Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Luận văn một số biện pháp phát triển thị trường nhập khẩu của công ty CP vật tư nông sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.26 KB, 77 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Đối với các nước đang phát triển, để thực hiện công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước đồng thời từng bước tham gia hội nhập với nền kinh tế
toàn cầu hóa thì ngoài việc tập trung phát triển các ngành sản xuất trong
nước nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho lao động trong nước, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tăng nhanh tích lũy nội bộ nền kinh tế, việc mở rộng
sản xuất, giao lưu kinh tế với bên ngoài cũng góp phần không nhỏ vào quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế của nước ta.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, nền kinh tế thị trường
mở tạo ra nhiêu thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn cho các ngành
nghề sản xuất trong nước, và trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay
thì hoạt động xuất nhập khẩu luôn là một phần không thể thiếu trong các
hoạt động giao lưu với các nước trên thế giới.
XNK là hoạt động giao lưu buôn bán với các nước mà trong điều
kiện toàn cầu hóa hiện nay bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải áp dụng.
Hoạt động xuất khẩu mang lại cho đất nước một lượng ngoại tệ rất lớn, tuy
nhiên bên cạnh đó thì hoạt động nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng
quan trọng không kém. Xuất khẩu và nhập khẩu là hai hoạt động luôn tồn
tại song hành, có mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho nhau, hoạt động xuất
khẩu mang lại nguồn ngoại tệ nhằm phục vụ cho các hoạt động nhập khẩu,
còn hoạt động nhập khẩu cho phép chúng ta khai thác được tiềm năng, thế
mạnh của các nước và bổ sung những mặt hàng trong nước chưa thể sản
xuất được, góp phần tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.
Đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công cuộc xây dựng đất
nước mà trọng tâm là công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, trong đó công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nông nghiệp nông thôn đặc biệt được chú
trọng. Hiện nay nông nghiệp nước ta vẫn là một ngành sản xuất chủ yếu
của nền kinh tế nông thôn chiếm 80% dân số và trên 77% lực lượng lao
động toàn xã hội. Mục tiêu của chương trình phát triển nông nghiệp và kinh


1


tế nông thôn là đảm bảo an toàn lương thực trong mọi tình huống, tăng
nhanh nguồn thực phẩm và rau quả. Để đạt được điều đó cần phải có vốn,
kỹ thuật, công nghệ hiện đại để hiện đại hóa nền nông nghiệp. Hiện đại hóa
trong nền sản xuất nông nghiệp cần kết hợp áp dụng các loại giống tốt,
phân bón thích hợp và những kỹ thuật tiên tiến tạo ra năng suất chật lượng
cao hơn. Như vậy sự tham gia của phân bón hóa học vào sản xuất nông
nghiệp đã là một yếu tố quan trọng không thể thiếu.
Công ty cổ phần vật tư nông sản là một trong những đơn vị tham gia
kinh doanh nhập khẩu phân bón. Phát triển thị trường nhập khẩu và đa
dạng hóa các mặt hàng kinh doanh luôn là vấn đề được Công ty quan tâm
phát triển, tuy nhiên với đặc điểm cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị
trường hiện nay thì việc kinh doanh nhập khẩu phân bón của Công ty vẫn
còn gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy trên cơ sở những kiến thức đã học
được trong đợt thực tập này, em xin chọn đề tài “Một số biện pháp phát
triển thị trường nhập khẩu của Công ty cổ phần vật tư nông sản” để có
thể bổ xung thêm kiến thức thực tế cho mình đồng thời đề xuất một số biện
pháp phát triển thị trường nhập khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh tại Công ty cổ phần vật tư nông sản.
Chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, được kết cấu thành 3 chương:
Chương I. Lý luận chung về phát triển thị trường nhập khẩu của
doanh nghiệp.
Chương II. Thực trạng phát triển thị trường nhập khẩu của
Công ty cổ phần vật tư nông sản.
Chương III. Định hướng và một số biện pháp phát triển thị
trường nhập khẩu của Công ty cổ phần vật tư nông sản trong thời
gian tới.


2


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP

1.1.1. Sự cần thiết và ý nghĩa của nhập khẩu hàng hóa ở nước ta
1.1.1.1. Sự cần thiết
Đã có lúc nước ta xem xét vấn đề độc lập kinh tế và xây dựng một nền
kinh tế hoàn chỉnh mang tính tự cung tự cấp để tránh sự lệ thuộc vào bên
ngoài. Tuy nhiên thực tế đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có
thể đặt ra cho mình một mục tiêu đầy tham vọng như vậy. Thế giới ngày
nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự
chủ nhưng phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Hơn nữa
lịch sử thế giới đã chứng minh không có một quốc gia nào có thể phát triển
nếu thực hiện chính sách tự cung tự cấp. Ngược lại những nước có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao đề là những nước biết phát huy vai trò của kinh tế
đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển. Điều này lại càng
không thể phù hợp với Việt Nam, bởi đặc diểm của nền sản xuất tự cung tự
cấp là sản xuất chỉ để tiêu dùng trong nước không có xuất khẩu và như vậy
cũng không có hoạt động nhập khẩu từ bên ngoài.
Chính sách tự cung tự cấp đó không thể tồn tại lâu dài do những lý do sau:
- Những điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế ngày càng cao, sự
phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước giờ ngày càng trở
nên phụ thuộc lẫn nhau và tích cực tham gia hơn vào các quá trình liên kết
và hợp tác kinh tế quốc tế thì một chính sách biệt lập đóng của là không
phù hợp.

- Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh và trở thành
nhân tố quyết định phát triển của sản xuất. Trong khi đó chính sách đóng
cửa đã hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu chỉ dựa trên sản xuất nhỏ là phổ biến không có được sự bổ
xung và tiếp thu những kỹ thuật tiên tiến. Chính vì vậy dẫn đến kết quả tất
yếu là năng suất lao động thấp hiệu quả kém, khả năng cạnh tranh yếu, tốc
3


độ tăng trưởng kinh tế thấp.
- Trong điều kiện hiện nay không một quốc gia nào có thể phát triển
nền kinh tế trong nước một cách có hiệu quả bằng chính sách đóng cửa sản
xuất. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn độc chỉ dựa vào
nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế khoa học
kỹ thuật của các nước khác tiên tiến hơn để phát triển. Nền kinh tế mở cửa
sẽ tạo ra cơ hội phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng
sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có
lợi nhất.
- Hầu hết các nước nghèo, lạc hậu hoặc đang phát triển đều thiếu vốn.
Trong khi đó quá trình phát triển nền kinh tế đòi hỏi phải nhập khẩu một
lượng ngày càng nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu công nghiệp do đó
chính sách mở cửa sẽ tạo ra một nguồn cung cấp các sản phẩm này cho
hoạt động sản xuất trong nước có chất lượng cao hơn, giá thành rẻ hơn so
với việc tự sản xuất trong nước kéo theo việc sản phẩm cuối cùng được sản
xuất ra sẽ đáp ứng được nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu ra
bên ngoài.
Chính từ những hạn chế của chính sách đóng cửa trên và xuất phát từ
một nền kinh tế đang phát triển như nước ta, Đảng và nhà nước ta coi hoạt
động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu hàng hóa nói
riêng là một chính sách có vai trò rất quan trọng nhằm phục vụ cho quá

trình của nền kinh tế quốc dân. Chính sách nhập khẩu phải phải tranh thủ
được tới mức cao nhất nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước
ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa trong nước phát triển, giải quyết
việc làm cho người lao động, thực hiện phương châm phát triển nhập khẩu
hàng hóa vừa phục vụ cho tiêu dùng vừa phục vụ cho các ngành sản xuất
trong nước ngày càng có hiệu quả hơn.
1.1.1.2. Ý nghĩa
Từ những đòi hỏi thực tế của nền kinh tế cho thấy hoạt động xuất nhập
khẩu đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước, trong đó nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và
quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.
4


Trước hết nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia,
cho phép quốc gia đó tiêu dùng một lượng hàng hóa nhiều hơn mức sản
xuất. Nhập khẩu không những để bổ xung các hàng hóa trong nước không
thể sản xuất được hoặc không đáp ứng đủ nhu cầu mà nhập khẩu còn để
thay thế, nghĩa là nhập khẩu các sản phẩm mà việc sản xuất trong nước
không hiệu quả bằng nhập khẩu. Hai mặt hàng nhập khẩu bổ xung và nhập
khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ có tác động tích cực đến việc thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Nhập khẩu sẽ làm đa dạng hóa mẫu mã quy cách các loại hàng hóa.
Mỗi quốc gia dù to lớn như Mỹ hay đông dân như Trung Quốc cũng không
thể tự mình sản xuất được tất cả các loại hàng hóa mà thế giới có thể sản
xuất được trong khi nhu cầu của nhân dân lại cực kỳ đa dạng, vì vậy nhờ có
nhập khẩu mà nhu cầu này sẽ được đáp ứng. Vai trò của nhập khẩu giải
thích vì sao Mỹ sản xuất được ô tô mà vẫn phải nhập khẩu ô tô từ Nhật
Bản, Hàn Quốc và ngược lại, đơn giản chỉ vì chủng loại, mẫu mã sản phẩm
của các nước này khác nhau.

Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Hàng hóa bên ngoài
xâm nhập vào thị trường nội địa phá vỡ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền
kinh tế đóng và chế độ tự cung tự cấp không còn tồn tại nữa. Do sự cạnh
tranh giữa những nhà sản xuất trong nước và nước ngoài đã tạo ra động lực
buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng áp dụng khoa học kỹ
thuật tiên tiến vào sản xuất và tạo ra sự phát triển xã hội và sự thanh lọc các
nhà sản xuất trên thị trường.
Nhập khẩu tạo ra sự cạnh chuyển giao công nghệ. Vai trò này cực kỳ
quan trọng đối với các nước có trình độ kỹ thuật công nghệ chưa phát triển
như nước ta. Chúng ta có thể nhập khẩu hàng hóa nhưng cũng có thể nhập
khẩu công nghệ vào đất nước. Vốn và công nghệ là hai yếu tố mà bất kỳ
một nền sản xuất nào cũng phải có. Thông qua con đường nhập khẩu sẽ có
được những công nghệ, kỹ thuật hiện đại mà các nước khác nếu nghiên cứu
cũng phải mất nhiều năm mới có được.
Nhập khẩu còn là cầu nối thông suốt nền kinh tế thị trường trong nước
và nước ngoài, tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc tế,
5


phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hóa.
Cùng với xuất khẩu, nhập khẩu cũng giúp cho nền kinh tế thế giới thành
một thể thống nhất.
Nhập khẩu hàng hóa có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của mỗi
quốc gia. Trong điều kiện nước ta hiện nay tác động của nhập khẩu còn
được thể hiện ở các khía cạnh sau :
- Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo từng bước công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước.
- Bổ xung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân về hàng tiêu

dùng,vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu vừa tạo điều kiện
cho việc sản xuất hàng hóa ra thị trường thế giới.
1.1.2. Khái niệm và phân loại thị trường nhập khẩu hàng hóa ở nước ta
1.1.2.1. Khái niệm
Cùng với sự phát triển của các hoạt động ngoại thương cũng đã có rất
nhiều quan niệm khác nhau về thị trường nhập khẩu với nhiều cách nhìn
nhận khác nhau. Theo quan điểm hiện đại thì thị trường nhập khẩu là quá
trình mà người mua và người bán ở những nước khác nhau tác động qua lại
với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa mua bán hay thị trường
nhập khẩu là tổng thể các quan hệ về lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền
tệ, tổng thể các mối quan hệ giao dịch mua bán và dịch vụ diễn ra giữa chủ
thể quốc gia này với chủ thể ở một quốc gia khác. Theo quan điểm hiện đại
cũng có thể nói thị trường nhập khẩu là tập hợp các khách hàng nước ngoài
có nhu cầu, có khả năng thanh toán nhưng chưa được thỏa mãn và đang sẵn
sang chờ đợi được thỏa mãn nhu cầu của mình. Như vậy theo quan điểm
hiện đại thì thị trường nhập khẩu không cần thiết phải xuất hiện cùng một
lúc cả ba yếu tố người mua, người bán và hàng hóa, người sản xuất nước
không cần biết người tiêu dùng sản phẩm cuối cùng của mình là ai, ở đâu
và người tiêu dùng cũng không cần giao dịch trực tiếp với người sản xuất
mà có thể thông qua trung gian. Đây có thể nói là một quan điểm được
nhiều người chấp nhận nhất vì nó phù hợp với trình độ sản xuất kinh doanh
6


của các quốc gia trên thế giới hiện nay.
1.1.2.2. Phân loại
1.1.2.2.1. Theo địa lý
- Thị trường khu vực ( Châu Á, châu Âu, châu Mỹ….).
- Thị trường quốc gia và lãnh thổ ( như thị trường Mỹ, Nhật Bản,
Trung Quốc….).

