Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ VÀ KIM LOẠI TRONG SINH HOẠT Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.98 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ

TRƯƠNG MINH CHIẾN

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ
VÀ KIM LOẠI TRONG SINH HOẠT
Ở VIỆT NAM

CHUYÊN ĐỀ
Ngành: Kinh Tế Tài Nguyên Môi Trường
Mã số ngành: D850102

Tháng 6/2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ

TRƯƠNG MINH CHIẾN
MSSV: B1309249

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI
PHÁP QUẢN LÝ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ VÀ
KIM LOẠI TRONG SINH HOẠT Ở VIỆT
NAM

CHUYÊN ĐỀ
Ngành: Kinh Tế Tài Nguyên Môi Trường
Mã số ngành: D850102



CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
TS. NGÔ THỊ THANH TRÚC

Tháng 6/2016



MỤC LỤC


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
I.1 ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Sau hơn hai mươi năm đổi mới ở Việt Nam cùng với sự phát triển của
công nghiệp hóa và đô thị hóa, đời sống của đại bộ phận người dân được cải
thiện rõ rệt khiến khả năng tiếp cận các sản phẩm công nghệ cao không còn là
điều quá xa xỉ, các sản phẩm điện tử hay bằng kim loại ngày càng đa dạng về
mẫu mã và giá thành. Do đó ngày càng có nhiều loại chất thải khác nhau từ
các hoạt động của con người có xu hướng tăng lên về số lượng từ nước cống,
rác sinh hoạt, phân, chất thải công nghiệp đến các chất thải nguy hại trong sinh
hoạt.
Nói đến chất thải nguy hại trong sinh hoạt là không chỉ nói đến việc
thải bỏ những thứ đã qua sử dụng bởi các hoạt động như cọ rửa, tẩy trùng, sơn
quét,.. mà còn có các đồ dùng điện tử và kim loại như: pin, đồng hồ, điện
thoại, lò vi sóng, nồi, chảo, dao, muỗng,….Với thói quen tiêu dùng của người
Việt, sau một thời gian sử dụng nếu sản phẩm bị lỗi, hỏng thì ngay lập tức sẽ
bị bỏ đi thành rác thải, Một số hộ gia đình sẽ đem bán thanh lý cho những
người đi thu mua phế liệu. Đây là loại chất thải cực độc, có thể gây hại đến

môi trường, gây rò rỉ hóa chất và kim loại nặng ra không khí, đất, nước và
thực phẩm, ảnh hưởng đển sức khỏe con người, thậm chí có thể để lại di
chứng cho thế hệ sau. Do sự khan hiếm các bãi phân hủy chất thải cũng như
việc gia tăng dân số, khối lượng và chủng loại chất thải, cũng như việc chưa
phân loại và tái chế trong công tác quản lý, nên hiện nay tại nước ta vẫn chủ
yếu chỉ dùng phương pháp đốt và chôn lấp để xử lý các loại chất thải này.
Trước thực trạng đó, thực hiện kế hoạch số 175/KH-UBND ngày
09/09/2015 của UBND thành phố Hà Nội trong việc tổ chức các hoạt động
hưởng ứng chiến dịch “Làm cho thế giới sạch” hơn năm 2015, Sở Tài nguyên
và Môi trường Hà Nội phố hợp với UBND quận Cầu Giấy và Ba Đình đã
chính thức giới thiệu sự kiện với tên gọi “Ngày hội tái chế” diễn ra cuối tháng
9 năm 2015. Theo đó, các hoạt động thu gom, tái chế miễn phí được thực hiện
tại 2 phường: Nghĩa Tân, Yên Hòa (quận Cầu Giấy) và 3 phường: Quán
Thánh, Đội Cần, Thành Công (quận Ba Đình). Tuy nhiên, việc thí điểm vài
nơi là chưa đủ so với lượng chất thải điện tử, kim loại ở Việt Nam. Vì vậy, tôi
chọn đề tài “Đánh giá thực trạng và giải pháp quản lý chất thải điện tử, kim
loại ở Việt Nam”.
I.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
I.2.1 Mục tiêu chung

Đánh giá thực trạng quản lý chất thải điện tử, kim loại trong sinh hoạt
của người dân Việt Nam và đề xuất giải pháp.

5


I.2.2 Mục tiêu cụ thể

Phân tích thực trạng chất thải điện tử, kim loại trong sinh hoạt ở Việt
Nam.

Đánh giá thực trạng quản lý chất thải điện tử, kim loại trong sinh hoạt ở
Việt Nam.
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chất thải điện tử, kim loại
trong sinh hoạt ở Việt Nam
I.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Tại sao chất thải điện tử, kim loại trong sinh hoạt cần được đặc biệt
quan tâm ?
Vì sao người dân không biết được tác hại của chất thải điện tử, kim loại
trong sinh hoạt ?
Vì sao công tác quản lý chất thải điện tử, kim loại còn nhiều khó khăn ?
Những giải pháp thực sự hiệu quả để giải quyết tình trạng chất thải điện
tử, kim loại ?
I.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
I.4.1 Không gian nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu ở Việt Nam
I.4.2 Thời gian nghiên cứu
- Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 5/2016 đến tháng 6/2016.
- Số liệu thứ cấp: Số liệu về tình hình quản lý chất thải điện tử, kim loại
từ năm 2010 đến 2015 tại Việt Nam.
1.4.3 Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất thải điệtn tử, kim loại trong
sinh hoạt ở Việt Nam.
I.5 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I.5.1 Phương pháp thu thập số liệu

Số liệu được sử dụng trong chuyên đề là số liệu thứ cấp có nguồn từ
những tạp chí khoa học, bài nghiên cứu, luận án, luận văn được đăng tải trên
internet của các nhà nghiên cứu hoặc các tác giả có liên quan đến quản lý chất
thải điện tử, kim loại trong sinh hoạt ở Việt Nam.

I.5.2 Phương pháp phân tích số liệu
-

Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả: nghiên cứu tổng hợp, số hóa,
biểu diễn bằng đồ thị các số liêu thu thập được từ các bài báo, luận văn, tạp chí
khoa học,.. liên quan đến chất thải điện tử, kim loại cũng như ảnh hưởng của
chúng trong sinh hoạt ở Việt Nam nhằm có cái nhìn tổng quát về việc quản lý
các loại chất thải này.

6


-

Sử dụng phương pháp so sánh để phân tích mức ảnh hưởng và việc quản lý
chất thải điện tử, kim loại qua các năm và vài khu vực ở Việt Nam từ đó đề ra
giải pháp xử lý và hạn chế các loại chất thải này.

