Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài - lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.09 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài nói riêng tại Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc bảo
đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường
gia đình lành mạnh; động viên, khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn của con người
Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống tương thân tương ái trong nhân dân. Tuy
nhiên, trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, việc cho nhận con nuôi ngày càng phát
triển về quy mô và số lượng ở trong cũng như ngoài nước đã đặt ra những thách thức
đòi hỏi phải hoàn thiện các thiết chế và pháp luật về nuôi con nuôi nhằm giải quyết
quyết tốt việc cho nhận con nuôi, đảm bảo lợi ích cho trẻ em được nhận nuôi.
Đề tài tiểu luận : “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam: Những vấn
đề lý luận và thực tiễn” được thực hiện bằng sự nghiên cứu, tìm hiểu của cá nhân sinh
viên, có tham khảo các bài viết của sách, báo, website, tuy nhiên với vốn kiến thức hạn
hẹp không thể tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của quý giảng viên
và bạn đọc
Chân thành cảm ơn!

1


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Luật nuôi con nuôi 2010 ra đời là cột mốc đánh dấu sự kiện quan trọng của quá
trình pháp điển hoá các quy phạm pháp luật và thực tiễn giải quyết các vấn đề về nuôi
con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, trước
yêu cầu hội nhập quốc tế, nhất là việc Việt Nam đã tham gia Công ước Lahay 1993,
yêu cầu pháp luật Việt Nam phải hài hoà với pháp luật nhiều nước trên thế giới và
thông lệ quốc tế. Khi đó, pháp luật Việt nam không tránh khỏi bộc lộ một số hạn chế và
thực tiễn giải quyết quan hệ nuôi con nuôi còn một số vướng mắc. Vì vậy, việc nghiên
cứu một cách có hệ thống, toàn diện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
tại Việt Nam trở thành vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Từ những yêu cầu
khách quan về lý luận và thực tiễn trên, sinh viên đã lựa chọn đề tài “Nuôi con nuôi có


yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài tiểu
luận tốt nghiệp.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
1.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:
Thứ nhất, đề tài phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam.
Thứ hai đề tài đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi quy định của pháp luật
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra giải pháp, kiến
nghị để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn hội nhập và phát triển.
1.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Trong đề tài, sinh viên tập trung phân tích những quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam (pháp luật trong nước
Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên) về các vấn đề cơ bản
của nuôi con nuôi như: nguyên tắc, điều kiện nuôi, hệ quả pháp lý, thẩm quyền, trình
tự, thủ tục… của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những mục đích đã được xác định ở trên, sinh viên dựa trên cơ sở

2


lí luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật, trong đó sinh viên đặc biệt coi trọng các phương pháp cụ thể như
phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, so sánh và phương pháp lịch sử.
CHƢƠNG I:
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
1. Khái quát về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam:
1.1 Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài:

Theo Luật nuôi con nuôi 2010: “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc
nuôi con nuôi được thực hiện giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa
người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với
nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài”.
1.1.1. Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một quan hệ xã hội:
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội được E.A. Weinstein định nghĩa thì đó
là mối quan hệ xã hội mà cá nhân thuộc gia đình này tiếp nhận sang gia đình mới và
được coi như ngang bằng với những liên hệ ruột thịt và thay thế một phần hoặc toàn bộ
mối liên hệ đó, dưới góc độ xã hội đó là mối quan hệ được thiết lập nhằm hình thành
quan hệ cha mẹ và con nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần hoặc lợi ích tinh thần của các
bên.(1)
1.1.2. Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý:
Dưới góc độ pháp lý: Cũng chưa có khái niệm hoàn chỉnh (kể cả trong Công
ước Lahay 1993). Bản chất pháp lý nuôi con nuôicó sự khác nhau giữa các nước, theo
Thụy Điển, Pháp, Đức... thể hiện ý nuôi con nuôi là sự kiện thể hiện chí đơn phương;
tại Trung Quốc, Hàn Quốc ... là nuôi con nuôi lại là một hợp đồng song vụ. Tại Việt
Nam chưa thể hiện thực sự rõ nét, không thể là một hợp đồng song phải có sự đồng ý.
1.1.3. Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một quan hệ pháp luật:
Quan hệ nuôi con nuôi có thể được hiểu theo nghĩa là:
- Một quan hệ pháp luật: nuôi con nuôi có các yếu tố chủ thể, khách thể và nội
dung
(1)Lê Thị Hiền, Luận văn thạc sĩ ngành luật, Pháp luật nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, năm 2012, tr3

3


- Hoặc là nhóm các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi: là các loại
quan hệ pháp luật khác nhau, như quan hệ pháp luật hành chính trong việc đăng kí nuôi
con nuôi; quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình trong việc điều chỉnh quan hệ cha mẹ

và con giữa người nhận nuôi và con nuôi; quan hệ pháp luật tố tụng trong giải quyết
chấm dứt việc nuôi con nuôi...
1.1.4. Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một chế định pháp lý:
Theo cách hiểu này, quan hệ nuôi con nuôi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định chứ không phải ý chí đơn phương của các chủ thể.
2. Vai trò của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt
Nam:
Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài giúp quan hệ gia đình được hình
thành từ việc nuôi con nuôi, tạo một khung pháp lý cơ bản, xác định quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, pháp luật nuôi con nuôi giúp
giải quyết tốt tình trạng trẻ không có đủ điều kiện tốt trong gia đình, là cơ sở để cơ
quan có thẩm quyền bảo vệ được trẻ em được nhận nuôi, cũng như giải quyết các tranh
chấp phát sinh có liên quan tới nuôi con nuôi, thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác quốc tế
giữa quốc gia cho và nhận con nuôi.
3. Ý nghĩa của việc nhận con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam:
Việc nuôi con nuôi thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương, tinh thần
trách nhiệm và mối quan hệ tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với
con người. Là biện pháp tích cực giúp đỡ trẻ em không nơi nương tựa có mái ấm gia
đình, được chăm sóc và phát triển trong điều kiện tốt nhất. Đồng thời, việc nuôi con
nuôi còn giảm được gánh nặng về tài chính, kinh tế cho Nhà nước ta trong việc chăm
sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
4. Điều kiện nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài, hệ quả pháp lý
của việc nhận nuôi và chấm dứt việc nuôi con nuôi tại Việt Nam, có
so sánh với một số nƣớc:
4.1. Điều kiện nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt
Nam:

