho dù không muốn nhưng họ chẳng làm được gì một phần do tiếng
nói của họ nhỏ bé nên có phản đối thì vẫn không thay đổi được gì, mặt khác do tâm lý
phó mặc của cổ đông nhỏ và thiếu đoàn kết dẫn đến tình trạng này.
2.3.3. Thẩm quyền của các cơ quan quản trị, điều hành NHTMCP
2.3.3.1. HĐQT chi phối ĐHĐCĐ, Ban kiểm sát
Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, ĐHĐCĐ là cơ quan
quyền lực cao nhất trong NHTMCP.Nhưng trên thực tế hiện nay, vai trò của
ĐHĐCĐ lại thường bị mờ nhạt bởi vai trò nổi bật và sự chi phối của HĐQT. Điều
đó, đã dẫn đến nhiều quyết định của ĐHĐCĐ chỉ mang tính phụ hoạ hoặc hợp thức

17


hoá cho đề xuất, quyết định của HĐQT - cơ quan đại diện chủ yếu và phần lớn cho
quyền lợi của số ít các cổ đông lớn. BKS có vai trò là cánh tay nối dài của
ĐHĐCĐ để thực hiện việc giám sát và kiểm soát nội bộ, trực tiếp giám sát HĐQT
và Ban điều hành, bao gồm kiểm tra, kiểm soát, giám sát các hoạt động của HĐQT
và Ban điều hành trong việc quản lý và điều hành NHTMCP (Điều 44,45 Luật Các
Tổ chức tín dụng 2010) nhưng thực tế BKS cũng phụ thuộc nhiều vào HĐQT.
2.3.3.2. Sự tồn tại của Hội đồng sáng lập tại một số NHTMCP
Xét về mặt pháp lý, Hội đồng sáng lập không nằm trong quy định về cơ cấu
tổ chức của ngân hàng mà do ngân hàng tự thành lập. Mặc dù không có giá trị về
mặt pháp lý nhưng mô hình Hội đồng sáng lập ngày càng được áp dụng rộng rãi tại
nhiều ngân hàng. Thậm chí tại một số ngân hàng, những nhân vật chủ chốt trong
HĐQT đã xin từ nhiệm để chuyển sang vị trí mới tại Hội đồng sáng lập.
Vai trò thực chất của Hội đồng sáng lập ngân hàng vẫn còn nhiều mơ hồ, chỉ
có chính bản thân các thành viên Hội đồng sáng lập ngân hàng mới có thể đưa ra
lời giải cho ẩn số về việc nhiều lãnh đạo ngân hàng tạm thời rời bỏ vị trí đầy quyền
lực và lui về một tổ chức không được thừa nhận về mặt pháp lý và chỉ đóng vai trò
tư vấn cho HĐQT và Ban điều hành của ngân hàng.
2.3.3.3. Thực trạng hoạt động của BKS
Thực tế ở Việt Nam cho thấy BKS chưa thể hiện đầy đủ vai trò bảo vệ cổ
đông và nhà đầu tư. Do đó, rủi ro mà nhà đầu tư và cổ đông có thể phải gánh chịu
từ sự lép vế của BKS là rất lớn.
Báo cáo của BKS trong các kỳ đại hội thường chỉ là bản sao các báo cáo của
HĐQT và Ban điều hành.Nội dung chủ yếu nêu ra là những ưu điểm của HĐQT và
Ban điều hành, rất ít thông tin có ích cho cổ đông. Trong một số trường hợp,
những vấn đề cần đưa vào báo cáo của BKS đã được thống nhất trước với HĐQT
và Ban điều hành trong phiên họp “trù bị” trước đó rồi. Do đó, tại đại hội, vai trò
của BKS chỉ là ngồi cho đủ ban bệ.

Bên cạnh đó, mặc dù các quy định pháp luật đã trao cho BKS quyền được
triệu tập họp ĐHĐCĐ khi HĐQT không triệu tập họp hoặc có vi phạm nghĩa vụ
quản lý, nhưng trên thực tế ở Việt Nam hiện nay, thực tế cho thấy, rất hiếm trường
hợp BKS thực thi quyền hạn này.
2.3.4. Về thành viên HĐQT độc lập
Cho đến thời điểm này, chưa có một quy chuẩn chung cho việc tuyển chọn
các thành viên HĐQT độc lập, thường mỗi doanh nghiệp có một cách làm và yếu
tố quen biết chi phối khá đậm nét. Đây cũng là một ưu điểm giúp cho các ứng viên
hiểu rõ doanh nghiệp hơn.Nhưng cũng vì quen biết rất dễ dẫn đến những thành
viên vào HĐQT mang tính hình thức không có vai trò, hoạt động gì.Quan trọng
18


