SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THCS & THPT BÀU HÀM
Mã số: ................................
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM
MÔN HOÁ HỌC LỚP 12
Người thực hiện: Nguyễn Thị Lam Hồng
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn: Hoá học
- Lĩnh vực khác: .......................................................
(Ghi rõ tên lĩnh vực)
Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
Hiện vật khác
Năm học: 2011 - 2012
1
PHƯƠNG PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM MÔN HOÁ HỌC LỚP 12
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang tiến hành
cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới đó, đổi mới giáo dục là một trong những trọng
tâm của sự đổi mới.
Với quan niệm giáo dục là quốc sách hàng đầu, báo cáo chính trị của đại hội
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học ”.
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện pháp
tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc vận động
lớn như : "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua thực hiện các cuộc vận động này
đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ nhưng chất
lượng thật sự của giáo dục hiện nay ở bậc THPT còn khá nhiều yếu kém . Yêu cầu đặt
ra cho chúng ta là phải tìm những nguyên nhân yếu kém một cách chính xác, phải
nhìn thẳng vào sự thật một cách khách quan.Từ đó bình tỉnh đưa ra những giải pháp
tích cực sát với thực tế để từng bước nâng cao chất lượng. Vấn đề này cần phải có
thời gian, công sức của mọi người trong toàn xã hội.
Trong những năm qua, một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học
sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai
thác tối đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt
về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh
khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có của các em để tìm
ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả tối đa, tránh cho các em bị
rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập. Đó chính là điều mà bản thân
muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học
sinh yếu.
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để
khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người
giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng
là khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp
phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học
hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là
trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm
đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác
2
duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác giáo dục ở
địa phương.
Từ thực tế dạy học Hoá học ở Trường THCS & THPT Bàu Hàm – Huyện Trảng
Bom – Tỉnh Đống Nai: Tỷ lệ học sinh yếu kém rất cao, thậm chí có những lớp số học
sinh này tương đương với số học sinh đạt yêu cầu. Vì vậy, việc tìm ra nguyên nhân và
có những biện pháp giúp đỡ những đối tượng học sinh này để các em đạt yêu cầu và
có kết quả cao hơn trong học tập nói chung và môn Hoá học nói riêng là việc làm rất
cần thiết.
Trong năm học 2011 – 2012, tôi được phân công dạy môn Hoá học lớp 12A2,
đây là một lớp có số học sinh yếu kém nhiều nhất khối 12, nhiều học sinh trong lớp
nằm trong diện lên lớp sau thi lại, đa số các học sinh này yếu ở tất cả các môn, trong
đó có bộ môn Hoá.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi
giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là
nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và
tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình. Đây cũng chính là lí do tôi chọn
đề tài “Phương pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn Hoá học khối 12” để triển khai
trong suốt năm học nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn cũng là góp phần
nâng cao chất lượng chung cho nhà trường.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
Giải pháp phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém bộ môn có mục đích nhằm
giúp cho học sinh xác định nội dung kiến thức đã tìm hiểu một cách chính xác mà
trong giờ học vì một lí do nào đó học sinh chưa nắm bắt được. Học sinh khi đã tiếp
thu, vận dụng được kiến thức bài học sẽ hình thành sự hứng thú, say mê với môn học
từ đó xác định cho mình kế hoạch học tập, phương pháp tự học, tự nghiên cứu, có tính
độc lập cao trong tư duy nhận thức sẽ thúc đẩy học sinh học tập tiến bộ …Trên cơ sở
đó giáo viên đề xuất thêm một số kiến nghị sư phạm nhằm thực hiện tốt hơn nữa nội
dung giáo dục toàn diện học sinh và hướng nghiệp cho học sinh .
Phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém là giáo viên phải bổ sung được những
“lỗ hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức có trong sách giáo khoa
Hoá học) để giải quyết, để giành lại kiến thức mà các em chưa lĩnh hội hết trong tiết
dạy chính trên lớp. Từ đó học sinh có thể hòa nhập theo kịp với các bạn trong tiết học
đang diễn ra trên lớp .
Muốn làm tốt hoạt động này thì bản thân giáo viên cần phải nắm bắt chính xác
và đánh giá được mức độ kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh trong mỗi tiết dạy để
chuẩn bị lên kế hoạch phụ đạo, thiết kế nội dụng tiết phụ đạo sao cho có hiệu quả
nhất, muốn vậy thì cần phải biết rõ căn cứ, hiểu và kết hợp giải quyết được các vấn đề
sau:
- Tìm hiểu tại sao học sinh sợ, chán, học yếu kém học môn Hoá học và tìm cách
giải tỏa tâm lí này ở một số em.
3
- Hướng dẫn học sinh tự đánh giá hiểu biết của bản thân về môn học và tự rèn
luyện ý thức học tập.
- Giáo viên xác định được khối lượng kiến thức đối với từng bài học cụ thể cho
đối tượng học sinh yếu kém, để đề ra nội dung, hình thức và phương pháp dạy thích
hợp nhất.
Như vậy cần ở học sinh phải hoàn toàn tự giác cao trong suy nghĩ và hành động,
tích cực phối hợp với giáo viên, có suy nghĩ, cân nhắc kĩ lưỡng những thông tin nhận
được để “vá lại lỗ hổng kiến thức” và phản hồi lại kiến thức một cách chính xác, khoa
học nhất. Muốn vậy giáo viên là người rất quan trọng cần phải có các hướng dẫn cụ
thể để giúp học sinh .
Phụ đạo cho học sinh yếu là một hoạt động bình thường và không thể thiếu được
trong bất kỳ trường THPT nào. Đây chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
người thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho các học sinh không theo kịp bạn bè
có thể nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhằm lấp lỗ hổng kiến thức của bản thân.
Trong đơn vị trường học việc tổ chức các lớp học phụ đạo cho học sinh yếu kém là
việc làm thường xuyên chứ không phải chỉ là phong trào thi đua hoặc để đối phó với
một đợt thi hoặc kiểm tra.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin được trình bày một số nguyên nhân ảnh
hưởng đến chất lượng dạy học còn yếu kém và một số biện pháp để nâng cao chất
lượng dạy học môn Hoá học ở trường THPT hiện nay.
Thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung do Bộ GD & ĐT phát
động, trong đó có nội dung “Chống bệnh thành tích trong giáo dục” là một trong
những chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta hiện nay nhằm đánh
giá thực chất chất lượng học sinh. Bên cạnh đó cũng phản ánh được chất lượng và
hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Những học sinh lên lớp là những học sinh có kiến
thức thực sự, xứng đáng đựơc lên lớp. Những học sinh không đảm bảo được yêu cầu
sẽ không được lên lớp. Xuất phát từ vấn đề này, chúng ta không thể hiểu theo hướng
là vô tư để học sinh yếu kém “ở lại lớp” mà không có trách nhiệm của giáo viên trong
đó. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu kém gồm có chủ quan và khách
quan mà nếu giáo viên kịp thời quan tâm, giáo dục sẽ giúp cho nhiều học sinh yếu
kém tiến bộ và thoát khỏi tình trạng yếu kém.
Đối tượng học sinh học tập yếu, kém vẫn luôn tồn tại trong giáo dục, tuy nhiên
về số lượng học sinh yếu, kém nhiều hay ít và mức độ tiến bộ của học sinh yếu, kém
nhanh hay chậm trong quá trình được giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan
tâm của riêng mỗi nhà trường.
Tuy cùng được học một nội dung chương trình giáo dục giống nhau, nhưng mỗi
học sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau, có điều kiện hoàn cảnh
sống và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình khác nhau, có động cơ và thái độ học tập
khác nhau, môi trường giáo dục khác nhau (mà trong đó có sự dạy dỗ của thầy cô
giáo) thì năng lực học tập, khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng phải
khác nhau.
4
Giúp đỡ học sinh yếu kém được gắn với cuộc vận động “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” và “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học
và sáng tạo”. Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động “Hai không” do Bộ GD-ĐT phát
động, cương quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong các lần tổ
chức kiểm tra - thi cử trong toàn ngành.
Việc phụ đạo kiến thức cho học sinh yếu kém bộ môn là một trong những vấn đề
rất quan trọng, cấp bách, cần thiết và không thể thiếu trong mỗi môn học ở các cấp
học. Nhất là trong cuộc vận động “Hai không “ hiện nay, đòi hỏi giáo viên và học
sinh phải dạy thực chất và học thực chất. Song song với vấn đề trên, học sinh phải
nhanh chóng tiếp cận được phương pháp dạy học mới đang được triển khai, hiện
hành: “Học sinh học theo hướng tích cực: độc lập, chủ động, nghiên cứu, tìm tòi, sáng
tạo …để lĩnh hội, vận dụng kiến thức”. Và trong các môn học thì bộ môn Hóa Học rất
cần phải phụ đạo cho một số học sinh chưa nắm bắt kịp, vận dụng được kiến thức bài
học.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2. 1. Xác định thực trạng
2.1.1. Đặc điểm tình hình nhà trường
a. Thuận lợi
- Nhà trường có đủ số lượng giáo viên : 100% đạt chuẩn trở lên, trong đó có
25% đạt trên chuẩn.