4



4.1.1. Điều kiện của ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi:
Quy định tại Điều 14 và Điều 29 của Luật Nuôi con nuôi: hành vi dân sự; chênh
lệch tuổi; điều kiện sinh hoạt, y tế; đạo đức - cơ bản phù hợp với các nước và Công ước
Lahay năm 1993 (tuân thủ theo pháp luật của nước tiếp nhận).
-Luật áp dụng: điều 22 Luật tư pháp - Đức; Khoản 2 Điều 97 Bộ luật gia đình Bungari quy định áp dụng luật nước tiếp nhận, Nga quy định khác biệt nếu việc nuôi
con nuôi trên lãnh thổ Nga thì áp dụng luật Nga, ngoài lãnh thổ Nga nhưng là công dân
Nga cũng áp dụng luật Nga.
-Độ tuổi người nhận nuôi: hầu hết các nước đều quy định, tuổi tối thiểu khác
nhau: Hàn quốc: người thành niên; Trung Quốc: từ 30 tuổi trở lên; Thuỵ Điển,
Elsalvado, Phần Lan: từ 25 tuổi trở lên; Pháp: 30 tuổi.
-Quy định về độ chênh lệch tuổi giữa người nhận nuôi và con nuôi: Pháp: 15
tuổi; Esalvado: 5 tuổi nhằm đảm bảo có đủ khả năng về tài chính, có đủ kinh nghiệm
về tâm lí, xã hội...thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình (Trung Quốc).
-Quy định thời gian kết hôn: Pháp, Thuỵ Sĩ, Elsalvađo: 5 năm; Bờ Biển Ngà: 10
năm hướng tới sự ổn định của gia đình.
Một số quy định khác: Điều 6 Luật nuôi con nuôi của Trung Quốc; Điều 268a
BLDS Thuỵ Sĩ; Điều 3 Luật về nhận con nuôi trong các trường hợp đặc biệt của Hàn
Quốc; Thuỵ Sĩ; Gahna.
4.1.2. Điều kiện đối với con nuôi
Tại Điều 8 Luật nuôi con nuôi: độ tuổi được cho làm con nuôi:
-So với Công ước Lahay 1993, độ tuổi là: 18 tuổi, Việt Nam thấp hơn: dưới 16
tuổi (công ước nhấn mạnh tính xác định chứ không có ý tạo lập độ tuổi, nếu dưới 15
tuổi thì áp dụng luật nước gốc).(2)
-Điều kiện của trẻ em: do cơ quan có thẩm quyền nước gốc quy định và xác
nhận (Điều 5 - Công ước Lahay và Hiệp định hợp tác giữa Việt Nam với các nước): đủ
điều kiện, thích hợp, được cơ quan có thẩm quyền đồng ý trên cơ sở đảm bảo lợi ích tốt
nhất cho trẻ.
-Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi trọn vẹn: Điều 345 Bộ luật
dân sự Cộng Hòa Pháp: 15 tuổi, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, Italia: dưới 18 tuổi


(2)Lê Thị Hiền, Luận văn thạc sĩ ngành luật, Pháp luật nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, năm 2012, tr6

5


(được tòa án vị thành niên tuyên bố là bị từ bỏ); Tây Ban Nha: dưới 14 tuổi (trẻ bị bỏ
mặc hoặc suy đoán là bị bỏ mặc)
Điều kiện nhận làm con nuôi đơn giản: Theo Pháp: không bị quy định ngặt
nghèo của pháp luật trừ trường hợp nước tiếp nhận yêu cầu: Đức từ 18 tuổi trở lên; Tây
Ban Nha từ 14 tuổi trở lên; Điều 4 Luật Nuôi con nuôi Trung Quốc: dưới 14 tuổi và
đáp ứng một số yêu cầu.
4.1.3. Điều kiện về ý chí
Tại Điều 21 Luật nuôi con nuôi 2010: thể hiện ý chí người nhận nuôi con nuôi
(thông qua đơn); cha mẹ đẻ hoặc của người giám hộ (mong muốn, hệ quả pháp lý kèm
theo; người được nhận làm con nuôi (là hành vi pháp lý đơn phương không phụ thuộc
vào ý chí của cha mẹ đẻ và người giám hộ), Nhà nước (lấy ý kiến các bên liên quan
đưa ra quyết định đồng ý hoặc không đồng ý việc cho nhận đó).
4.2. Hệ quả pháp lý của việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc
ngoài tại Việt Nam:
Tại Điều 24 Luật nuôi con nuôi: Trẻ được nhận nuôi chỉ có mối quan hệ giữa
cha mẹ nuôi cũng như thành viên khác của cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ chấm dứt mọi
quyền và nghĩa vụ (trừ định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi có thỏa
thuận khác giữa cha mẹ đẻ và nuôi), Điều 22 Luật nuôi con nuôi của Trung Quốc, Điều
1755 BLDS Đức, Điều 229 BLDS Hà Lan... cũng quy định như vậy. Quốc tịch của trẻ
pháp luật Việt Nam vẫn cho giữ, như vậy chưa tương đồng với các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên:
-Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi: theo pháp luật nước tiếp nhận, trong trường
hợp trẻ đủ điều kiện nhận quốc tịch cả hai nước thì trẻ được lựa chọn quốc tịch khi đạt
độ tuổi pháp luật quy định.

- Theo Công ước Lahay 1993: Điều 26 về hình thức con nuôi trọn vẹn quy định
sẽ chấm dứt mối quan hệ với cha mẹ đẻ (bao gồm cả quốc tịch) nhưng vì không đảm
bảo chắc chắn quyền và lợi ích cho trẻ nên Điều 27 của Công ước (hình thức con nuôi
đơn giản) không bắt buộc phải chấm dứt.
4.3. Chấm dứt việc nuôi con nuôi:

6


Tại Điều 25, khoản 1 Điều 27 Luật nuôi con nuôi ở Việt Nam có điểm khác so
với một số nước, tại đó quy định cơ quan ra quyết định nhận nuôi con nuôi cũng là cơ
quan ký quyết định hủy bỏ, nếu có đơn yêu cầu của đương sự hoặc người có liên quan
với lý do được luật quy định (trừ trường hợp đặc biệt)
Nuôi con nuôi trọn vẹn không thể chấm dứt như ở Cộng hòa Pháp. Mối quan hệ
đó vẫn còn ngay cả khi cha mẹ nuôi chết, trong 6 tháng không cho phép cha mẹ đẻ
thừa nhận con (trừ một số trường hợp); Italia: không chấp nhận các lý do chấm dứt với
con nuôi trọn vẹn là trẻ em bị bỏ rơi, Tây Ban Nha kể cả xác định được quan hệ huyết
thống nguyên tắc cũng không thể chấm dứt việc nuôi con nuôi
5. Thủ tục cho nhận nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam:
5.1. Đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài (đích danh)
5.1.1. Cơ quan tiếp nhận hồ sơ
- Cơ quan tiếp nhận hồ sơ của người xin nhận con nuôi: Cục Con nuôi Bộ Tư
pháp Việt Nam, số 58 - 60 đường Trần Phú, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
- Cơ quan tiếp nhận hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi: Sở Tư pháp Thành
phố, số 141-143 Pasteur, quận 3, TP. Hồ Chí Minh.(3)
5.1.2. Đối tƣợng giải quyết:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước
cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước

ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
 Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
 Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
 Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;
 Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo làm con
nuôi
 Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất
là 01 năm.
 Công dân Việt Nam thường trú trong nước nhận trẻ nước ngoài làm con nuôi.
(3) Cổng thông tin điện tử Sở tư pháp thành phố Hồ Chí Minh

7


5.1.3 Thành phần hồ sơ:
- Hồ sơ của người xin nhận con nuôi: Hồ sơ được lập thành 02 bộ, gồm những
giấy tờ sau: Đơn xin nhận con nuôi (theo mẫu quy định), bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ
có giá trị thay thế, văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam, bản điều tra về
tâm lý, gia đình, văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe, văn bản xác nhận thu nhập và
tài sản, phiếu lý lịch tư pháp, văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân, 01 bộ hồ sơ của
người được nhận làm con nuôi. Các giấy tờ, trên do cơ quan có thẩm quyền của nước
nơi người nhận con nuôi thường trú lập, cấp hoặc xác nhận.
- Tùy từng trường hợp, người xin nhận con nuôi còn phải có giấy tờ tương ứng
sau đây: Bản sao giấy chứng nhận kết hôn của cha dượng hoặc mẹ kế với mẹ đẻ hoặc
cha đẻ của người được nhận làm con nuôi, giấy tờ, tài liệu để chứng minh người nhận
con nuôi là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi, bản sao quyết
định của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cho người đó nhận con nuôi Việt Nam và
giấy tờ, tài liệu để chứng minh người con nuôi đó với trẻ em được nhận làm con nuôi là
anh, chị em ruột; giấy tờ, tài liệu để chứng minh trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ
em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo; Giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc

Công an cấp xã, nơi cư trú tại Việt Nam và giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh người
nhận con nuôi là người nước ngoài đang làm việc, học tập liên tục tại Việt Nam trong
thời gian ít nhất là 01 năm, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi.
- Hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi: Hồ sơ được lập thành 03 bộ, gồm
những giấy tờ sau: Giấy khai sinh; Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở
lên cấp; Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; Biên bản xác nhận do
Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị
bỏ rơi; Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ,
mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha
đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới
thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ,
mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với
người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự;
Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng, Văn bản về đặc điểm, sở

8


thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em; (trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con
riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì không cần văn bản này); Tài liệu chứng minh
đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em nhưng không thành (theo
quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật Nuôi con nuôi). Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ
lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng
lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.
Thời hạn giải quyết: Pháp luật không quy định tổng thời gian giải quyết.
5.1.3 Lệ phí
- 9.000.000 đồng/ 01 trường hợp
- Giảm 50% mức lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài đối với trường hợp
cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; cô, cậu, dì,
chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi.

- Trường hợp nhận hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột làm con nuôi, thì từ trẻ
em thứ hai trở đi được giảm 50% mức lệ phí đăng ký nuôi con nuôi nước ngoài.
- Người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam nộp chi phí giải quyết nuôi
con nuôi nước ngoài: 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) khi người đó đồng ý
nhận trẻ em Việt Nam được giới thiệu làm con nuôi. Chi phí nêu trên được miễn trong
trường hợp nhận trẻ em bệnh hiểm nghèo, trẻ em khuyết tật làm con nuôi.
5.1.4 Thông tin lƣu ý
- Người nhận con nuôi trực tiếp nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi. Trường hợp có lý
do chính đáng mà không thể trực tiếp nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi, người nhận con nuôi
ủy quyền bằng văn bản cho người có quan hệ họ hàng, thân thích thường trú tại Việt
Nam nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi hoặc gửi hồ sơ cho Cục Con nuôi qua đường bưu điện
theo hình thức gửi bảo đảm.
- Đối với trường hợp người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi,
hồ sơ của người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi được nộp tại Sở
Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh nếu như trẻ em được giới thiệu làm con nuôi thường
trú tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ của người nhận con nuôi, hồ sơ của tổ chức con
nuôi nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận phải

9


được hợp pháp hóa lãnh sự khi sử dụng ở Việt Nam, trừ trường hợp được miễn hợp
pháp hóa lãnh sự.
- Giấy tờ, tài liệu tiếng nước ngoài phải được dịch sang Tiếng Việt.
5.2. Đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài (không đích danh)
5.2.1. Cơ quan tiếp nhận hồ sơ:
- Cơ quan tiếp nhận hồ sơ của người xin nhận con nuôi: Cục Con nuôi Bộ Tư
pháp Việt Nam, số 58 - 60 đường Trần Phú, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
- Cơ quan tiếp nhận hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi: Sở Tư pháp Thành

phố, số 141-143 Pasteur, quận 3, TP. Hồ Chí Minh.(4)
5.2.2. Đối tƣợng giải quyết:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước
cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em
Việt Nam làm con nuôi.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước
ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
a) Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
b) Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
c) Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;
d) Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác
làm con nuôi;
đ) Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít
nhất là 01 năm.
5.2.3. Thành phần hồ sơ
- Hồ sơ của người xin nhận con nuôi: Hồ sơ được lập thành 02 bộ, gồm những
giấy tờ sau: Đơn xin nhận con nuôi (theo mẫu quy định), bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ
có giá trị thay thế, văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam; Bản điều tra về
tâm lý, gia đình; Văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe; Văn bản xác nhận thu nhập và
tài sản, phiếu lý lịch tư pháp, văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân.
Các giấy tờ, tài liệu trên do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi
thường trú lập, cấp hoặc xác nhận.