hơn nữa, yếu tố quen biết còn ngăn cản những ứng viên xứng đáng hơn tham gia
vào HĐQT.Một hiện tượng khá phổ biến vẫn xuất hiện khi bầu thành viên HĐQT
là cổ đông khi tham dự ĐHĐCĐ sẽ nhận được danh sách các ứng viên.Các cổ đông
nhỏ lẻ mất quyền chủ động lựa chọn, và chỉ bao nhiêu đó cũng đã đánh mất tính
độc lập.
Tiêu chí thành viên HĐQT độc lập khá đơn giản nhưng tiêu chí về chuyên
môn, kinh nghiệm, uy tín, những thứ để đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả, nâng
cao tiếng nói của thành viên HĐQT độc lập trong HĐQT thì lại chưa có.

Kết luận chương 2
Như vậy, dù đã được bổ sung, sửa đổi, song những quy định pháp luật về
hoạt động quản trị, điều hành NHTMCP Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều vấn
đề bất cập cần tiếp tục cải thiện. Đó là vấn đề quy định về quyền hạn, nghĩa vụ của
thành viên HĐQT độc lập, BKS trong việc quản trị, điều hành ngân hàng. Vẫn tồn
tại hiện tượng thành viên HĐQT độc lập, BKS không được trao quyền lợi rõ ràng
nên không thể hiện được vai trò tích cực của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các cổ đông, nhất là các cổ đông nhỏ; hoặc thành viên HĐQT độc

lập, BKS không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn đặt ra. Có những trường hợp do tư
cách, phẩm chất kém đã cấu kết với những bộ phận khác trong HĐQT tìm cách thu
lợi ích bất chính. Chính từ những mối liên hệ đó mà hoạt động của thành viên
HĐQT độc lập, BKS không còn khách quan, không đúng theo mục tiêu mà pháp
luật đã quy định, làm ảnh hưởng tiêu cực tới quyền và lợi ích của các cổ đông.

19


Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN TRỊ, ĐIỀU HÀNH NHTMCP Ở VIỆT NAM
3.1. Những định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành
NHTMCP ở Việt Nam
3.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng, phát triển
thị trường tài chính, tiền tệ
Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI) ngày 10/10/2011 đã bàn và quyết định tái
cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Theo đó, trong 5 năm 2011-2015, việc cơ cấu
lại nền kinh tế tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất là: Tái cơ cấu đầu tư với
trọng tâm là đầu tư công; Cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu
hệ thống NHTM; Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Ngày 01/3/2012, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn
2011 – 2015 (kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg). Trong đó có định hướng chấn
chỉnh, sắp xếp lại các NHTMCP để đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu
quả, đúng pháp luật. Các tổ chức tín dụng phải cạnh tranh lành mạnh và hoạt động
một cách công khai, minh bạch, đồng thời đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực về quản
trị và an toàn hệ thống ngân hàng theo quy định của pháp luật. Tạo điều kiện cho
các tổ chức tín dụng lành mạnh phát triển và kiên quyết xử lý các tổ chức tín dụng
yếu kém. Kiểm soát quy mô, tốc độ tăng trưởng và phạm vi hoạt động kinh doanh
của tổ chức tín dụng phù hợp với điều kiện tài chính và năng lực quản trị.

3.1.2. Nâng cao năng lực quản trị, điều hành, tăng tính tự chủ cho các
NHTMCP đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
3.1.2.1. Nâng cao năng lực quản trị, điều hành trong từng NHTMCP
Năng lực quản trị, điều hành, đặc biệt là năng lực quản trị nội bộ là yếu tố
quyết định sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy,
quản trị, điều hành ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro nói riêng, cần dựa trên
một số nguyên tắc sau: nguyên tắc chấp nhận rủi ro; nguyên tắc điều hành rủi ro
cho phép; nguyên tắc quản trị độc lập các rủi ro riêng biệt; nguyên tắc phù hợp
giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính; nguyên tắc hiệu quả kinh tế;
nguyên tắc hợp lý về thời gian và phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng…
Để thực hiện tốt những nguyên tắc này, ngoài việc quản lý tốt tài sản nợ - tài sản
có theo nguyên tắc của Ủy ban Basel, xây dựng văn hóa quản trị lành mạnh, tạo
môi trường thuận lợi cho việc áp dụng các nguyên tắc quản trị rủi ro, các
NHTMCP cần chú trọng nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ trên cơ sở
áp dụng hệ thống công nghệ ngân hàng hiện đại, để phát hiện những rủi ro tiềm ẩn,
20


