Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Cải cách hành chính nhà nước ở địa phương và tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.94 KB, 13 trang )

Chuyên đề 4:
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG
VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

I. Cải cách hành chính nhà nước ở địa phương
1. Sự cần thiết phải cải cách hành chính nhà nước ở địa phương
a) Quan niệm chung về cải cách hành chính nhà nước
Nói đến cải cách là nói đến việc thay đổi một cách cơ bản một trạng thái, một đối tượng,
làm cho nói phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển, làm cho nó tốt hơn theo
nhu cầu của con người. Ví dụ: cải cách ruộng đất, cải cách giáo dục v.v.. Cải cách hành chính có
nghĩa là thay đổi trạng thái đang tồn tại của cơ chế hành chính hiện tại, làm cho nó thay đổi các
hoạt động phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước. Cải cách hành chính
không làm thay đổi nền tảng của nền hành chính nhà nước mà chỉ làm thay đổi cơ chế vận hành
của nó theo yêu cầu quản lý đất nước thời kỳ kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước.
Nền hành chính nhà nước là hệ thống tổ chức và định chế có chức năng thực thi quyền
hành pháp, tức là quản lý công việc hàng ngày của nhà nước. Cải cách nền hành chính là làm cho
4 yếu tố liên quan đến nền hành chính vận hành có tính đồng bộ nhằm mang lại hiệu quả cho
quản lý đất nước. Có thể hình dung sự vận hành của 4 yếu tố của nền hành chính như sau:

Đội ngũ cán
bộ, công chức

Thể chế hành
chính

Bộ máy quản
lý hành chính

Nền tài chính
b) Đặc điểm cải cách hành chính ở nước tacông


Cải cách hành chính ở nước ta tiến hành từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước với một số
đặc điểm nổi bật là:
- Đất nước đã bước vào thời kỳ đổi mới được một thời gian với những thành công ban
đầu. Chúng ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm. Nền
kinh tế nước ta đã bắt đầu chuyển động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.


- Trên thế giới Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ đã ảnh hưởng mạnh
đến tình hình nước ta. Nhiều nước cũng tiến hành cải cách hành chính để đổi mới hoạt động của
bộ máy nhà nước.
- Công cuộc cải cách hành chính ở nước ta được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra.
c) Sự cần thiết phải cải cách nền hành chính và cải cách hành chính nhà nước ở địa phương
Tính cấp thiết phải tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước của nước ta nói chung,
trong đó có hành chính nhà nước địa phương, được đặt ra do một số nguyên nhân sau đây:
- Sau một thời gian đổi mới, nền kinh tế của nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Sự
khởi sắc của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đặt ra
nhiều vấn đề trong việc quản lý. Cơ chế quản lý cũ hình thành trong quá trình bao cấp kéo dài
không những bất cập với tình hình mới, mà điều quan trọng hơn, nó còn cản trở sự đi lên của nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế mới. Bên cạnh đó, khu vực kinh tế tư nhân ngày
càng phát triển, tạo cơ hội để họ tham gia nhiều hơn trong hoạt động kinh tế vốn có do nhà nước
độc quyền. Vì vậy, muốn thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển, tất yếu phải tiến hành cải cách hành
chính. Đó là một nhu cầu khách quan có tính quy luật.
- Bản thân nền hành chính nhà nước ta được hình thành và vận hành nhiều năm, qua nhiều
thời kỳ lịch sử khác nhau, tuy đã có nhiều đóng góp cho việc quản lý đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhưng thực tế cho thấy có nhiều khuyết tật, ngày càng bộc lộ sự xa dân, quan liêu, bộ máy
rất cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực và hiệu quả. Thủ tục điều hành nặng nề, gây phiền hà cho
dân. Chế độ công vụ không rõ ràng, cán bộ, công chức có nhiều người sách nhiễu dân, lãng phí và
tham nhũng. Bên cạnh đó, xu thế quốc tế hóa, khu vực hóa của các hoạt động kinh tế đòi hỏi hoạt
động quản lý nhà nước phải thay đổi, phải áp dụng nhiều thông lệ quốc tế chung trong hoạt động

