Tải bản đầy đủ (.doc) (179 trang)

Luận văn đảng cộng sản lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ 1975 đến 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.49 KB, 179 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hơn 60 năm qua (1945 - 2007), nền giáo dục nước ta đã trải qua biết bao
thử thách, thăng trầm, nhưng vẫn luôn giữ vững bản chất là nền giáo dục “của
dân, do dân và vì dân”, vẫn phát triển, ngay trong những điều kiện hết sức khó
khăn của chiến tranh và của trình độ kinh tế non kém. Đảng ta đã có nhiều chủ
trương, biện pháp giáo dục kịp thời, sáng suốt đào tạo và bồi dưỡng con người,
thích hợp với hoàn cảnh đất nước, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước và công cuộc kiến thiết đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc
đổi mới đang tiến hành. Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng vị trí, vai trò của
giáo dục trong sự nghiệp cách mạng. Ngày nay, giáo dục được coi là quốc sách
hàng đầu.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, giáo dục phổ thông là
nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt
những cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân,
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì thế mà giáo dục phổ thông là bộ phận rất
quan trọng trong hệ thống giáo dục nước ta, luôn được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, đã mở ra
giai đoạn mới của dân tộc, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ
nghĩa xã hội. Từ đây, nhiệm vụ chính trị của nền giáo dục nước ta là phục vụ xây

1


dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ nền độc lập của đất nước. Giai đoạn từ năm
1975 đến năm 2000, lịch sử phát triển giáo dục của Việt Nam nói chung và lịch


sử phát triển giáo dục phổ thông nói riêng nằm trong bối cảnh của rất nhiều biến
động kinh tế - xã hội, của một đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh lâu
dài và ác liệt, của sự thăng trầm về kinh tế vv…Chính vì vậy, đây cũng là thời kỳ
mà Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (1979)
và công cuộc đổi mới giáo dục kéo dài (bắt đầu từ năm 1987) cùng với nhiều chủ
trương chính sách cụ thể đối với giáo dục phổ thông trong từng giai đoạn. Những
chính sách đó đã đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của giáo dục, đưa giáo dục
nước nhà đạt được những thành tựu to lớn, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của
giáo dục nói chung và đặc biệt là giáo dục phổ thông nước ta nói riêng giai đoạn
này không phải đi lên theo một đường thẳng đứng mà có những bước thăng
trầm, lên xuống trong từng giai đoạn, rất nhiều vấn đề đã đặt ra.
Thực tế cho thấy, nền giáo dục của ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, trở thành nền giáo dục của toàn dân, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những
yếu kém và bất cập cần được giải quyết. Việc tìm ra các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục theo hướng hiệu quả, hiện đại, phù hợp với trình độ phát
triển của thế giới trên cơ sở phát huy truyền thống dân tộc và giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho giáo dục Việt Nam
hiện nay.
Muốn vậy, ngoài việc tham khảo mô hình giáo dục của một số nước tiên
tiến, thì một điều rất cần thiết là phải nhìn nhận, tiếp thu những kinh nghiệm giáo
dục trong lịch sử giáo dục của đất nước. Với mục đích tìm hiểu chính sách của
Đảng ta đối với giáo dục phổ thông giai đoạn này cũng như quá trình thực hiện

2


chính sách đó trong thực tế, phân tích rõ những thành tựu cũng như những hạn
chế của nó, từ đó nhìn nhận, đánh giá, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm
để xây dựng phương hướng phát triển đúng đắn của giáo dục phổ thông Việt

Nam giai đoạn sau này. Chính vì lý do đó mà tôi chọn đề tài cho luận văn Thạc
sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam của mình là: “Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1975 đến 2000)”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử giáo dục Việt
Nam nói chung và giai đoạn từ 1975 nói riêng. Các sách đó có một số cuốn có
điểm qua về lịch sử giáo dục phổ thông cũng như những chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với giáo dục phổ thông từ năm 1975, tuy nhiên cũng rất sơ sài vì
đó chỉ là một phần nhỏ trong cuốn sách, thời gian cũng chỉ hạn chế đến thời
điểm viết cuốn sách, hoặc chỉ quan tâm đến một vấn đề nào đó của giáo dục phổ
thông. Theo thứ tự thời gian xuất bản, có thể kể đến như:
Cuốn “35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông”, của Võ Thuần
Nho (cb) do Nxb Giáo dục xuất bản năm 1980, đề cập đến lịch sử giáo dục phổ
thông nước ta từ năm 1945 đến 1980, trong đó dành một phần rất khiêm tốn để
nói về tình hình giáo dục phổ thông nước ta từ sau ngày giải phóng đến năm
1980 với những số liệu thống kê. Cuốn sách giúp cho chúng ta nắm được lịch sử
cơ bản của 35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông Việt Nam.
Cuốn “Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 - 1985) ” của Bộ Giáo dục do Nxb
Giáo dục ban hành năm 1986, đã tiến hành tổng kết, nêu ra những chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục, sự triển khai của Bộ Giáo
dục cũng như tình hình tổng quát, những phân tích nhận xét của giáo dục Việt
Nam trong giai đoạn này, trong đó có đề cập đến tình hình ngành giáo dục phổ

3


thông. Mặc dù không đi sâu vào ngành giáo dục phổ thông nhưng cuốn sách đã
cung cấp những tài liệu quan trọng và bổ ích, nhất là những số liệu thống kê về
tình hình giáo dục phổ thông nước ta.
Cuốn “Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 - 1990)” do Phạm Minh Hạc