có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhưng cũng không nên quá nhấn mạnh đến kiểm
tra, kiểm soát nội bộ dễ dẫn đến khuôn mẫu cứng nhắc trong công việc.
3.1.2.2. Tăng tính tự chủ cho các NHTMCP
Pháp luật cần thay đổi theo hướng hạn chế sự can thiệp quá sâu của NHNN
vào hoạt động của NHTMCP, đặc biệt trong việc thay đổi các chức danh quản lý,
điều hành NHTMCP (thành viên HĐQT, thành viên BKS, Tổng giám đốc, Phó
Tổng giám đốc. Danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm cho các chức
danh trên phải được NHNN chấp thuận. Và sau khi NHTMCP tiến hành bầu, bổ
nhiệm, miễn nhiệm các chức danh này nên thay thế quy định phải được chuẩn y
của Thống đốc NHNN bằng việc NHTMCP phải thông báo với NHNN về những
người được bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm trong khoảng thời gian hợp lý. Quy định
như vậy sẽ hạn chế được giấy phép con, làm cho thủ tục đơn giản và tiết kiệm thời

gian hơn. Hơn nữa, đảm bảo tính tự chủ, tự quyết của các NHTMP, đồng thời vẫn
đảm bảo nguyên tắc quản lý, giám sát chặt chẽ, toàn diện của NHNN.
3.1.3. Khắc phục những bất cập của pháp luật về quản trị, điều hành NHTMCP
ở Việt Nam
Về phương diện lý luận, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị,
điều hành NHTMCP luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn pháp triển
của nền kinh tế. Vì vậy việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quản trị, điều hành NHTMCP phải được xác định là một quá trình liên tục, với
những bước đi và giải pháp phù hợp. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quản trị, điều hành NHTMCP một mặt nhằm khác phục kịp thời những khó khăn
cho việc tổ chức, vận hành NHTMCP, mặt khác phải hướng tới việc tạo dựng một
hành lang pháp lý đầy đủ và phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển ổn định lâu dài của
loại hình NHTMCP. Với cách tiếp cận như vậy, từ những cơ sở lý luận và thực tiễn
ở Việt Nam, chúng tôi cho rằng việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản
trị, điều hành NHTMCP cần được thực hiện theo những định hướng sau đây.
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản trị, điều hành
NHTMCP ở Việt Nam
Xuất phát từ những định hướng nêu trên, đồng thời với mục tiêu khắc phục
những bất cập, hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành về quản trị điều hành
NHTMCP thì việc đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ khúc mắc trong vấn đề
này ở Việt Nam hiện nay là cần thiết.
3.2.1. Bổ sung những quy định về điều kiện, tiêu chuẩn cho các chức danh quản
trị, điều hành
Những điều kiện, tiêu chuẩn đối với thành viên HĐQT, thành viên BKS,
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) mang tính định
21


tính như hiện nay cần phải được thay thế bằng những tiêu chuẩn được cụ thể
hóa.Chủ thể quản trị, điều hành NHTMCP là những người xác định các mục tiêu

phát triển của NHTMCP và đưa ra được những chính sách để cụ thể hóa mục tiêu
đã đề ra. Điều đó đòi hỏi chủ thể quản trị, điều hành phải có chuyên môn trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh, phải am hiểu pháp luật và có năng
lực tổ chức, quản lý. Những yêu cầu này phải được tiêu chuẩn hóa bằng các văn
bằng, chứng chỉ, kinh nghiệm làm việc thực tế và kết quả của những công việc
trước đây. Những tiêu chuẩn về bằng cấp, kinh nghiệm làm việc cụ thể cho các
chức danh quản lý, điều hành (có bằng đại học trở lên về một trong các ngành kinh
tế, quản trị kinh doanh, luật; có một thời gian nhất định làm việc trực tiếp trong
lĩnh vực ngân hàng, tài chính… tùy theo từng chức danh) nhằm đảm bảo năng lực
chuyên môn quản trị, điều hành loại doanh nghiệp đặc biệt là NHTMCP.
Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp là cần thiết nhưng yêu cầu này cũng phải
được cụ thể hóa theo những điều kiện cụ thể. Đạo đức nghề nghiệp ở đây nên hiểu
là trách nhiệm của người quản trị, điều hành thực hiện các nghĩa vụ với NHTMCP,
đảm bảo đặt lợi ích của ngân hàng lên hàng đầu.
3.2.2. Điều chỉnh những quy định về tăng cường quyền lực cho cổ đông nhỏ
Quy định về bầu dồn phiếu tại điểm c khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp
2005 với mục đích chính là tăng cường quyền lực cho cổ đông nhỏ nhưng để quy
định này phát huy hiệu quả hơn nữa nên quy định tỷ lệ thông qua quyết định bầu
thành viên HĐQT, BKS chỉ cần tuân theo quy tắc có số phiếu bầu từ cao xuống và
thấp nhất phải được 25% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp
thuận. Hiện nay, tỷ lệ 65% là quá cao và Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn tiếp tục giữ tỷ
lệ này. Và như vậy, cho dù bầu dồn phiếu thì cổ đông thiểu số cũng khó để mà có
tiếng nói thông qua hoặc phủ quyết đối với nghị quyết của ĐHĐCĐ với tỷ lệ này.
Quyền yêu cầu BKS kiểm tra các vấn đề liên quan đến quản lý và điều hành
hoạt động của công ty; được xem xét, trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của
HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm, hàng năm và các báo cáo của BKS. Quyền
thông tin này thì pháp luật cần quy định cụ thể và chi tiết hơn không chỉ là cung
cấp các thông tin trong quá khứ mà cả thông tin trong tương lai như về thay đổi thị
trường sản phẩm, thị trường vốn và những yếu tố khác hoặc nhóm thông tin về
HĐQT như: thành viên HĐQT sở hữu bao nhiêu phần trăm trong ngân hàng và

