Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.72 KB, 17 trang )

LI M U
Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết của nhà nớc
về tình hình sản xuất, kinh doanh và lu thông hàng hoá - dịch vụ trong
nớc. Ngoài ra chính sách thuế còn là một trong những công cụ để thực
hiện các chiến lợc kinh tế của đất nớc. Trong hoạt động kinh doanh thơng
mại quốc tế, các nớc thờng dùng các công cụ để quản lý nh: hạn ngạch, tỷ
giá, giấy phép, thuế quan. Trong đó thuế xuất nhập khẩu thờng đợc các nớc
sử dụng cơ bản nhất bởi nó là cơ sở trong trao đổi buôn bán và là một

nguồn thu đối với ngân sách quốc gia.
ở Việt Nam, thuế xuất nhập khẩu đợc ban hành thành luật vào
tháng 12 năm 1987 với tên gọi là Luật thuế xuất nhập khẩu hàng mậu
dịch. Sau hai lần sửa đổi vào các năm 1991 và 1993 và gần đây nhất là
tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá X (tháng 4, tháng 5-1998), Luật thuế
xuất nhập khẩu đã có những nội dung thay đổi cơ bản về thời hạn tính
thuế, thuế xuất, về xử lý vi phạm... Tuy vậy trong quá trình thực hiện,
thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều hạn chế và có những điểm cha phù
hợp với tình hình thực tế trong nớc, cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung.
Mặt khác, trong thực tiễn phát triển kinh tế của đất nớc cũng nh
bối cảnh quốc tế mới, làm cho luật thuế xuất nhập khẩu vừa đáp ứng đợc nhu cầu quản lý kinh tế trong nớc, vừa phù hợp với luật lệ và thông
lệ quốc tế. Các yếu tố thúc đẩy hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập
khẩu là:
Do nhu cầu đòi hỏi cần phải có chính sách thuế xuất nhập khẩu
phù hợp để đảm bảo sự công bằng giữa các doanh nghiệp tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu; khuyến khích sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu.
Sự gia nhập vào các tổ chức trong khu vực nh ASEAN và sự tham
gia hiệp định AFTA và gần đây nhất là việc Việt Nam ký hiệp định th1


ơng mại song phơng với Mỹ đang đặt ra nhiều vận hội cho sự phát triển
của đất nớc, nhng cũng đặt ra nhiều thách thức mà chúng ta thực sự


phải nỗ lực thì mới đạt đợc những mục tiêu phát triển mong muốn.
Thách thức trớc mắt là chúng ta phải thực hiện những cắt giảm thuế
quan với nhiều mặt hàng theo yêu cầu của CEPT trong chơng trình của
AFTA. Chơng trình này đòi hỏi ta phải có những thay đổi về chính sách
thuế xuất nhập khẩu cho phù hợp.
Quá trình quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ, ở khắp các châu
lục, các khu vực của thế giới, kéo theo sự tham gia ngày càng mạnh mẽ
thậm chí của các nớc chậm tiến nhất. Sự hoà nhập quốc tế này đòi hỏi
phải có sự thống nhất ngày càng rộng rãi những luật lệ quốc tế trong
hợp tác phát triển. Sự hoà nhập tất yếu của Việt Nam vào hợp tác khu
vực và quốc tế cũng đang đặt ra nhiệm vụ thích hợp hoá các chính sách
quản lý phát triển kinh tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh chính sách thuế
xuất nhập khẩu, đối với các điều kiện và thông lệ chung của thế giới.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên chúng tôi thực hiện bài viết này
với tiêu đề: HOàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới .
Mục đích của bài viết là làm sao để chính sách thuế xuất nhập
khẩu của ta phù hợp với chính sách thuế của khu vực và thế giới. Bài
viết đợc chia làm ba phần:
Phần một: Thuế và chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt
Nam hiện nay.
Phần hai: Thực trạng và hạn chế của chính sách thuế xuất
nhập khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới.
Phần ba(phần chính): Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập
khẩu trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới hiện nay.
2


Bài viết đợc thực hiện dới sự hớng dẫn của thầy cô giáo. Do thời
gian có hạn và trình độ còn hạn chế chính vì thế bài viết không tránh

khỏi những sai sót, rất mong nhận đợc sự góp ý của các thày cô giáo để
bài viết sau đợc thực hiện tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!.