quản lý hành chính nhà nước. Như vậy, cần phải tiến hành cải cách để đổi mới nền hành chính nhà
nước.
- Quá trình đổi mới của nước ta đồng thời cũng là quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Sau
khi Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nước ta không thể tự cô lập mình trên
trường quốc tế mà Đảng ta chủ trương Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trên thế giới.
Để thực hiện được điều đó cần thay đổi cách nhìn nhận về thế giới bên ngoài của nền hành chính
cũ, phải tạo ra sự năng động và linh hoạt mà nền hành chính cũ còn thiếu do quan hệ với thế giới
bên ngoài còn hạn hẹp. Phải đổi mới luật lệ, cải cách thủ tục hành chính theo một số thông lệ quốc
tế, bồi dưỡng cán bộ để thích ứng với nhu cầu hội nhập.
Ngoài những lý do trên, tình hình phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ của
thời kỳ hiện đại cũng là lý do thúc đẩy chúng ta phải cải cách hành chính. Trong quá trình hội


nhập quốc tế, chúng ta không thể không hiện đại nền hành chính nếu muốn hội nhập thành công
và hoạt động có hiệu quả.
Tóm lại, cải cách nền hành chính ở nước ta là một đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan
trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài về sau của quá trình phát triển đất nước. Trong quá
trình cải cách hành chính của đất nước nói chung, hành chính địa phương không phải là ngoại lệ.
Nhu cầu cải cách hành chính nhà nước địa phương cũng là tất yếu.
2. Một số nội dung cải cách hành chính nhà nước ở địa phương
a) Cải cách thể chế hành chính
- Trước hết là cải cách thể chế phục vụ cho kinh tế và hoạt động hành chính (cụ thể là
phục vụ cho thị trường vốn, tiền tệ, chứng khoán, thị trường bất động sản, lao động, công nghệ,
dịch vụ công, phục vụ cho hoạt động của Chính phủ; Bộ, UBND Tỉnh - Thành phố). Đổi mới
quan hệ Nhà nước với dân, Nhà nước với doanh nghiệp. Ở các địa phương phải đổi mới quy trình
ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là: rà soát lại, hệ thống hoá
các văn bản đã ban hành để phát hiện các văn bản chồng chéo, mâu thuẫn hoặc đã lạc hậu và sửa
đổi bổ sung hoặc bãi bỏ cho phù hợp với quy định của Trung ương; tăng cường năng lực của các
cơ quan soạn thảo văn bản; phải thay đổi cách làm theo chủ quan, cục bộ; tăng cường sự tham gia
của nhân dân và các tổ chức vào quá trình xây dựng, đặc biệt là quá trình tổ chức thực hiện văn

bản quy phạm pháp luật của các địa phương.
- Thực thi pháp luật nghiêm minh. Cơ quan nhà nước và công chức phải nghiêm chỉnh thi
hành pháp luật, phải gương mẫu trước quần chúng trong nhiệm vụ này.
- Đẩy mạnh công tác thông tin về văn bản cho nhân dân được biết, thực hiện Pháp lệnh
dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra. Tăng cường các dịch vụ tư
vấn...
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. Các địa phương dựa vào bộ thủ tục hành chính của
Nhà nước, phải tiến tới xây dựng được một hệ thống thủ tục hành chính rõ ràng, đơn giản, thuận
lợi; tính pháp lý cao và có sự minh bạch phù hợp với địa phương mình; mẫu hoá các loại giấy tờ;
các cơ quan nhà nước phải giải quyết công bằng, dân chủ các yêu cầu của tổ chức và công dân.
Quy định rõ trách nhiệm cá nhân công chức trong giải quyết yêu cầu cho dân; khen thưởng và kỷ
luật rõ ràng đối với các cán bộ xã khi thực thi công vụ. Đặc biệt mở rộng hơn việc thực hiện cơ
chế “một cửa”, “một cửa liên thông” theo đúng Quy chế mà Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
(năm 2003 và 2007) trong giải quyết các yêu cầu của công dân. Ở xã cần lưu ý việc phân công
cán bộ có đủ năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng (đặc biệt là kỹ năng giao tiếp hành chính)
phụ trách tiếp nhận và triển khai, giải quyết các công việc có liên quan, đồng thời tránh hiện
tượng một số cán bộ phụ trách, kiêm quá nhiều công việc, bên cạnh đó phải công khai tất cả các