những công ty khác, năng lực kinh nghiệp của HĐQT, ai giới thiệu vào HĐQT.
3.2.3. Bổ sung những quy định pháp luật về chế độ công khai hóa, mức độ minh
bạch thông tin trong quản trị, điều hành NHTMCP
Để xây dựng và thực thi được một chế độ công khai thông tin và minh bạch
hóa quản trị ngân hàng, đòi hỏi có sự nỗ lực từ cả hai phía là doanh nghiệp và cơ
22


quan quản lý nhà nước mà cụ thể ở đây là NHTMCP và NHNN. Về phía NHNN,
những quy định về minh bạch hóa thông tin cần phải được xây dựng rõ ràng, hợp
lý và phải được thực hiện một cách nhất quán, thường xuyên. NHNN cần có cơ chế
kiểm tra, giám sát và có chế tài xử lý đối với những NHTMCP chưa thực hiện
nghiêm chỉnh cơ chế này như công bố thiếu, hoặc sai lệch về thực trạng hoạt động
của mình.
Về phía các NHTMCP cần ý thức được những thay đổi của điều kiện và môi
trường kinh doanh. Cần thấy được xu thế tất yếu của việc phải công khai hóa và
minh bạch thông tin trong hoạt động của mình, có như thế mới làm lành mạnh hóa
mọi hoạt động của ngân hàng, tạo được sự tin tưởng, đoàn kết trong nội bộ, từ đó
thu hút được các nguồn lực vào chung tay đưa hoạt động kinh doanh ngân hàng
phát triển đi lên.
3.2.4. Bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật nhằm ngăn ngừa sự lạm
dụng của những cổ đông lớn, của HĐQT và người quản lý trong quản trị, điều
hành NHTMCP
Như đã phân tích, việc tìm cách tối ưu hóa lợi ích khi tham gia vào hoạt
động của doanh nghiệp nói chung luôn là một mục tiêu tất yếu của mỗi cá nhân, tổ
chức. NHTMCP là loại hình doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức phức tạp do tính chất
đối vốn và số lượng cổ đông lớn, quy mô hoạt động lớn. Chính điều này quyết định
đến cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Tuy được thành lập bởi các sáng lập viên, song
sau khi cổ phần được phát hành, các sáng lập viên đó phải chia sẻ quyền lực với
các cổ đông khác. Mặc dù vậy, sự khác nhau về phân chia cổ phần trong ngân hàng

đã đưa đến vai trò, địa vị, quyền lợi của mỗi cổ đông là khác nhau.Từ đó có cổ
đông lớn và cổ đông nhỏ (hay còn gọi là cổ đông thiểu số). Đã xuất hiện xu hướng
những cổ đông lớn, người quản lý lạm dụng quyền lực của mình để tìm cách trục
lợi cá nhân mà không quan tâm đến hoạt động chung của ngân hàng hoặc phớt lờ
lợi ích của cổ đông khác. Thậm chí trên thực tế đã có trường hợp lợi dụng ảnh
hưởng của mình để chi phối hoạt động của ngân hàng, thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật để thu lời bất chính mà điển hình nhất là trường hợp của Nguyễn Đức
Kiên và NHTMCP Á Châu (ACB) năm 2013.
Chính vì vậy, ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực của cổ đông lớn và người
quản lý là vấn đề cần phải được coi trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của những cổ
đông nhỏ, qua đó làm lành mạnh hóa các hoạt động quản trị, điều hành kinh doanh
của ngân hàng.

23


×