1.1.2.2.2. Theo tầm quan trọng của thị trường
- Thị trường trọng điểm.
- Thị trường thứ yếu.
1.1.2.2.3. Theo trình độ phát triển
- Thị trường công nghệ nguồn.
- Thị trường trung gian.
- Thị trường thứ cấp.
1.1.2.2.4. Theo mức độ khai thác
- Thị trường hiện hữu.
- Thị trường tiềm năng.
1.1.2.2.5. Theo mức độ kiểm soát
- Thị trường hạn ngạch.
- Thị trường phi hạn ngạch.
1.1.3. Vai trò của thị trường nhập khẩu hàng hóa đối với doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các hoạt động ngoại thương chịu tác
động rất lớn của sự bùng nổ thông tin và khoa học kỹ thuật, đồng thời hoạt
động trong cơ chế thị trường, tự do cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu phải thường xuyên nắm bắt được các yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động nhập khẩu, xu hướng vận động và tác động của nó
đến toàn bộ quá trình của hoạt động nhập khẩu, Bên cạnh đó là vấn đề
nghiên cứu, tìm kiếm các thị trường nhập khẩu mới luôn được các doanh
nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu chú ý.
Đi cùng với việc tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu thì hoạt động
nhập khẩu luôn được các doanh nghiệp kết hợp nhằm tăng hiệu quả kinh
doanh của mình. Để hoạt động nhập khẩu hang hóa của doanh nghiệp đạt
hiệu quả cao đòi hỏi các doanh nghiệp trước khi nhập khẩu một mặt hàng
nào đó tại một thị trường nước ngoài cần phải tìm hiểu kỹ đặc điểm của
mặt hàng và đặc điểm của thị trường đó, điều này các doanh nghiệp không
7



chỉ đơn thuần xem xét đến các thông tin ở đơn đặt hàng mà các nhà cung
cấp chào mời, mà các doanh nghiệp còn phải nghiên cứu thực tế tại các thị
trường đó, sự biến động về giá cả, điều kiện thanh toán….và dự báo được
các thông tin đó trong tương lai nhằm đưa ra được một chiến lược kinh
doanh nhập khẩu có lợi nhất cho doanh nghiệp.
Do vậy đối vói các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu vai trò của việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường nhập khẩu
có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh và vị thế của doanh nghiệp
trên thương trường.
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CỦA
DOANH NGHIỆP

1.2.1. Sự cần thiết phải phát triển thị trường nhập khẩu của doanh
nghiệp
Đất nước chuyển sang nền kinh tế mở, các doanh nghiệp không còn
được nhà nước bao cấp và tìm kiếm thị trường cho nữa, giờ đây các doanh
nghiệp có quyền độc lập trong hoạt động kinh doanh của mình dưới sự
quản lý vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp tự hạch toán kinh doanh, tự
tìm đầu vào cho mình và tìm kiếm thị trường cho các sản phẩm được sản
xuất ra, kinh doanh trong tình hình mới không ít doanh nghiệp đã gặp phải
khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn hàng kinh doanh và làm quen với
những phương thức kinh doanh mới, tình trạng tồn đọng sản phẩm hàng
hóa khi nhập khẩu từ nước ngoài về xảy ra thường xuyên do không kịp
thích ứng với tình hình mới và hàng hóa nhập về từ các thị trường cũ không
có khả năng cạnh tranh vì chất lượng kém, giá bán cao và đơn điệu về
chủng loại. Do vậy trong thời đại mà thị trường luôn biến động và cạnh
tranh gay gắt như hiện nay để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần
phải không ngừng củng cố và phát triển thị trường, tìm mọi cách đáp ứng

ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường, đa dạng hóa mặt hàng kinh
doanh, đa phương hóa các mối quan hệ mua bán với các thị trường bên
ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế trong nước và thế giới luôn có nhiều
biến động như hiện nay, tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh
8


nghiệp luôn phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh tầm cỡ, thêm vào đó, ở
tầm vĩ mô nhà nước ngày càng mở rộng quyền tự do kinh doanh cho tất cả
các cá thể đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, các hiệp định
thương mại giữa các chính phủ ngày càng được quan tâm hơn do đó trên
một thị trường sẽ có nhiều hàng hóa cạnh tranh với nhau hơn cả về chủng
loại và nguồn gốc xuất xứ của chúng. Đi cùng với sự phát triển đó hệ thống
phân tích, dự báo thị trường và các thông tin về sản phẩm mới ngày càng
chính xác và kịp thời hơn, tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, muốn tồn tại và phát
triển ổn định thì các doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát triển
thị trường của mình, phải dự đoán được sự biến động của thị trường thế
giới và nhu cầu của thị trường trong nước từ đưa ra các biện pháp nâng cao
khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Khi các được thông tin đầy
đủ về thị trường nhập khẩu thì việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu từ những
thị trường thích hợp nhât sẽ là điều kiện đầu tiên quyết định sản phẩm nhập
về được tiêu thụ dễ dàng hơn, khi các sản doanh nghiệp được nhiều người
tiêu dùng lựa chọn thì uy tín của các sản phẩm cũng như của doanh nghiệp
sẽ ngày càng tăng và điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát triển ổn định.
1.2.2. Nội dung của hoạt động phát triển thị trường nhập khẩu
1.2.2.1. Nghiên cứu và dự đoán xu hướng biến động của thụ trường
quốc tế
1.2.2.1.1. Nghiên cứu thị trường quốc tế