(4) cổng thông tin điện tử Sở tư pháp thành phố Hồ Chí Minh

10


- Hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi: Hồ sơ được lập thành 03 bộ, gồm
những giấy tờ sau: Giấy khai sinh, giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở

lên cấp; hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; biên bản xác nhận do
Ủy ban nhân dân hoặc Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị
bỏ rơi; giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ,
mẹ đẻ của trẻ em là đã chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha
đẻ, mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới
thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ,
mẹ đẻ của người được giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với
người được giới thiệu làm con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự;
Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng. Văn bản về đặc điểm, sở
thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em; (trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con
riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì không cần văn bản này). Danh sách trẻ em
cần tìm gia đình thay thế trong nước (theo mẫu), có xác nhận của Sở Lao động thương binh và Xã hội. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ lập hồ sơ của người được giới
thiệu làm con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới
thiệu làm con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.
- Thời hạn giải quyết: Pháp luật không quy định tổng thời gian giải quyết
5.2.4. Lệ phí - 9.000.000 đồng/ 01 trƣờng hợp
- Người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam nộp chi phí giải quyết nuôi
con nuôi nước ngoài: 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) khi người đó đồng ý
nhận trẻ em Việt Nam được giới thiệu làm con nuôi. Chi phí nêu trên được miễn trong
trường hợp nhận trẻ em bệnh hiểm nghèo, trẻ em khuyết tật làm con nuôi.
5.2.5. Thông tin lƣu ý:
- Người nhận con nuôi thường trú tại nước là thành viên của điều ước quốc tế về
hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam nộp hồ sơ cho Cục Con nuôi thông qua tổ chức
con nuôi của nước đó được cấp phép hoạt động tại Việt Nam; nếu nước đó không có tổ
chức con nuôi được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, thì người nhận con nuôi nộp hồ
sơ cho Cục Con nuôi thông qua Cơ quan đại diện Ngoại giao hoặc Cơ quan Lãnh sự
của nước đó tại Việt Nam.

11



- Đối với trường hợp người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi,
hồ sơ của người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi được nộp tại Sở
Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh nếu như trẻ em được giới thiệu làm con nuôi thường
trú tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ của người nhận con nuôi, hồ sơ của tổ chức con
nuôi nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận phải
được hợp pháp hóa lãnh sự khi sử dụng ở Việt Nam, trừ trường hợp được miễn hợp
pháp hóa lãnh sự.
- Giấy tờ, tài liệu tiếng nước ngoài phải được dịch sang Tiếng Việt.
5.3. Ngƣời nƣớc ngoài thƣờng trú ở Việt Nam nhận nuôi con nuôi
là ngƣời Việt nam
5.3.1. Cơ quan tiếp nhận hồ sơ
Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh: Địa chỉ: 141-143 Pasteur, phường 6, quận
3, Tp. Hồ Chí Minh.(5)
5.3.2. Đối tƣợng giải quyết:
Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam đăng ký nhận con nuôi ở Việt Nam
(trong trường hợp trẻ em được giới thiệu làm con nuôi thường trú tại thành phố Hồ Chí
Minh)
5.3.3. Thành phần hồ sơ:
- Hồ sơ của người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, gồm những giấy tờ sau:
Đơn xin nhận con nuôi (theo mẫu quy định), Bản sao hộ chiếu, Giấy Chứng minh nhân
dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế, Phiếu Lý lịch tư pháp, Văn bản xác nhận tình
trạng hôn nhân, Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; văn bản
xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp.
- Hồ sơ của trẻ em được cho làm con nuôi gồm những giấy tờ sau: Giấy khai
sinh; Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp; Hai ảnh toàn thân,
nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng; Biên bản xác nhận do Ủy ban nhân dân hoặc
Công an cấp xã nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi lập đối với trẻ em bị bỏ rơi; Giấy chứng tử

của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em là đã

(5) cổng thông tin điện tử Sở tư pháp thành phố Hồ Chí Minh

12


chết đối với trẻ em mồ côi; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người
được giới thiệu làm con nuôi mất tích đối với người được giới thiệu làm con nuôi mà
cha đẻ, mẹ đẻ mất tích; quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của người được
giới thiệu làm con nuôi mất năng lực hành vi dân sự đối với người được giới thiệu làm
con nuôi mà cha đẻ, mẹ để mất năng lực hành vi dân sự; Quyết định tiếp nhận đối với
trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng; Văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ
em; (trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con
nuôi thì không cần văn bản này).
Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoàn thiện hồ sơ của người được giới thiệu làm
con nuôi sống tại gia đình; cơ sở nuôi dưỡng lập hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm
con nuôi sống tại cơ sở nuôi dưỡng.
Thời hạn giải quyết: pháp luật không quy định về thời hạn giải quyết
5.3.4. Lệ phí
400.000 đồng/ 01 trường hợp
5.3.5. Thông tin lƣu ý:
Yêu cầu, điều kiện đối với người nhận con nuôi:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con nuôi;
- Có tư cách đạo đức tốt.
Những người sau đây không được nhận con nuôi:
- Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

- Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh;
- Đang chấp hành hình phạt tù;
- Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp
người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em…

13


Giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ của người nhận con nuôi, hồ sơ của tổ chức con nuôi nước
ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận phải được hợp
pháp hóa lãnh sự khi sử dụng ở Việt Nam, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa
lãnh sự. Giấy tờ, tài liệu tiếng nước ngoài phải được dịch sang Tiếng Việt.
CHƢƠNG II:
CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM:
1. Giai đoạn trƣớc thời kì đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế:
a. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945:
- Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia
Long): có quy định về nuôi con nuôi nhưng vẫn mang hạn chế của phong kiến là bất
bình đẳng con nuôi và con đẻ.
- Bộ Dân luật Bắc Kì, Hoàng Việt Trung Kì (thời Pháp thuộc) có mô hình
phương Tây song vẫn nặng tư tưởng phong kiến.
b. Giai đoạn từ 1945 – 1986:
Quy định chưa thực sự rõ nét, giai đoạn này có một số đặc điểm:
-Từ 1945 - 1959 : Quy định còn đơn giản, không có hệ thống, chưa điều chỉnh
đầy đủ, xóa bỏ được quy định lạc hậu của thời kỳ trước.
-Từ 1959 - 1986: đã điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:

• Chính phủ ban hành Nghị định số 04 (6/1/1961) kèm theo Điều lệ về đăng ký
hộ tịch: có một số ít trường hợp người nước ngoài nhận nuôi trẻ Việt Nam đã được giải
quyết nhưng gặp khó khăn trong thực hiện. Ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với:
Đức (1980), Liên Xô (1981), Tiệp Khắc (1982), Cu Ba (1984), Hungari (1985),
Bungari (1986).
• Việt Nam quan hệ với nhiều nước ngoài Xã hội chủ nghĩa nên quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng dần trở nên phức tạp hơn.(6)
c. Giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
Giai đoạn từ 1986 – 2000:
- Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam ngày 29/12/1986 quy định về quan hệ
(6)Lê Thị Hiền, Luận văn thạc sĩ ngành luật, Pháp luật nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, năm 2012, tr8