(cb), được Nxb Giáo dục phát hành năm 1992. Trong đó, viết hết sức sơ lược về
các các cuộc cải cách giáo dục, hệ thống giáo dục phổ thông, một vài quan tâm
đến công cuộc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục giai đoạn 1975 - 1990.
Cuốn “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 - 1995)”
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, do Nxb Giáo dục phát hành năm 1995. Cuốn sách
là một công trình đồ sộ của nhiều tác giả, cuốn sách là bức tranh toàn cảnh nói
về sự phát triển của giáo dục Việt Nam từ 1945 đến 1995, trong đó có ngành
giáo dục phổ thông giai đoạn 1975 - 1995. Mặc dù sơ lược về lịch sử phát triển,
nhưng cuốn sách cũng đã cung cấp những tài liệu cơ bản về các mặt của giáo dục
phổ thông giai đoạn này từ đường lối chính sách đến tình hình phát triển của
giáo dục phổ thông và những đánh giá, nhận xét chung về giáo dục Việt Nam.
Cuốn “Từ bộ Quốc gia đến bộ giáo dục và đào tạo (1945 - 1995)” do Vũ
Xuân Ba, Phạm Duy Bình, Nguyễn Minh Đường (cb) được Nxb Giáo dục phát
hành năm 1995. Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của tập thể các
nhà khoa học về lịch sử cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo từ 1945 đến 1995.
Cuốn sách dành một phần nói về sự chỉ đạo của Bộ đối với ngành giáo dục phổ
thông, trong đó có đề cập sơ qua giai đoạn 1975 - 1995. Mặc dù chỉ mang tính
chất sơ thảo nhưng cuốn sách cũng cho ta thấy Bộ Giáo dục đã quan tâm chỉ đạo,
triển khai các đường lối chính sách về giáo dục phổ thông của Đảng đối với
ngành giáo dục phổ thông giai đoạn này như thế nào.
Cuốn “Nhà trường phổ thông Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử” của Viện

4


Khoa học giáo dục được Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội phát hành năm 2001,
trong đó có trình bày tình hình, những đánh giá tổng hợp về giáo dục phổ thông
giai đoạn 1975 - 1995. Tuy nhiên đó mới chỉ là sự khái quát sơ lược về giáo dục
và nhà trường phổ thông Việt Nam giai đoạn này, giới hạn đến năm 1995, bản
thân cuốn sách cũng là sự kế thừa những cuốn sách trước đã viết về giáo dục phổ

thông của nước ta.
Cuốn “Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam” của tác
giả Lê Văn Giạng do Nxb Chính trị quốc gia phát hành năm 2003, trong đó có
dành một phần nhỏ mô tả hoạt động nền giáo dục của nước Việt Nam thống nhất
và chủ nghĩa xã hội (từ năm 1975 đến năm 2000). Tuy nhiên như tên gọi của
cuốn sách, tác giả cũng mới chỉ trình bày một cách khái quát nhất có thể của nền
giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục phổ thông giai đoạn này được đề cập đến
một cách sơ sài.
Cuốn “Lịch sử giáo dục Việt Nam” do Bùi Minh Hiền biên soạn được Nxb
Đại học sư phạm phát hành năm 2004. Đây là giáo trình dùng cho sinh viên các
trường Đại học và Cao đẳng sư phạm, viết hết sức sơ lược về lịch sử giáo dục
Việt Nam, trong đó có dành hai chương viết về giáo dục Việt Nam hai giai đoạn
1975 - 1986 và 1986 đến nay (năm 2004). Cuốn sách không dành viết riêng về
giáo dục phổ thông, nhưng qua việc trình bày những chính sách, những tổng kết
tình hình giáo dục Việt Nam nói chung, ta có thể chọn lọc ra những phần liên
quan đến giáo dục phổ thông giai đoạn 1975 - 2000.
Kế thừa thành tựu của các tác giả đi trước, luận văn của chúng tôi sẽ cố
gắng tập hợp những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục
phổ thông giai đoạn 1975 - 2000 và các hoạt động cơ bản của ngành giáo dục để
triển khai thực hiện, trên cơ sở đó mạnh dạn phân tích và đưa ra những nhận xét

5


về giáo dục phổ thông giai đoạn này. Vấn đề sẽ được trình bày trong một hệ
thống chặt chẽ, lôgíc và có tính lịch sử. Chúng tôi coi đó là đóng góp mới của đề
tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu của luận văn là tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục
phổ thông giai đoạn 1975 - 2000. Trên cơ sở tìm hiểu những đường lối, chính

sách, chủ trương của Đảng đối với giáo dục phổ thông giai đoạn này cũng như
quá trình triển khai thực hiện những chính sách đó như thế nào, đồng thời căn cứ
vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể từ đó phân tích, đánh giá để để xem xét kết quả:
những thành tựu, vai trò của Đảng cũng như những vấn đề tồn tại, hạn chế,
những nguyên nhân lý giải cho sự phát triển thăng trầm của giáo dục phổ thông
giai đoạn này và một số bài học kinh nghiệm rút ra cho sự lãnh đạo của Đảng đối
với sự phát triển của giáo dục phổ thông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục phổ thông trong giai đoạn 1975
- 2000 cùng những hoạt động của hệ thống giáo dục này dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn trong 25 năm (1975 - 2000), trong
một thời kỳ hết sức quan trọng của đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh, thống
nhất đất nước, vươn lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và bước đầu phát triển đất
nước.
Giáo dục là một khái niệm rộng lớn được cấu thành bởi nhiều yếu tố, đề tài
này chỉ khảo cứu về giáo dục phổ thông - một trong những yếu tố quan trọng
nhất trong hệ thống giáo dục Việt Nam.