Nội dung
I. Thuế và chính sách thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam
hiện nay.
1. Thuế xuất nhập khẩu và tác dụng của nó.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phát sinh khi có sự chuyển dịch
hàng hoá qua cửa khẩu và qua khu chế xuất. Đối tợng nộp thuế là tất cả
hàng hoá đợc phép xuất nhập khẩu qua biên giới và hàng hoá ngoài thị
trờng mua bán với khu chế xuất. Hàng vận chuyển quá cảnh, hàng
chuyển khẩu và hàng nhân đạo không thuộc diện chịu thuế.
Thuế xuất nhập khẩu là một trong những biện pháp tài chính mà
các nớc dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại thơng. Thuế xuất nhập
khẩu thực chất là một khoản thu bắt buộc điều tiết vào giá của các hàng
hoá, dịch vụ đợc trao đổi buôn bán giữa các quốc gia mà chủ sở hữu
chúng phải nộp thuế cho nhà nớc.
Thuế chính là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nớc. Thông
thờng nguồn thu từ thuế chiếm từ 60 - 90% ngân sách. Cho nên thuế th3


ờng trở nên là một công cụ quan trọng của chính phủ góp phần tích cực
vào việc điều chỉnh các mất cân đối lớn trong nền kinh tế; góp phần
khuyến khích tăng trởng kinh tế; khuyến khích cạnh tranh và mở rộng
các thành phần kinh tế, động viên khai thác tài nguyên lao động,
nguyên nhiên vật liệu trong nớc; kích thích khai thác nguồn vốn từ nớc
ngoài; mở rộng giao lu hàng hoá... Ngoài ra, thuế còn có tác dụng góp
phần bảo đảm công bằng xã hội, bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế...

Việt Nam là một trong những nớc mà hệ thống thuế cha phát triển
thì thuế xuất nhập khẩu đợc xem là một nguồn thu quan trọng trong
ngân sách của chính phủ. Khối lợng thuế nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong toàn bộ nguồn thu của nớc ta, do đặc điểm là sản xuất công
nghiệp còn non yếu và tiêu thụ lại theo khuynh hớng chuộng đồ ngoại.
Nên tốc độ nhập khẩu luôn tăng nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế và
vì vậy thuế nhập khẩu càng trở nên quan trọng. Thuế nhập khẩu bảo hộ
sản xuất trong nớc, nâng đỡ các ngành công nghiệp non trẻ trong nớc,
đảm bảo các cam kết với chính phủ nớc ngoài, là công cụ để nhà nớc
thực hiện các chiến lợc lớn liên quan tới thơng mạt quốc tế. Thuế xuất
nhập khẩu còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp tham gia
tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu...
2. Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay.
Trong những năm qua, chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
của Việt Nam đã từng bớc đợc đổi mới để phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội và chủ trơng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
của Nhà nớc ta. Nhờ đó, chính sách thuế xuất nhập khẩu đã góp phần
thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thực hiện chủ trơng tăng nguồn thu
cho ngân sách nhà nớc, dần trở thành công cụ quản lý vĩ mô, khuyển
khích đẩy mạnh hoạt đông xuất nhập khẩu phù hợp với chính sách mở
cửa, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của nớc ta trong tình hình
4


mới.
Theo quy định tại Luật thuế xuất nhập khẩu đợc sửa đổi vào năm
1993 và gần đây tại kỳ họp thứ X (tháng 4, tháng 5/ năm 1998) thì biểu
thuế xuất nhập khẩu của ta bao gồm hai loại thuế suất là thuế suất u đãi
và thuế xuất phổ thông.
Thuế suất u đãi đợc áp dụng cho hàng nhập khẩu từ các nớc có ký

các điều khoản u đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam với điều
kiện phải ghi rõ từng mặt hàng, số lợng, mức thuế suất u đãi cụ thể.
Thuế suất thông thờng đợc áp dụng chung cho các loại hàng hoá
nói chung không phụ thuộc vào xuất xứ của hàng hoá từ nớc nào, hàng
hoá từ mọi nớc dùng chung một mức thuế.
Để khuyến khích xuất nhập khẩu, đặc biệt đối với việc nhập khẩu
hàng hoá phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu, chính sách thuế xuất
nhập khẩu còn qui định các trờng hợp đợc miễn giảm và hoàn lại thuế.