14


hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại chương IX
nhưng vẫn chung chung.
- Từ 1986 - 1992: Quốc hội thông qua Luật quốc tịch (1986) - Điều 14 quốc tịch
của trẻ; Pháp lệnh lãnh sự (1990); Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Quyết định số
145/H ĐBT (29/4/1992); Thông tư liên bộ số 01/TTLB hướng dẫn thi hành Quyết định
145/HĐBT (19/1/1993), hạn chế của Quyết định 145:
• Đối tượng trẻ được nhận nuôi chỉ trong các cơ sở nuôi dưỡng của ngành lao
động - thương binh - xã hội.
• Chưa quy định cụ thể về cơ quan quản lí việc cho trẻ em Việt Nam làm con
nuôi người nước ngoài.
• Lệ phí chưa rõ ràng và chưa có cơ quan quản lý chặt chẽ ...
- Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài
(2/12/1993) và Nghị định số 184/CP thi hành pháp lệnh (30/11/1994); Thông tư số
503/T (TLB hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định số 184/CP (25/5/1995); Thông tư số

337/TT-PLQT hướng dẫn thi hành một số quy định của Thông tư số 503 (23/8/1995):
giải quyết xung đột về thẩm quyền song chưa thiếu khảo sát khi xây dựng Nghị định,
tính dự liệu chưa cao, bị buông lỏng quản lý trong quá trình thực hiện, chưa quy định
hoạt động các tổ chức phi chính phủ, chưa được quy định quan hệ nuôi con nuôi giữa
người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam.
Giai đoạn này quy định về vấn đề nuôi con nuôi khá đồng bộ, có cơ chế phối
hợp, các Hiệp định tương trợ tư pháp có phạm vi điều chỉnh không giống nhau.
2. Giai đoạn từ năm 2000 đến 2010:
- Luật Hôn nhân và gia đình 2000 - Chương XI đã có phạm vi điều chỉnh rộng,
xác định rõ nguyên tắc, cách giải quyết xung đột pháp luật về thẩm quyền, quy định
riêng về vùng biên giới, thẩm quyền giải quyết về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài
- Nghị định 68/2002/NĐ-CP (10/07/2002), thông tư số 07/2002/TT-BTP hướng
dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP (16/12/2002): thay đổi căn
bản nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi, đối tượng trẻ cho làm con nuôi ... Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa

15


đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP (3/7/2006): mở rộng đối tượng
được xin trẻ cũng như đối tượng trẻ được cho làm con nuôi; hồ sơ người xin nhận con
nuôi và hồ sơ trẻ em được cho làm con nuôi; Thông tư số 08/2006/TT-BTP; Quyết
định số 337/2003/QĐ-BTP; Nghị định số 93/2008/NĐ-CP…
- Hiệp định song phương với Cộng hoà Pháp (1/2/2000) được xây dựng trên
Công ước Lahay năm 1993: quy định về việc giải quyết hồ sơ xin nhận con nuôi thông
qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi và có sự tham gia của tổ chức con nuôi, tổ
chức con nuôi của Pháp đủ điều kiện được hoạt động nhân đạo phi lợi nhuận.
3. Từ năm 2010 đến nay:
- Luật Nuôi con nuôi 2010; Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi: nhấn mạnh việc cho trẻ làm
con nuôi nước ngoài là yếu tố cuối cùng.
- Việt Nam gia nhập Công ước Lahay 1993 (7/12/2010)
CHƢƠNG III.
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI
VIỆT NAM VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN:
1. Một số nhận xét chung về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt
Nam:
Nuôi con nuôi nước ngoài tại Việt Nam có xu hướng tăng. Theo số liệu thống
kê, năm 2014, cả nước giải quyết được 498 trường hợp nuôi con nuôi nước ngoài, Cục
con nuôi giải quyết được 484 hồ sơ. So với năm 2013, số lượng trẻ em được giải quyết
làm con nuôi nước ngoài thể hiện xu hướng tăng rõ rệt (năm 2013 là 334 hồ sơ).
STT

Năm

1

2012

Số vụ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài trên cả nước
214

2

2013

334


3

2014

498

Bảng số liệu ghi nhận số vụ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc giải

16


quyết từ năm 2012-2014 (nguồn: Cục nuôi con nuôi)
600
500
400
300
200
100
0
Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Biểu đồ thể hiện số vụ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc giải quyết
trên cả nƣớc từ năm 2012-2014
Năm 2014, Cục Con nuôi tiếp tục tiến hành cấp phép hoạt động cho các tổ chức
con nuôi của các nước như Bỉ, Đức, Thụy Điển, Na Uy, Lúc xăm bua. Bên cạnh đó,
Cục đã tiến hành các thủ tục gia hạn hoạt động, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động

của các tổ chức thuộc một số nước như Canada, Tây Ban Nha, Ý, Pháp. Năm 2014
cũng là năm đánh dấu việc mở lại quan hệ với Hoa Kỳ về nuôi con nuôi, hiện nay, Hoa
Kỳ đã có 2 tổ chức con nuôi tại Việt Nam và Cục Con nuôi đang xem xét để cấp phép
thêm cho 01 tổ chức con nuôi của Hoa Kỳ. Sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực,
công tác theo dõi tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ngước ngoài
được quan tâm, chú trọng. Trên cơ sở kết quả rà soát, tổng hợp, lần đầu tiên Cục con
nuôi đã xây dựng một Báo cáo tổng thể đánh giá về việc theo dõi tình hình phát triển
của trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi nước ngoài từ trước đến nay với 6000 báo
cáo về tình hình trẻ em, riêng năm 2014, Cục Con nuôi nhận được 1500 về báo cáo tình
hình trẻ em.
Năm 2015, việc thực hiện nhiệm vụ phải có trọng tâm, trọng điểm, là hướng đến
đúng mục đích mà Luật Nuôi con nuôi đã nêu; công tác xây dựng thể chế và tổ chức
thực hiện cần triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả và sát hơn nữa; phải đánh giá
được số lượng, nhu cầu hiện tại của trẻ cần tìm gia đình thay thế trong các Cơ sở bảo
trợ xã hội để hoạch định chính sách. Ngoài ra, cần hướng vào những địa phương không