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG
7


2.1 CÁC KHÁI NIỆM
2.1.1 Chất thải điện tử

Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất và hoàn chỉnh về
chất thải điện thử. Mỗi một tổ chức hay một quốc gia thường có một cách định
nghĩa khác nhau. Tuy nhiên có một số cách hiểu chung nhất, có thể được liệt
kê sau đây:

Theo OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) thì tất cả các thiết bị
sử dụng năng lượng điện để vận hành khi đã hết khả năng sử dụng đều được
coi là chất thải điện tử. Một cách hiểu khác: Chất thải điện tử là loại chất thải
bao gồm các thiết bị điện tử bị vỡ, hỏng hay không còn được sử dụng.
Từ những điểm chung nhất có thể định nghĩa một cách tổng quát: Chất
thải điện tử bao gồm toàn bộ các thiết bị, dụng cụ, máy móc điện, điện tử cũ,
hỏng, lỗi thời không được sử dụng nữa cũng như các phế liệu, phế phẩm thải
ra trong quá trình sản xuất, lắp ráp và tiêu thụ.
2.1.2 Chất thải kim loại trong sinh hoạt
Chất thải kim loại thuộc nhóm chất thải rắn nên ta có thể định nghĩa
Chất kim loại trong sinh hoạt là tất cả chất thải phát sinh do các hoạt
động thường ngày của con người và động vật, tồn tại ở dạng rắn được thải bỏ
từ khu dân cư, khu thương mại, cơ quan, công sở, khu công cộng,…khi không
còn hữu dụng hoặc không muốn dùng nữa.
Khi tính toán các yếu tố công nghệ cho quá trình xử lý chất thải rắn
thường nói đến một số tính chất của nó như tỷ trọng, độ ẩm, độ xốp, kích
thước trung bình… Trong trường hợp công nghệ nhiệt phân được lựa chọn
người ta còn quan tâm đến các tính chất khác của chất thải như nhiệt trị, nhiệt
dung riêng, độ cháy, độ tro v.v…
Khối lượng riêng: định nghĩa là khối lượng của vật chất tính trên một
đơn vị thể tích chất thải (kg/m 3). Khối lượng riêng của chất thải rắn có thể thay
đổi tuỳ thuộc vào những trạng thái của chúng như chất thải đổ đống có nén
hoặc không nén.
Độ ẩm: được biểu diễn bằng tỷ lệ lượng hơi nước (%) có chứa trong
một đơn vị khối lượng chất thải. Người ta thường tính toán độ ẩm theo công
thức sau
đây:
(2.1)

Trong đó:

xw – độ ẩm, %;
mr – khối lượng chất thải rắn trước khi sấy, kg;
ms – khối lượng chất thải rắn sau khi sấy, kg.
8


Bảng 2.1 Độ ẩm trung bình trong chất thải kim loại trong sinh hoạt
Thành phần
Thủy tinh
Can thiếc
Nhôm
Vật liệu khác
Bụi, tro

Phần tram khối lượng
8,0
6,0
0,5
3,0
3,0

Độ ẩm %
2
3
2
3
8

Nguồn: Intergrated Solid Waste Management, McGRAW-HILL 1993
Nhiệt trị: là lượng nhiệt sinh ra khi đốt cháy một đơn vị khối lượng

chất thải. Đơn vị tính là kJ/kg hoặc kCal/kg. Giá trị này càng lớn thì phương
pháp nhiệt phân chất thải càng có hiệu quả. Nhiệt trị của chất thải được tính
theo công thức Meldeleev như sau:
(2.2)
Trong đó:
C– thành phần nguyên tố cacbon, %;
H – thành phần nguyên tố hydro, %;
O – thành phần nguyên tố ôxy, %;
S – thành phần lưu huỳnh, %;
W – độ ẩm của chất thải, %.
Nhiệt trị của chất thải phụ thuộc vào thành phần của chất thải và rất phụ
thuộc vào độ ẩm của chất thải. Độ ẩm càng lớn thì khả năng cháy càng thấp,
nhiệt trị càng thấp.
Độ tro (chất trơ)
Độ tro là tỷ lệ (%) lượng vật chất còn lại sau quá trình thiêu đốt chất
thải. Độ tro càng nhỏ thì quá trình cháy chất thải càng tốt. Khi áp dụng
phương pháp nhiệt phân người ta thường lựa chọn loại chất thải có độ ẩm và
độ tro thấp. Tro, xỉ của quá trình thiêu đốt không độc hại thường được sử dụng
làm vật liệu xây dựng hoặc san lấp mặt đường, nếu như khối lượng đủ lớn.
Trong trường hợp khối lượng nhỏ, hoặc thành phần và kích thước không phù
hợp để làm vật liệu xây dựng người ta đem chôn lấp. Độ tro có thể tính theo
công thức sau:
(2.3)
Trong đó:

xA – độ tro, %;

– khối lượng xỉ tro sau khi đốt, kg.
– khối lượng chất thải ban đầu, kg.
9



2.2 HIỆN TRẠNG VỀ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ, KIM LOẠI TRONG SINH

HOẠT Ở VIỆT NAM
2.2.1 Hiện trạng về chất thải điện tử
Các nhà khoa học tại Viện Khoa học và Công nghệ môi trường (ĐH
Bách khoa Hà Nội) cho biết chất thải điện tử bao gồm vụn kim loại, dây dẫn
điện, bản mạch in hỏng, linh kiện hỏng, chất thải hàn... Ước tính tổng lượng
chất thải công nghiệp điện tử trên toàn lãnh thổ Việt Nam là khoảng 1.630
tấn/năm, trong đó khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc 1.370 tấn/năm (chủ
yếu là bùn thải), chiếm 84% tổng lượng chất thải điện tử của cả nước; khu vực
kinh tế trọng điểm miền Trung khoảng 6 - 7 tấn/năm, chiếm 0,4% tổng lượng
chất thải điện tử.
Riêng khu vực trọng điểm kinh tế phía Nam có khoảng 254 tấn/năm,
chiếm 16% tổng lượng chất thải ddiejn tử của cả nước, trong đó 93,4% tại tỉnh
Đồng Nai (khoảng 237,33 tấn/năm); 4,9% tại TPHCM (12,5 tấn/năm); còn lại
tập trung tại Bình Dương và Long An. Ước tính hằng năm, chất thải điện tử tại
khu vực này phát sinh tăng khoảng 10% - 15% do gia tăng các nhà đầu tư trên
lĩnh vực điện tử.
Công nghệ ngày càng phát triển đã làm giảm tuổi thọ trung bình của
các sản phẩm và phát sinh một khối lượng lớn chất thải điện tử. Loại chất thải
này chứa một lượng lớn các hợp chất độc hại là tác nhân làm cho những vấn
đề môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Ngay ở các vùng nông thôn, chất thải điện tử cũng đe dọa môi trường
khi người dân thường vứt bỏ các loại pin, bóng đèn, quạt máy hư hỏng… ra
ngoài tự nhiên một cách vô tội vạ. Ở các vùng nông thôn và cả các khu dân cư
thành thị, việc phân loại rác thải chưa làm được, do vậy nguy cơ ô nhiễm chất
thải điện tử là rất đáng báo động.
Theo Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Môi trường TPHCM cho thấy, trên

toàn TPHCM, tổng nhu cầu tiêu dùng và thải bỏ thiết bị điện tử từ năm 2011
đến năm 2015 đối với ti vi là gần 3,5 triệu cái/năm tương đương 4.262
tấn/năm; điện thoại di động là gần 5 triệu cái/năm tương đương 81 tấn/năm;
máy vi tính là 1,5 triệu cái/năm tương đương 1,801 tấn/năm. Mức phát thải
trung bình đối với ti vi là 0,57kg/người/năm; điện thoại di động là
0,011kg/người/năm; máy vi tính là 0,24kg/người/năm.
Các nguồn phát sinh chất thải điện tử tại thành phố Hồ Chí Minh chủ
yếu là do bản thân hoạt động nội tại như hộ gia đình, công sở, trường học,
khách sạn, nhà sản xuất phân phối, sửa chữa và do nguồn từ bên ngoài vào
như các tỉnh thành thuộc vùng Đồng Bằng song Cửu Long, nhập khẩu trái
phép. Dự báo đến năm 2020 thành phố Hồ Chí Minh sẽ có khoảng 10.860
tấn/năm chất thải điện tử thải ra môi trường.