Thị trường không phải lúc nào cũng ổn định vì nó luôn chịu sự ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Do thị trường luôn biến động nên nó tác
động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự biến
động của thị trường có thể tạo ra các cơ hội cho doanh nghiệp nhưng cũng
có thể tạo ra những trở ngại, cạm bẫy cho hoạt động kinh doanh. Vì vậy, để
có thể tận dụng một các tốt nhất các cơ hội mà thị trường đem lại và hạn
chế thấp nhất các rủi ro cho sự phát triển của mình thì các doanh nghiệp
phải thực hiện hoạt động nghiên cứu thị trường của mình.
Khi doanh nghiệp muốn tìm kiếm một thị trường nước ngoài nào đó
9


thì hoạt động nghiên cứu thị trường càng trở nên quan trọng hơn vì các
nhân tố tác động tới thị trường đó rất đa dạng và phức tạo do vậy mức độ
biến động thị trường là rất cao.
Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để định ra các chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp từ đó xác định và thực hiện các kế hoạch sản
xuất kinh doanh, các chính sách thị trường. Hoạt động nghiên cứu thị
trường trở nên đặc biệt quan trọng khi doanh nghiệp đang muốn tìm kiếm
những thị trường mới.
1.2.2.1.2. Dự đoán xu hướng biến động của thị trường
Sau khi tiến hành nghiên cứu thị trường, các doanh nghiệp cần phải
thực hiện việc phân tích số liệu và dự báo thị trường nước ngoài. Dự báo
thị trường nước ngoài có tầm quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp
trong việc hoạch định các chiến lược, chính sách trong tương lai trong đó
có chiến lược phát triển thị trường của các doanh nghiệp. Để có được hình
ảnh đầy đủ về thị trường tương lai của doanh nghiệp thì lí tưởng nhất là có
thể dự báo mọi khía cạnh của thị trường, từ các đặc trưng khai quát đến các
đặc điểm chi tiết của nó. Tuy nhiên trong thực tế khó có thể dự báo được
chính xác động thái của thị trường do đó các doanh nghiệp chỉ nên tập

trung dự báo những đặc trưng quan trọng nhất của thị trường như tổng mức
cung của thị trường, quy mô của các nhà máy tại thị trường đó, cơ cấu sản
phẩm bán ra trên thị trường. Về thời hạn dự báo cũng cần xem xét kỹ
lưỡng. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới và thị trường thế giới đang có
những biến động lớn thì các dự báo ngắn hạn có nhiều khả năng thực hiện
hơn song điều đó không có nghĩa là xem nhẹ các dự báo trung và dài hạn,
đặc biệt đối với các doanh nghiệp chuẩn bị thâm nhập vào thị trường thị
trường mới hay các lĩnh vực hoạt động mới. Đối với các doanh nghịêp này
thì vấn đề quan trọng hàng đầu lại không phải là những lợi ích trước mắt
mà chính là triển vọng lâu dài về thị trường mà họ quan tâm. Trong việc
hoạch định các chính sách phát triển thị trường các doanh nghiệp có thể sử
dụng nhiều phương pháp dự báo khác nhau, mỗi phương pháp đề có những
ưu điểm và hạn chế riêng.
Phương pháp chuyên gia: đây là phương pháp định tính để dự báo thị
10


trường trên cơ sở trưng cầu ý kiến của một tập thể chuyên gia và xứ lý kết quả
trưng cầu ý kiến theo nguyên lý hộ tụ độ đặc đám đông các ý kiến đánh giá cá
thể dưới dạng các tham số làm ý kiến đại diện cho cả tập thể chuyên gia.
Phương pháp thống kê và toán kinh tế: đây là phương pháp dự báo xu
hướng biến động của thị trường thông qua việc sử dụng các phương pháp
thống kê và toán kinh tế để phân tích các số liệu, các nhân tố tác động tới
thị trường trong thời gian qua từ đó tìm ra được sự phát triển của thị trường
trong tương lai.
Phương pháp ngoại suy: dựa vào sự biến động của thị trường trong
quá khứ hay hay các biến động chu kỳ của thị trường đó từ đó có thể thấy
được xu hướng biến động của thị trường trong tương lai, Có thể nói, dự báo
là khâu không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, nó là tiền đề của kế hoạch hóa hoạt động kinh doanh, lập ra các

chiến lược kinh doanh, phát triển thị trường trong tương lai của mỗi doanh
nghiệp.
1.2.2.2. Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường
1.2.2.2.1. Các chiến lược phát triển thị trường nước ngoài
Có hai chiến lược khác nhau trong việc phát triển thị trường nước
ngoài là chiến lược tập trung và chiến lược phân tán.
- Chiến lược tập trung: có ưu điểm cơ bản là chỉ thâm nhập sâu vào
một số ít thị trường nên dễ tập trung được các nguồn lực của doanh nghiệp,
việc chuyên môn hóa trong các nghiệp vụ kinh doanh và sản phẩm cần tìm
kiếm sẽ đạt được mức độ cao hơn. Mặt khác do tập trung được nguồn lực
của doanh nghiệp nên sẽ tạo được ưu thế trội hơn tại các thị trường đó. Tuy
nhiên chiến lược này có nhược điểm cơ bản là chỉ hoạt động trên một số ít
thị trường nên tính linh hoạt trong kinh doanh bị hạn chế, các rủi ro tăng
lên và khó đối phó khi có những biến động của thị trường.
- Chiến lược phân tán: được đặc trưng bằng việc mở rộng hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp cùng một lúc sang nhiều thị trường khác
nhau. Chiến lược này có ưu điểm chính là tính linh hoạt trong kinh doanh
cao hơn, hạn chế được các rủi ro trong kinh doanh song do hoạt động kinh
doanh bị dàn trải nên khó thâm nhập sâu hơn vào hoạt động thị trường và
11


hoạt động quản lý cũng phực tạp hơn, chi phí thâm nhập thị trường cũng
lớn hơn.
Xem xét trên thị trường cụ thể, các ưu điểm và hạn chế của hai chiến
lược trên cũng thể hiện khác nhau. Chẳng hạn về chủng loại sản phẩm, việc
mở rộng kinh doanh nhiều chủng loại sản phẩm hơn tại nhiều thị trường
hơn cho phép doanh nghiệp có nhiều khả năng lựa chọn mặt hàng kinh
doanh có tỷ suất lợi nhuận cao hơn và có khả năng mua được những mặt
hàng, loại sản phẩm thích hợp hơn với sự biến động tại thị trường tiêu thụ