II. Thực trạng và hạn chế của chính sách thuế xuất
nhập khẩu hiện nay của Việt Nam.
Trớc yêu cầu của tình hình mới, đặc biệt là bố trí lại cơ cấu kinh
tế, tăng cờng mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại với các nớc,
đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hớng mạnh về
xuất khẩu thì chính sách thuế xuất nhập khẩu của nớc ta đã bộc lộ
những hạn chế nh:
Cha đáp ứng đợc yêu cầu thực hiện chiến lợc hớng mạnh về xuất
khẩu; Cha phù hợp với chiến lợc phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần; Cha phù hợp với thông lệ và các nguyên tắc của các tổ chức quốc
5


tế mà nớc ta đã và sẽ hội nhập; Trong tổ chức thực hiện chính sách thuế
xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập.
Trong những năm qua mặc dù chính sách thuế xuất nhập khẩu của
Việt Nam đã có nhiều thay đổi, tuy nhiên vẫn còn nhiều những điểm
cha hợp lý. Cụ thể nh sau:
1. Biểu thuế:
Việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu (xuất nhập khẩu)
hiện hành là cha phù hợp: thuế suất dàn trải quá rộng, thuế xuất nhập

khẩu do phải gánh chịu nhiều mục tiêu bao gồm cả kinh tế, văn hoá và
xã hội, cho chính sách thuế xuất nhập khẩu nằm trong hệ thống thuế với
tính chất là một công cụ điều tiết trong tay nhà nớc. Do vậy, mà cơ cấu
thuế trở lên quá phức tạp, trùng lắp nhiều mức thuế qui định quá chi
tiết. Một vài mức thuế rất sát nhau, đặc biệt là thuế nhập khẩu nh: 0,5%,
1%, 2% và 3%, 5%, 6% và 7%, 10% và 11%, 15% và 16%, 38% và
40%... có thể hiện có nhiều mức thuế chi tiết nh thế là do phải thực hiện
nhiều mục tiêu làm kinh tế - xã hội, nhiều trờng hợp thuế bảo hộ đến
từng doanh nghiệp sản xuất hoặc từng doanh nghiệp sản xuất trong từng
nhóm doanh nghiệp trong nớc. Điều này làm cho biểu thuế mất tính
trung lập của nó. Quá nhiều mức thuế suất làm cho cơ cấu thuế phức tạp
một cách không cần thiết. Thuế dàn trải là có hại - thậm chí tai hại hơn
mức thuế suất cao nhng thống nhất - vì chúng có thể đa nguồn vốn vào
hoạt động không có hiệu quả.
Việc ban hành biểu thuế nhập khẩu hiện nay có quá nhiều mức
thuế suất dới 5% làm cho kết quả thu vào ngân sách bị hạn chế, dồn
gánh nặng về yêu cầu động viên ngân sách nhà nớc cho các mặt hàng
khác. Biểu thuế nhập nhẩu mặc dù quy định theo khung thuế suất tạo
điều kiện cho việc qui định mức thuế suất cụ thể đợc linh hoạt nhng lại
dẫn đến thiếu ổn định, làm cho doanh nghiệp thiếu yên tâm trong việc
đầu t phát triển sản xuất và xuất khẩu.
6


2. Thuế nhập khẩu bao gồm nhiều thứ thuế, cả thuế doanh thu,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT cho nên thuế suất rất cao (nh rợu- bia
từ 100 - 150%, ôtô từ 50% - 200%...). Tuy có thuận tiện là tập trung
nhng không phù hợp với thông lệ quốc tế, dễ bị hiểu lầm là hạn chế
hàng nớc ngoài nhập khẩu vào Việt Nam.
3. Thuế suất cao và quá cao đánh vào một số mặt hàng tiêu dùng

trong nớc cha sản xuất đợc hoặc sản xuất cha đủ đã khuyến khích tình
trạng buôn lậu và trốn thuế của các doanh nghiệp trở lên rất mạnh.
Nhiều phơng thức trốn thuế đợc sử dụng kể cả hối lộ cán bộ Hải Quan
và kết hợp với nhiều hiện tợng tiêu cực khác. Biểu thuế nhập khẩu càng
có nhiều tầng nấc, nhiều sự phân biệt chiếu cố theo mục tiêu hỗ trợ phát
triển kinh tế hay hạn chế tiêu thụ đều là chỗ dựa cho hiện tợng tiêu cực.
Việc giảm xuất nhập khẩu tiểu ngạch đã phần nào hạn chế hiện tợng
tiêu cực theo các cửa khẩu biên giới rất khó kiểm soát.
4. Một vấn đề nữa là việc ban hành biểu thuế với nhiều mức thuế
suất cao, thấp còn căn cứ vào mục đích sử dụng chứ không theo tính
chất hàng hoá. Vì vậy nhiều mặt hàng có cùng tính chất nhng mục đích
sử dụng khác nhau có thuế suất nhập khẩu chênh lệch khá lớn nh: xe
đua (thuế suất là 5%), xe đạp thờng (70%), ôtô 4 chỗ (200%), xe cứu
thơng (0%)... Cho nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng điều này mà
thực hiện hành vi gian lận thơng mại, trốn thuế. Thủ thuật quan trọng
nhất để trốn thuế là hạ thấp giá trị hàng nhập khẩu để hạ thấp giá trị
tính thuế hay hạ quy cách kê khai để hởng mức thuế suất thấp hơn đã
trở thành phổ biến đối với hàng hoá có đơn giá lớn và thuế suất cao nh:
xe hơi, rợu mạnh... Điển hình nh là các doanh nghiệp nhập khẩu xe tải
nhẹ nhng nguy trang dới hình thức là nhập khẩu xe đông lạnh chuyên
dụng để trốn thuế từ 60% xuống còn 10% hay xe ôtô du lịch thì đợc lắp
thêm đèn, còi thành xe cứu thơng để đợc hoàn thuế...
5. Thuế chồng lên thuế đợc thể hiện ở việc thuế đánh trên giá CIF
7