17


có cơ sở chỉ định nuôi con nuôi trong nhiều năm để hiểu vấn đề thực chất ở đây là gì?
2. Những mặt tích cực của pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
tại Việt Nam:
2.1. Về khung pháp luật quốc gia: Chúng ta đã tạo đƣợc khung
pháp lí khá đầy đủ quy định về vấn đề về nuôi con nuôi có yếu tố
nƣớc ngoài:
Đối với nước ta, hệ thống các quy phạm về NCN có yếu tố nước ngoài được ban
hành mới hoặc sửa đổi bổ sung đã hình thành nên một chế định pháp lí tương đối đầy
đủ và chi tiết. NĐ 68/2002/NĐ-CP là VBPL quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn về cơ
chế giải quyết vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài, là bước phát triển quan trọng so với
NĐ 184/1994 trong việc cải cách cơ chế, quy trình, thủ tục, hồ sơ giấy tờ giải quyết

cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài theo hướng minh bạch hơn, rõ ràng và cụ
thể hơn. Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em VN làm con nuôi người nước ngoài
theo Nghị định 68 bước đầu đã tiếp cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, góp
phần đế các cơ quan nhà nước kiếm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở
nước ngoài.
Nghị định 69/2006 và thông tư 08/2006 hướng dẫn thực hiện các quy định về
NCN có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích cải thiện môi trường pháp lý theo hướng
chặt chẽ và minh bạch, ngày càng gần hơn với những thông lệ quốc tế quy định tại luật
nuôi con nuôi 2010 và công ước LaHay về bảo vệ trẻ em và hợp tác về NCN quốc tế.
2.2. Việt Nam đã kí kết nhiều hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi
với các nƣớc và tạo ra nhiều mái ấm gia đình cho các trẻ em, và
cải thiện đời sống của nhiều trẻ em tại cơ sở nuôi dƣỡng.
Việt Nam đã kí kết nhiều hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với các nƣớc:
Cùng với việc mở rộng ký kết, thực hiện các Hiệp định hợp tác về nuôi con
nuôi, công tác hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi được Bộ Tư pháp đặc biệt quan tâm.
Với tư cách là Cơ quan trung ương theo các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi quốc
tế, Cục Con nuôi - Bộ Tư pháp thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động
với Cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế của các nước ký kết và các nước hữu quan

18


khác, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để triển khai thực hiện tốt các quy
định của Hiệp định và xử lý các vụ việc liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
Việc trao đổi với các Đại sứ quán, Lãnh sự quán tại Việt Nam của các nước ký
kết Hiệp định cũng được duy trì thường xuyên, kịp thời phối hợp xử lý các vấn đề tác
nghiệp liên quan đến hồ sơ nuôi con nuôi và các thủ tục, trình tự liên quan đến việc giải
quyết nuôi con nuôi.
Tìm đƣợc các mái ấm gia đình cho các trẻ em:

Qua các báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở
nước ngoài và kết quả khảo sát nhiều nước nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, con
nuôi Việt Nam hội nhập nhanh với môi trường nước nhận, được chăm sóc chu đáo,
nhiều em phát triển được tài năng của mình, các gia đình cha mẹ nuôi luôn ý thức
hướng cho trẻ em tìm hiểu về cội nguồn quê hương đất nước, nơi trẻ em sinh ra như
cho các em học tiếng Việt... Và trong thời gian qua cũng có nhiều trẻ em khuyết tật, tàn
tật, bị bệnh hiểm nghèo, được các tổ chức con nuôi đưa ra nước ngoài chữa trị và sau
đó được giải quyết cho làm con nuôi (thông qua thủ tục tại Đại sứ quán VN tại nước sở
tại). Điều đó không những đã góp phần giảm bớt chi phí, thời gian cho đương sự, mà
còn thể hiện sự cải cách đáng kể các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này.
Cải thiện đời sống của trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dƣỡng.
Qua báo cáo của các địa phương và các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt
Nam cho thấy, việc thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo từ hoạt động hợp tác nuôi con
nuôi quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở nuôi dưỡng, sau một thời gian đã trở nên
khang trang hơn; điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn do nhận được nguồn hồ trợ nhân
đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại địa bàn. Ngoài ra, nhiều trẻ em
tại các cơ sở nuôi dưỡng và ngoài cộng đồng còn được khám chữa bệnh miễn phí do có
sự hỗ trợ từ các tổ chức con nuôi và các tổ chức nhân đạo nước ngoài khác, được cung
cấp thuốc chữa bệnh. Nhiều trẻ tàn tật được cung cấp xe lăn, các dụng cụ thiết yếu cho
trẻ tàn tật, trẻ bị bệnh tim được can thiệp kịp thời, chăm sóc tốt.

19


2.3. Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi ngƣời
nƣớc ngoài đƣợc nhanh chóng và thuận tiện hơn.
Về phía Cục Con nuôi, Cục đã phân công, theo dõi và đôn đốc việc thực hiện
của các chuyên viên trong Cục, đồng thời cũng đôn đốc các cơ quan hữu quan khác ở
trung ương và địa phương đảm bảo thời hạn giải quyết. Các giấy tờ trong hồ sơ của
người xin con nuôi được kiểm tra, xem xét kỹ theo quy định pháp luật của nước nhận

và Hiệp định. Các giấy tờ trong hồ sơ của trẻ em cũng được kiểm tra trên cơ sở quy
định của pháp luật Việt Nam. Bất kỳ một nghi vấn nào trong hồ sơ đều được xem xét
và yêu cầu địa phương giải trình.
Ở địa phương, đại đa số các Sở tư pháp đã có bộ phận chuyên trách xử lý về hồ
sơ con nuôi quốc tế, cán bộ tư pháp và cơ sở nuôi dưỡng trẻ em tại địa phương hàng
năm đều được Cục Con nuôi tập huấn về nghiệp vụ.
Việc cấp hộ chiếu cho trẻ em xuất cảnh Việt Nam đã được cải tiến một bước,
trước đây việc giải quyết việc cấp hộ chiếu là trong thời hạn 20 ngày, thì giờ rút xuống
còn 05 ngày. Cục Con nuôi đã phối hợp chặt chẽ với A.18 BCA để hướng dẫn cho
đương sự về thủ tục xin cấp hộ chiếu cho trẻ em sau khi được giải quyết cho làm con
nuôi, đảm bảo rút ngắn thời hạn cấp hộ chiếu để tạo thuận lợi cho trẻ em xuất cảnh. Kể
cả việc cấp thị thực “nóng” tại cửa khẩu cho một số cha mẹ nuôi người nước ngoài vì
lý do đột xuất cũng đã được quan tâm hơn.
Thời hạn cha mẹ nuôi đến Việt Nam để làm lễ giao nhận con nuôi và làm các
thủ tục khác để đưa con nuôi về nước cũng được rút ngắn đáng kể (khoảng trên dưới 03
tuần), phù hợp với thời gian nghỉ phép của họ. Đây là điều kiện thuận lợi đế cha mẹ
nuôi có thể thu xếp công việc đến Việt Nam mà không ảnh hưởng lớn đến công việc
làm ăn ở nước ngoài.
2.4. Vấn đề Nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài đã đƣợc tăng
cƣờng kiểm tra, thanh tra.
Hàng năm, Bộ tư pháp đều phối hợp cùng các cơ quan khác ở trung ương như
Bộ công an, Bộ Lao động thương binh xã hội, tiến hành kiếm tra tình hình nuôi con
nuôi quốc tế ở các địa phương. Nội dung các cuộc kiểm tra khá toàn diện, đặc biệt về
việc xác minh nguồn gốc trẻ em, bảo đảm các thủ tục, hồ sơ, giấy tờ nhất là những