của doanh nghiệp hay nói cách khác đầu vào của doanh nghiệp sẽ luôn theo
kịp với những đòi hỏi của đầu ra luôn bị biến động trên thị trường.
Ngược lại việc lựa chọn có mục đích một số ít thị trường để phát triển
chiều sâu lại tạo ra sự phân chia thị trường cao hơn, tạo nên vị trí cạnh
tranh vững chắc hơn cho doanh nghiệp.
Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến quyết định về việc lựa
chọn chiến lược thị trường của doanh nghiệp. Nói chung rất khó có thể lựa
chọn dứt khoát một trong hai chiến lược vì sự ảnh hưởng của các nhân tố
theo những hướng khác nhau khiến cho doanh nghiệp rất khó trong việc lựa
chọn chiến lược nào. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp có được những phân tích
cơ sở để đánh giá những cơ hội phát triển thị trường thì chúng sẽ tạo ra
được một bức tranh toàn cảnh giúp cho doanh nghiệp thấy rõ hiện trạng
kinh doanh của mình phù hợp với chiến lược nào.
1.2.2.2.2. Các hình thức thâm nhập vào thị trường nước ngoài
Việc lựa chọn phương thức tìm kiếm thị trường nước ngoài được thực
hiện trên cơ sở của hoạt động nghiên cứu, đánh giá thị trường và khả năng
của các doanh nghiệp. Kết quả phân tích đánh giá sẽ cho phép các doanh
nghiệp xác định những cơ hội kinh doanh, những mối đe dọa đối với doanh
nghiệp, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp khi thực hiện các hình
thức kinh doanh cụ thể ở từng thị trường lựa chọn.
Có thể đưa ra một số phương thức thâm nhập và tìm kiếm thị trường
mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thường áp dụng sau :
- Nhập khẩu: Đây là phương thức đơn giản nhất để mở rộng hoạt động của
doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài. Nhập khẩu có thể thực hiện dưới
12


hai hình thức:
+ Nhập khẩu trực tiếp: trong hình thức nhập khẩu này doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu trực tiếp giao dịch với các nhà sản xuất kinh doanh

nhập khẩu ở nước ngoài để nhập khẩu những mặt hàng phù hợp.
+ Nhập khẩu gián tiếp: doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các tổ chức
độc lập ngay tại nước mình để tiến hành nhập khẩu các mặt hàng mà mình
yêu cầu.
- Đầu tư trực tiếp:
Phương thức mở rộng hoạt động cao hơn của doanh nghiệp ra thị
trường nước ngoài là đầu tư trực tiếp để xây dựng các xí nghiệp đặt tại các
nước đó hoặc liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để sản xuất ngay
tại nước mình.
1.2.2.3. Triển khai chiến lược, kế hoạch thâm nhập và phát triển thị
trường
Việc thâm nhập và mở rộng thị trường nước ngoài có thể được lựa
chọn một trong hai cách tiếp cận khác nhau là cách tiếp cận thụ động và
cách tiếp cận chủ động.
Cách tiếp cận thụ động là việc doanh nghiệp phản ứng lại các yêu cầu
của thị trường nước ngoài không theo một kế hoạch định trước. Doanh
nghiệp chỉ xem xét thực hiện các đơn đặt hàng của mình một khi được các
nhà sản xuất nước ngoài đề nghị. Lựa chọn thị trường theo cách này không
mang tính hệ thống và định hướng rõ rang do đó làm cho hoạt động của
doanh nghiệp ít nhiều mang tính rời rạc.
Tuy nhiên để có thể hoạt động kinh doanh một cách vững chắc trên thị
trường quốc tế thì các doanh nghiệp phải chủ động tiếp cận thị trường quốc
tế trong việc lựa chọn thị trường và cách thức thâm nhập vào thị trường đó.
Trong khi sử dụng cách tiếp cận chủ động để phát triển thị trường nước
ngoài của doanh nghiệp, dù theo đuổi chiến lược tập trung phân tán thì
doanh nghiệp cũng phải đạt được mụa đích, lựa chọn ra những thị trường
có triển vọng nhất để tiến hành thâm nhập vào đó.
Việc lựa chọn thị trường mới để thâm nhập được tiến hành sau khi
doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị trường nước ngoài và quá trình đánh
13



giá khả năng của doanh nghiệp. Thực chất của việc đánh giá và phân tích
khả năng của doanh nghiệp là xác định lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp
ở từng thị trường, những cơ hội, mục tiêu và kết quả của doanh nghiệp có
thể đạt được.
Sau khi nghiên cứu thị trường và đánh giá khả năng của mình thì
doanh nghiệp tiến hành so sánh và lựa chọn để tìm ra một hoặc một số thị
trường hấp dẫn nhất đối với doanh nghiệp. Việc so sánh và lựa chọn thị
trường được tiến hành qua nhiều phương pháp như:
- Phương pháp lưới:
Đây là một phương pháp quan trọng thường được sử dụng trong so
sánh và lựa chọn các thị trường của một công ty. Phương pháp lưới cho
phép xác định những điều kiện có thể chấp nhận được hoặc không thể chấp
nhận được của một công ty tại thị trường nhất định. Theo phương pháp
này, các thị trường được sắp xếp theo giá trị của một số chỉ tiêu chủ yếu
thay đổi theo từng sản phẩm, theo mỗi công ty, phụ thuộc vào tình hình bên
ngoài và mục đích kinh doanh của công ty.
- Ma trận sức hấp dẫn quốc gia - sức mạnh công ty:
Phương pháp này cho phép nêu bất sự phù hợp về những thế mạnh của
công ty đối với một quốc gia nào đó dựa trên một số chỉ tiêu để đánh giá
như: quy mô thị trường, sự tăng trưởng của thị trường, vấn đề điều hành giá
cả, yêu cầu xuất nhập khẩu, lạm phát cán cân thương mại, sự ổn định về
chính trị.

14


Sức hấp dẫn
của quốc gia

B1

C1

A2

B2

C2

A3

B3

C3

Sức mạnh của công ty ở quốc gia đó
Theo phương pháp này, những thị trường xuất hiện ở gần góc C1 là
những thị trường được chú ý lựa chọn và ngược lại, những thị trường xuất
hiện ở góc A3 là các thị trường nên loại trừ.
- Ma trận cơ hội rủi ro:
Với ma trận cơ hội rủi ro một công ty có thể đánh giá được từng quốc
gia, quy mô hoạt động ở từng quốc gia và có thể dự đoán sự vận động của
các hoạt động đó trong tương lai. Theo phương pháp này, một công ty sẽ
lựa chọn các quốc gia có cơ hội lớn nhất và rủi ro ít nhất cho hoạt động
kinh doanh của mình.
1.2.2.4. Đánh giá khả năng và thực tế phát triển thị trường
Kết quả phân tích đánh giá sẽ cho phép các doanh nghiệp xác định
những cơ hội kinh doanh, những mối đe dọa đối với doanh nghiệp, điểm
mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp khi thực hiện các hình thức kinh

doanh cụ thể ở từng thị trường lựa chọn.
Dưới đây là một số phương thức thâm nhập và tìm kiếm thị trường và
đặc điểm của từng phương pháp mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu có thể lựa chọn dựa trên khả năng và thực tế phát triển thị
trường của mình:
- Nhập khẩu: Đây là phương thức đơn giản nhất để mở rộng hoạt động của
doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp thường bị
động trong hoạt động nhập khẩu, chỉ chờ đợi các nhà sản xuất nước ngoài
15