10


Theo tiến sĩ Trần Minh Trí, Viện Kỹ thuật nhiệt đới và Môi trường,
TPHCM là trung tâm kinh tế-thương mại lớn nhất của cả nước. Song song với
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, khối lượng tiêu thụ đồ dùng điện tử
ngày càng tăng, đồng nghĩa với việc chất thải điện tử cũng ngày một lớn.
Trong khi đó, công tác quản lý chất thải điện tử trên địa bàn thành phố từ công
đoạn thu gom, vận chuyển cho đến tái chế, tiêu hủy hiện nay còn nhiều hạn
chế. Bên cạnh khả năng gây tác hại đến sức khỏe cộng đồng và môi trường do
chứa nhiều thành phần nguy hại như As, Li, Pb, Hg, Br… và các chất có khả
năng phá hủy tầng ozone như CFC, HCFC.
Hiện rác thải điện tử ở Việt Nam đang rất báo động, dòng chảy của rác
thải điện tử đi từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển trong đó có
Việt Nam qua đường hợp pháp là các công ty được phép tạm nhập tái xuất,
nhập khẩu hàng điện tử cũ…, đường không hợp pháp là qua các cửa khẩu
chính ngạch (lợi dụng sơ hở của hải quan) và đường tiểu ngạch (buôn lậu

xuyên biên giới), rác thải điện tử nội sinh như thiết bị điện tử hết hạn sử dụng.
2.2.2 Hiện trạng về chất thải kim loại
Bảng 2.2 Thành phần các chất thải kim loại trong sinh hoạt tãi bãi chôn
lấp ở một số địa phương 2009-2010
Hà Nội
Loại chất thải Nam Sơn Xuân Sơn
Kim loại
0,87
0,2
Thủy tinh
1,87
5,07
Sành sứ
0,39
1,26

Huế
Thủy Phương
0,4
0,39
0,79

Hồ Chí Minh
Đa Phước Phước Hiệp
0,36
0,59
0,4
0,86
0,24
1,27


Nguồn: Báo cáo Nghiên cứu quản lý chất thải rắn tại Việt Nam, JICA,
3/2011 và Báo cáo Dự án Tổng hợp, xây dựng các mô hình thu gom, xử lý rác
thải cho các thị trấn, thị tứ, cấp huyện, cấp xã, 2006-2008.
Một trong các sản phẩm kim loại được sử dụng phổ biến là pin, pin rất
hữu ích cho cuộc sống, tuy nhiên nếu không biết cách xử lý pin đã qua sử
dụng có thể gây nguy hại đến môi trường. Trong cuộc sống hằng ngày, mọi
người hay có thói quen vứt pin đã qua sử dụng bừa bãi hoặc bỏ vào thùng rác
gia đình như các loại rác thải khác.
Sau đó, pin sẽ được xử lý bằng cách chôn lấp hay đốt đi. Cả hai cách
này đều gây hại cho môi trường. Theo các nhà nghiên cứu, khi pin bị chôn lấp,
chúng sẽ bị hư hỏng do oxy hóa, các kim loại nặng (chì, kẽm, niken, thủy
ngân…) có trong pin sẽ thấm vào đất, các nguồn nước ngầm và làm ô nhiễm
nguồn nước. Hoặc khi bị đốt, các thành phần nguy hại trong pin sẽ bốc lên
thành khói độc, hay chất độc của pin đọng lại trong tro sẽ làm ô nhiễm không
khí và môi trường.
Tác hại của pin là không nhỏ, nhưng với thói quen hằng ngày của người
dân và các lý do khác như tiện tay vứt lung tung, hoặc làm biếng mang đến
11


những nơi thu gom đúng quy định. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến môi
trường sống hằng ngày và không phải người dân nào cũng biết tác hại của
chúng, Chính vì vậy, việc tuyên truyền tác hại của pin đồng thời xây dựng ý
thức của người dân ngay từ hôm nay sẽ hạn chế đáng kể sự ảnh hưởng của sản
phẩm hai mặt này.
Ở Việt Nam công nghệ xử lý chất thải kim loại đô thị chủ yếu: làm
phân hũư cơ, chôn lấp, đốt
Đốt chất thải sinh hoạt đô thị chủ yếu ở các bãi rác không hợp vệ sinh.
Theo báo cáo môi trường quốc gia của Tổng cục môi trường năm 2011,

khoảng 40-50% lượng rác đưa vào bãi chôn lấp không hợp vệ sinh trong 1
năm bị đốt hở ngoài trời.
Tỷ lệ chất thải chôn lấp chiếm phần còn lại từ 76-82% CTRSH đô thị
thu gom được, trong đó khoảng 50% được chôn lấp hợp vệ sinh và 50% chôn
lấp không hợp vệ sinh.
2.3 MỨC ĐỘ ẢNH HƯỞNG VÀ NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI DÂN VỀ
CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ, KIM LOẠI TRONG SINH HOẠT Ở VIỆT
NAM
2.3.1 Mức độ ảnh hưởng
2.3.1.1 Mức độ ảnh hưởng của chất thải điện tử
Các thiết bị công nghệ cao đem lại cho chúng ta những tiện ích tuyệt
vời song nó lại là một trong những nguyên nhân làm nguy hại đến sức khỏe
con người và môi trường. Sỡ dĩ như vậy vì trong chúng có chứa nhiều hợp
chất kim loại nặng như asen, beryllium (hợp kim nhôm), cadmium, chì, thủy
ngân hay các hợp chất phthalates, polyvinyl clorua, hợp chất brom chống cháy
và các khoáng sản hiếm.
Những hợp chất này chỉ với hàm lượng rất nhỏ cũng có thể gây tử vong
ở người và các động vật, cụ thể như sau:
Khoáng sản hiếm
Europium, prometium, thulium, yttrium… đây là những nguyên tố đất
hiếm, khó khai thác, và vô cùng cần thiết. Chúng hiện diện trong smartphone,
nam châm, HDTV và cả những công nghệ “xanh” như turbin năng lượng gió,
xe điện và các bóng đèn compact. Trong đó còn có chứa các nguyên tố có tính
phóng xạ như Thorium (Th) hoặc Urani (U) trong đó thorium là chất gây ung
thư phổi và tuyến tụy và bệnh bạch cầu, uranium với liều lượng cao có thể làm
tế bào thận chết, suy giảm chức năng của các cơ quan như xương, gan, tủy,
phổi, cơ, gây ngộ độc và ảnh hưởng đến sức khỏe
Hợp chất brôm chống cháy
Brôm chống cháy (BFR) vốn là một hợp chất phức tạp được thêm sử
dụng trong các thiết bị điện tử (và với các đồng vật khác, như đồ nội thất

chẳng hạn) để giảm tối đa khả năng bắt lửa. Rất nhiều trong số các chất này,
trong đó có chất ê-te phenyl poly-brôm (PBDE), là chất vĩnh cửu, và một khi
12