- Trường có chi bộ Đảng lãnh đạo, gồm 10 Đảng viên.
- Lực lượng giáo viên còn rất trẻ, đặc biệt là giáo viên khối THPT, nhiệt tình,
tâm huyết, năng động, có quyết tâm thay đổi
- Được nhà nước quan tâm đầu tư nên số phòng học, các phòng chức năng và
tài chính nhìn chung là đảm bảo ở mức tối thiểu.
- Nhà trường có uy tín kể từ ngày thành lập (5 năm), nhiều năm liền được công
nhận là đơn vị tiên tiến, hằng năm đều có giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, huyện, có học
sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh .
- Tập thể sư phạm đồng thuận, tạo được bầu không khí đoàn kết, yêu thương
giúp đỡ nhau, đây thực sự là một sức mạnh tổng hợp giúp tập thể nhà trường đi lên
trong thời gian qua.
- Nhà trường nhận được sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền địa phương và
một bộ phận phụ huynh học sinh.
b. Khó khăn
- Khi mới thành lập vào năm học 2007-2008, nhà trường chỉ có khối THPT,
đến học kì II năm học 2009-2010 (tháng 1/2010) nhà trường mới tiếp nhận giáo viên
và học sinh khối THCS có hộ khẩu xã Bàu Hàm từ trường THCS Nguyễn Văn Trỗi,
xã Sông Thao (trước đây xã Bàu Hàm chưa có trường THCS). Chính vì lực lượng
thiếu đồng bộ, bị động trong việc tiếp nhận khối THCS (giữa năm học) nên hoạt động
của nhà trường gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong công tác kiểm tra đánh giá do có
nhiều sự khác biệt, không thống nhất giữa các cấp học khác nhau.
5
- Một bộ phận giáo viên đã lớn tuổi thiếu sự năng động sáng tạo, đôi lúc gây
những đình trệ cho một số hoạt động của nhà trường đặc biệt là trong việc đổi mới
phương pháp dạy học.
- Chất lượng đầu vào của học sinh thấp, nhà trường tuyển sinh bằng hình thức
xét tuyển và tuyển gần như toàn bộ số học sinh nộp đơn xin xét tuyển vào trường.
- Chất lượng học tập của học sinh còn ở mức thấp (tỉ lệ học sinh lên lớp thẳng
chỉ đạt 70 % trong năm học 2010 – 2011)
- Việc giáo dục hạnh kiểm học sinh gặp nhiều khó khăn do thiếu sự quan tâm,
phối hợp của gia đình học sinh, mặt khác công tác này cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ
bên ngoài xã hội, đặc biệt ở khối THCS chỉ có 65 % học sinh có hạnh kiểm khá, tốt.
- Đời sống giáo viên còn khó khăn, nhiều giáo viên phải ở trọ, lương chưa đảm
bảo nhu cầu của bản thân và gia đình.
- Trường đóng trên địa bàn tương đối nhạy cảm về an ninh, trật tự và tệ nạn xã
hội như cờ bạc, ma tuý, trộm cắp…
2.2.2. Nguyên nhân chất lượng học tập của học sinh yếu kém ở Trường
THCS & THPT Bàu Hàm – Trảng Bom – Đồng Nai
a. Đối với học sinh
- Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm học tập,
mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới. Nhiều học sinh đuối sức trong học tập, không
theo kịp các bạn, thiếu kiến thức, kỹ năng, khả năng để học tập lớp đang học (ngồi
nhầm lớp), sinh ra chán học, sợ học (hội chứng sợ học).
- Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học
tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Khả năng chú ý và tập
trung vào bài giảng của giáo viên không bền, lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải
giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy
khả năng của mình. Khả năng học tập của học sinh rất khác nhau, cùng một độ tuổi và
1 lớp nhưng trình độ các em có thể chênh nhau khá lớn. Đọc chậm, đọc sai, viết chậm,
viết sai đặc biệt là môn ngoại ngữ bởi vì hầu hết các em là dân tộc Hoa, Nùng, Sán
Chỉ… Không biết làm tính, yếu các kỹ năng tính toán cơ bản, cần thiết.
- Một số học sinh đi học thất thường đặc biệt học sinh vắng nhiều vào các buổi
chiều, ham chơi, la cà quán xá.
- Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động, lệ
thuộc vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng không hiểu gì cả ), học
vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức, trong thi cử thì quay cóp và tài liệu.
Có một bộ phận học sinh theo phong trào nên tham gia học thêm quá nhiều, mất rất
nhiều thời gian nhưng không có hiệu quả, học sinh không "tiêu hóa" hết sinh ra uể
oải, nhàm chán. Còn phân biệt môn chính, môn phụ nên học lệch. Nhà trường tổ chức
phụ đạo cho học sinh yếu kém nhưng chính các học sinh yếu này lại không chịu đi
học phụ đạo.
- Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em
học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc
học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến
6
trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học.
Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung
đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên
điều gì.
- Học sinh không có thời gian cho việc tự học: Một số học sinh do hoàn cảnh gia
đình khó khăn nên ngoài thời gian học trên lớp, khi ở nhà các em phải phụ giúp gia
đình việc đồng áng, chăn trâu, chăn bò, làm rẫy, trồng tiêu, cà phê…
- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận với
chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo
viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.
b. Đối với cha mẹ học sinh
Tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần thấp, thái độ học tập của học sinh, chất lượng
học tập cho thấy nhận thức và thái độ của phụ huynh trong việc hợp tác với nhà
trường là chưa cao. Qua đó cho thấy một bộ phận phụ huynh chưa thật sự quan tâm,
chăm lo và đôn đốc con em mình học tập, còn phó thác cho nhà trường, cho thầy cô.
Việc phụ huynh trong vùng đi làm ăn xa lâu lâu mới về nên việc phối hợp giáo dục là
rất hạn chế. Một số gia đình không hạnh phúc ảnh hưởng đến học tập của học sinh.
Người lớn chưa làm gương về chuyện học.
- Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế hoặc đời sống tình cảm khiến
trẻ không chú tâm vào học tập.
- Một số cha mẹ quá nuông trìu con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh
lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi hay đi du lịch...) cha mẹ cũng đồng ý
cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần căn
bản...và rồi yếu kém!
- Nhiều gia đình có quan niệm không cần cho con học Tiếng Việt chỉ cần học
Tiềng Hoa và vi tính thì có thể làm việc ở các Khu công nghiệp như Khu công nghiệp
Bàu Xéo – Trảng Bom với lương rất cao.
c. Đối với giáo viên
Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần
ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay,
để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không
ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải
giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây
giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng
học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy,
vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh,
đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính
tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia
đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh
học yếu mà bản thân nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích những
nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh yếu.
7
- Đa số đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm chút học sinh nhưng cũng có
trường hợp chỉ thành công trong đối tượng là học sinh khá trở lên.
- Trước đây khi chưa triển khai chương trình thay Sách Giáo Khoa và sử dụng
phương pháp mới (dạy, học theo hướng tích cực ) thì phương pháp giảng giải nêu vấn
đề thường là phương pháp chủ đạo làm cho học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ
động nên rất dễ quên kiến thức nếu không học thuộc lòng, học bài thường xuyên.
- Mặt khác thông qua việc đọc cho học sinh ghi nội dung kiến thức làm cho học
sinh không tự rèn luyện được tính làm việc độc lập, tự nghiên cứu có hiệu quả, thậm
chí học sinh không quan tâm giáo viên giảng bài như thế nào mà khi đọc cho ghi thì
mới ghi vào vở, kiến thức ghi có thể không chính xác do nghe lộn dẫn đến hiểu sai
lệch kiến thức, lâu dần sẽ mất căn bản môn học.
- Bên cạnh đó thêm một tồn tại đó là khi giáo viên đưa ra câu hỏi thì lập tức học
sinh cắm cúi vào sách giáo khoa, không có sự linh động, sáng tạo trong đầu, có khi
còn sợ bị gọi trả lời, làm tiết học trở nên trầm trầm rời rạc. Kết quả là giáo viên
thường xuyên bị “ cháy” giáo án, học sinh nắm bài hời hợt trở thành yếu kém làm
hiệu quả tiết dạy chưa cao .
- Còn một số giáo viên chưa nắm chắc những những yêu cầu kiến thức của từng
bài dạy. Nhiều giáo viên còn “tham” kiến thức trong các tiết dạy nên việc dạy học còn
dàn trải, còn nâng cao kiến thức một cách tùy tiện, đặc biệt đối với những giáo viên
mới ra trường mang tâm lí thể hiện bản thân, chưa chú trong đến đối tượng học sinh
- Còn một số giáo viên chưa thực sự chú ý đúng mức đến đối tượng học sinh yếu,
kém, chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút của học sinh.
Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho học sinh yếu kém
không theo kịp.
- Một số giáo viên chưa thật sự chịu khó, tâm quyết với nghề, chưa thật sự “giúp
đỡ” các em thoát khỏi yếu kém. Từ đó các em cam chịu, dần dần chấp nhận với sự
yếu kém của chính mình và nhục chí không tự vươn lên...
- Một số giáo viên còn thiếu nghệ thuật cảm hoá học sinh yếu kém, không gây
hứng thú cho học sinh thích học môn mình...
- Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng;
có những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm.
Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, thí nghiệm còn hạn chế,
chưa khai thác hết tác dụng của đồ dùng dạy học.
- Chưa xử lý hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ chức các hoạt động còn
mang tính hình thức chưa phù hợp.
- Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm dối
tượng còn hạn chế.
- Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi học sinh có một biểu hiện tích cực
hay sáng tạo dù là rất nhỏ.
- Chưa quan tâm đến tất cả học sinh trong lớp, giáo viên chỉ chú trọng vào các
em học sinh khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.
8
- Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất
lượng học tập của học sinh, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo của cấp trên.
- Tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích, không đánh
giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy.
Tóm lại, việc phụ đạo cho học sinh yếu kém là một giải pháp rất chính đáng,
thực sự cần thiết và cần được đổi mới phương pháp, hình thức phụ đạo mở rộng trong
tất cả các môn học khác dưới sự giúp đỡ của nhà trường và sự đồng tình ủng hộ của
các giáo viên khác trong và ngoài nhà trường.
d. Môi trường xã hội:
- Tình hình kinh tế xã hội của địa phương nhìn chung có đi lên nhưng không ổn
định, theo mùa vụ. Thu nhập của người dân chủ yếu dựa vào các cây trồng như tiêu,
cà phê, nhiều gia đình có người thân ở nước ngoài hay nhiều gia đình cho con gái kết
hôn với người nước ngoài như Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc…gây tâm lí ỷ lại
cho học sinh, tạo cho học sinh suy nghĩ rằng không cần học cũng có cuộc sống thoải
mái, sung túc.
- Môi trường xung quanh của nhà trường ngày càng phức tạp, ngày càng nhiều
các hàng quán như quán café, quán ăn…Thanh thiếu niên bỏ học nhiều, tụ tập tại các
quán xá, lôi kéo, rủ rê học sinh.
- Chính quyền địa phương chưa có các biện pháp thật sự hữu hiệu để tạo môi
trương sống lành mạnh cho người dân.
2.2. Phân loại học sinh yếu kém môn Hoá học 12
- Căn cứ 1: Điểm bộ môn năm học qua, tham khảo thêm điểm một số môn học có liên
quan hoặc gần gũi ví dụ như Toán, Lý.
- Căn cứ 2: Điểm khảo sát chất lượng học sinh đầu năm.
- Căn cứ 3: Những biểu hiện và quá trình học tập trên lớp, các con điểm hiện tại.
Căn cứ vào những khía cạnh trên, học sinh yếu kém môn Hoá học 12 có thể chia
thành những nhóm sau:
Nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung nhưng có khả năng tiếp thu bài.
Nhóm 2: Có ý thức học tập nhưng khả năng tiếp thu bài chậm so với học sinh bình
thường.
Nhóm 3: Có ý thức học tập nhưng chưa có phương pháp học tập đúng đắn.
Nhóm 4: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh lười học.
2.4. Một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém
a. Các biện pháp chung
* Giáo dục ý thức học tập cho học sinh
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú
trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo
viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm
quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám
phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia
đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi
9
có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học
tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối
hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, đa số các phụ
huynh thiếu sự quan tâm đến con cái, bản thân phụ huynh cũng chưa hiểu được tầm
quan trọng của việc học tập. Giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự
quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho
các em ý chí phấn đấu vươn lên.
* Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao.
Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an
toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống
của bản thân mình.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không la
mắng nặng lời hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm
thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích
cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc
làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Đặc biệt đối với
môn Hoá học, hình thức kiểm tra chủ yếu hiện nay là trắc nghiệm khách quan nên khi
chấm trả bài giáo viên thường hay bỏ qua phần nhận xét bài làm. Giáo viên cần có sự
quan tâm, đối với những học sinh có tiến bộ, giáo viên phải nhận ra và động viên kịp
thời, có thể nhận xét trực tiếp vào bài làm hoặc khen ngợi trực tiếp trước lớp sau mỗi
bài kiểm tra.
Giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh một cuốn sách hay “Bách khoa toàn thư
về những học trò lười”. Sách kể về những tên tuổi như Einstein, Disney, Darwin và
Picasso…được thế giới biết đến như những thiên tài nhưng không phải ai cũng biết họ
từng là những học sinh lười biếng, không có gì nổi bật khi cắp sách đến trường nhưng
họ đã để lại dấu ấn sáng chói trong lịch sử văn minh loài người. Câu chuyện trên là
một thông điệp mà giáo viên gởi tới các em học sinh, các bậc phụ huynh, quí thầy cô,
những người luôn có ước vọng nuôi dưỡng tài năng tiềm tàng chứ không đơn thuần
chỉ đặt niềm tin vào những điểm số nổi bật trong lớp.
Tuy nhiên đối với một số đối tượng học sinh, ở một số tình huống cụ thể nào đó,
giáo viên cũng cần thể hiện sự nghiêm khắc, răn đe để đưa các em vào nề nếp, khuôn
khổ. Điều quan trọng là giáo viên phải tác động được vào ý thức của học sinh, học
sinh hiểu rằng sự nghiêm khắc ấy nhằm mục đích giáo dục, vì bản thân các em, không
có sự trù dập hay phân biệt đối xử với học sinh.
* Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm
vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và
riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả
năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…
10
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong
cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của
các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc
trưng này.
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm
tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp.
Ví dụ khi học bài Este, học sinh yếu chỉ cần biết gọi tên, viết được các phương
trình phản ứng thuỷ phân este trong môi trường axit và thuỷ phân este trong môi
trường kiềm của những este đơn chức tạo thành từ axit cacboxylic no đơn chức và
ancol no đơn chức là đạt yêu cầu rồi.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho
đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em
được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực
của mình trong tập thể. Ví dụ yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này
có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
Ngoài ra, giáo viên có thể đề nghị với nhà trường tổ chức phụ đạo cho những học
sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ
chức phụ đạo từ 1 đến 2 tiết trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải
được giáo viên chuẩn bị kỹ, làm sao cho học sinh đi học phụ đạo thấy được rằng việc
đi học này có tác dụng, bổ ích, học sinh có khả năng tiếp thu và tiến bộ trong học tập
thì công tác phụ đạo mới thu hút được học sinh và phát huy được tác dụng của nó.
* Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học, yêu cầu các em hoạt động nhiều hơn, thường
xuyên liên hệ thực tế tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Hoá. Đổi mới phương
pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập tích cực cho người học. Từ
đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi, khám phá, từ đó
phát huy khả năng tự học của họ. Trước vấn đề đó, người giáo viên không ngừng tìm
tòi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các
phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây
dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng tạo.
Tuy nhiên đối với học sinh yếu kém, đôi khi trong quá trình triển khai các hoạt
động, tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm, thảo luận lại không có tác dụng. Học
sinh đã học yếu, khả năng tiếp thu, phân tích, kết luận hạn chế, khi được phân công
vào nhóm có các học sinh khá hơn thì học sinh yếu sẽ thụ động hẳn đi, không tự tin
nêu ra ý kiến của mình, ý lại vào các bạn học khá hơn sẽ đại diện cho nhóm nên học
sinh yếu không muốn hoạt động. Bên cạnh đó việc đổi mới phương pháp này đòi hỏi
học sinh phải tự giác, tự học rất cao, mà đối tượng học sinh yếu kém lại rất hạn chế ở
khả năng này.
Vì thế theo ý kiến của cá nhân, tôi nhận thấy rằng đối với lớp có nhiều đối tượng
học sinh yếu như lớp 12A2 không nên tổ chức học tập bằng phương pháp thảo luận
nhóm trong các bài quan trọng, có tính chất tiền đề cho những bài học sau .
11
Ví dụ đối với bài Este ở chương 1 hoặc phần học về dãy điện hoá của kim loại
giáo viên chỉ nên triển khai bài dạy theo phương pháp đặt vấn đề, gợi mở để học sinh
suy nghĩ sau đó giáo viên hướng dẫn thì học sinh yếu kém có thể tiếp thu bài một cách
xuyên suốt hơn.