đến chào hàng.
Muốn hoạt động nhập khẩu được đẩy mạnh thì các doanh nghiệp phải
chủ động tìm kiếm nguồn hàng từ nhiều thị trường khác nhau. Hoạt động
nhập khẩu có nhiều thuận lợi cho các Công ty nhỏ ở các nước đang phát
triển vì chi phí cho hoạt động này thường rất nhỏ và với xu thế quốc tế hóa
các hoạt động kinh doanh thì việc tham gia buôn bán với các doanh nghiệp
nước ngoài cũng trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên hình thức này cũng sẽ gặp
phải một số cản trở khi thâm nhập vào các thị trường có nhiều rào chắn phi
thuế quan như vấn đề thanh toán giữa hai quốc gia chưa được ký kết, cơ
chế giải quyết tranh chấp, các thủ tục hải quan chưa thông qua….
Nhập khẩu có thể thực hiện dưới hai hình thức:
+ Nhập khẩu trực tiếp: trong hình thức nhập khẩu này doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu trực tiếp giao dịch với các nhà sản xuất kinh doanh
nhập khẩu ở nước ngoài để nhập khẩu những mặt hàng phù hợp. Hình thức
này tuy có làm tăng rủi ro trong kinh doanh song cũng có một số ưu điểm
hơn so với hình thức nhập khẩu gián tiếp do mức độ chủ động trong việc
tham gia đàm phán và giảm bớt các chi phí trung gian, doanh nghiệp có thể
liên hệ trực tiếp và thường xuyên với các nhà sản xuất và kinh doanh nước
ngoài,

+ Nhập khẩu gián tiếp: doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các tổ chức
độc lập ngay tại nước mình để tiến hành nhập khẩu các mặt hàng mà mình
yêu cầu.
- Đầu tư trực tiếp: Phương thức mở rộng hoạt động cao hơn của doanh
nghiệp ra thị trường nước ngoài là đầu tư trực tiếp để xây dựng các xí
nghiệp đặt tại các nước đó hoặc liên doanh với các doanh nghiệp nước
ngoài để sản xuất ngay tại nước mình. Thực hiện hoạt động phát triển thị
trường nước ngoài bằng đầu ư trực tiếp sẽ đem lại cho các doanh nghiệp
những thuận lợi lớn so với hình thức nhập khẩu như:
+ Vượt qua được các hàng rào thuế quan và phi thuế quan của nước đó.
+ Tận dụng được các ưu đãi đầu tư đặc biệt của các nước đang phát triển.
+ Tận dụng được những lợi thế của doanh nghiệp và huy động được các
nguồn vốn nước ngoài cùng tham gia vào sản xuất.
16


+ Tạo ra một nguồn cung cấp sản phẩm luôn luôn ổn định cho hoạt động
nhập khẩu của doanh nghiệp.
+ Tạo thêm việc làm và làm tăng thu nhập cho người lao động trong công ty.
+ Thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền sở tại, khách
hàng, nhà cung cấp.
+ Kiểm soát được hoàn toàn hoạt động đầu tư và kinh doanh do đó có thể
triển khai những chính sách phát triển của doanh nghiệp một cách thuận lợi
và lâu dài, tuy nhiên phương thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một
lượng vốn lớn, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động nhập khẩu và đầu tư,
dung lượng thị trường trong nước phải đủ lớn, vì vậy nó thường được thực
hiện giữa các nước phát triển tới các nước đang phát triển.
Hiện nay, với những nước đang phát triển như Việt Nam thì việc thâm
nhập vào thị trường nước ngoài chủ yếu được thực hiện dưới hình thức
nhập khẩu vì đây là hình thức đơn giản, ít tốn kém và phù hợp với các

doanh nghiệp chưa có vị thế và kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường thế
giới. Một số ít các doanh nghiệp tham gia liên doanh với các doanh nghiệp
nước ngoài để sản xuất các mặt hàng trước đây phải nhập khẩu ngay tại
trong nước nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của thị trường nội địa.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU PHÂN BÓN HÓA
HỌC VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

1.3.1. Đặc điểm của thị trường nhập khẩu phân bón
Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống về nông
nghiệp, chính vì vậy phân bón hóa học là một phần không thể thiếu trong
hoạt động sản xuất nông nghiệp nước ta. Hàng năm thế giới sản xuất
khoảng 80 triệu tấn phân hóa học thì Việt Nam cần khoảng từ 1,5 triệu đến
2 triệu tấn phân đạm tiêu chuẩn, con số này cho thấy vai trò to lớn của phân
hóa học trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước ta. Với điều kiện
nước ta có thể nói 4 mùa đều có thể gieo trồng và canh tác nên cần một
lương phân bón cung cấp thường xuyên cho từng mùa vụ. Hơn nữa do nền
công nghiệp hóa chất của nước ta chưa phát triển nên phần lớn phải nhập
khẩu từ các nước trên thế giới, đây là một điều kiện hết sức thuận lợi cho
các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phân hóa học. Trong những năm
gần đây nhận thấy tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp nên Nhà nước
17


đã xóa bỏ cơ chế hạn ngạch, hạn chế lượng phân bón nhập vào Việt Nam
hang năm, qua đó cho phép tất cả doanh nghiệp đều có thể tham gia vào
kinh doanh nhập khẩu mặt hàng này.
Trong thời gian tới, nhu cầu về phân bón hóa học trong nước vẫn tăng
do Việt Nam vẫn còn quỹ đất để đưa vào sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đã làm cho trình độ thâm canh của sản
xuất không ngừng tăng lên, do vậy nhu cầu phân bón vì thế cũng tăng theo.