đã lọt vào cơ thể người, chúng sẽ nằm đó và tích tụ dần dần. Chất PBDE này
có ảnh hưởng tới sự phát triển của não, gây ra dị tật bẩm sinh, ảnh hưởng đến
hệ hormon của cơ thể người và gây ung thư.
Polyvinyl Clorua
Thường được biết đến với cái tên viết tắt PVC, polyvinyl clorua là loại
nhựa tổng hợp ứng dụng trong hầu hết mọi thứ. PCV chính là lớp nhựa phủ
ngoài các loại thiết bị, cáp, hoặc adaptor sạc pin. Chúng làm nên lớp vỏ
của chiếc điều khiển từ xa của HDTV, là các loại ống nước trong nhà bạn, và
hiện diện trong cả quần áo. gây ra mất cân bằng hormone, ảnh hưởng đến khả
năng sinh sản và có mối liên hệ với nhiều loại ung thư. Tệ hơn nữa, PVC là
thứ không thể tự phân hủy trong môi trường tự nhiên và công đoạn tái chế đòi
hỏi công nghệ rất cao. Loại vật liệu này khi bị đốt cháy sẽ sản sinh chất dioxin
gây ung thư.
Phthalate
Đây là loại hợp kim bền và nhẹ, dẫn điện tốt gấp 6 lần so với đồng
thông thường, tuy nhiên nó lại là hợp chất vô cùng nguy hiểm. Theo báo
cáo của tổ chức Hòa bình Xanh mang tên Toxic Tech - Chemicals in
Electronics (tạm dịch: Những thứ độc hại trong công nghệ - Chất hóa học
trong sản phẩm điện tử) thì “beryllium có ảnh hưởng sâu và dai dẳng đến con
người, chủ yếu là các vấn đề về phổi”. Những người mắc các chứng bệnh có
liên quan đến berrylium thường có các triệu chứng như hơi thở ngắn, mệt mỏi,
đau vùng ngực và khớp, mất cảm giác thèm ăn và có các vết sẹo ở phổi. Loại
bệnh ngộ độc beryllium mãn tính này hiện không có cách chữa trị. Bên cạnh
đó, Tổ chức quốc tế nghiên cứu về Ung thư (The International Agency for
Research on Cancer) đã liệt berylium và các hợp chất chứa beryllium vào

Nhóm 1 các chất gây ung thư - túc nhóm có khả năng gây ung thư cao nhất.
Thủy ngân (Hg)
Thủy ngân là chất làm giảm đáng kể lượng điện năng tiêu thụ và lượng
khí thải nhà kính, chính vì vậy mà đây là một trong những chất được sử dụng
bên trong các bóng đèn huỳnh quang compact-biểu tượng của công nghệ xanh.
nhưng nó lại là chất rất độc khi xâm nhập vào cơ thể người và sinh vật với
nồng độ vượt quá giới hạn. Việc ngộ độc thủy ngân sẽ gây hại đến hệ thần
kinh trung ương, thận và hệ tiêu hóa.
Chì (Pb)
Các nhà sản xuất thiết bị điện tử dùng chì làm nguyên liệu hàn trong
các mạch điện. Chì cũng là nguyên liệu chính và tiêu chuẩn sử dụng trong đèn
hình của các loại TV CRT.
Nếu chì chẳng may lọt vào cơ thể, nó có thể tàn phá hệ thần kinh, thận
và cơ quan sinh sản và đặc biệt là vô cùng nguy hại đến trẻ em. Trong một
nghiên cứu của Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ vào năm 2004 về các thiết bị
13


điện tử, cho thấy rằng nếu có vụ rò rỉ chì tập trung từ các thiết bị điện tử đang
được sử dụng, đó sẽ là một thảm họa thực sự đối với môi trường và con người.
Asen (As)
Ngay cả khi cơ thể thu nhận một lượng rất nhỏ asen - một tiền chất kim
loại - thì loại chất này cũng sẽ tồn tại lâu dài trong cơ thể và tích lũy theo thời
gian. Asen trong cơ thể sẽ làm suy yếu hệ miễn dịch và gây ảnh hưởng xấu
đến thận. Chất này cũng liên quan đến chứng ung thư phổi, da và bàng quang.
Asen là một thành phần quan trọng trong việc chế tạo mạch điện - điện tử:
Nhà sản xuất kết hợp asen với silicon để tăng khả năng dẫn điện. Tất nhiên,
asen có thể gây nguy hại đến người dùng thiết bị, và gây nhiều nguy cơ lớn
với những người tham gia vào quy trình sản xuất mạch điện. Hiện tại, asen đã
không còn được sử dụng trong sản xuất các thiết bị điện - điện tử, tuy nhiên,

tàn dư của nó có thể vẫn còn trong các thiết bị cũ.
Cadmium (Cd)
Loại chất này được sử dụng để sản xuất các loại phin sạc AAA nickelcadmium. Và khi những viên pin này hư hỏng, người ta sẽ bỏ nó đi, tạo ra một
mối nguy lớn về chất độc hóa học trong môi trường. Có khả năng chống ăn
mòn và dẫn điện tốt, cadmium còn được ứng dụng như một trong những thành
phần chính để sản xuất tấm thu năng lượng mặt trời cadmium-telluride - mang
lại giá thành sản xuất rẻ hơn so với tấm silicon tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, các nhà sản xuất còn sử dụng chất này trong các loại mạ
điện, các tiếp xúc điện, công tắc và vật liệu cách nhiệt.
Lượng “rác thải công nghệ” ngày càng gia tăng, với những tác hại mà
chúng gây ra thì cần có những biện pháp sử dụng, thu gom và tái chế phù hợp,
tránh tình trạng thải bỏ bừa bãi gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi
trường.
2.3.1.2 Mức độ ảnh hưởng của chất thải kim loại
Chất thải rắn nói chung và chất thải kim loại trong sinh hoạt nói riêng
không chỉ ảnh hưởng đến môi trườn đất, nước, không khí, nền kinh tế mà còn
cả đến với sức khỏe con người.
Tại các bãi rác, bãi chôn lấp CTR không hợp vệ sinh, không có hệ
thống xử lý nước rác đạt tiêu chuẩn, hóa chất và vi sinh vật từ CTR dễ dàng
thâm nhập gây ô nhiễm đất. Nghiên cứu của Viện Y học Lao động và Vệ sinh
Môi trường cho thấy các mẫu đất xét nghiệm tại bãi rác Lạng Sơn và Nam Sơn
đều bị ô nhiễm trứng giun và Coliform.
Môi trường không khí

Bụi, CH4, NH3, H2S, VOC

14


Chất thải kim loại trong sinh hoạt

Qua đường hô hấp
Nước mặt

Nước ngầm

Kim loại nặng

Qua chuỗi

Chất độc

thực phẩm

Môi trường đất

Ăn uống, tiếp xúc qua
Người, động vật
Hình 2.1 Sơ đồ tóm tắt ảnh hưởng của chất thải kim loại tới con người
và môi trường
Nguồn: Cục bảo vệ môi trường
Người dân sống gần bãi rác không hợp vệ sinh có tỷ lệ mắc các bệnh da
liễu, viêm phế quản, đau xương khớp cao hơn hẳn những nơi khác. Những
người này thường xuyên phải chịu ảnh hưởng ở mức cao do bụi, mầm bệnh,
các chất độc hại, côn trùng đốt/chích và các loại hơi khí độc hại trong suốt quá
trình làm việc. Vì vậy, các chứng bệnh thường gặp ở đối tượng này là các bệnh
về cúm, lỵ, giun, lao, dạ dày, tiêu chảy, và các vấn đề về đường ruột khác. Các
bãi chôn lấp rác cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khác đối với cộng đồng làm nghề
này. Các vật sắc nhọn, thuỷ tinh vỡ, bơm kim tiêm cũ,... có thể là mối đe dọa
nguy hiểm với sức khoẻ con người (lây nhiễm một số bệnh truyền nhiễm như
AIDS,...) khi họ dẫm phải hoặc bị cào xước vào tay chân,... Một vấn đề cần

được quan tâm là, do chiếm tỷ lệ lớn trong những người làm nghề nhặt rác,
phụ nữ và trẻ em đã trở thành nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.