thủ tục cần thiết, thời gian giải quyết từng loại thủ tục và làm tốt công tác tuyên truyền để nhân
dân địa phương nắm bắt được thông tin một cách đầy đủ nhất trong quá trình tham gia vào các
giao dịch hành chính tại bộ phận “một cửa” và “một cửa liên thông” ở xã.
b) Cải cách bộ máy hành chính địa phương
- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị chuyên môn tại cơ quan hành chính địa
phương theo quy định của Chính phủ, các Bộ. Việc điều chỉnh dựa trên nguyên tắc tập trung vào
chức năng quản lý nhà nước; làm rõ hơn nữa các ranh giới giữa quản lý nhà nước và quản lý sản
xuất, kinh doanh.
- Điều chỉnh công việc giữa các cơ quan chuyên môn ở địa phương một cách hợp lý;
chuyển bớt một số công việc có tính dịch vụ cho tổ chức phi Chính phủ thực hiện.
- Tiếp tục nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong giải

quyết công việc trên địa bàn.
- Bố trí lại cơ cấu hành chính địa phương theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; giảm
các cơ quan trung gian, định rõ tính chất của các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ.
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bên trong các tổ chức hành chính nhà nước địa phương, xây
dựng các cơ chế hoạt động thích hợp, hiệu quả.
- Xác định tiêu chí từng loại đơn vị hành chính địa phương cho hợp lý.
- Cải tiến phương thức và phương pháp làm việc
- Cùng với các cơ quan trung ương, thực hiện hiện đại hoá từng bước hành chính nhà
nước, xây dựng nền hành chính điện tử, điều hành qua mạng với sự trợ giúp của công nghệ thông
tin.
c) Cải cách công vụ và công chức
- Đổi mới việc quản lý công chức. Tổ chức điều tra, đánh giá toàn diện đội ngũ công chức
nhà nước của từng địa phương; cơ cấu lại đội ngũ công chức, cán bộ cho hợp lý theo yêu cầu của
địa phương; tổ chức tốt việc tuyển dụng, đánh giá, đề bạt cán bộ; giảm biên chế hành chính, kiện
toàn bộ máy điều hành theo hướng gọn, nhẹ; phân cấp quản lý cán bộ hợp lý. Đề xuất với Trung
ương cải tiến chế độ trả lương thích hợp.
- Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công chức địa phương để có đủ trình độ thực thi công việc
theo yêu cầu mới. Xây dựng kế hoạch đào tạo theo từng loại công chức; đổi mới chương trình
đào tạo; sắp xếp lại hệ thống đào tạo cán bộ công chức để làm tốt hơn nhiệm vụ này.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức công chức. Tăng cường việc giáo dục tư tưởng,
đạo đức; thực hiện quản lý cán bộ theo quy chế, chống các hiện tượng tiêu cực...
d) Cải cách tài chính công (tài chính nhà nước)
Nội dung này bao gồm một số nhiệm vụ cụ thể như:


- Quản lý chi tiêu công theo đúng quy định của nhà nước.
- Bảo đảm quyền quyết định ngân sách của các địa phương.
- Dựa vào các quy định của nhà nước, cùng với cơ quan Trung ương, đổi mới cơ chế phân
bổ ngân sách (phân biệt cơ quan công quyền và cơ quan sự nghiệp trong phân bổ ngân sách; phân
bổ dựa theo kết quả công việc; xây dựng các định mức công việc hợp lý...).

- Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công (chuyển bớt việc cho tổ
chức phi chính phủ; xoá bỏ hẳn cơ chế cấp phát “xin - cho” ; cho phép các cơ quan có quyền tự
chủ tài chính...).
- Thí điểm các cơ chế tài chính mới (như cho thuê cơ sở sự nghiệp; cho thuê đất xây
trường học và bệnh viện; khuyến khích đầu tư đào tạo, chữa bệnh; khoán dịch vụ công trong các
hoạt động cung cấp dịch vụ công như vệ sinh - môi trường, cấp thoát nước, công viên...).
- Đổi mới công tác kiểm toán, kiểm tra, kiểm soát thu chi tài chính của cơ quan công
quyền các cấp. Thực hiện việc dân chủ và công khai tài chính.
e) Hiện đại hóa nền hành chính nhà nước
- Chính phủ và các Bộ, ngành tổ chức nhiều cuộc họp, giao ban trực tuyến với các địa
phương; các cơ quan hành chính đã tổ chức được nhiều cuộc đối thoại trực tuyến với doanh nghiệp
đã thông tin hai chiều, phản ánh kịp thời, nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành hệ thống hành chính
nhà nước, tiết kiệm kinh phí, thời gian và nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành của bộ máy hành
chính.
- Thực hiện Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước, đến nay hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương đã triển khai áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và từng bước chuẩn hóa
quy trình quản lý trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước.
- Các địa phương đã tích cực triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều
hành; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại trong các cơ quan hành chính
nhà nước. Do đó, đã tạo ra bước đổi mới trong phương thức chỉ đạo - điều hành, tăng cường hình
thức họp, giao ban, trao đổi trực tuyến giữa các cơ quan Trung ương với địa phương, giữa các cơ
quan hành chính cùng cấp và giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp và
công dân, kịp thời giải đáp và tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn của người dân và doanh nghiệp,
góp phần cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta.
- Triển khai Đề án 112 trong các cơ quan hành chính nhà nước, tuy đã kết thúc do không
đạt được mục tiêu nhưng bước đầu đã tạo ra phương thức làm việc mới sử dụng công nghệ thông
tin, nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức; xây dựng được cơ sở hạ tầng thông tin



phục vụ tin học hoá quản lý hành chính nhà nước. Hệ thống thông tin điện tử đã bắt đầu đưa vào
vận hành các dịch vụ cơ bản như thư điện tử, các phần mềm ứng dụng tin học hoá quản lý hành
chính nhà nước...
- Thực hiện Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/03/2008 của Thủ tướng chính phủ
phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước năm
2008 và Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động cơ quan nhà nước các địa phương đã tích cực xây
dựng kế hoạch thực hiện đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin nhằm cải tiến công tác chỉ đạo,
nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành và chất lượng cung cấp dịch vụ công.
- Trong hiện đại hoá công sở, thực hiện Quyết định số 1441/2008/QĐ-TTg ngày
06/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đầu tư trụ sở xã, trong năm
2009, cả nước đã thực hiện đầu tư, xây dựng, cải tạo được 1300 công trình trụ sở xã bằng 21% kế
hoạch, trong đó có 859 công trình hoàn thành và 441 công trình chuyển tiếp sang năm 2010. (Báo
cáo tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010
và Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020).
II. Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã
1. Tổ chức và hoạt động của HĐND xã
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở xã, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân ở xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân
và nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật; bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy quyền chủ động
sáng tạo của xã. Với phương thức hoạt động chính là các kỳ họp, HĐND có quyền ra nghị quyết
về những vấn đề của xã và thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước
khác ở xã trong việc tuân theo pháp luật.
Về cơ cấu, HĐND xã được hình thành bởi các đại biểu do nhân dân trong xã bầu ra theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu Hội đồng nhân
dân xã đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong xã, tuyên truyền, vận động nhân dân
và gương mẫu thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước, động viên nhân dân tham gia các

hoạt động quản lý nhà nước.
HĐND xã có Thường trực HĐND. Đây là cơ quan thường trực của HĐND giữa hai kỳ
họp, do HĐND bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa. Thành viên Thường trực HĐND không
thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp.