và thuế đánh trên phụ thu, cụ thể nh sau: ví dụ khi một Cty xuất khẩu
gạo với giá FOB (hàng giao tại cảng Việt Nam) khoảng 250USD/MT,
thì phải đóng thế suất là 1% tức là 25USD. Nhng nếu Công ty đó xuất
khẩu với giá CIF (hàng đa đến tận cảng nớc ngời bán) thì giá hàng cộng

thêm phí vận chuyển là 40USD/MT, do đó giá thành xuất là
290USD/MT, với thuế suất xuất khẩu là 1% tức 29USD. Nh vậy nhà
xuất khẩu bị thiệt 4USD chi phí vận chuyển, đơn vị Vận tải biển cũng
phải đóng thuế doanh thu trên 40USD đó. Và đơn vị bảo hiểm cũng
đóng thuế doanh thu khi hởng phí bảo hiểm vận chuyển qua biển do
đơn vị xuất nhập khẩu đóng. Nh vậy một tấn gạo xuất khẩu với giá CIF
thì đóng thuế là 29USD, và đơn vị vận chuyển, đơn vị bảo hiểm cũng
đóng thuế nữa. Trong đó, đơn vị xuất khẩu chịu thiệt thòi nhất, cho nên
họ chỉ bán với giá FOB cho có lợi. Nếu đơn vị xuất khẩu với giá FOB
thì đơn vị Vận tải và Bảo hiểm Việt Nam thất thu do đó ngân sachs nhà
nớc cũng thất thu, chính điều này cần phải nghiên cứu sửa đổi. ở Việt
Nam không phải công ty nào cũng muốn xuất theo giá CIF. Một số
công ty sợ rủi ro khi vận tải qua đờng biển nên chỉ xuất theo giá FOB.
Nhng một khi ngành bảo hiểm hoạt động mạnh, thì số Công ty xuất
khẩu theo giá CIF sẽ nhiều hơn (vì giá CIF đa số là đợc giá hơn giá
FOB). Nếu chính sách thuế không kịp thời đợc sửa đổi để khuyến khích
xuất khẩu theo giá CIF, và khuyến khích ngành bảo hiểm phát triển thì
nguồn thu ngân sách sẽ bị hạn chế rất nhiều.
6. Quy định trong việc nộp thuế nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu
để sản xuất hàng xuất khẩu và hoàn trả thuế xuất khẩu cũng còn hạn
chế, bất hợp lý. với biểu thuế từ 30 - 45% cho những lô hàng nguyên
liệu, phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, trong thời gian nộp thuế 30
ngày thì cơ sở sản xuất sẽ không có đủ vốn để tạm ứng nộp thuế, vì khi
nguyên liệu về, cơ sở phải lo triển khai sản xuất trong thời gian vài
tháng thậm chí có lô kéo dài tới nửa năm.
Việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới còn bất
hợp lý. Điều này đợc thể hiện ở chỗ: thông thờng thì các mặt hàng Việt
8