Nguồn: Báo cáo “Đánh giá ảnh hưởng của bãi rác tập trung đến sức khỏe khu
dân cư xung quanh, xây dựng hướng dẫn tiêu chuẩn vệ sinh bãi rác”, Viện Y học
Lao động và Vệ sinh môi trường, 2009

Bảng 2.1 Tỷ lệ triệu chứng bệnh tật của nhóm nghiên cứu và nhóm
đối chứng
2.3.2 Nhận thức của người dân

Đa số người dân không quan tâm đến việc phân loại rác thải do tác hại
của chất thải kim loại, điện tử không ảnh hưởng trực tiếp đến con người và
môi trường, họ cho rằng chỉ là vật dụng nhỏ bé vô hại. Ví dụ khi chôn lấp pin,
các kim loại nặng như: Chì, kẽm, niken và thủy ngân có trong pin sẽ thấm vào
đất, nguồn nước ngầm và gây ô nhiễm nguồn nước. Hoặc khi đốt, các thành
phần nguy hại trong pin sẽ bốc lên thành khói độc, hay chất độc của pin đọng
15


lại trong tro gây ô nhiễm không khí. Lượng thủy ngân có trong một cục pin
cũng có thể làm ô nhiễm 500 lít nước hoặc 1m3 đất trong vòng 50 năm... Khi
con người hấp thụ qua đường ăn uống hoặc hít thở, các độc tố phát tán từ pin
có thể gây hại não, thận, hệ thống sinh sản và tim mạch. Có thể thấy tác hại
của các loại chất thải này đang tích tụ dần dần trong cơ thể và ảnh hưởng đến
các thế hệ sau và họ cũng không xác định được nguyên nhân.
Cách thức người dân chôn lấp chất thải điện tử đi theo một truyền
thống xấu, tức là không quan tâm chất thải sẽ đi đâu, sẽ được xử lý ra sao. Một
số thiết bị điện, điện tử kích thước nhỏ và vừa(pin, bóng đèn, điện thoại…)sau
khi hết khả năng sử dụng được chôn lấp chung với rác sinh hoạt. Những thiết

bị điện tử cũ hỏng kích thước lớn(TV, tủ lạnh, máy giặt…)thường được lưu trữ
tại gia đình trong một thời gian nhất định trước khi bán lại cho người thu gom
phế liệu. Một số thiết bị được thu gom về các tiệm đồ cũ hoặc tiệm sửa chữa
đồ gia dụng; sau đó được tháo rời và tận dụng linh kiện để thay thế vào các
thiết bị hỏng khác.
2.4 HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ, KIM LOẠI TRONG
SINH HOẠT Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam việc kiểm soát xử lý chất thải điện, điện tử chưa được chặt
chẽ, ngoại trừ việc xuất nhập khẩu và xử lý chất thải nguy hại. Việc tái chế chủ
yếu thực hiện tại các làng nghề với công nghệ cũ, lạc hậu, hiệu suất thu hồi
thấp, nhất là chưa kiểm soát được việc thải bỏ các thành phần không tái chế.
Việt Nam cần sớm xây dựng một mô hình xử lý chất thải điện tử với sự tham
gia của cơ quan quản lý, doanh nghiệp sản xuất, đơn vị thu mua, tháo dỡ tái
chế theo một quy trình chặt chẽ, khoa học thay vì thả lỏng như hiện nay.
Chất thải điện tử còn được âm thầm được chuyên chở về Việt Nam dưới
danh nghĩa xuất nhập khẩu với mục đích tái chế. Nhiều cá nhân núp bóng
doanh nghiệp để nhập loại chất thải này từ nhiều quốc gia trên thế giới. Khi
hàng cập cảng họ viện nhiều lý do để thoái thác nhận hàng; hoặc họ sẽ bán
lượng CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ này cho các cơ sở tái chế tư nhân hay các làng
nghề tái chế. Chỉ có một số ít các quy định của Việt Nam có liên quan đến việc
ngăn chặn nhập khẩu rác thải máy tính vào nước ta đó là quyết định số
46/2001/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá thời kỳ 2001-2005 và thông tư số 04/2006/TT-BTM của Bộ Thương
Mại hướng dẫn một số nội quy tại nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng
1 năm 2006 của Chính phủ- Quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt
động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua bán, gia công. Có
thể khẳng định tái chế CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ chưa nhận được sự quản lý và
quan tâm đúng mức tại Việt Nam do còn nhiều lỗ hổng trong các quy định
pháp luật.
16



Từ ngày 1.1.2015 các sản phẩm thải bỏ như ắc quy và pin, thiết bị điện
tử, điện dân dụng và công nghiệp, hóa chất sử dụng trong công nghiệp, nông
nghiệp, thủy sản và thuốc sử dụng cho người, dầu nhớt, mỡ bôi trơn…sẽ bị thu
hồi và xử lý theo nội dung Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg ngày 9/8/2013 của
Thủ tướng Chính phủ về thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ. Với Quyết định
trên, các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu sản phẩm thải bỏ phải chịu trách
nhiệm thiết lập các điểm thu hồi sản phẩm thải bỏ; thỏa thuận với người tiêu
dùng về cách thức chuyển giao và tiếp nhận sản phẩm thải bỏ tại điểm thu hồi,
vận chuyển đến cơ sở xử lý...
Theo lộ trình, từ ngày 1.1.2016, thu hồi và xử lý máy sao chụp giấy
(photocopier), tivi, tủ lạnh, máy điều hòa nhiệt độ, máy giặt và săm, lốp các
loại thải bỏ. Tiếp đến, các loại phương tiện giao thông như xe môtô, xe gắn
máy, xe ôtô các loại thải bỏ sẽ bị thu hồi và xử lý từ ngày 1.1.2018. “Việc triển
khai thực hiện Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng
quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ các bên liên quan trong việc sản xuất,
lưu thông, sử dụng và thu hồi, xử lý các sản phẩm thải bỏ”, Thứ trưởng Bùi
Cách Tuyến nhấn mạnh.
Hệ thống tổ chức và phân công trách nhiệm quản lý chất thải rắn
- Cấp Trung ương: có 4 đơn vị cấp Bộ có trách nhiệm chính trực tiếp
tham gia công tác quản lý CTR bao gồm: Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ
Y tế và Bộ TN&MT.
- Cấp địa phương:
• Sở xây dựng: Quản lý CTR sinh hoạt và cùng chôn lấp
• Sở TN&MT: quản lý chất thải rắn phụ thuộc vào tính chất và tổ chức
của từng tỉnh thành
• Công ty môi trường đô thị (URENCO: chịu trách nhiệm thu gom, vận
chuyển, xử lý chất thải ở tỉnh hoặc thành phố)
Nước ta mới có một vài địa phương lập quy hoạch quản lý CTR như tp.