Các loại phân hóa học phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như URE, Super
tuy trong nước đã có những nhà máy sản xuất nhưng số lượng còn hạn chế,
không đủ cung ứng cho hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nước, phần
lớn vẫn phải nhập khẩu, các loại phân khác như KCl, SA, DAP cũng phải
nhập khẩu do số lượng sản xuất không đáng kể. Phân bón nhập khẩu sẽ
theo xu hướng là tăng về chất lượng và giảm về giá cả. Giá cả của thị
trường phân bón do tinh chất thời vụ nên sẽ tiếp tục biến động theo mùa vụ.
Có thể khái quát xu hướng biến động của thị trường phân bón là : thị
trường sẽ tăng mạnh về nguồn cung để đáp ứng được nhu cầu trong nước
và giá cả sẽ được binh ổn do có sự điều tiết của Nhà nước.
Trong thời gian gần đây, giá phân bón thế giới tăng liên tục, kéo giá
trong nước tăng theo, ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và đời sống người
nông dân, nhất là trong khi giá các mặt hàng nông sản chưa có dấu hiệu
tăng. Tính từ đầu năm đến nay, giá phân urê đã tăng thêm 500- 700 đ/kg.
Chỉ trong vài ngày nay, giá bán lẻ urê ở miền Bắc và miền Trung đã vượt
ngưỡng 6.000 đồng/kg. Ở phía Nam, giá phân bón tăng mạnh hơn; một số
vùng đã tăng hơn 25% cách đây 1 tuần. Dự kiến vào tháng 6 khi vào vụ hè
thu, thị trường phân bón sẽ còn nhiều biến động khó lường.
Nguyên nhân chính khiến giá phân bón tăng là do giá gas tại các thị
trường sản xuất phân bón lớn như vịnh Ảrập, Nga, Belarus, Ucraina đều
tăng. Hơn nữa, tình hình căng thẳng ở Trung Đông do quan hệ của Iran với
Mỹ và các nước phương Tây. Nếu chiến tranh xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn
tới thị trường thế giới. Đặc biệt, những thay đổi chính sách XNK của Trung
Quốc đã tác động mạnh tới thị trường thế giới. Năm 2004, Trung Quốc XK
3,9 triệu tấn urê nhưng năm 2006 chỉ xuất 1,9 triệu tấn. Ngoài ra, do nhu
cầu phân urê của một số nước như Iran, Ấn Độ… tăng cũng tác động tới
giá phân urê. Trong 15 ngày đầu tháng 3/2007, giá phân urê thế giới tăng
thêm 5-15 USD/tấn, tại thị trường Yuzhnny là 328- 330 USD/tấn FOB, tại
18



biển Ban Tích: 315- 320 USD/tấn, thị trường Trung Đông: 330- 335
USD/tấn.
Thông tin từ Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT): Nhu cầu phân bón cả
nước trong năm 2007 khoảng 1,8 triệu tấn. Riêng vụ hè- thu sắp tới, cả
nước cần khoảng 420.000 tấn, trong đó miền Bắc là 40.000 tấn, miền
Trung 80.000 tấn, Nam bộ cần 300.000 tấn. Cân đối cung cầu tạm đủ, chỉ
cần nhập thêm rất ít. Tuy khối lượng nhập thêm không nhiều, nhưng đáng
lo ngại là giá NK mấy ngày gần đây từ Nga và các nước Trung Đông tăng
khá cao (khoảng 360 USD/tấn, tương đương 6.400 đồng/kg), nên DN nhập
về rất khó bán, khó có lợi nhuận. Vì thế, trong thời gian này, nhiều DN chỉ
nhập số lượng rất ít để theo dõi diễn biến của thị trường. Trong khi đó, các
nhà máy sản xuất phân bón trong nước chỉ mới đáp ứng được 50% nhu cầu
trong nước, còn lại phải nhập khẩu.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường nhập khẩu
phân bón của doanh nghiệp
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về thị trường thế giới
Đặc điểm tổng quát của thị trường mục tiêu là điều chính yếu cần xem
xét khi xây dựng cách thức thâm nhập vì môi trường cạnh tranh kinh tế-xã
hội, chính trị, luật pháp ở các nước thường không giống nhau.
1.3.2.1.1. Ảnh hưởng của giá cả
Thị trường phân bón là một thị trường luôn biến động, giá cả liên tục
thay đổi và dao động với biên độ mạnh trong những năm gần đây. Điều này
đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu
phân bón trong cả nước, nhất là trong thời gian gần đây, giá phân bón thế
giới tăng liên tục do nhiều nguyên nhân khác nhau, kéo giá trong nước tăng
theo, ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và đời sống người nông dân, nhất
là trong khi giá các mặt hàng nông sản chưa có dấu hiệu tăng.
1.3.2.1.2. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh quốc tế của doanh
nghiệp

Sự biến động của môi trường kinh doanh nước ngoài, sự thay đổi của
truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, chính trị xã hội, cơ sở hạ tầng,
hệ thống thông tin….cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu
phân bón của doanh nghiệp. Tác động của sự phát triển công nghệ trên thế
giới làm đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, cũng tạo ra các phương tiện hiện

19


đại trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, sản xuất chế tạo….Đây là nhân tố
khách quan mà bản thân doanh nghiệp phải nhận thức để thực hiện hoạt
động nhập khẩu cũng như kinh doanh phân bón có hiệu quả.
1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp nhập khẩu
1.3.2.2.1 .Nhân tố nguồn nhân lực
Đây là nhân tố đóng vai trò quyết định trong kinh doanh nhất là kinh
doanh nhất là kinh doanh thương mại. Trình độ năng lực của người lao
động là nhân tố tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Nguồn nhân lực của một doanh nghiệp bao gồm:
- Ban giám đốc xí nghiệp.
- Các cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp.
- Các cán bộ quản lý cấp trung gian.
- Đốc công và công nhân.
1.3.2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và tài chính
Cơ sở vật chất kỹ thuật và tài chính là những yếu tố vật chất hữu hình
quan trọng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói
đó là nền tảng quan trọng để thực hiện các hoạt động kinh doanh, đem lại
sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp, đối với các doanh nghiệp kinh
doanh thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông thì nhân tố này lại
càng đặc biệt quan trọng.
1.3.2.2.3. Các chủ trương chính sách của Nhà nước và chiến lược phát

triển kinh doanh hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp
Đây là nhân tố sẽ chi phối và tác động trực tiếp đến hoạt động nhập
khẩu của doanh nghiệp. Nó liên quan trực tiếp đến việc lập kế hoạch kinh
doanh, thực hiện và giám sát các hoạt động kinh doanh, do đó cần phải có
chủ trương, chính sách phát triển kinh doanh nhập khẩu hợp lý và phù hợp
với sự biến đổi của thực tế, góp phần đẩy mạnh hoạt động phát triển thị
trường nhập khẩu của doanh nghiệp.
1.3.2.2.4. Các đối thủ cạnh tranh
Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh và tình hình hoạt động kinh
20


doanh của họ đã tạo ra môi trường cạnh tranh mạnh mẽ có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của của doanh nghiệp, đó vừa là
động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nhưng đồng thời
cũng tạo ra những thách thức đồi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng vươn
lên. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần phải xác định rõ số lượng
các đối thủ cạnh tranh, ưu nhược điểm của họ, nghiên cứu chiến lược nhập
khẩu của họ, từ đó có những kế hoạch hợp lý. Ngoài ra , sức ép của các nhà
cung ứng, của khách hàng và của sản phẩm thay thế cũng ảnh hưởng nhiều
đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp.