6


5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Nguồn tư liệu.
Nguồn tư liệu phục vụ cho luận văn là các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về
giáo dục và giáo dục phổ thông được khai thác chủ yếu từ các Văn kiện Đảng;
các tài liệu của Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục; các cuốn sách tập
hợp các văn kiện, các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước,
của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục và giáo dục phổ thông; đặc biệt là đề tài

kế thừa và sử dụng các kết quả nghiên cứu từ các cuốn sách, các công trình
nghiên cứu của các tác giả, các nhà khoa học đi trước về giáo dục phổ thông; bên
cạnh đó là việc khai thác những số liệu thống kê từ những tổng kết của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, của Tổng cụ Thống kê. Nguồn tư liệu chủ yếu là tài liệu có độ
chính xác cao và có khả năng đáp ứng tốt cho nghiên cứu của đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Để có được những phân tích, đánh giá thật sự khoa học, khách quan trong
khi nghiên cứu, đề tài dựa trên quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục và đào tạo.
Để khai thác tốt nguồn tư liệu hiện có và để trình bày vấn đề “Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1975 đến 2000)”
theo một hệ thống hợp lý, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp sử liệu học chữ viết nhằm xử lý nguồn sử liệu chữ viết rất
phong phú và khai thác được những thông tin lịch sử tin cậy.
Phương pháp thống kê mô tả để thấy được những thay đổi về cơ cấu và kết
quả hoạt động giáo dục thông qua các con số.
Phương pháp lịch sử được ứng dụng để trình bày nội dung của đề tài theo
tiến trình lịch sử.

7


Phương pháp lôgíc được sử dụng trong các phần khái quát, tổng kết, đánh
giá của luận văn.
6. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1975 đến 1986).
Chương 2: Đảng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (từ 1986 đến 2000).
Chương 3: Một vài nhận xét, bài học kinh nghiệm và những vấn đề đã đặt ra.


8


CHƯƠNG 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
(TỪ 1975 ĐẾN 1986)
1.1. GIÁO DỤC PHỔ THÔNG LÀ NỀN TẢNG VĂN HÓA CỦA MỘT
NƯỚC.
Theo nghĩa rộng, giáo dục phổ thông là một loại hình hoạt động xã hội
nhằm cung cấp cho mọi người dân những hiểu biết cơ bản về tự nhiên, về xã hội
và về con người để làm cơ sở cho sự hình thành thế giới quan, cho việc tiếp thụ
những kỹ năng cần cho cuộc sống và cho việc đào tạo nghề nghiệp. Theo nghĩa
hẹp, nó là một thể chế xã hội (tức nhà trường phổ thông) có nhiệm vụ đào tạo thế
hệ trẻ từ tuổi có khả năng học tập đến tuổi có khả năng lao động thành những
nhân cách của một chế độ xã hội nhất định, từ đó mà trở thành người lao động,
người công dân theo lý tưởng của xã hội đó.
Nhiệm vụ của giáo dục phổ thông trong chế độ xã hội chủ nghĩa là đào tạo
người lao động làm chủ và phát triển toàn diện, đồng thời chuẩn bị lao động dự
trữ cho sự phân công lao động xã hội. Con người phát triển toàn diện, theo ý
nghĩa đầy đủ của nó, là con người được phát triển mọi khả năng của mình, được
đào tạo để tinh thông những hoạt động chủ yếu của xã hội, trước hết của lao
động sản xuất, trở thành những nhân cách sáng tạo, góp phần xây dựng đất nước.
Giáo dục phổ thông còn là nền tảng văn hóa vì nó đóng vai trò quyết định
trong sự hình thành con người mới. Trường phổ thông đã phụ trách đào tạo con
người từ bé cho đến lúc trưởng thành, tức là vào quãng thời gian mà con người
có thể tiếp thụ sự giáo dục một cách bền vững nhất, tiếp thụ hoàn chỉnh từ trí tuệ
đến tình cảm, từ tri thức đến thực hành. Đó là một phương tiện tác động đến con

9



người mạnh mẽ và có hiệu lực hơn bất cứ hoạt động văn hóa nào khác. Và cả
những hoạt động văn hóa khác muốn đi vào con người thì cũng phải qua sự môi
giới của giáo dục. Hơn nữa, không có phương tiện văn hóa nào đặt nền móng
cho thế giới quan khoa học bằng hệ thống kiến thức về tự nhiên, xã hội và con
người.
Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nước, và cũng vì thế mà là
sức mạnh tương lai của một dân tộc, vì ba lẽ:
Một là, văn hóa phổ thông là cái cửa đầu tiên mở cho nhân dân đi chiếm
lĩnh toàn bộ giá trị văn hóa, là bệ phóng đầu tiên của mọi phát minh khoa học và
kỹ thuật.
Hai là, giáo dục phổ thông là phương tiện quan trọng nhất để hình thành
con người mới, là bộ phận quan trọng nhất của cách mạng tư tưởng và văn hóa.
Ba là, giáo dục phổ thông có tác dụng thúc đẩy tất cả các hoạt động văn hóa
khác và trên cơ sở phối hợp với các hoạt động văn hóa khác ấy để bồi dưỡng nên
chính cái sản phẩm của giáo dục phổ thông.
“Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân,
dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng” [62. tr.8]. Đồng thời, nguyên lý của nền giáo dục Việt Nam là: học
đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực
tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Trong Luật Giáo dục (Luật số 11/1998/QH10 ngày 2/12/1998) của Việt
Nam đã khẳng định: “Giáo dục phổ thông là ngành giáo dục mang tính phổ cập
trong giáo dục quốc dân có mục tiêu giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân

10



chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…. Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính
phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn
cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo
dục ở mỗi bậc học, cấp học… Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh.” [2, tr.94 - 96].
Vốn văn hóa phổ thông là nền tảng cho phép mọi người có thể nhảy cao
trong mọi lĩnh vực hoạt động, và ngược lại, bất cứ một thiếu sót nào trong việc
học phổ thông đều để lại hậu quả tai hại trong con người trên bước đường tương
lai của nó.