* Giáo viên bộ môn phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường
- Giáo viên bộ môn thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và các giáo
viên bộ môn khác để có thêm được nhiều thông tin về học sinh, đồng thời cũng là
người cung cấp các thông tin để giáo viên chủ nhiệm quản lí học sinh chặt chẽ hơn,
phát hiện kịp thời các biểu hiện sa sút của học sinh. Từ đó giáo viên chủ nhiệm liên hệ
với phụ huynh, kết hợp giáo dục học sinh kịp thời.
- Bên cạnh đó tôi thường xuyên trao đổi, thống nhất với giáo viên cùng dạy môn
Hoá 12 để tìm hiểu thêm về tình hình học tập của các lớp 12 khác nói chung và môn
Hoá nói riêng để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
- Giáo viên bộ môn thường xuyên trao đổi với tổ trưởng chuyên môn để đề xuất
với nhà trường tổ chức phụ đạo cho học sinh yếu kém ngoài giờ chính khoá nhằm tạo
điều kiện cho các học sinh này theo kịp chương trình học, từ từ nâng dần chất lượng
học tập của học sinh.
b. Các biện pháp cụ thể
Tôi tìm hiểu và hoàn thành giải pháp này bằng phương pháp chủ yếu là tìm hiểu
đánh giá thông qua sản phẩm hoạt động của học sinh kết hợp với một số phương pháp
khác như : trò truyện, kiểm tra bài cũ, kiểmn tra 15 phút, điều tra …Công cụ đánh giá
chính của tôi là tính xác suất học sinh hiểu bài thông qua quá trình học sinh xây dựng
bài học và vận dụng kiến thức ở chính tiết học đó. Từ đó sàng lọc học sinh thành
nhiều cấp độ nhận thức và nắm bắt được cụ thể các học sinh yếu kém bộ môn này.
Sau khi sàng lọc và phân loại, dựa trên những biện pháp chung ở trên, tôi đưa ra các
biện pháp cụ thể phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh yếu kém như sau:
*Nhóm 1: Học sinh mất căn bản kiến thức chung nhưng có khả năng tiếp thu bài.
- Do Trường THCS & THPT Bàu Hàm có tổ chức ôn tập trong hè cho học sinh
cũng như bắt đầu triển khai thời gian cho năm học mới trước 1 đến 2 tuần so với kế
hoạch chung của Sở tạo điều kiện thuận lợi về mặt thời gian cho giáo viên. Chính vì
vậy trước khi bước vào chương trình Hoá học hữu cơ ở học kì I lớp 12, tôi dành ít
nhất 4 tiết để ôn tập lại các kiến thức cơ bản về Hoá hữu cơ mà học sinh đã được học
ở lớp 11, đặc biệt chú ý các kiến thức có liên quan đến lớp 12. Nếu chỉ dành 2 tiết
theo phân phối chương trình và thực hiện theo hướng dẫn ôn tập trong sách giáo viên
thì không đủ, không sát với yêu cầu.
Ví dụ:
+ Ôn tập lại các khái niệm cơ bản trong Hoá học hữu cơ như khái niệm hợp chất
hữu cơ no, hợp chất hữu cơ không no, hợp chất hữu cơ thơm, hợp chất hữu cơ đôn
chức, hợp chất hữu cơ đa chức, hợp chất hữu cơ tạp chức, khái niệm đồng đẳng, đồng
phân, cách viết đồng phân, chỉ yêu cầu học sinh viết các đồng phân đơn giản, chủ yếu
là hợp chất no, khái niệm ancol, andehit, axit cacboxylic.
12
+ Nhắc lại tính chất hoá học đặc trưng của hợp chất hữu cơ không no là tham gia
phản ứng cộng (cộng với H2, cộng với dung dịch Br2 làm mất màu dung dịch brom,
phản ứng oxi hoá và phản ứng trùng hợp.
+ Ôn tập tính chất hoá học cơ bản của ancol trong đó có phản ứng este hoá, đặc
biệt là phản ứng hoà tan Cu(OH)2 tạo ra dung dịch màu xanh lam của glixerol.
+ Ôn tập tính chất hoá học cơ bản của andehit trong đó nhấn mạnh phản ứng tráng
gương gây ra bởi nhóm chức – CHO, tính chất hoá học cơ bản của axit cacboxylic
tương tự như tính chất hoá học của một axit vô cơ.
Đối với Phần kim loại ở học kì II, chính vì học sinh sẽ được học lại tính chất của
kim loại nên tôi không dành nhiều thời gian để ôn tập mà chỉ dành 2 tiết để ôn tập lại
các kiến thức về cấu tạo nguyên tử, viết cấu hình electron nguyên tử, cách sắp xếp các
nguyên tồ vào bảng tuần hoàn, từ cấu hình electron suy ra vị trí của nguyên tố và
ngược lại, từ cấu tạo nguyên tử của nguyên tố suy ra tính chất hoá học và ngược lại.
Sau khi ôn tập các kiến thức cơ bản sau mỗi phần, tôi dành 1 tiết để kiểm tra những
nội dung ôn tập đó và thông báo với học sinh rằng tôi có thể kiểm tra các kiến thức cơ
bản này bất kì khi nào cần thiết.
- Khi triển khai bài mới, xác định rõ kiến thức trọng tâm, kiến thức nền (những
kiến thức cơ bản, có nắm được những kiến thức này mới giải quyết được những câu
hỏi và bài tập) trong tiết dạy cần cung cấp, truyền đạt cho học sinh, tôi chốt ngắn gọn
các kiên 1thức này vào một góc bảng, sau tiết học điểm lại các ý trên bảng để học sinh
nắm lại kiến thức, đối với học sinh yếu tôi chỉ yêu cầu nắm được những ý thật cơ bản
này. Đối với học sinh yếu kém, mỗi giáo viên nên coi trọng tính vững chắc của kiến
thức, kỹ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao mở rộng kiến thức.
Ví dụ: Khi học bài Amino axit, giáo viên chỉ cần chốt các kiến thức sau:
CTTQ của amino axit no, có 1 nhóm – NH2 và 1 nhóm –COOH:
CnH2n(NH2)(COOH) (n ≥ 1) hay CaH2a+1O2N (a ≥ 2).
Tên
Tên thay thế
Tên bán hệ thống
thường
H2N- CH2-COOH
Glyxin Axit 2-aminoetanoic
Axit aminoaxetic
CH3 – CH(NH2)- COOH Alanin Axit 2-aminopropanoic Axit α-aminopropionic
Tính chất hoá học của amino axit:
- Có nhóm NH 2 có tính baz
→ Amino axit là hợp chất hữu cơ lưỡng tính.
- Có nhóm COOH có tính axit
- Phản ứng với ancol tạo este (phản ứng riêng của nhóm –COOH)
- Phản ứng trùng ngưng (đối với amino axit có 6C trở lên)
Sau mỗi chương ngoài tiết luyện tập theo phân phối chương trình, yêu cầu học sinh
nắm được phần kiến thức cần nhớ trong sách giáo khoa, giáo viên có thể củng cố cho
học sinh những ý thật cơ bản, xâu chuỗi các tính chất với nhau để học sinh nắm chắc
và biết vận dụng khi làm các câu hỏi về tính chất hoá học của các chất.
CTCT
13
Ví dụ: Sau khi học chương Cacbohidrat, giáo viên yêu cầu học sinh tổng hợp vào
bảng sau:
Glucozơ
Fructozơ Saccarozơ
Tinh bột
Xenlulozơ
Phản ứng với
Cu(OH)2 tạo
X
X
X
dd xanh lam
Phản ứng
tráng gương
X
X
với dd
AgNO3/NH3
Phản ứng thuỷ
X
X
X
phân
Làm mất
Phản ứng
Phản ứng
Phản ứng với
màu dd
riêng
màu với Iot
HNO3
Brom
- Khi hướng dẫn học sinh luyện tập, tôi đặc biệt chú ý đến các điều sau:
+ Đối với học sinh yếu chỉ nên yêu cầu các em làm các dạng toán thật cơ bản,
tính toán đơn giản, dựa vào tính chất hoá học, không nên đưa ra các dạng bài phức tạp
cần sử dụng các phương pháp giải nhanh, các định luật Hoá học…
+ Đảm bảo học sinh hiểu đề bài: Học sinh yếu kém nhiều khi vấp ngay từ bước
đầu tiên: không hiểu đề toán nói gì, không nắm được các chất phản ứng như thế nào,
chất nào được tạo thành, không viết được phương trình hoá học do không nắm được
tính chất hoá học của các chất do đó không thể tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy,
đầu tiên tôi giúp các em hiểu rõ đầu bài, hướng dẫn các em dựa vào tính chất hoá học
để viết phương trình phản ứng nếu cần thiết, nắm được dữ kiện đã cho, yêu cầu cần
tìm tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp váp đầu tiên đó, từ đó giúp học sinh giải
được bài toán. Một điều quan trọng nữa là đối với đối tượng học sinh này, giáo viên
cần cho học sinh làm đi làm lại nhiều lần cho nhuần nhuyễn bởi vì khả năng ghi nhớ
của các em chưa tốt.