Hồ Chí Minh, Bình Định, Đắc Lăk, Quảng Ninh,
Quy hoạch quản lý CTR tại các địa phương, vùng còn rất thiếu, công
tác quản lý CTR nguy hại chưa mang tính vùng, chưa có những giải pháp quản
lý phù hợp.
CTR khu vực đô thị chưa được phân loại, chưa phân loại CTR độc hại
và CTR thông thường
Vấn đề đầu tư, xây dựng các trạm trung chuyển CTR tại các đô thị chưa
thực sự được quan tâm đầu tư. Hiện nay, có rất ít đô thị đầu tư xây dựng các
trạm trung chuyển CTR trong hệ thống thu gom
Các cơ quan chức năng, quản lý Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản,
quy phạm pháp luật phục vụ công tác quản lý chất thải => hiệu lực chưa cao,
các mức thi hành cưỡng chế, xử phạt còn nhẹ chưa đủ sức răn đe -> hiệu quả
của công tác quản lý CTR sinh hoạt đô thị chưa cao.
17


Nước ta đã có một số văn bản nhất định về quản lý chất thải như Luật
Bảo vệ môi trường 2005, Nghị định 67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường
đối với nước thải, Nghị định 174/2007/NĐCP về phí bảo vệ môi trường đối
với chất thải rắn, các qui định về quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, song
chưa có các văn bản về giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế. Cần thiết phải hoàn
thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý chất thải trong thời gian tới.
Trên thực tế, chính sách này đã được quy định tại Điều 67 của Luật Bảo
vệ môi trường 2005 và Chính phủ cần sớm ban hành Quyết định thực hiện
chính sách thu hồi và xử lý sản phẩm sau khi sử dụng. Đây là một cơ chế quan
trọng trong lĩnh vực 3R mà hầu như nước nào cũng đã áp dụng.
Mặc dù một số hoạt động đã được thực hiện song việc áp dụng giảm
thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải rắn ở nước ta đang phải đối mặt với một số
rào cản như sau:
* Rào cản về cơ chế chính sách:

- Thiếu hụt các chính sách pháp luật cụ thể.
- Chưa có các chính sách khuyến khích và ưu đãi về nhãn mác sinh thái
với các mặt hàng giảm thiểu chất thải hoặc sản xuất từ các nguyên liệu
tái chế, tái sử dụng.
- Chưa chú trọng đến các quan hệ hợp tác song phương và đa phương
với các nước khác, với các tổ chức khoa học, kinh tế, v.v. trong áp dụng,
chuyển giao công nghệ và triển khai.
* Rào cản về kỹ thuật công nghệ:
- Thiếu hụt thông tin về công nghệ tái chế, tái sử dụng hoặc giảm thiểu
chất thải.
- Vẫn đang áp dụng các công nghệ tái chế, tái sử dụng còn lạc hậu, hiệu
quả thấp, chất lượng sản phẩm không cao, đồng thời gây ô nhiễm môi trườn.
- Chưa có các thỏa thuận phù hợp về chuyển giao công nghệ và nâng
cao năng lực trong lĩnh vực 3R.
- Chưa có được các nghiên cứu đầy đủ về cân bằng của những lợi ích
kinh tế, xã hội đem lại từ các hoạt động 3R.
- Thiếu hụt đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm.
* Rào cản về cơ sở hạ tầng:
- Cơ sở hạ tầng cho việc triển khai chiến lược 3R tại Việt Nam bao gồm
từ diện tích, thiết bị, con người, giao thông vận tải, cung cấp năng lượng và
nguyên liệu còn chưa đầy đủ và sẵn sàng.
- Bản thân các công nghệ, dây chuyền sản xuất và thiết bị ở Việt Nam
cũng mới chỉ ở mức độ trung bình, tại nhiều cơ sở còn cũ kĩ và lạc hậu, dẫn
đến những khó khăn trực tiếp trong việc áp dụng các chiến lược 3R.
* Rào cản về vốn đầu tư:
18


-


-

-

- Trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay ở Việt Nam, các lợi ích về
kinh tế thường được ưu tiên trước các lợi ích khác, và do vậy, muốn triển khai
các giải pháp 3R, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư là điều tương đối khó khăn, điều
này đã từng xảy ra đối với việc áp dụng sản xuất sạch hơn tại các cơ sở sản
xuất của Việt Nam từ năm 1997.
* Rào cản về nhận thức:
- Các sản phẩm tái chế hiện nay vẫn chưa được người dân chấp nhận
tương đương so với các sản phẩm thông thường. Các sản phẩm phân hữu cơ,
phân vi sinh sản xuất ra hiện nay vẫn khó tiêu thụ trên thị trường.
- Lợi ích kinh tế thường được đặt ưu tiên hơn so với lợi ích về mặt môi
trường, nhà sản xuất và người dân còn chưa phối hợp, cộng tác đầy đủ với các
bên liên quan.
- Chưa có nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến rộng rãi thông tin tới
người dân và nhà sản xuất.
- Không có các biện pháp khuyến khích các hộ dân cư cũng như các
doanh nghiệp, bệnh viện các điểm dịch vụ công cộng đến với phân loại rác
thải tại nguồn.
2.4 GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ, KIM LOẠI TRONG
SINH HOẠT Ở VIỆT NAM
2.4.1 Giải pháp quản lý chất thải điện tử trong sinh hoạt
Xây dựng khung luật riêng cho chất thải điện tử
Chất thải điện tử là một loại hình chất thải đặc biệt có tính nguy hại cao nếu
không được xử lý đúng cách, đồng thời chất thải điện tử cũng là nguồn nguyên
liệu có giá trị. Chính vì vậy cần xây một khung luật riêng để quản lý các hoạt
động cũng như xử lý các vi phạm liên quan đến chất thải điện tử.
Xây dựng khung luật riêng cho chất thải điện tử

Chất thải điện tử là một loại hình chất thải đặc biệt có tính nguy hại cao nếu
không được xử lý đúng cách, đồng thời chất thải điện tử cũng là nguồn nguyên
liệu có giá trị. Chính vì vậy cần xây một khung luật riêng để quản lý các hoạt
động cũng như xử lý các vi phạm liên quan đến chất thải điện tử.
Thiết lập mô hình quản lý chất thải điện tử phù hợp
Thiết lập mô hình quản lý chất thải điện tử là biện pháp cần tiến hành song
song với xây dựng luật chất thải điện tử. Từ mô hình khái quát nhà hoạch định
sẽ biết được cơ sở pháp lý và cơ sở hạ tầng đã đáp ứng được đến đâu trong quá
trình quản lý và xử lý chất thải điện tử; từ đó đưa ra các kế hoạch hành động
tiếp theo. Để xây dựng được một mô hình quản lý phù hợp với tình hình Việt
Nam hiện nay là vô cùng khó, tuy nhiên chúng ta có thể học tập và điều chỉnh
từ một số mô hình đã được kiểm nghiệm.
Tạo dựng mối liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp sản
xuất, phân phối các mặt hàng điện tử
Muốn hoạt động tái chế chất thải điện tử đạt được hiệu quả cao nhất,
cần sự vào cuộc của chính các nhà sản xuất-phân phối các mặt hàng điện tử;
bởi chính họ là người hiểu hơn ai hết thiết bị mình tạo ra. Xét thấy đây là biện
pháp bền vững và hiệu quả dựa trên sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo
vệ môi trường sống. Để thực hiện được mục tiêu này cần thực hiện lần lượt 5
nhiệm vụ sau:
19