20


giấy tờ liên quan đến việc tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng, việc sử dụng các
khoản hỗ trợ nhân đạo. Ngoài ra, Bộ tư pháp cũng yêu cầu các địa phương hàng năm tự

tiến hành kiểm tra, xác minh làm rõ các vướng mắc, bất cập, vi phạm để báo cáo về Bộ
xử lý. Bên cạnh đó thì Bộ tư pháp có kế hoạch kiểm tra định kỳ các Văn phòng con
nuôi nước ngoài trên phạm vi cả nước. Hoạt động kiểm tra, thanh tra đã góp phần đáng
kế trong công tác quản lý, nhất là việc xử lý, ngăn ngừa các vi phạm trong lĩnh vực giải
quyết các vụ việc về NCN quốc tế trong thời gian qua.
2.5. Kiểm tra và quản lý tốt về nguồn gốc về trẻ em
Do chỉ cho trẻ em từ cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp đi làm con
nuôi, cũng như từ gia đình thuộc trẻ mồ côi, tàn tật hoặc có quan hệ họ hàng thân thiết
đã tạo ra cơ chế kiểm tra và quản lý tốt về nguồn gốc về trẻ em, tránh tình trạng tiêu
cực, lộn xộn, phức tạp hoặc không rõ ràng từ việc cho trẻ em làm con nuôi người nước
ngoài. Việc trẻ em được nhận làm con nuôi người nước ngoài trở nên minh bạch, công
khai hơn theo các trình tự, thủ tục chặt chẽ và có thể kiểm soát được từ Trung ương đến
địa phương. Đối với từng trường hợp một, hồ sơ được xử lý, lưu trữ và theo dõi chặt
chẽ.
2.6. Tổ chức nuôi con nuôi nƣớc ngoài đƣợc hoạt động tại Việt
Nam là một yếu tố quan trọng:
Việc cho phép tổ chức nuôi con nuôi nước ngoài được hoạt động tại Việt Nam
theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP và theo hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với các
nước, đã tạo ra yếu tố kích thích quan trọng, năng động và thực tế hơn trong quy trình
giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Những tổ chức này chỉ được phép hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận, chịu sự
kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam (ở Trung
ương và cả địa phương). Thông qua cơ chế cấp phép một cách công khai, minh bạch,
Bộ Tư pháp có điều kiện để theo dõi, kiểm tra, cũng như thực hiện quyền thu hồi, hủy
giấy phép khi cần thiết. Cơ chế quản lý này còn được quy định trong các hiệp định về
hợp tác nuôi con nuôi giữa nước ta với các nước và trong pháp luật trong nước của mỗi
nước. Việc cho phép tổ chức con nuôi nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam dưới

21



hình thức thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo cho cơ sở nuôi dưỡng trẻ em tại địa
phương, đã tạo ra cơ chế mềm dẻo, linh hoạt và thực tế hơn, tiết kiệm được nhiều chi
phí đi lại cho cha mẹ nuôi, cũng như góp phần loại bỏ nhiều vấn đề tiêu cực, phức tạp
phát sinh khác.
2.7. Pháp luật về nuôi con nuôi là cơ chế đảm bảo tính minh bạch
hóa thủ tục:
Pháp luật về nuôi con nuôi là cơ chế đảm bảo tính minh bạch, đảm bảo an toàn
cho hồ sơ của người xin con nuôi và hồ sơ trẻ em được xin làm con nuôi, đảm bảo
minh bạch hóa thủ tục, hạn chế tiêu cực, đảm bảo sự yên tâm cho người xin con nuôi
và người cho con nuôi
3. Những tồn tại bất cập trong việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố
nƣớc ngoài tại Việt Nam:
Trong những năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam đã từng bước
được hoàn thiện. Luật Nuôi con nuôi đã được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Công ước Lahay số 33 ngày 29 tháng
5 năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án triển khai thực hiện Công ước Lahay trong giai
đoạn 2012-2015 tại Quyết định số 1233/QĐ-TTg ngày 7/9/2012. Tuy nhiên việc triển
khai thực hiện Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay còn một số hạn chế.
3.1.
Việc đăng ký nuôi con nuôi chƣa đƣợc chú trọng:
Chính phủ nhận định, nguyên nhân chính của tình trạng trên là do nhận thức còn
hạn chế của một số cán bộ làm công tác giải quyết việc nuôi con nuôi và người dân về
quy định pháp luật về nuôi con nuôi và Công ước Lahay.
Ở nhiều địa phương, cán bộ làm công tác giải quyết việc nuôi con nuôi chưa có
sự chuyển biến trong thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi, chưa kịp thời hướng dẫn
thực hiện quy định về tách bạch giữa việc hỗ trợ nhân đạo với việc giới thiệu trẻ em
làm con nuôi người nước ngoài. Nhiều cơ sở nuôi dưỡng trẻ em còn chậm trễ trong
việc lập danh sách trẻ em sống tại cơ sở nuôi dưỡng cần có gia đình thay thế, lập hồ sơ

của trẻ em sống tại cơ sở nuôi dưỡng được giới thiệu làm con nuôi.