Ví dụ: Trong bài Tính chất của kim loại – Dãy điện hoá, giáo viên có thể rèn
luyện cho học sinh các dạng toán cơ bản như cho phản ứng kim loại tác dụng với
dung dịch axit, cho khối lượng kim loại, tính thể tích khí sinh ra ở điều kiện tiêu
chuẩn hoặc ngược lại. Giáo viên cũng có thể cho học sinh làm dạng toán nhúng thanh
kim loại vào dung dịch muối, tính khối lượng tăng hay giảm của thanh kim loại sau
một thời gian phản ứng hoặc dựa vào khối lượng thanh kim loại tăng hay giảm để tính
nồng độ của dung dịch muối…
- Vì đối tượng là các học sinh lớp 12A2, hầu hết là các học sinh yếu nên trong
quá trình giảng dạy giáo viên phải quan tâm đến những đối tượng yếu nhất, khi cho
bài tập và hưóng dẫn giải mẫu, giáo viên đặt câu hỏi gợi mở dần đễ học sinh xác định
được hướng giải… Đến bài tập tương tự, cho HS một khoảng thời gian tự tìm hướng
giải, giáo viên đi quan sát, qua những học sinh đi lệch hướng giáo viên phân tích kĩ
14
cho các em thấy sai chỗ nào. Khi hướng dẫn, chú trọng những “mốc giải chính” của
bài thôi như tóm tắt đúng chưa? Áp dụng đúng công thức chưa? Nếu đúng rồi thì quay
sang hưóng dẫn học sinh khác.
- Sau khi thấy các em cơ bản làm được bài, giáo viên lên bảng yêu cầu học sinh
đứng tại chỗ trình bày, mỗi bước giải là một học sinh đễ tập trung cả nhóm. Trong
quá trình giải, giáo viên nhấn mạnh những chỗ học sinh hay sai lầm, nên tránh.
Nhóm 2: Có ý thức học tập nhưng khả năng tiếp thu bài chậm so với học sinh bình
thường.
- Giáo viên chia nhóm học tập, các nhóm được chia càng nhỏ càng tốt, phân công
học sinh khá giúp đỡ học sinh yếu. Tuy nhiên đối với lớp 12A2, tôi chỉ có thể chia
làm 8 nhóm (5 học sinh/nhóm) bởi vì số lượng học sinh khá hơn một chút so với các
bạn trong lớp không nhiều. Ban đầu tôi cho học sinh tự chọn nhóm theo mong muốn
cá nhân, sau một thời gian nếu chưa hợp lý thì điều chỉnh. Tôi ghi lại danh sách các
nhóm, theo dõi sát trong quá trình học cũng như sau mỗi bài kiểm tra, nếu nhóm nào
tiến bộ tôi tuyên dương và cộng điểm thưởng nhóm trưởng.
- Do thực hiện tăng thời gian nên giáo viên có điều kiện giảm tốc độ triển khai
bài mới, giãn chương trình do có các tiết tăng tiết. Theo chủ trương chung của nhà
trường, nhóm bộ môn thống nhất với nhau soạn phân phối chương trình riêng của nhà
trường căn cứ trên phân phối chương trình chung của Bộ, của Sở phù hợp với đặc
điểm tình hình nhà trường. Giáo viên sẽ bố trí thêm các tiết tăng vào khung giới hạn
thời gian cho một chương, sau đó phân bố lại, chú trọng dành nhiều thời gian hơn cho
những bài quan trọng.
Ví dụ: Giáo viên dành nhiều thời gian hơn để triển khai và luyện tập các bài như:
Este (chương 1), Glucozơ (chương 2), Tính chất của kim loại – Dãy điện hoá của kim
loại (chương 5).
- Giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập ở nhà kết hợp với các giờ luyện tập
trên lớp.
Ví dụ: Trong khi giảng dạy, tôi kết hợp cùng với giáo viên dạy cùng khối soạn
hệ thống câu hỏi trắc nghiệm để học sinh có tài liệu luyện tập thêm ở nhà. Đối với giờ
luyện tập trên lớp, tôi chỉ hướng dẫn học sinh làm một vài bài trong sách giáo khoa
bởi vì số lượng bài tập trong sách giáo khoa Hoá học 12 rất ít, không có nhiều bài tập
đi sâu vào kiến thức trọng tâm, rất ít bài tập phù hợp với trình độ của học sinh yếu
kém. Vì thế, trong giờ luyện tập trên lớp, tôi tổ chức cho học sinh học theo nhóm, trả
lời các câu hỏi trong tài liệu, chú trọng vào câu hỏi lý thuyết bởi vì tôi chỉ yêu cầu đối
tượng học sinh yếu chỉ cần nắm được lý thuyết là đạt yêu cầu, bên cạnh đó cũng bởi
vì chủ yếu thi Tốt nghiệp THPT có đến 80% là câu hỏi lý thuyết. Sau khi cho các em
học theo nhóm, tôi yếu cầu học sinh lần lượt đứng tại chỗ trả lời các câu hỏi, cách tổ
chức này vửa tạo cho học sinh làm việc tích cực, giúp đỡ lẫn nhau, vừa tiết kiệm thời
gian, trong 1 tiết có thể sửa được 30 đến 40 câu hỏi lý thuyết trong chương. Còn đối
với bài tập, nếu có thời gian tôi yêu cầu học sinh lên bảng giải một số bài tập đơn
giản, cơ bản nhất.
15
- Giáo viên chú ý phân tích cho học sinh những kiến thức HS thường sai, việc
phân tích này thường xuyên thực hiện kết hợp trong các tiết học bài mới cũng như các
tiết luyện tập.
Ví dụ: Học sinh không thuộc hóa trị → lập công thức sai, không thuộc tính chất
hóa học → viết phương trình hóa học sai → sai bài toán, không thuộc tính chất hóa
học → không nhận biết được các chất, không thuộc các công thức → tính toán sai,
không thuộc các bước giải bài toán tính theo phương trình hóa học, sai đơn vị, đổi
mol sai hay nhầm lẫn giữa tính % và C%, thể tích dung dịch và thể tích chất khí ở
điều kiện tiêu chuẩn, viết ẩu các chỉ số từ đề bài, ghi ẩu kí hiệu hóa học. Kỹ năng viết
chuỗi phản ứng của học sinh còn sai.
- Học sinh yếu kém khả năng tiếp thu và nắm bắt kiến thức chậm, nên giáo viên
cần giảm tải quá trình nhận thức của học sinh bằng cách giản lược hóa nội dung bài
học, rút gọn lại dưới dạng trọng tâm, truyền tải súc tích dưới dạng hình ảnh trực
quan, dễ hiểu dễ quan sát. Đối với bài tập, giáo viên cố gắng đưa ra các bước càng cụ
thể, rõ ràng càng tốt, với phương châm: “Điều tôi nghe tôi quên. Điều tôi nhìn tôi nhớ.
Điều tôi làm tôi hiểu”.
Ví dụ:
Khi dạy lý thuyết, giáo viên giới thiệu cho học sinh nắm được trọng tâm của bài
học. Trong vai trò là người dẫn dắt giáo viên phải đưa ra một hệ thống câu hỏi thật
chặt chẽ, có liên quan bổ trợ kiến thức lẫn nhau, từ dễ đến khó, và phù hợp với trình
độ của học sinh, một mặt giúp học sinh củng cố kiến thức cũ, qua đó giáo viên cũng
có thể đánh giá được mức độ tiếp thu của các em để có sự điều chỉnh phương pháp
giảng dạy cho hợp lý.
Đối với tiết bài tập: Bài tập giúp học sinh củng cố mở rộng, đào sâu kiến thức,
rèn luyện cho các em kỹ năng vận dụng kiến thức vào những trường hợp cụ thể, nhờ
đó mà kiến thức tiếp thu được vững chắc và mềm dẻo. Để một tiết bài tập đạt yêu cầu
như mục đích của nó thì giáo viên phải biết phân loại học sinh, cũng như phân loại bài
tập để chọn những bài tập phù hợp cho từng đối tượng tránh gây sự nhàm chán cũng
như quá sức đối với các em. Giáo viên cho học sinh làm các dạng bài tập thật đơn
giản nhằm giúp các em nắm được kiến thức cơ bản, cho các em làm đi làm lại nhiều
lần một dạng bài tập để học sinh yếu kém có thể hình thành được kỹ năng giải bài tập.