1.2. NHỮNG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG BƯỚC ĐẦU
CỦA NƯỚC VIỆT NAM THỐNG NHẤT.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, đã mở ra
giai đoạn mới của dân tộc, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất và tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Tháng 9 năm 1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương khóa III
đã đề ra nhiệm vụ chiến lược mới:
Miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến
hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về giáo dục, miền Bắc có nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua
“Hai tốt”, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tích cực giúp đỡ giáo dục

11



miền Nam. Miền Nam cần mau chóng xóa bỏ tàn dư của nền giáo dục cũ, xây
dựng hệ thống giáo dục mới, nâng cao giác ngộ chính trị cho giáo viên và học
sinh, xây dựng tổ chức quản lý của ngành.
Năm học 1975 - 1976, cả nước đã tiến hành khai giảng trong bầu không khí
tưng bừng, phấn khởi trước thắng lợi vĩ đại của dân tộc và trong niềm vui kỷ
niệm 30 năm ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, các hoạt động chủ yếu của nhà trường phổ
thông vẫn là làm tốt việc dạy và học các bộ môn văn hóa, lao động sản xuất và
hoạt động xã hội. Ngành cũng quan tâm hết sức đến việc nâng cao phẩm chất
chính trị đạo đức và năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên. Đối với học
sinh, đặc biệt ở cấp I và cấp II, chú ý giáo dục thật tốt 5 điều Bác dạy, thường
xuyên sinh hoạt theo chủ đề: “Vâng lời Bác dạy, thi đua làm nghìn việc tốt,
mừng Tổ quốc nở hoa, mừng Đội 35 tuổi”.
Ngày 17/6/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 221- CT/TW
hướng dẫn công tác giáo dục ở miền Nam.
Căn cứ vào chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, công tác giáo dục phổ
thông ở miền Nam có những nhiệm vụ sau: mau chóng đưa giáo dục trở lại hoạt
động bình thường; kết hợp việc cải tạo nền giáo dục cũ và xây dựng nền giáo dục
mới, lấy công tác giáo dục chính trị và xây dựng tổ chức làm nhiệm vụ trung
tâm, làm cho giáo dục trở thành một lực lượng cách mạng góp phần xây dựng xã
hội mới; đẩy mạnh việc xóa nạn mù chữ cho nhân dân lao động, bổ túc văn hóa
cho cán bộ và thanh niên, coi đó là nhiệm vụ số một; phát triển giáo dục phổ
thông và mẫu giáo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho con em nhân dân lao động
được đi học; xây dựng hệ thống các trường sư phạm để đào tạo cán bộ, giáo viên
mới; tổ chức lại việc quản lý giáo dục, chuẩn bị cho kế hoạch phát triển lâu dài

12



của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa thống nhất trong cả nước.
Thực hiện chỉ thị số 221, các tỉnh miền Nam lần lượt khai trường, lập ban
điều hành lâm thời do quần chúng đề cử để quản lý nhà trường. Học sinh được tổ
chức học bù để chuẩn bị thi lên lớp 6 và thi tú tài, việc chuẩn bị kỳ thi tốt nghiệp
lớp 12 (tú tài) tiến hành đồng thời với việc chuẩn bị khai trường vào năm học
mới.
Cuối tháng 9/1975, gần 62.000 thí sinh của 29 tỉnh, thành phía Nam đã dự
thi tốt nghiệp phổ thông dưới chế độ mới. [63, tr. 234].
Ngày 19/10/1975, các trường phổ thông khắp các tỉnh miền Nam đã tưng
bừng khai giảng năm học giải phóng mới với 4 triệu học sinh phổ thông, mẫu
giáo và gần 10 vạn giáo viên. Mở đầu năm học là việc tổ chức học tập thư Bác
Hồ gửi học sinh nhân ngày khai trường 9/1945 để xác định thái độ, động cơ học
tập mới, rèn luyện đạo đức người học sinh dưới chế độ mới.
Ngay năm học đầu, các trường phổ thông ở miền Nam đã chuyển sang hệ
thống giáo dục mới. Trường phổ thông mới gồm 12 năm chia làm 3 cấp: cấp I (5
năm) gắn với trường cấp II (4 năm), cấp III tức trường phổ thông trung học có
phân khoa (3 năm). Nội dung giáo dục đổi mới, tiến bộ cả về tư tưởng chính trị
lẫn mặt khoa học. Bộ Giáo dục đã kịp thời ban hành chương trình mới, biên soạn
và in 20 triệu bản sách giáo khoa cấp I, cấp II, cấp III gửi vào miền Nam thay
cho sách cũ. Hầu hết các giáo viên cũ được tuyển dụng lại.
Miền Bắc đã kịp thời cử cán bộ, giáo viên vào Nam bổ sung những nơi
thiếu hụt, đặc biệt là đội ngũ quản lý, chỉ đạo giáo dục. Mặt khác, chính quyền
mới đã đào tạo cấp tốc một số giáo viên mới.
Mùa hè năm 1975, các giáo viên miền Nam đã được tham dự một lớp học
chính trị, nghiệp vụ. Mọi người thảo luận dân chủ về tình hình, nhiệm vụ cách