21


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NHẬP
KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG SẢN
2.1 .KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ NÔNG SẢN


2.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức của Công ty cổ
phần vật tư nông sản
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam, nông nghiệp đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong những năm đầu quá độ đi lên CNXH.
Chính vì vậy ngày 1/6/1960 Nhà nước đã thành lập “Cục tư liệu sản xuất
nông nghiệp” nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ cho sản
phẩm sản xuất ra như nông sản, lúa, ngô, sắn….Cục tư liệu hoạt động trên
phạm vi cả nước với một mạng lưới cơ sở rộng khắp từ trung ương đến địa
phương. Năm 1968 Cục tư liệu sản xuất đổi tên thành cục vật tư nông
nghiệp trực thuộc Bộ nông nghiệp và năm 1972 đổi tên thành Tổng công ty
vật tư nông nghiệp và giữ tên đó cho đến nay.
Công ty cổ phần vật tư nông sản xuất phát là một đơn vị thành viên của
Tông công ty vật tư nông nghiệp, trước kia có tên la Trạm dịch vụ kỹ thuật
Nông nghiệp tổng hợp trực thuộc Tổng công ty vật tư nông nghiệp. Ngày
3/1/1990 theo quyết định của số 46 – HĐBT của Chính phủ quyết định
chuyển từ trạm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp thành Xí nghiệp đầu tư và thu
hồI nông sản thuộc Tổng công ty.
Đến ngày 15/9/1992, xí nghiệp đầu tư và thu hồi nông sản lại đổi tên
thành Công ty đầu tư phát triển Nông nghiệp và đến năm 1997 đổi tên
thành công ty cổ phần vật tư nông sản và giữ tên gọi đó đến nay.
Công ty cổ phần Vật tư nông sản là đơn vị thành viên của Tổng công
ty Vật tư nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).
Công ty được thành lập trên cơ sở sát nhập công ty Vật tư - Dịch vụ nông
nghiệp vào công ty Vật tư nông sản theo quyết định số 1111 NN-TCCBQD ngày 31/5/1997 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông
thôn.
22


Thi hành Nghị định số 41/CP của Thủ tướng chính phủ về việc cổ phần

hóa doanh nghiệp nhà nước, Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn đã ra quyết định số 3037 QD/BNN-ĐMDN ngày 03/11/2005 về việc
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước công ty Vật tư nông sản thành công ty
cổ phần. Cho đến thời điểm này công ty cổ phần Vật tư nông sản chính
thức hoạt động theo mô hình công ty cổ phẩn do nhà nước chi phối (cổ
phần nhà nước chiếm 51% trên tổng vốn Điều lệ).
Mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh của công ty là doanh nghiệp có
cơ quan quản lý là Hội đồng quản trị, cơ quan điều hành là ban giám đốc.
Công ty là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có tư cách pháp
nhân theo quy định của pháp luật, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản
nợ trong phạm vi phần vốn do đơn vị quản lý.
Công ty có Điều lệ tổ chức hoạt động, bộ máy quản lý và điều hành, có
con dấu riêng và được phép mở tài khoản giao dịch tại các hệ thống ngân
hàng theo quy định của pháp luật.
Công ty cổ phần Vật tư nông sản có những đặc trưng cơ bản dưới đây:
- Tên gọi đầy đủ bằng tiêng Việt: Công ty cổ phần Vật tư nông sản.
- Tên viết bằng tiếng Anh : AGRICULTURAL PRODUCTS AND
MATERIALS JOINT STOCK COMPANY.
- Tên viết tắt APROMACO.
- Vốn điều lệ của Công ty tại thời điềm thành lập Công ty cổ phần
Vật tư nông sản là 31.000.000.000 VNĐ ( Nhà nước nắm giữ 51% ).
- Lao động bình quân : 69 người.
- Trụ sở chính: Số 14 Ngô Tất Tố phường Văn Miếu quận Đống Đa
thành phố Hà Nội.
- Điện thoại: (04) 8 230 584 - FAX: (04) 8 434 913.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ từng bộ phận
trong cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần vật tư nông sản hiện
nay
2.1.1.2.1. Cơ cấu tổ chức hoạt động bộ máy của Công ty

Căn cứ Điều lệ của Công ty cổ phần vật tư nông sản, Công ty xây
23


dựng và tổ chức thực hiện một hệ thống quản lý mà theo đó bộ máy quản lý
và điều hành sẽ chịu trách nhiệm và nằm dưới sự lãnh đạo của Hội đồng
quản trị. Hệ thông quản lý, bộ máy quản lý và cơ chế quản lý do Giám đốc
xây dựng phương án trình Hội đồng quản trị phê duyệt.
Công ty có một Giám đốc điều hành và 2 Phó Giám đốc giúp việc
Giám đốc, một kế toán trưởng do Hội đồng quản trị bổ nhiệm. Giám đốc
điều hành hoặc 2 Phó Giám đốc có thể là các thành viên Hội đồng quản trị
và do Hội đồng quản trị bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm bằng một nghị quyết
được thông qua hợp thức.
Về tổ chức bộ máy quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty Vật tư nông sản được phân ra như sau:
- Mô hình tổ chức bộ máy văn phòng Công ty.
- Mô hình các cơ sở sản xuất kinh doanh trực thuộc.

24


a) Mô hình tổ chức bộ máy cơ quan văn phòng Công ty
Sơ đồ tổ chức bộ máy văn phòng Công ty :
Hội đồng quản
trị

Ban giám đốc

Phòng Tổ
chức

hành
chính

Phòng
Tài chính
kế toán

Phòng kế
hoạch
kinh
doanh

Cửa hàng
Tổng hợp
Văn Điển

Cửa hàng
Tổng hợp
Ngọc Hồi

Cửa hàng
Tổng hợp
Trường
Chinh

25

Ban kiểm soát

Chi

nhánh
Công ty
tại Hồ
Chí Minh

Chi
nhánh
Công ty
tại Thái
Bình

Cửa hàng
Tổng hợp
Cầu Giấy

Xưởng
sản xuất
bao bì


×