Khi ứng dụng một công thức phải hướng dẫn các em cách hoán đổi các đại lượng
trong công thức, đổi đơn vị từ ml ra lít… nếu được có thể yêu cầu các em học thuộc
các công thức.
m
M
V
Từ công thức tính số mol chất khí ở điều kiện tiêu chuẩn n =
→ V = n . 22,4
22,4
Ví dụ: Từ công thức tính khối lượng m = n . M → n =
(V: thể tích chất khí đo ở điều kiện tiêu chuẩn)
- Bên cạnh phương pháp giảng dạy, xác định trọng tâm trong từng bài, giáo viên
phải xác định kiến thức cơ bản tổng quát nhất của chương trình, tóm tắt lại những gì
16
cốt lõi mà học sinh cần nắm. Không yêu cầu cao nơi các em, chỉ yêu cầu những cái
thật cơ bản theo chuẩn kiến thức, kỹ năng ở mức độ biết, hiểu.
Ví dụ: Khi học bài Kim loại kiềm, giáo viên chỉ yêu cầu học sinh biết được :
Vị trí, cấu hình electron lớp ngoài cùng của kim loại kiềm.
Hiểu được :
Tính chất vật lí (mềm, khối lượng riêng nhỏ, nhiệt độ nóng chảy thấp).
Tính chất hoá học : Tính khử mạnh nhất trong số các kim loại (phản ứng với
nước, axit, phi kim).
Trạng thái tự nhiên của NaCl.
Phương pháp điều chế kim loại kiềm (điện phân muối halogenua nóng
chảy).
Nhóm 3: Học sinh không quan tâm, lơ là việc học, học sinh lười học.
- Giáo viên vừa phân tích động viên cho các em sự cấn thiết của việc học, nêu ra
các trường hợp thật cụ thể của học sinh các năm trước vì không chú tâm học nên
không thi đậu tốt nghiệp trung học phổ thông, sau khi thi trượt hối hận thì không kịp
mà phải chờ đến năm học sau mới có cơ hội dự thi nhưng khả năng đỗ tốt nghiệp
không cao vì sau một thời gian học sinh sẽ quên một phần lớn kiến thức.
- Kiểm tra bài thường xuyên, giáo viên có thể kiểm tra bài đầu giờ hoặc cuối giờ
hoặc lồng vào trong quá trình triển khai bài mới, ghi nhận lỗi vào sổ đầu bài để xét
hạnh kiểm học sinh và để cho nhà trường tổ chức lao động rèn luyện. Đồng thời giáo
viên quán triệt kĩ cho học sinh về điều kiện dự thi tốt nghiệp.
- Đặc biệt trong thời gian ôn tập thi tốt nghiệp, đối với học sinh chưa học bài, sau
giờ học giáo viên yêu cầu học sinh ở lại, giáo viên kiểm tra bài sau giờ học chính
khoá, khi nào học sinh nắm được bài, thuộc bài mới về nhà, việc thực hiện này được
sự cho phép của nhà trường sau khi được sự đồng thuận của cha mẹ học sinh. Trường
hợp học sinh cần ở lại học trong thời gian tương đối dài, giáo viên sẽ có thông báo
cho cha mẹ học sinh.
- Giáo viên bộ môn phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm để cùng uốn nắn
học sinh, thông báo cho giáo viên chủ nhiệm ngay các học sinh có biểu hiện lơ là
trong việc học để giáo viên chủ nhiệm phối hợp kịp thời, chặt chẽ với cha mẹ học sinh
nhằm giáo dục học sinh hoặc giáo viên bộ môn phản ánh kịp thời các thông tin như
học sinh nào không đi học phụ đạo, những học sinh nào hay nói chuyện riêng trong
giờ học….
- Chú trọng kiểm tra bài cũ các em yếu kém. Đối với những học sinh tiến bộ có
học bài, làm bài, giáo viên động viên, khuyến khích tinh thần của các em, khen ngợi
các em trước lớp. Giáo viên nghiêm túc phê bình những em chưa tiến bộ, giáo viên
cho học sinh thời hạn, sau thời hạn đó giáo viên cho học sinh kiểm tra bài để học sinh
có thể sữa chữa những con điểm xấu, từ đó tạo tâm lí cho học sinh cảm thấy có động
lực học và thấy bản thân có khả năng học nên sẽ cố gắng hơn trong thời gian tới.
- Giao bài tập về nhà, số lượng phù hợp, mức độ cơ bản. Tiết học sau yêu cầu
học sinh làm, nếu học sinh chưa làm yêu cầu ở lại sau tiết học, làm xong các bài tập
thì học sinh mới được về.
17
Ví dụ: Giáo viên phối hợp chặt chẽ với giáo viên được nhà trường phân công
kiểm tra bài cho học sinh sau buổi học thông qua sổ theo dõi với những thông tin sau:
Stt
Môn
Mã số HS
Nội dung cần học lại
Xác nhận của
GV phụ trách
- Khi giảng dạy, tôi thường xuyên theo dõi sự chú ý của học sinh yếu kém, kiểm
tra kịp thời sự tiếp thu bài giảng phần hướng dẫn bài tập tôi thường làm cụ thể hơn đối
với các học sinh này.
- Mọi nhiệm vụ được giao cho các em cần được kiểm tra cụ thể, các sai lầm mắc
phải luôn được tôi phân tích và sữa chữa. Khuyến khích, động viên đúng lúc khi các
em đạt kết quả (dù khiêm tốn), đồng thời cũng phải phân tích, phê phán đúng mức
thái độ vô trách nhiệm hoặc lơ là đối với nhiệm vụ học tập được giao. Nhưng giáo
viên phải cố gắng tránh thái độ, lời nói chạm tới lòng tự ái hoặc mặc cảm của học
sinh.
- Đối với học sinh lười học, để kích thích việc học tập của các em thì người giáo
viên phải tạo những tình huống có vấn đề, là mâu thuẫn giữa kiến thức cần phải đạt
đến với những kiến thức đã có, gây nên cho các em một trạng thái tâm lý cảm thấy vô
lý vì dựa vào những kiến thức có sẵn của mình không thể giải thích được và chính
điều này làm động lực thôi thúc các em phải hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức mới.
Ví dụ: Khi học phần Fructozơ, giáo viên viết công thức cấu tạo dạng mạch hở
của fructozơ, yêu cầu học sinh nêu dựa vào cấu tạo để nêu tính chất hoá học của
fructozơ, học sinh chỉ nêu được phản ứng hoà tan Cu(OH) 2 tạo thành dung dịch màu
xanh lam vì trong cấu tạo của fructozơ có nhiếu nhóm –OH đứng cạnh nhau. Sau đó
giáo viên làm thí nghiệm dung dịch fructozơ phản ứng với dung dịch AgNO3/NH3,
học sinh quan sát thấy hiện tượng của phản ứng tráng gương, từ đó học sinh thấy mâu
thuẫn rằng tại sao trong công thức cấu tạo của fructozơ không có nhóm chức –CHO
nhưng fructozơ vẫn tham gia phản ứng tráng gương, cuối cùng giáo viên nhấn mạnh
vào mâu thuẫn đó và giải thích lí do cho học sinh.
- Hóa học là bộ môn mang tính thực nghiệm nên việc đưa thí nghiệm vào trong
quá trình giảng dạy là rất cần thiết, thí nghiệm là một chứng minh tính chính xác của
kiến thức, củng cố niềm tin vào khoa học. Bản thân việc thí nghiệm đã có sức lôi cuốn
rất lớn đối với học sinh, vì các em được tận mắt chứng kiến, thậm chí được tận tay
làm những thí nghiệm mà từ trước đến nay các em chỉ được nghe hay nhìn thấy trên
sách vở. Một yếu tố không kém phần quan trọng là sau khi học xong một bài, các em
ứng dụng được điều gì đã học vào trong thực tế. Chính khâu liên hệ thực tế giúp các
em nhận ra kiến thức mình được học thật gần gũi với cuộc sống của mình, từ đó các
em thấy được tầm quan trọng của môn học này...
18
- Cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học đã cho tôi thấy được tác dụng của việc liên
hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học môn Hoá học ở trường THPT. Việc giải
thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học sẽ tạo hứng thú, khơi dậy niềm
đam mê, học sinh hiểu được vai trò và ý nghĩa thực tiễn trong học Hoá học. Để thực
hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được kiến thức
trọng trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với từng
học sinh ở thành thị, nông thôn, đôi lúc cần quan tâm đến tính cách sở thích của đối
tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà, nhẹ nhàng, đôi lúc có khôi hài nhưng sâu sắc,
vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn Hoá học. Tuy nhiên thời gian dành cho vấn
đề này là không nhiều, "nó như thứ gia vị trong đời sống không thể thay cho thức ăn
nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống ".