13


mạng, ý nghĩa chiến thắng đế quốc Mĩ và tay sai, nghiên cứu về chương trình,

tính chất của nền giáo dục mới. Nhờ vậy, các giáo viên đã nhận thức rõ ràng
hơn, phấn khởi bắt tay vào khôi phục nhanh chóng các sinh hoạt của nhà trường.
Cơ cấu thành phần xã hội của học sinh được cải tiến một bước. Trường học
được phân bổ đều hơn, bố trí ở các vùng đông dân lao động, ở nông thôn, ở vùng
dân tộc ít người, các khu kinh tế mới. Trường học vùng giải phóng cũ được củng
cố và mở rộng thêm. Con em nhân dân lao động, các gia đình cách mạng, liệt sĩ
được ưu tiên nhận vào học. Trong chế độ cũ có tới 2.500 trường tư thục, một nửa
là tôn giáo, nay là “công lập hóa” một số lớp trường, tách nhà trường khỏi ảnh
hưởng của tôn giáo và chủ trương đưa dần toàn bộ trường tư vào sự quản lý của
Nhà nước. Các giáo viên trường tư sẽ được Nhà nước xem xét và tuyển dụng.
Học sinh các trường phổ thông đều được miễn học phí.
Ngày 19/1/1976, Thủ tướng ra quyết định số 41/TTg về việc ngân sách Nhà
nước đảm nhiệm in sách giáo khoa phát không cho toàn thể học sinh ở các cấp
học, từ mẫu giáo đến cấp III. Đó là một sự cố gắng lớn của Đảng và Chính phủ.
Nhiều nơi đã có sáng kiến lập tủ sách dùng chung cho nhà trường, tổ chức cho
học sinh mượn và bảo quản tốt.
Tháng 4/1976 Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà tiến hành thắng lợi, bầu
ra Quốc hội khóa VI của nước Việt Nam. Đến tháng 12/1976, Đại hội Đảng lần
thứ IV đã vạch ra con đường cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn
nước ta đã độc lập và thống nhất.
Vấn đề xây dựng con người mới, Đại hội chỉ rõ những đặc trưng cần phải
bồi dưỡng là “làm chủ tập thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần
quốc tế vô sản”. Để xây dựng con người mới, giáo dục phổ thông phải là “nền
tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt những

14


cơ sở ban đầu rất trọng yếu cho sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, nhiệm vụ của giáo dục trong giai đoạn cách mạng mới

là phải “đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới” và thực hiện tốt
nguyên lý, phương châm giáo dục của Đảng.
Những năm đã qua, giáo dục tuy đã thu hút được những thành tựu to lớn,
song cũng còn nhiều mặt yếu kém, thiếu sót. Thực trạng của giáo dục trong thời
kỳ mới không đủ đáp ứng những yêu cầu của cách mạng. Bởi vậy, Đại hội IV đã
quyết định phải “tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, làm cho hệ thống
giáo dục quốc dân gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Tháng 4/1977, hội nghị tổng kết 5 năm thi đua “Hai tốt” theo gương các
điển hình tiên tiến được tổ chức (1971 - 1976). Sau 5 năm phấn đấu, nhiều đơn
vị tiên tiến xuất hiện. Số trường vừa học vừa làm lên tới 47 trường phân bố trên
khắp các địa bàn đất nước. Nhiều hình thức học tập và lao động phong phú, thích
hợp với từng vùng kinh tế khác nhau.
Qua những bài học kinh nghiệm phong phú của các đơn vị mới và cũ, hội
nghị một lần nữa khẳng định, đánh giá cao những đóng góp của phong trào, đặc
biệt là bào học về tinh thần cách mạng tiến công, tự mình khắc phục mọi khó
khăn, gian khổ, sáng tạo và kiên trì thực hiện mục tiêu, nguyên lý của Đảng về
giáo dục. Hội nghị đã nhất trí cao là cần thiết tiếp tục phát động phong trào thi
đua “Hai tốt” theo gương các trường học tiên tiến. Phát huy kết quả hội nghị,
năm học 1977 - 1978 đã diễn ra một khí thế “đồng khởi thi đua” sôi nổi.
Năm 1976 toàn miền Nam có hơn 3 triệu người mù chữ trong đó có 1,5
triệu trong độ tuổi 12 đến 50. Nhưng đến ngày 28/2/1978, toàn miền Nam đã cơ
bản hoàn thành xóa nạn mù chữ, với “1.323.670 người đã thoát nạn mù chữ, tỉ lệ
người biết chữ trong độ tuổi 12 đến 50 là 94,15%. [44; tr.49]. Trong năm học

15


1978 - 1979, ở nhiều địa phương như Tiền Giang, Nghĩa Bình, Nghệ Tĩnh, Hải
Hưng… phong trào phổ cập cấp I đã diễn ra sôi nổi. Việc phổ cập cấp II cũng có
nhiều tiến bộ mới.

Ngày 21/3/1978, quyết định số 63/CP của Hội đồng Chính phủ đã thể chế
hóa loại trường phổ thông vừa học vừa làm, quy định một số biện pháp để đảm
bảo cho loại trường này có điều kiện phát triển.
Ở miền Nam trong 3 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà trường
phổ thông đều có những tiến bộ mọi mặt. Bên cạnh việc dạy và học văn hóa, các
trường thành phố đều tham gia phong trào quét sạch tàn dư văn hóa phản động,
cải tạo tư sản thương nghiệp. Các trường nông thôn tham gia phong trào bổ túc
văn hóa, phong trào làm thủy lợi.
Ngày 16/6/1978, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị số 47-CT/TW
hướng dẫn công tác giáo dục miền Nam trong 3 năm 1978 - 1980, đề ra kế hoạch
phát triển giáo dục tích cực và vững chắc về bổ túc văn hóa, mầm non và phổ
thông.
Về kiến thức văn hóa, điều đáng lưu ý là có nhiều học sinh giỏi xuất hiện.
Trong kỳ thi toán quốc tế năm 1979, đoàn học sinh Việt Nam có 4 em thì cả 4
em đều đoạt giải: 1 giải nhất và 3 giải nhì.
Tuy vậy, nhìn chung cả nước, chất lượng giáo dục toàn diện còn thấp, chưa
đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội của một nước Việt Nam thống nhất.