HĐND xã chủ yếu hoạt động thông qua các kỳ họp. Tại kỳ họp, HĐND bàn bạc và quyết
định những vấn đề được nêu ra trong chương trình nghị sự, quyết định các biện pháp để thi hành
pháp luật ở xã, thực hiện quyền giám sát thực thi pháp luật và nghị quyết của HĐND. HĐND họp
mỗi năm 2 kỳ và có thể có những cuộc họp chuyên đề hoặc họp bất thường. UBND có trách
nhiệm cùng Thường trực HĐND chuẩn bị nội dung các kỳ họp của HĐND xã. Trừ trường hợp
ngoại lệ còn lại HĐND xã họp công khai.
Một trong những nội dung quan trọng của các kỳ họp Hội đồng nhân dân là thực hiện
quyền chất vấn của các đại biểu HĐND đối với UBND, các thành viên UBND xã.
Các quyết định của HĐND được thông qua dưới hình thức nghị quyết. Nghị quyết được
thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. Nghị quyết HĐND xã đề
ra chủ trương, biện pháp, thời gian thực hiện và trách nhiệm các cơ quan, đơn vị thực hiện nghị
quyết đó.
Thường trực HĐND xã có các hoạt động sau đây:
- Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp HĐND; phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn
bị kỳ họp của HĐND.
- Đôn đốc, kiểm tra UBND xã và các cơ quan nhà nước khác ở xã trong việc thực thi các
nghị quyết của HĐND.
- Giám sát việc thi hành pháp luật tại xã.
- Xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, tiếp dân, tổng
hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo với HĐND tại các kỳ họp.
- Trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu theo đề nghị
của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu
HĐND.
- Phối hợp với UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu

HĐND theo đề nghị của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
- Tổng hợp các chất vấn của đại biểu HĐND để báo cáo HĐND tại kỳ họp.
- Giữ mối liên hệ với các đại biểu HĐND xã với thường trực Mặt trận Tổ quốc xã; mỗi năm
hai lần thông báo cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của HĐND.
- Báo cáo về hoạt động của HĐND xã lên HĐND và UBND huyện.
Thường trực HĐND xã làm việc theo nguyên tắc tập thể, mỗi tháng họp ít nhất một lần, có
thể họp bất thường.
2. Tổ chức và hoạt động của UBND xã


Cơ cấu của UBND xã theo luật định gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên. Chủ
tịch UBND là đại biểu HĐND cùng cấp. Trong nhiệm kỳ nếu khuyết Chủ tịch UBND thì Chủ
tịch HĐND cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch UBND để HĐND bầu. Người được bầu
giữ chức vụ Chủ tịch UBND trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu HĐND.
UBND xã do HĐND cùng cấp bầu ra theo nguyên tắc bỏ phiếu kín. Theo pháp luật hiện
hành, số thành viên UBND xã được quy định như sau:
- Đối với xã miền núi, hải đảo có dân số dưới 5000 người thì số thành viên UBND là 3
người, gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch và một ủy viên. Các thay đổi về số lượng phải được
Chủ tịch UBND huyện phê chuẩn.
- Đối với xã miền núi, hải đảo có dân số từ 5000 người trở lên; xã biên giới thì số thành
viên UBND là 5 người, gồm một Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch và 02 ủy viên.
UBND xã không có các cơ cấu trực thuộc mà chỉ có các chức danh chuyên trách để phụ
trách các mảng công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của UBND xã. Các mảng công việc đó là :
Công an; Quân sự; Văn phòng-Thống kê; Địa chính - Xây dựng; Tài chính - Kế toán; Tư pháp Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội.

Sơ đồ dưới đây mô tả sự phân công đó.
Hội đồng nhân dân xã

Ủy ban nhân dân


Công an

Quân sự

Văn phòngThống kê

Địa chínhXây dựng

Tài chínhVăn hóa- xã
Tư pháp- Hộ
Kế toán
hội
tịch
Hoạt động của UBND xã dựa trên nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, kết hợp
với chế độ thủ trưởng. Chủ tịch UBND là người chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo và
điều hành hoạt động của UBND.