Ví dụ: Khi học bài bài Peptit và Protein, giáo viên có thể cung cấp một số thông
tin gây hứng thú, tò mò cho học sinh như: Một số thức ăn không nên dùng chung với
nhau:
+ Đậu nành ăn với mật ong
Ai cũng biết mật ong là thực phẩm và cũng là vị thuốc bổ tuyệt vời. Nhiều chị
dùng sữa bò trộn mật ong đắp lên mặt thì da mịn màng, trắng sáng. Nhưng nếu lấy
mật ong hòa chung với sữa đậu nành để uống thì mật ong sẽ làm đông vón protein
trong đậu nành. Đang từ một loại sữa dễ tiêu hóa nay hỗn hợp cứ “đứng” trong bao tử
tạo ra trạng thái “Đi cũng dở, ở không xong” mà cứ “lình bình”, khiến ai nấy đều ở
trong trạng thái “tức thở”. Hai món này được xếp vào hệ “tương khắc”.
Không nên uống sữa đậu nành chung với mật
ong
Có người nấu sữa đậu nành nhưng đã không đun đến nhiệt độ sôi. Trong đậu nành
sống chứa enzym ngăn cản sự hoạt động của trypsin và còn có soyin là một protein có
độc tính ức chế hoạt động của hoocmon tuyến giáp, bởi vậy người ta bảo đậu nành
gây bướu cổ. Nhưng nếu nấu chín thì những chất này đều bị nhiệt phân hủy.
+ Chiên trứng vịt với tỏi
19
Từ lâu, dân ta vẫn truyền miệng rằng chiên trứng vịt không được dùng tỏi. Lí do là
tỏi có chứa một lượng tinh dầu tạo mùi khi gặp albumin của lòng trắng sẽ kết hợp sinh
ra sản phẩm độc. Alixin là một kháng sinh có tác dụng diệt khuẩn trong tỏi khi trộn
với lòng trắng trứng thì nó bị mất tác dụng hoàn toàn.
+ Uống trà và ăn trái cây tráng miệng sau bữa ăn
Sau bữa ăn, chúng ta thường hay uống trà. Như vậy chất tanin trong trà sẽ làm vón
protein, gây chứng khó tiêu.
Ngoài ra còn có thói quen ăn trái cây sau mỗi bữa. Hãy cẩn thận nếu bạn ăn một
bữa hải sản có hàm lượng protein và canxi phong phú sau đó lại ăn trái hồng hoặc
nho. Axit tanic trong hồng hoặc nho sẽ làm đông vón protein của hải sản, chúng trở
thành món khó tiêu, cứ buộc bao tử hết nhào đến trộn mà không dồn xuống ruột được
vì qui trình “tiêu hóa” đám hải sản kia chưa xong.
Nhóm 4: Có ý thức học tập nhưng chưa có phương pháp học tập đúng đắn.
- Giáo viên tổ chức kèm cặp, phụ đạo cho học sinh. Việc phụ đạo này có thể thực
hiện theo kế hoạch chung của nhà trường hoặc gaío viên tự tổ chức cho học sinh với
thời lượng 2 tuần 1 buổi. Trong các buổi này, tôi chủ yếu kiểm tra việc lĩnh hội các
kiến thức giảng dạy trên lớp, nếu thấy các em chưa chắc, tôi tiến hành ôn tập củng cố
kiến thức để các em nắm vững chắc hơn, nói chuyện để tìm hiểu thêm những chổ các
em chưa hiểu hoặc chưa nắm chắc để bổ sung, củng cố. Hướng dẫn phương pháp học
tập: học bài, làm bài, việc tự học ở nhà.
- Thông qua giáo viên chủ nhiệm thông báo với gia đình học sinh về việc tổ chức
học phụ đạo, phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học tập, đôn đốc thực
hiện kế hoạch học tập ở trường và ở nhà.
- Giáo viên hướng dẫn phương pháp học tập, từ những tính chất chung suy ra
những tính chất cụ thể đối với các chất.
Ví dụ: Trong phần Hoá vô cơ học kì II lớp 12, ở chương 5 Đại cương kim loại
tổng hợp về tính chất vật lí, tính chất hoá học, phương pháp điều chế nên giáo viên
yêu cầu học sinh phải nắm thật chắc, từ đó khi học chương 6 - Kim loại kiềm, Kim
loại kiềm thổ, Nhôm; chương 7 - Sắt – Crom rất dễ dàng.
- Giáo viên có thể kết hợp với giáo viên chủ nhiệm xây dựng tiết sinh hoạt chủ
nhiệm theo chuyên đề về phương pháp học tập các môn học với định kì 2 tuần /lần.
Đầu tiên, giáo viên bộ môn nói chung cũng như giáo viên Hoá học nói riêng tìm hiểu
thông qua Phiếu ý kiến của học sinh về các khó khăn của các em khi học môn Hoá
học, những nội dung nào cảm thấy khó hiểu, những kỹ năng nào không biết, phương
20
pháp dạy của giáo viên có phù hợp với trình độ chung của lớp chưa. Sau đó giáo viên
tự điều chỉnh những hạn chế chủ quan của bản thân nếu có đ6ng2 thơi phân công cho
một số học sinh khá trong lớp hoặc một số học sinh giỏi ở lớp 12A1 chuẩn bị và trao
đổi với các bạn trong lớp, trong khối về cách học từng bộ môn nói chung và môn Hoá
học nói riêng dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Ví dụ: Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đặc biệt là đối với học sinh yếu kém
cần chú trọng các vấn đề sau khi học môn Hoá như sau:
Học các vấn đề lý thuyết của hóa học : Cần nắm định nghĩa, khái niệm, quan
trọng hơn là phải hiểu được bản chất của vấn đề.
Bài học về các chất :
Cách học từng phần :
Tên gọi : nắm được cách gọi tên các chất (một chất có thể nhiều cách gọi tên :
Tên thông thường, tên thay thế).
Lí tính : thông thường ta chú ý nhớ trạng thái (rắn, lỏng , khí), màu sắc, tính tan,
mùi…
Cấu tạo : biết được đặc điểm cấu tạo của từng loại hợp chất, liên kết trong phân
tử của nó. Viết được công thức cấu tạo cho từng loại.
Hóa tính :
+ Dựa vào đặc điểm cấu tạo để suy ra các tính chất cơ bản. Từ hóa tính của chất tiêu
biểu, suy nghĩ để khái quát lên tính chất chung cho loại hợp chất đó. Ngược lại từ tính
chất chung suy ra tính chất của các chất cụ thể.
Ví dụ: Sau khi học chương Đại cương kim loại, học sinh biết vận dụng kiến thức
chung ở bài Tính chất của kim loại – Dãy điện hoá, Điều chế kim loại để suy ra tính
chất của các kim loại kiềm, kiềm thổ, Al, Fe và phương pháp điều chế chúng.
+ Với những chất tiêu biểu, khi học Hóa tính ta cần nhớ kĩ loại chất đó có thể cho
những loại phản ứng nào đặc trưng, tác dụng được với các loại chất nào.
Điều chế :
+ Nắm được phương pháp chung điều chế các loại hợp chất.
+ Phải nhớ được tên nguyên liệu điều chế các chất.
Ứng dụng : nhớ các ứng dụng của mỗi hợp chất quan trọng, liên hệ với những
hiện tượng gần gũi với đời sống.
Bài tập hóa học :
Các bài tập áp dụng : Để làm tốt phần này, học sinh cần nắm vững hóa tính - điều
chế, kết hợp với cấu tạo, lí tính, chú ý các hiện tượng hóa học xảy ra.
Viết phương trình phản ứng : phải nắm vững phần hóa tính các chất, suy nghĩ xem
loại hợp chất đó có thể tác dụng được với những tác chất nào ?
Chuỗi phản ứng : Nắm vững cả hóa tính và điều chế, mối quan hệ giữa các chất, nhớ
cân bằng và ghi rõ điều kiện nếu có.
Nhận diện hóa chất : nắm được thuốc thử cần dùng, dấu hiệu và viết phương trình
phản ứng kèm dấu hiệu.
Giải thích hiện tượng, chứng minh : viết được phản ứng xảy ra ở từng giai đoạn,
chú ý sự tạo kết tủa – bay hơi hay sự thay đổi màu sắc, mùi, …
21
Giải bài toán hóa như thế nào : Nắm vững được lý thuyết, có một số kỹ năng tính
toán cơ bản như biết áp dụng được công thức, tính toán theo phương trình phản ứng,
lập và giải được hệ hai phương trình hai ẩn số.
+ Liệt kê các dữ kiện của đề bài (các số liệu, mối quan hệ giữa các chất phản ứng,
điều kiện xảy ra phản ứng, …) yêu cầu của đề bài.
+ Viết phương trình phản ứng xảy ra (nên sắp xếp theo thứ tự, nhớ cân bằng, ghi điều
kiện nếu có).
+ Thiết lập mối quan hệ giữa dữ kiện đề bài với yêu cầu đề bài.
+ Vận dụng các công thức cơ bản như công thức tính số mol, khối lượng để giải.