22


3.2. Một số khó khăn trong công tác theo dõi tình hình phát triển
của trẻ em Việt Nam đƣợc nhận làm con nuôi ở nƣớc ngoài:
Một là: Một số lượng lớn báo cáo tình hình phát triển của trẻ em Việt Nam
được nhận làm con nuôi ở nước ngoài trước khi có Luật nuôi con nuôi chưa được tập
hợp, theo dõi và xử lý.
Hai là: phía Bộ Tư pháp (Cục Con nuôi) chưa có cơ sở dữ liệu theo dõi cụ thể
từng trường hợp trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài (kể cả từ khi có Luật nuôi
con nuôi); công tác theo dõi tình hình phát triển của trẻ em chủ yếu chỉ dừng lại ở khâu
tập hợp và lập danh sách trẻ em có báo cáo tình hình phát triển, chưa phân loại, xử lý,
đánh giá và lưu trữ các báo cáo tình hình phát triển của trẻ do điều kiện nhân lực hạn
chế, chưa xác đỉnh rõ ràng trách nhiệm trong công tác theo dõi tình hình phát triển của
trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi ở nước ngoài. Cục chưa đôn đốc sát sao tổ
chức con nuôi nước ngoài thực hiện nhiệm vụ theo dõi tình hình phát triển của trẻ.
Ba là: Việc thống nhất quản lý theo dõi tình hình phát triển của trẻ em ở Việt
Nam (đầu mối là Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp) cũng gây khó khăn nhất định cho địa
phương khi cần có thông tin về tình hình phát triển của trẻ em Việt Nam được cho làm
con nuôi ở nước ngoài.
Bốn là: Quy định pháp luật thiếu chế tài bắt buộc nên việc tuân thủ nghĩa vụ báo
cáo tình hình phát triển của trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài cũng còn có
hạn chế, chưa có hướng giải quyết các trường hợp con nuôi đặc biệt đối với trẻ em Việt
Nam ở nước ngoài: chẳng hạn, chúng ta gặp phải một số trường hợp con nuôi đặc biệt
như sau:
1.Trẻ em Trịnh Nguyễn Thanh Tuyền được giải quyết làm con nuôi Hoa Kỳ đã
được đưa trở lại Quảng Nam từ năm 2011 (không thông báo cho cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam);

2.Trẻ em Nguyễn Thị Hà được cha mẹ nuôi công dân Pháp (là bác ruột) đưa trở
lại Việt Nam năm 2012 ở Gia Lai;
3. Trẻ em Cao Thị Thanh Tâm được Cơ quan trung ương của Pháp đề nghị phía
Việt Nam tiến hành thủ tục hồi hương về tại TP HCM;
4. 04 trẻ em Việt Nam bị rao trên mạng cho làm con nuôi gia đình khác ở Hoa

23


Kỳ (theo phản ánh của báo Reuter, Hoa Kỳ);
5. Trẻ em Nguyễn Kiên Cường làm con nuôi ở Hoa Kỳ được giao cho một gia
đình cha mẹ nuôi khác mà không có sự chấp thuận của cháu (mẹ nuôi bị tòa án
tước quyền nuôi con)(7).
Phạm vi bảo hộ trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài lúc này cũng đã vượt ra khỏi
khả năng của Bộ Tư pháp (cần đến Bộ Ngoại giao, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài), hoặc trường hợp trẻ em hồi hương Việt Nam cần có sự can thiệp của các cơ
quan có thẩm quyền khác như Bộ Công An, Bộ Ngoại giao.
3.3. Về các cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có
yếu tố nƣớc ngoài:
3.3.1. Tại các cơ sở nuôi dƣỡng hoặc cơ quan chủ quản, có
hiện tƣơng cậy quyền. Nguyên nhân là do:
-

Nhu cầu người nước ngoài xin con nuôi lớn;

-

Việt Nam không quy định cơ quan nào có quyền ghép trẻ;

-


Có hiện tượng gom trẻ cho các văn phòng quan tâm đến cơ sở nuôi dưỡng.

-

Có cạnh tranh trong giới thiệu trẻ.

-

Thẩm quyền quyết định ghép hồ sơ của người xin nhận con nuôi và trẻ của Cơ
quan trung ương chỉ là mắt xích, chia sẻ nhiều quyền năng cho chính quyền địa
phương.

-

Cấp Tỉnh có quá nhiều quyền năng nên dễ thiếu công bằng, minh bạch, quy
hoạch định mức nhận con nuôi của từng nước.

-

Cơ quan trung ương kiểm tra, giám sát chỉ mang tính hình thức.
Về việc báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em đƣợc
cho làm con nuôi
80% cha mẹ nuôi đều gửi báo cáo đúng kỳ hạn nhưng đa số mang tính chất hình
3.3.2

thức, việc xử lý báo cáo có một số vấn đề:
-

Không có quy định hình thức, nội dung, thông tin cần thiết, bản dịch nên xử lý

còn ở mức độ khiêm tốn.

-

Xử lý cha mẹ không nộp báo cáo mang tính hình thức, chiếu lệ.

-

Nguồn nhân lực xử lý báo cáo thiếu, cập nhập số liệu thủ công, không thể thực

(7) Tờ trình về dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn việc theo dõi tình
hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài và bảo hộ
trẻ em trong tình huống cần thiết

24


hiện được việc nghiên cứu sâu.
3.3.3

Trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố

nƣớc ngoài có nhiều vi phạm.
a. Sai phạm về nghiệp vụ của cơ quan có thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi có
thể do: Chưa thực hiện đầy đủ ghi chú vào sổ hộ tịch; Thời gian giải quyết lâu không
có lý do chính đáng; Cán bộ hộ tịch không có Sổ thụ lý hồ sơ; Phần tự khai còn bị tẩy,
xóa; Hồ sơ còn thiếu nhiều loại giấy tờ; Hồ sơ lưu trữ đều không đánh bút lục, bìa hồ
sơ không in đầy đủ các thông số cần thiết v.v..
b. Sai phạm về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi:
- Cấp Tỉnh chậm chễ trong ra quyết định hoặc thời hạn ra quyết định rất lâu. Chưa

phù hợp với Công ước Lahay khi chưa giao cho Bộ quyết định.
- Cung cấp danh sách về số lượng và họ tên của trẻ em, chưa kèm theo hồ sơ đầy đủ
để bảo đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi; kiểm tra hồ sơ trẻ em chỉ
mang tính hình thức.
3.4. Sự nhận thức chƣa đúng về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nƣớc ngoài:
Mặc dù việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài đã tiến hành gần 20 năm
nay, song trong một số cơ quan nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương còn có sự
nhận thức chưa đúng về NCN quốc tế nói riêng; thậm chí còn mơ hồ về tính nhân đạo,
nhân văn của lĩnh vực con nuôi quốc tế, cũng như về các vấn đề pháp lý có liên quan.
3.5. Chƣa bảo đảm ƣu tiên việc nuôi con nuôi trong nƣóc trƣớc khi
cho trẻ em làm con nuôi ở nƣớc ngoài:
Việc cho con nuôi ở nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi
không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Đây là một yêu cầu quan trọng
của Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế. Nhưng hiện
nay, yêu cầu này chưa được bảo đảm thực thi nghiêm túc ở nước ta, do còn thiếu các
biện pháp kiên quyết và hữu hiệu.
Trước khi giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài, cơ sở nuôi dưỡng có
trách nhiệm thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng cấp tỉnh về việc tìm mái

25


×