Các vấn đề UBND xã phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số là:
- Chương trình làm việc của UBND;
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách xã, quyết toán ngân sách hàng
năm và quỹ dự trữ của xã trình HĐND xã quyết định;
- Kế hoạch đầu tư, xây dựng các công trình trọng điểm ở xã trình HĐND xã quyết định;
- Các biện pháp thực hiện nghị quyết của HĐND xã về kinh tế - xã hội, thông qua báo cáo
của UBND xã trước khi trình trình HĐND xã;
- Đề án thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở xã.
Ủy ban nhân dân xã họp ít nhất mỗi tháng một lần. Các quyết định của UBND xã phải
được ít nhất quá nửa thành viên UBND xã tán thành. Hình thức văn bản quy phạm pháp luật của
UBND xã là quyết định và chỉ thị. Chủ tịch UBND xã thay mặt tập thể UBND xã ký ban hành
văn bản.

3. Chức trách, nhiệm vụ của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, Chủ
tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã
a) Chức trách, nhiệm vụ của Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân xã, bảo đảm
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã mình.
- Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã có nhiệm vụ :
+ Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã; phối hợp với Uỷ ban nhân
dân xã trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã, chủ trì xây dựng quyết của Hội
đồng nhân dân xã.
+ Tổ chức tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân
dân ở xã.
+ Giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã;
chủ trì và phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã trong việc quyết định đưa ra bãi nhiệm đại biểu Hội
đồng nhân dân xã theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã.
+ Giữ mối quan hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân xã.
+ Báo cáo công tác của HĐND xã và thông báo hoạt động của Hội đồng nhân dân xã với
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã.
- Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các nhiệm vụ do Chủ
tịch Hội đồng nhân dân xã phân công và thay mặt Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã giải quyết công
việc khi Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã đi vắng.


b) Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã.
- Chủ tịch UBND xã:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là người đứng đầu Ủy ban nhân dân, lãnh đạo và điều hành
mọi công việc của Ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
theo quy định tại Điều 127 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
đồng thời, cùng Ủy ban nhân dân xã chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Ủy ban nhân dân
trước Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân huyện).
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã triệu tập, chủ trì các phiên họp và các hội nghị khác của Ủy
ban nhân dân, khi vắng mặt thì ủy quyền Phó Chủ tịch chủ trì thay; bảo đảm việc chấp hành pháp
luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Đảng ủy và Hội đồng nhân dân
xã.
+ Căn cứ vào các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Nghị quyết của Đảng ủy, Hội
đồng nhân dân xã và tình hình thực tiễn của địa phương, xây dựng Chương trình công tác năm,
quý, tháng của Ủy ban nhân dân xã.
+ Tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác; phân công nhiệm vụ, đôn đốc,
kiểm tra các thành viên Ủy ban nhân dân xã và các cán bộ, công chức khác thuộc Ủy ban nhân
dân xã, Trưởng thôn trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Quyết định những vấn đề quan trọng, liên quan đến nhiều nội dung công việc, những vấn
đề đột xuất, phức tạp trên địa bàn; những vấn đề còn ý kiến khác nhau hoặc vượt quá thẩm quyền
của Phó Chủ tịch và Ủy viên Ủy ban nhân dân xã.
+ Ký ban hành các văn bản thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân xã và thẩm quyền Chủ
tịch Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật.
+ Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã, hoạt động của Ủy ban nhân dân với Đảng ủy,
Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân huyện.
+ Thường xuyên trao đổi công tác với Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân cấp xã; phối hợp thực
hiện các nhiệm vụ công tác; nghiên cứu, tiếp thu về các đề xuất của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân đối với công tác của Ủy ban nhân dân; tạo điều kiện để các đoàn thể hoạt
động có hiệu quả.
+ Tổ chức việc tiếp dân, xem xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của nhân
dân theo quy định của pháp luật.
- Phó Chủ tịch UBND xã:


+ Trực tiếp chỉ đạo các lĩnh vực và địa bàn công tác do Chủ tịch phân công; chủ động
xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai các công việc theo lĩnh vực được phân công trên địa

bàn. Phó Chủ tịch được sử dụng quyền hạn của Chủ tịch khi giải quyết các vấn đề thuộc lĩnh vực
được giao.
+ Chịu trách nhiệm cá nhân trước Chủ tịch, trước Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân
dân xã về lĩnh vực được giao, về những quyết định chỉ đạo, điều hành của mình; cùng Chủ tịch
và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm tập thể về toàn bộ hoạt động của
Ủy ban nhân dân trước Đảng ủy, Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân huyện. Đối với
những vấn đề vượt quá phạm vi thẩm quyền thì Phó Chủ tịch phải báo cáo Chủ tịch quyết định.
+ Khi giải quyết công việc, nếu có vấn đề liên quan đến phạm vi và trách nhiệm giải
quyết công việc của thành viên khác của Ủy ban nhân dân thì chủ động trao đổi, phối hợp với
thành viên đó để thống nhất cách giải quyết; nếu vẫn còn ý kiến khác nhau thì báo cáo Chủ tịch
quyết định.
+ Kiểm tra, đôn đốc cán bộ, công chức, các thôn và tổ dân phố thực hiện các chủ
trương, chính sách và pháp luật thuộc lĩnh vực được giao.
4. Vai trò của chính quyền xã trong cải cách hành chính nhà nước ở địa phương.
a) Về cải cách thể chế
- Cải tiến việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền xã.
- Tổ chức thực hiện tốt các thủ tục hành chính phục vụ công dân qua trung tâm một cửa,
một cửa liên thông. Thường xuyên rà soát thủ tục hành chính tại địa phương để báo cáo cấp trên
nhằm kịp thời bổ sung, thay thế các thủ tục không phù hợp với thực tế. Giải quyết kịp thời các
khiếu nại của dân theo quy định của pháp luật và thẩm quyền của xã.
b) Về cải cách bộ máy
- Cải tiến hoạt động của bộ máy chính quyền xã, làm cho bộ máy này hoạt động có hiệu
lực và hiệu quả.
- Tổ chức thực hiện tốt Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Quy chế văn
hóa công sở và các quy chế khác do Nhà nước ban hành phục vụ xóa đói giảm nghèo, bình đẳng
giới.
- Làm nòng cốt cùng với Mặt trận Tổ quốc xã và các đoàn thể khác trong việc xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
c) Về chế độ công chức


Tổ chức tốt việc tuyển dụng, bồi dưỡng năng lực làm việc, đạo đức cho cán
bộ, công chức xã góp phần xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trên địa bàn.


d) Về tài chính công
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng trong quản lý tài chính
công của xã. Công khai các khoản thu, chi công của xã với dân.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Chị H. người tỉnh B. từ miền núi lấy chồng về thành phố của tỉnh. Sau mấy
năm chung sống cuộc sống gia đình không suôn sẻ, chị quyết định chia tay với
chồng về quê cũ sinh sống và mang theo một đứa con. Bố mẹ không còn, chị đến
Công an xã xin cấp giấy tờ để làm hộ khẩu riêng cho hai mẹ con chị. Tuy nhiên,
khi đến UBND xã thì cán bộ phụ trách hộ khẩu yêu cầu chị xuất trình giấy cắt hộ
khẩu ở nơi chị lấy chồng trước đây mà chị lại không có. Cán bộ xã khuyên chị về
lại thành phố để xin cắt hộ khẩu. Chị H. về thành phố đến nơi trước đây mình lấy
chồng xin cắt hộ khẩu của hai mẹ con chị. Ở đây chiến sĩ công an quản lý hộ khẩu
ở phường đề nghị chị về đâu thì nơi đó phải có giấy chấp nhận cho nhập anh ta mới
làm thủ tục cắt được!
Anh chị hãy nhận xét về việc thực hiện thủ tục hành chính ở xã trong trường
hợp trên? Việc cải cách thủ tục hành chính ở địa phương cần hướng theo những
công việc gì hiện nay để có lợi cho dân nhất?

TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI - NXB CTQG - Hà Nội 2011.
- Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH ngày 02 tháng 4 năm 2005 của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội khoá XI ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân.
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.

- Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg ngày 13/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ
về ban hành Quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

- Chương trình Tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010.
- Dự thảo chương trình Tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.




×