1.3. TIẾN HÀNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ BA.
1.3.1. SƠ LƯỢC HAI CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC SAU CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới của đất nước. Ngày 3/9/1945 trong

16


thư gửi học sinh nhân ngày khai trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vai
trò của giáo dục phục vụ sự phục hưng của một nước mới giành được độc lập:
“Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được

vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một
phần lớn ở công học tập của các cháu”. Cùng ngày đó, trong phiên họp đầu tiên
của Chính phủ, Chủ tịch nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề
nghị mở chiến dịch chống nạn mù chữ”, coi nạn thất học là một thứ giặc nguy
hiểm như giặc ngoại xâm và nạn đói, và đề ra nhiệm vụ nâng cao dân trí là một
nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ.
Vừa tiến hành chiến dịch chống nạn mù chữ, Chính phủ nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa tiếp tục phát triển đại học và trung học, chủ trương cải cách nền
giáo dục thành nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục sẽ đào tạo
thế hệ trẻ thành những người công dân hữu ích cho đất nước, một nền giáo dục
làm phát triển hoàn toàn những năng lực vốn có của học sinh.
Chính phủ chủ trương xây dựng một nền giáo dục nhân dân, dân chủ, phụng
sự sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một nền giáo dục tôn trọng nhân
phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng. Từ sau cách mạng tháng Tám đến
năm 1975, trên đất nước ta đã trải qua 2 cuộc cải cách giáo dục:
- Cải cách giáo dục năm 1950.
- Cải cách giáo dục năm 1956.
Cuộc cải cách giáo dục năm 1950:
Ngay từ tháng 10/1945 Chính phủ đã thành lập Hội đồng cố vấn học chính
để nghiên cứu một chương trình cải cách giáo dục. Nhưng vì từ tháng 9/1945 ở
miền Nam và từ tháng 12/1946 ở cả miền Bắc, nhân dân ta phải tiến hành cuộc
chiến tranh chống thực dân xâm lược Pháp (cuộc chiến tranh này kết thúc bằng

17


thắng lợi của Việt Nam tại chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 5/1954), nên đến
tháng 7/1950 Hội đồng Chính phủ mới thông qua đề án cải cách giáo dục và
quyết định bắt đầu thực hiện cuộc cải cách này.
Theo đề án cải cách này nền giáo dục nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

được chính thức tuyên bố là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân; được xây
dựng theo nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Mục tiêu đào tạo: giáo dục
thế hệ trẻ thành những người công dân trung thành với Tổ quốc, có năng lực và
phẩm chất phục vụ đất nước. Phương châm giáo dục: học đi đôi với hành, lí luận
gắn liền với thực tiễn. Về nội dung giáo dục phổ thông tập trung vào một số môn
như tiếng Việt, Văn, Toán, Lí, Hóa, Sinh; có các môn học mới: thời sự - chính
sách, giáo dục công dân, tăng gia sản xuất; không học các môn: ngoại ngữ, nhạc,
vẽ, nữ công gia chánh. Theo tinh thần của cuộc cải cách lần này, nước ta đã thực
hiện dạy tiếng Việt ở bậc đại học, hoàn tất việc đưa tiếng Việt vào vào dạy ở nhà
trường vốn đã được triển khai sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Cơ cấu trường phổ thông:
Sau cách mạng tháng Tám, hệ thống giáo dục phổ thông được sửa đổi
thành hệ 11 năm (4 + 4 +3) với bậc tiểu học 4 năm và bậc trung học 7 năm, trong
đó trung học bậc cao (trung học chuyên khoa) (3 năm) có 3 ban là ban Toán Lí
Hóa, ban Lí Hóa Sinh và ban Văn Sử Địa.
Với cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất này, hệ thống giáo dục phổ thông
được cơ cấu lại thành hệ 9 năm (4 + 3 + 2) cho phù hợp với hoàn cảnh kháng
chiến, bao gồm 3 cấp học: cấp I, cấp II, cấp III. Cấp I: 4 năm (không kể vỡ lòng)
(lớp 1 - 4), thay cho cấp tiểu học; cấp II: 3 năm (lớp 5 - 7), thay cho bậc trung
học đệ nhất cấp gồm 4 năm và cấp III: 2 năm (lớp 8 - 9), thay cho bậc trung học
chuyên khoa (hay trung học đệ nhị cấp) gồm 3 năm.

18


Bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông còn có hệ thống giáo dục bình dân,
giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục cao đẳng, đại học.
Tháng 2/1951, Đại hội Đảng lần thứ II đã họp, quyết định Đảng ra công
khai hoạt động, đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt
Nam. Nghị quyết của Đại hội đã soi sáng cho ngành giáo dục thực hiện thắng lợi

những mục tiêu của cải cách giáo dục.
Cuộc cải cách giáo dục năm 1956:
Cuộc cải cách giáo dục năm 1950 được tiến hành ở các vùng giải phóng,
trong vùng thuộc quyền kiểm soát của bọn thực dân Pháp các trường vẫn dạy
theo số năm học phổ thông từ tiểu học đến hết trung học đệ nhị cấp là 12 năm,
với nội dung, chương trình cơ bản giống trước năm 1945.
Như vậy là, cho đến lúc giải phóng và hòa bình lập lại (1954) ở miền Bắc từ
vĩ tuyến 17 trở lên có hai hệ thống giáo dục phổ thông: hệ thống giáo dục phổ
thông 9 năm và hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm. Việc gấp rút thống nhất hai
hệ thống giáo dục là một đòi hỏi khách quan cấp thiết. Hội nghị lần thứ VII của
Trung ương Đảng khóa II (3/1955) đã nêu nhiệm vụ phải mau chóng “chấn
chỉnh và củng cố giáo dục phổ thông, thống nhất hai hệ thống giáo dục của vùng
tự do cũ và các vùng mới giải phóng”. [12, tr. 20].
Tháng 3/1956 Chính phủ thông qua đề án cải cách giáo dục lần thứ hai và
giao cho Bộ Giáo dục bắt đầu triển khai đề án đó. Tháng 8/1956 Chính phủ ban
hành “chính sách giáo dục phổ thông của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục lần này là: “đào tạo, bồi dưỡng thế hệ
thanh niên và thiếu nhi trở thành những người phát triển về mọi mặt, những công
dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người lao động tốt, cán bộ tốt của Nhà
nước, có tài có đức để phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng chủ