-

-

-

-


-

Thứ nhất, yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin về doanh số bán hàng để
thuận lợi trong việc quản lý lượng chất thải điện tử phát sinh hằng năm.
Thứ hai, nhà nước cần ban hành các tiêu chuẩn đánh giá cùng các nhãn sinh
thái nhằm tăng tính thân thiện với môi trường, giảm tính độc hại của các mặt
hàng điện, điện tử.
Thứ ba, bổ sung các lưu ý trong thải bỏ các mặt hàng điện tử vào phần hướng
dẫn sử dụng sản phẩm. Ví dụ: Sản phẩm kèm theo sẽ gây nguy hại cho sức
khỏe nếu được thải bỏ và xử lý không đúng cách.
Thứ tư, khi đã đạt được các điều kiện cần thiết như Luật về chất thải điện tử ,
các cơ sở xử lý chất thải điện tử có dây chuyền công nghệ tiêu chuẩn; khuyến
khích các doanh nghiệp nhận trách nhiệm trong việc thu gom các thiết bị điện,
điện tử đã qua sử dụng.
Thứ năm, yêu cầu sự tư vấn, góp ý của các nhà sản xuất đối với phương pháp
xử lý và tái chế đối với thiết bị điện tử do chính họ sản xuất một khi nó trở
thành chất thải điện tử.
Xây dựng chương trình đào tạo, thông tin tuyên truyền
Nâng cao nhận thức của người dân về mức độ nguy hại của việc thải bỏ và tái
chế không đúng cách các chất thải từ các thiết bị điện và điện tử đối với môi
trường và sức khỏe con người.
- Nâng cao năng lực, đội ngũ các nhà quản lý, cán bộ và kỹ thuật xử lý
chất thải điện tử nhằm đáp ứng nhiệm vụ quản lý, tái chế lượng chất thải điện
tử ngày càng tăng trong tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước và
xu thế hội nhập quốc tế.
2.4.2 Giải pháp quản lý chất thải kim loại trong sinh hoạt
Do chất thải kim loại nằm trong danh mục của chất thải rắn nên ta xây
dựng giải pháp chung cho chất thải rắn.
Giải pháp về tổ chức, quản lý và cơ chế, chính sách:

- Kiện toàn hệ thống tổ chức phục vụ công tác bảo vệ môi trường từ
Trung ương đến địa phương theo Luật bảo vệ môi trường 2014.
- Rà soát, quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh tới
cấp huyện, cấp xã; trách nhiệm các cơ quan chuyên môn; trách nhiệm của tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp; trách nhiệm của các cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong công
tác quản lý chất thải.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 về quản lý chất thải và phế
liệu và các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến lĩnh vực quản lý chất
thải.
- Triển khai hiệu quả công cụ pháp lý trong công tác quản lý chất thải:
xác nhận bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối với cơ sở xử lý chất thải rắn
sinh hoạt, cơ sở xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường trước khi hoạt
động.
- Nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến
khích thu gom, vận chuyển và đầu tư cơ sở xử lý chất thải phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế-xã hội địa phương
20


- Xây dựng cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham
gia đầu tư xây dựng và trực tiếp quản lý, khai thác, vận hành dự án xử lý chất
thải sau khi xây dựng xong đảm bảo tính hiệu quả, ổn định và bền vững của
dự án xử lý chất thải.
- Có chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp hành nghề quản
lý chất thải nguy hại đầu tư các thiết bị, công nghệ xử lý chất thải nguy hại
theo hướng thân thiện môi trường nhằm phát triển công nghệ xử lý chất thải
nguy hại tại Việt Nam cả về chất lượng và số lượng; khuyến khích các cơ sở
xử lý không có giấy phép và cơ sở hoạt động trong các làng nghề chuyển đổi

mô hình sản xuất (áp dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường…) hoặc
lắp đặt các thiết bị/hệ thống xử lý để đáp ứng các quy định về bảo vệ môi
trường.
Giải pháp về truyền thông, nâng cao nhận thức và phát triển nguồn
nhân lực:
- Đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu nội dung về quản lý chất thải quy
định tại Luật bảo vệ môi trường 2014 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày
24 tháng 4 năm 2015 về quản lý chất thải và phế liệu rộng rãi tới các cấp, các
ngành, cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân.
- Tăng cường trao đổi, tham quan, học tập kinh nghiệm trong triển khai
công tác quản lý chất thải, chú trọng đến tính khả thi, sự phù hợp khi triển khai
áp dụng cùng mô hình xử lý chất thải giữa các địa phương.
- Nghiên cứu đưa nội dung giáo dục môi trường trong đó có quản lý
chất thải vào chương trình chính khóa của các cấp học phổ thông.
- Đào tạo và tăng cường nguồn nhân lực biên chế phục vụ cho công tác
quản lý chất thải.
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền, đào tạo và tổ chức các khoá tập huấn cho
doanh nghiệp về sản xuất sạch hơn, hoạt động giảm thiểu phát sinh chất thải
rắn; quy trình thu gom, vận chuyển, xử lý, tái chế chất thải rắn theo đúng các
quy định của pháp luật.
- Đẩy mạnh việc xây dựng và phổ biến cơ sở dữ liệu và trang thông tin
điện tử về chất thải rắn; các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về quản lý, xử lý chất
thải rắn.
Giải pháp về đầu tư và tài chính
- Huy động mọi nguồn lực đầu tư cho công tác quản lý, xử lý chất thải
rắn: nguồn ngân sách nhà nước (cả vốn ODA), quỹ bảo vệ môi trường, các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước ngoài.
- Mở rộng hỗ trợ tín dụng nhà nước cho các công trình đầu tư, dự án
tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ chất thải rắn cũng như các ưu đãi
về thuế, phí và lệ phí.