+ Kiểm tra lại và kết luận.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp như vừa nêu trên,
qua một năm thực nghiệm giảng dạy, tôi đã thấy có sự chuyển biến rõ rệt ở các học
sinh yếu kém. Các em đã nắm được những kiến thức tối thiểu của chương trình dành
cho học sinh. Các em đã mạnh dạn phát biểu ý kiến, biết cách tính toán. Đặc biệt, các
em đã bỏ qua được mặc cảm tự ti, biết trao đổi với cô giáo những chỗ mình chưa hiểu.
Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua điểm số, qua việc học sinh có ý thức học
bài ở lớp cũng như ở nhà. Vì thế cha mẹ học sinh yên tâm, tin tưởng vào nhà trường,
tích cực ủng hộ việc dạy học của nhà trường.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng để giúp học sinh của mình vượt
qua được tình trạng yếu kém môn Hoá học. Qua quá trình thực hiện tôi đã rút ra cho
mình một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Để khắc phục tình trạng học sinh yếu kém ta vừa phải cố gắng nâng cao hiệu
quả giảng dạy ở trên lớp vừa phải tăng cường phụ đạo giúp đỡ riêng các học sinh yếu
kém ( ngoài giờ chính khóa) theo từng hóm đối tượng riêng. Lý do là vì trong các lớp
đồng loạt, dù giáo viên có cố gắng giảng dạy sát bốn loại đối tượng trên đến đâu đi
nữa thì việc truyền thụ kiến thức và luyện tập cũng cần phải được tiến hành theo trình
độ và nhịp chung của cả lớp, nếu quá chú ý đến đối tượng học sinh yếu, kém thì các
em khá, trung bình sẽ buồn chán, không muốn học, sinh ra các ý nghĩ và hành động
tiêu cực và dễ gây tâm lí chủ quan cho các em học sinh này vì nghĩ rằng mình đã hơn
các bạn khác.
- Giáo viên phải là người chịu khó, kiên trì, không nản lòng trước sự chậm tiến
của học sinh, phải biết phát hiện ra sự tiến bộ của các em cho dù là rất nhỏ để kịp thời
động viên khuyến khích làm niềm tin cho các em cầu tiến. Giáo viên phải là người
nhiệt tình, có trách nhiệm cao, cố gắng vì học sinh bởi vì việc thực hiện phụ đạo kèm
cặp cho học sinh tốn nhiều thời gian, công sức và tâm huyết.
- Nói tóm lại, kết quả tiến bộ của học sinh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực và sự
nhiệt huyết của người giáo viên. Vì vậy, mỗi người giáo viên chúng ta cần cố gắng
hết mình để giáo dục con em trở thành những con người có ích cho xã hội.
Để giúp học sinh vá lại lỗ hổng kiến thức, bắt kịp kiến thức trên lớp và có hứng
thú học tập bộ môn Hóa học, đặc biệt là giáo dục học sinh trở thành con người hiện
đại toàn diện theo yêu cầu xã hội hiện này: có tính độc lập, tự chủ, tự giác cao trong
22
nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo học hỏi để tiếp thu kịp kiến thức của bài mới nhẹ nhàng
nhưng có hiệu quả cao .
Giáo viên sẽ rút ngắn được thời gian giảng giải cho đối tượng học sinh yếu kém
bộ môn trong tiết học, có nhiều điều kiện để mở rộng nâng cao kiến thức, liên hệ với
thực tiễn và giáo dục hướng nghiệp cho học sinh. Đồng thời lại tạo được sự say mê,
sáng tạo trong công việc dạy học của mình.
Qua thực tế trong các năm gần đây thực hiện chương trình thay sách giáo khoa
và thực hiện phương pháp dạy học mới kết hợp với các phương pháp hiện hành tôi
thấy rằng hoạt động phụ đạo học sinh yếu kém là rất quan trọng và không thể thiếu
trong các môn học, giúp học sinh chuẩn bị tốt kiến thức bắt kịp các bạn trong lớp tích
cực xây dựng bài mới, tiết học trở lên sôi nổi, rất nhẹ nhàng cho giáo viên và đem lại
chất lượng dạy và học cao .
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối
tượng học sinh yếu, giáo viên nói chung cũng như giáo viên dạy bộ môn nói riêng
cần:
Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến
phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường,
với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các
phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên
chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề
với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn,
cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa
học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học
tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để
phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự
cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập
tốt nhất sẽ đến với các em.
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài
liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống
sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của
người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy
trách nhiệm về mình.
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương
châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”, kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia
sẻ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học
sinh yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc tìm hiểu đề tài
thiết thực hơn và thực hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.
23
Qua quá trình thực hiện ở lớp 12A2 năm học 2011 – 2012, tôi nhận thấy rằng các
em rất hứng thú với các thông tin thực tế, tiến bộ hơn trong việc vận dụng lý thuyết để
giải thích các hiện tượng thực tế, thu được kết quả cụ thể như sau:
KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN HOÁ CỦA HỌC SINH YẾU KÉM LỚP 12A2
Stt Họ và tên
Điểm KS Bài 1 Bài
Thi Bài 1 Bài 1 Thi
chất lượng tiết
1 tiết HK tiết
tiết
HK
đầu năm
lần 1 lần 2 I
lần 3 lần 4 II
1
Lý Hoàng Anh
3.5
4.7
4.7
5.5 4.7
5.3
5.0
2
Chí Khỳ Chánh
2.5
3.3
3.0
5.0 4.3
5.0
4.5
3
Vi Huỳnh Bảo Chung
3.0
4.7
4.3
6.0 5.0
5.3
6.0
4
Nông Văn Chương
3.0
3.7
4.0
4.5 4.7
5.7
5.5
5
Choóng Tịch Coỏng
3.0
3.3
3.7
4.0 4.0
4.7
5.5
6
Hoàng Nàm Cú
2.5
3.0
3.0
3.5 4.3
5.0
6.0
7
Chu Trí Cường
2.0
2.7
3.0
5.0 4.7
5.3
6.0
8
Lầm Mằn Dếnh
2.5
3.3
4.0
4.5 4.7
5.7
5.5
9
Giáp Gia Đôn
3.5
4.0
4.0
5.5 5.0
5.3
6.0
10 Phạm Ngọc Đức
3.5
4.0
3.7
6.0 5.3
6.3
6.0
11 Vòng Chi Dũng
3.0
3.7
3.7
6.0 5.7
6.3
5.0
12 Trần Nguyễn Hoàng Duy 2.0
3.0
3.3
4.5 4.7
4.7
5.5
13 Lìu Cỏn Hếnh
2.5
4.0
5.0
5.5 5.0
5.3
5.5
14 Vòng Gia Hào
1.5
3.5
5.0
5.0 4.7
5.0
5.5
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
- Tuyển dụng đủ giáo viên để mỗi giáo viên chỉ dạy đúng số tiết theo quy định,
giáo viên có thời gian và công sức tập trung cho công tác phụ đạo học sinh yếu kém.
- Do nhà trường tổ chức học hai buổi nên nhiều giáo viên mặc dù rất nhiệt tình
nhưng không thể thực hiện liên tục nên nhà trường tiếp tục duy trì việc phân công
giáo viên kiểm tra bài đối với những học sinh không học bài, không làm bài tập sau
mỗi buổi học ở các năm học tới. Nhà trường có thể huy động nguồn kinh phí hỗ trợ từ
Hội Cha mẹ học sinh để duy trì công tác này xuyên suốt năm học.
- Hội đồng bộ môn của Sở Giáo Dục và Đào Tạo cần tích cực tổ chức các hội
thảo, hội nghị chuyên đề triển khai các kinh nghiệm, cách tổ chức phụ đạo học sinh
yếu kém để giáo viên có điều kiện học hỏi lẫn nhau đặc biệt là đối với giáo viên mới
ra trường còn ít kinh nghiệm trong công tác giảng dạy.
- Không những chỉ bộ môn Hoá học mà các môn học khác các giáo viên nên chú
trọng sâu hơn vấn đề chuẩn bị nội dung, phương pháp và hình thức phụ đạo cho học
sinh có tính khơi gợi sự hứng thú để học sinh có thể nắm bắt theo kịp kiến thức các
môn học .
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài
viết chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp, sửa chữa. Tôi
xin chân thành cảm ơn.
24
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài viết Một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu trên Diễn đàn Lâm
Đồng dạy và học (lamdong.dayhoc.vn) của Phan Vĩnh Nhựt.
2. Bài viết Công tác phụ đạo học sinh yếu kém ở trường THPT trên báo Giáo dục
Thành phố Hồ Chí Minh (giaoduc.edu.vn) ngày 06 tháng 02 năm 2012 của Hoài Thu.
3. Sách giáo khoa hoá học 12 – Chủ biên Nguyễn Xuân Trường – Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam – Tái bản năm 2010.
4. Website: www.hoahoc.org
NGƯỜI THỰC HIỆN
Nguyễn Thị Lam Hồng
25