19


nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập và dân chủ”. [44, tr. 27].
Phương châm giáo dục là liên lệ lí luận với thực tiễn, gắn nhà trường với
đời sống xã hội. Nội dung giáo dục có tính chất toàn diện, gồm bốn mặt: đức
dục, trí dục, thể dục, mĩ dục, trong đó lấy “trí dục là cơ sở” đồng thời tăng cường
giáo dục tư tưởng và giáo dục đạo đức cũng trên cơ sở coi trọng giảng dạy tri

thức có hệ thống. Trong phương pháp, tăng cường thực hành, tăng cường giờ lao
động sản xuất, chú ý nhiều hơn đến ứng dụng tri thức vào đời sống.
Hệ thống giáo dục phổ thông từ 9 năm nâng lên 10 năm, bao gồm:
- Cấp I: 4 năm, từ lớp 1 đến lớp 4;
- Cấp II: 3 năm, từ lớp 5 đến lớp 7;
- Cấp III: 3 năm, từ lớp 8 đến lớp 10.
Số tiết học trong tuần ở cấp I vẫn giữ như trước đây (17 - 19 tiết), ở cấp II
và cấp III tăng lên từ 20 giờ (cấp II), 21 giờ (cấp III) lên 29 - 30 giờ.
1.3.2. TIẾN HÀNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ BA.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IV, ngày 11/1/1979, Bộ
Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo
dục.
Lý do và yêu cầu của cuộc cải cách:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam đã đổi
tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc, mà nội dung chủ yếu là từng bước xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chế độ làm chủ tập thể, xây dựng con
người mới và nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, bằng cách “tiến hành đồng thời
ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ

20


thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là
then chốt”. [28, tr. 5, 6].
Để đáp ứng những yêu cầu đó, nước ta có một cơ sở thuận lợi: “đó là những
thành tựu đáng tự hào của sự nghiệp giáo dục trong hơn 20 năm qua”. [28, tr. 9].
Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, sự phát
triển của giáo dục Việt Nam (đến năm 1979) cả về số lượng và chất lượng đều
không đáp ứng được, còn nhiều nhược điểm và thiếu sót.

“Sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa của ta phát triển nhanh về số lượng,
nhưng còn yếu về chất lượng toàn diện. Nội dung và phương pháp giáo dục chưa
thấu suốt nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
nhà trường gắn liền với xã hội”. [28, tr. 12].
Hệ thống giáo dục chưa bồi dưỡng đúng mức cho thế hệ trẻ những phẩm
chất và năng lực của con người mới, chưa chuẩn bị đầy đủ cho học sinh đi vào
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Hệ thống giáo dục cũng chưa bảo đảm việc hình
thành đội ngũ lao động mới có ý chí cách mạng kiên cường, có trình độ kiến
thức, tác phong công tác và lối sống phù hợp. Chưa đảm bảo yêu cầu học tập
thường xuyên và rộng rãi của đông đảo nhân dân lao động.
Về hạn chế trong giáo dục phổ thông, Nghị quyết nêu: “Học sinh tốt nghiệp
các trường phổ thông chưa được chuẩn bị kiến thức cần thiết, về ý thức, năng lực
và sức khỏe để trở thành những người lao động kiểu mới. Nội dung giáo dục của
trường phổ thông chưa toàn diện, chủ yếu chỉ mới dạy kiến thức văn hóa chung,
còn coi nhẹ kiến thức kỹ thuật và quản lý; phương pháp giáo dục của trường phổ
thông còn có phần đơn giản và cũ kỹ, coi nhẹ thực hành và lao động sản xuất, do
đó chưa phát huy trí thông minh, óc sáng tạo của học sinh…Mức độ phổ cập
giáo dục phổ thông trong cả nước còn thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế và

21


văn hóa trong giai đoạn mới”. [28, tr. 13].
Vì vậy, yêu cầu cải cách nền giáo dục đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng
Việt Nam là tất yếu. Từ năm 1975, trên đất nước ta đã bắt đầu xây dựng một nền
giáo dục thống nhất cho cả nước, đó là một điều thuận lợi để thực hiện cải cách
giáo dục, cải cách giáo dục sẽ có tác dụng làm cho nền giáo dục thống nhất một
cách đầy đủ hơn.
Phương hướng và nội dung cải cách giáo dục:
Nghị quyết đã đề ra những mục tiêu sau:

- Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi thơ ấu cho đến
lúc trưởng thành nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người Việt
Nam mới, con người làm chủ tập thể và phát triển toàn diện.
- Thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiến hành ba cuộc cách mạng và tăng cường quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
- Đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới có
phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, có trình độ khoa học, kỹ thuật và
quản lý phù hợp với yêu cầu phân công lao động trong nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa.
Về nội dung giáo dục, Nghị quyết chỉ rõ cần phải ra sức “nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, tạo ra những lớp người lao động mới làm chủ tập thể,
đủ sức gánh vác sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta”. [28,
tr.25]. Cần tăng cường giáo dục chính trị và tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối và chính sách của Đảng, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và đạo đức mới của người lao động làm chủ tập thể…
Nguyên lí giáo dục vẫn là “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”. Nguyên lý này quyết định hệ