- Rà soát, nghiên cứu giảm thiểu thủ tục trong quá trình triển khai vay
vốn, bao gồm cả vay từ nguồn vốn ưu đãi để thực hiện các dự án xử lý chất
thải rắn áp dụng công nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào
hoạt động tái chế, tái sử dụng và thu hồi năng lượng từ chất thải rắn. Đẩy
mạnh hợp tác công – tư (PPP) trong lĩnh vực xử lý, tái chế chất thải rắn.
21


- Đẩy mạnh xã hội hoá công tác thu gom, vận chuyển và vận hành cơ
sở xử lý chất thải rắn; tăng dần nguồn thu phí vệ sinh, giảm dần hỗ trợ từ ngân
sách cho hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải rắn; Rà soát sửa đổi bổ sung
và ban hành đơn giá xử lý chất thải rắn có thu hồi năng lượng.
- Xây dựng chính sách mua sắm công để ưu tiên mua sắm các sản
phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm sau quá trình tái chế, xử lý chất thải từ
nguồn ngân sách.
- Nghiên cứu, áp dụng giá dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt, có lộ
trình điều chỉnh giá nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu về bù đắp chi phí quản
lý vận hành và đầu tư xây dựng
- Lựa chọn các địa điểm hợp lý để đầu tư các trung tâm xử lý và tái chế
chất thải ở quy mô liên vùng, liên tỉnh. Bố trí kinh phí đầu tư các cơ sở xử lý
chất thải nguy hại công ích ở các vùng, miền còn gặp nhiều khó khăn hoặc
không có cơ sở xử lý như các tỉnh miền núi, hải đảo…
Giải pháp về giám sát, kiểm tra, thanh tra:
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường của các địa phương trong kiểm soát chặt chẽ các khu xử lý chất thải,
bãi chôn lấp chất thải giáp ranh giữa các địa phương và việc vận chuyển chất
thải liên tỉnh.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động thu gom, vận
chuyển và xử lý chất thải rắn để phòng ngừa cũng như kịp thời phát hiện và xử

lý các vi phạm
Giải pháp hỗ trợ kỹ thuật và nghiên cứu, phát triển công nghệ
- Nghiên cứu phát triển công nghệ xử lý chất thải rắn theo hướng giảm
thiểu lượng chất thải rắn chôn lấp, tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng và thu
hồi năng lượng từ chất thải.
- Tăng cường nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng các công nghệ sẵn
có tốt nhất (BAT), công nghệ thân thiện với môi trường.
- Đẩy mạnh việc xây dựng các mô hình điểm về tái chế, tái sử dụng và
thu hồi năng lượng từ chất thải rắn nhằm lựa chọn các mô hình phù hợp để
nhân rộng trên phạm vi cả nước.
- Áp dụng các công nghệ tái chế hiện đại, thân thiện với môi trường
thay thế các công nghệ cũ, lạc hậu ở các cơ sở tái chế.
- Giải pháp về đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường trao đổi và hợp
tác kỹ thuật với các tổ chức quốc tế
- Chủ động đề xuất, xây dựng cơ chế và nội dung hợp tác song phương
và đa phương, trao đổi kinh nghiệm trong công tác quản lý, xử lý chất thải
rắn.
- Tiếp tục kêu gọi, thu hút đầu tư nước ngoài tham gia phát triển cơ sở
hạ tầng, nhà máy phục vụ quản lý, xử lý chất thải rắn.
- Tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và đào tạo trong
hoạt động tái chế, tái sử dụng thu hồi năng lượng từ chất thải rắn.

22


CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1KẾT LUẬN

Việt Nam đang có sự phát triển kinh tế- xã hội nhanh chóng nhưng

cũng đang chịu những vấn đề ô nhiễm đáng lo ngại. Trong bối cảnh chúng ta
bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì công tác bảo vệ
môi trường đang được đặc biệt quan tâm. Việc khẩn trương triển khai đồng bộ
các giải pháp hướng tới việc nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý chất
thải điện tử, kim loại trong sinh hoạt trong thời gian tới là hết sức cần thiết.
Bài nghiên cứu “Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp quản lý chất
thải điện tử và kim loại trong sinh hoạt ở Việt Nam” đã sử dụng các số liệu
từ báo cáo tài chính và các nguồn đáng tin cậy để phân tích tình hình kinh

23


doanh, tình hình tài chính, phân phối lợi nhuận kết hợp với phân tích biểu đồ
kỹ thuật để đưa ra một số kết luận sau:
- Do các điều luật về chất thải điện tử, kim loại trong sinh hoạt ở Việt
Nam chỉ có trong các văn bản mà chưa phổ biến và cung cấp thông tin liên tục
cho người dân. Đa số người dân sử dụng sản phẩm điện tử, kim loại trong sinh
hoạt không quan tâm về việc bảo vệ môi trường và không có nhiều kiến thức
về các loại chất thải.
- Các quy định về quản lý chất thải điện tử và phân loại chất thải chưa
được chặt chẽ, các hình phạt răng đe vi phạm còn nhẹ do các loại chất thải này
là các khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam, ngân sách nhà nước còn hạn chế nên
việc kiểm soát liên tục rất khó
- Trước hết, Bộ Tài nguyên và Môi trường nên bổ sung them các điều
luật về nâng cao việc quản lý chất thải điện tử, kim loại trong sinh hoạt ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, từng cá
nhân phải nhận thức được trách nhiệm và cùng chung tay bảo vệ môi trường,
mới có thể tạo ra chuyển biến tích cực và nâng cao hiệu quả trong công tác
bảo vệ môi trường nói chung và công tác quản lý chất thải nói riêng, tiến tới
từng bước ngăn ngừa tình trạng ô nhiễm môi trường.

3.2 KIẾN NGHỊ

Đào tạo cán bô có kỹ thuật, trình độ và chuyên môn cao là vấn đề thật
sự cần thiết đối với công tác bảo vệ môi trường tại các tỉnh thành ở Việt Nam.
Tăng cường nhân lực để tạo ra lực lượng vững mạnh nhằm thực thi tốt hơn
nhiệm vụ thanh tra, kiểm soát, quản lý việc quản lý chất thải điện tử, kim loại
trong sinh hoạt.
Có thể tham khảo các bộ luật tương đương của các nước trong khu vực
như Luật tái chế các đồ điện gia dụng của Nhật Bản, Luật tái chế của Hàn
Quốc; đương nhiên cần nghiên cứu và sửa đổi sao cho phù hợp với tình hình
thực tế ở Việt Nam.
Thay vì dùng các hình phạt cho các vi phạm về chất thải điện tử, kim
loại trong sinh hoạt ta có thể dùng các phần thưởng, tiền mặt để khuyến khích
việc phân loại chất thải làm cho việc quản lý dễ dàng hơn.
Tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng
như giáo dục về môi trường để nâng cao nhận thức và hình thành thói quen
cho người dân. Phối hợp với các nhà trường đưa các chương trình về phân loại
chất thải đến học sinh.
Thường xuyên tổ chức các kỳ thi sáng tạo và tái chế chất thải điện tử,
kim loại trong sinh hoạt để có thêm nhiều phương pháp quản lý hiệu quả.
Chương trình 3R

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Hải, 2015, Phát động thu gom rác thải điện tử trong Ngày hội tái chế
/>893/8/phat-ong-thu-gom-rac-thai-ien-tu-trong-ngay-hoi-taiche.html;jsessionid=jQCMO32Mw50EiPtwTf-Vi9Lo.app2, truy cập ngày
30/5/2016.
2. Hoàng Xuân Bảo, 2012. Đánh giá thực trạng và tiềm năng tái chế chất thải

điện tử trên địa bàn thành phố Hải Phòng, luận văn đại học. Đại học Khoa
học Tự nhiên Hà Nội.
3. Chánh Trung, 2012, Rác thải điện tử tràn ngập. truy cập ngày
31/5/2016.
25


×