22


thống giáo dục về nội dung, phương pháp, cơ cấu, làm cho công tác giáo dục gắn
chặt với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nguyên lí giáo dục nói
trên xuất phát từ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và của
Đảng ta về con người mới.
Để thực hiện được mục tiêu, nguyên lý giáo dục, phải tiến hành cải cách
toàn bộ hệ thống, nội dung và phương pháp giáo dục.
Riêng hệ thống giáo dục phổ thông, cần mở những trường lớp cho những
học sinh có năng khiếu đặc biệt cũng như những trường lớp dành riêng cho trẻ
em có tật (mù, câm, điếc, chậm phát triển).
Nghị quyết còn chỉ rõ hướng cải cách về hệ thống giáo dục chuyên nghiệp

và đại học, về đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và đưa ra những yêu cầu về biên
soạn chương trình mới, sách giáo khoa, cơ sở vật chất và thiết bị cho giảng dạy,
về tổ chức quản lí, nghiên cứu khoa học vv… Mặt khác, cần phải vận động
phong trào quần chúng rộng rãi tham gia xây dựng nhà trường mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ các cấp.
Hệ thống giáo dục phổ thông mới:
Nghị quyết số 14 của Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
vạch ra mô hình của hệ thống giáo dục quốc dân mới, đáp ứng những yêu cầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục phổ thông là cốt lõi, là nền
tảng. Vì thế bất cứ một cuộc cải cách giáo dục nào cũng phải đề cập trước tiên
đến cải cách trường phổ thông. Từ khi có khả năng học tập đến lúc bước vào đời,
mọi người đều phải qua trường phổ thông, đó là con đường tối ưu chuẩn bị con
người cho cuộc sống xã hội.
Ngày 27/3/1981, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định về hệ thống giáo

23


dục phổ thông mới. Quyết định xác định hệ thống giáo dục phổ thông trong nước
là hệ thống trường phổ thông 12 năm. Quyết định còn đề ra nhiệm vụ chuyển hệ
thống giáo dục phổ thông hiện hành sang hệ thống mới từng bước, có trọng
điểm, bắt đầu từ năm học 1981 - 1982.
Trường phổ thông có nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ từ 6 tuổi
đến tuổi trưởng thành, và được chia làm hai bậc: trường phổ thông cơ sở và
trường phổ thông trung học.
Như vậy, trong cải cách giáo dục lần thứ ba, hệ thống giáo dục phổ thông
12 năm gồm 2 bậc học:
- Bậc phổ thông cơ sở: 9 năm, gồm hai cấp học, cấp I: 5 năm, bao gồm cả
học vần và cấp II: 4 năm.

- Bậc phổ thông trung học 3 năm (cấp III).
Sau đây, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu cụ thể các bậc học, nội dung cũng như
phương pháp giáo dục của các bậc học phổ thông theo hệ thống giáo dục phổ
thông mới được thể hiện trong Nghị quyết 14.
Trường phổ thông cơ sở: là một thể thống nhất từ lớp 1 đến lớp 9; đó là bậc
học phổ cập bắt buộc cho tất cả nhi đồng và thiếu niên từ 6 tuổi tròn đến 15 tuổi
tròn. Trường phổ thông cơ sở có nhiệm vụ giáo dục toàn diện cho học sinh đạt
trình độ văn hóa phổ thông tương đối hoàn chỉnh, có năng lực làm các loại lao
động phổ thông, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp, sẵn sàng đi vào học nghề và
tham gia sản xuất, tham gia công tác trong xã hội, hoặc tiếp tục học lên bậc phổ
thông trung học bằng nhiều con đường khác nhau.
Nội dung giáo dục ở trường phổ thông cơ sở có tính chất toàn diện và kỹ
thuật tổng hợp.
Các môn khoa học tự nhiên cung cấp cho học sinh những khái niệm cơ bản

24


về toán học, vật lý học, hóa học, sinh học, địa lý học theo quan điểm hiện đại, và
được vận dụng theo hướng gắn với thực tế Việt Nam. Về khoa học xã hội, cần
coi trọng các môn giáo dục công dân và đạo đức cách mạng, lịch sử Việt Nam và
thế giới, địa lý Việt Nam và thế giới, tiếng Việt, văn học Việt Nam và những áng
văn hay của văn học thế giới. Coi trọng việc dạy cho học sinh biết một thứ tiếng
nước ngoài. Bồi dưỡng một bước cho học sinh về kiến thức và thói quen thẩm
mỹ.
Học sinh phổ thông cơ sở cần có những hiểu biết kỹ thuật phổ thông, như
những kiến thức thông thường về kỹ thuật nông nghiệp, những nguyên tắc cấu
tạo và hoạt động của các công cụ, các cơ cấu máy đơn giản, cách sử dụng những
công cụ sản xuất phổ thông; đồng thời học sinh cũng phải được giáo dục lao
động một cách có phương pháp để xây dựng tinh thần sẵn sàng lao động, ý thức

trách nhiệm trong lao động, thói quen lao động có tổ chức, có kỹ thuật, theo tác
phong đại công nghiệp. Ở các lớp trên cần hướng dẫn cho học sinh biết đại thể
đặc tính của những nghề nghiệp sẽ lựa chọn.
Ở trường phổ thông cơ sở, việc giáo dục cho học sinh ý thức và thói quen
giữ gìn vệ sinh và rèn luyện thân thể là rất quan trọng.
Về phương pháp giáo dục, cần coi trọng việc xây dựng cho học sinh tính
chủ động trong học tập và thói quen tự học. Kết hợp với việc học tập văn hóa,
cần tổ chức cho học sinh tham gia lao động sản xuất theo mức độ phù hợp với
lứa tuổi. Tăng cường sinh hoạt đoàn thể và hoạt động xã hội của học sinh thông
qua Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và Đội nhi đồng Hồ Chí Minh.
Sau khi tốt nghiệp trường phổ thông cơ sở, học sinh có thể tiếp tục vào học
các loại trường phổ thông trung học hoặc các loại trường chuyên nghiệp…
Trường phổ thông trung học, từ lớp 10 đến lớp 12, có nhiệm vụ nâng cao và

25


×