Nam xuất sang Trung Quốc là những mặt hàng khuyến khích xuất khẩu
nh than số 11, 12; chuối xanh, tiêu, điều, ớt, dừa... Với số lợng ít, kém
chất lợng những mặt này khó xuất khẩu theo con đờng chính ngạch, mà
chỉ phù hợp với hình thức xuất khẩu tiểu ngạch. Nhng xuất khẩu tiểu
ngạch phải chịu một mức thuế suất là 5%, cao hơn xuất khẩu chính
ngạch... Chính thuế nhập khẩu đánh vào hàng nguyên liệu đầu vào đã
làm tăng giá cả hàng hoá sản xuất và xuất khẩu trong nớc, làm giảm
khả năng cạnh tranh hàng hoá của ta trên thị trờng thế giới. Nh vậy thuế
suất đó là một lực cản kìm hãm xuất khẩu của các doanh nghiệp trong
nớc.
Hiện nay, Việt Nam đã ký kết hiệp định thơng mại với nhiều nớc,
trong đó có điều khoản dành cho nhau u đãi tối huệ quốc về thuế nhập
khẩu (MFN) nhng không ghi rõ từng mặt hàng với số lợng cụ thể. Do
đó, trên thực tế, Biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam chỉ có
duy nhất một loại thuế suất áp dụng phổ cập cho tất cả các loại hàng
hoá không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hoặc tình huống áp dụng. Hơn
nữa, Việt nam đã tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Diễn đàn kinh tế Châu á Thái Bình Dơng(APEC), và sắp tới sẽ là thành
viên của Tổ chức thơng mại thế giới (WTO) nên trong quan hệ thơng
mại với các nớc thành viên của các tổ chức này và một số nớc Việt Nam
có chung biên giới, Việt Nam đã, đang và sẽ có những thoả thuận u đãi
riêng. Nh vậy qui định về thuế suất u đãi của luật thuế xuất nhập khẩu
hiện hành cha cụ thể, cha phù hợp với thông lệ quốc tế về u đãi tối huệ
quốc (MFN).
Đặc biệt mới ta đã ký hiệp định thơng mại song phơng với Mỹ, do
đó hàng hoá của ta sẽ thâm nhập dễ dàng hơn vào thị trờng nớc Mỹ một thị trờng lớn, giầu và quan trọng vào bậc nhất thế giới. Hơn nữa,
qua hiệp định này Việt Nam cũng sẽ ký đợc hiệp định thơng mại với
nhiều nớc khác nữa. Nh vậy, qui định về thuế suất u đãi của luật thuế
xuất nhập khẩu hiện hành không còn phù hợp với tình hình kinh tế đối
9



ngoại của Việt Nam hiện nay cũng nh trong thời gian tới. Do đó cần
phải hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu của ta cho phù hợp với
chính sách thuế của khu vực và thế giới.

III. Các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế
xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập với
khu vực và thế giới hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất
nhập khẩu cần phải thực hiện theo những mục tiêu, phơng hớng sau:
Chính sách thuế xuất nhập khẩu phải là công cụ thực hiện chiến lợc phát triển kinh tế hớng ngoại, hớng về xuất khẩu phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Trở thành công cụ định hớng và
hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế của Việt Nam đợc xác định là có lợi
thế cạnh tranh trong thơng mại khu vực và thế giới. Điều này đòi hỏi
bảo hộ có chọn lọc, hợp lý chứ không tràn lan, chung chung nh trớc
đây. Chức năng hớng dẫn tiêu dùng, tăng cho ngân sách của thuế này đợc chuyển cho thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế VAT để phù hợp với thé giá
trị gia tăng mới ban hành và thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ đợc bổ sung trong
thời gian tới.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu cần bảo hộ có điều kiện sản xuất
trong nớc, nhng không cản trở cho mở rộng buôn bán, đầu t giữa nớc ta
với các nớc ASEAN, và sự tham gia của ta vào WTO. Chính sách thuế
xuất nhập khẩu phải tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia
vào hoạt động xuất khẩu.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu phải tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh trong điều kiện mới, đồng thời bảo đảm
quản lý tốt hoạt động xuất nhập khẩu và đảm bảo nguồn thu cho ngân
10



sách từ hoatj động xuất nhập khẩu phù hợp với cải cách toàn diện hệ
thống thuế nớc ta hiện nay. Để phù hợp với nội dung này, cần bổ sung
những quy định về giá tính thuế, kê khai, nộp thuế, thời hạn nộp thuế
một cách rõ ràng, chặt chẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng xác
định đợc nghĩa vụ thuế của mình và thực hiện nộp thuế đầy đủ nghiêm
túc theo đúng luật định. Đồng thời phải tiếp tục hoàn thiện việc tổ chức,
quản lý thực hiện chính sách thuế, giảm thiểu những phiền hà, tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất
nhập khẩu, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trởng và phát triển kinh tế
quốc gia.
Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội
nhập với khu vực và thế giới thì đòi hỏi chính sách thuế đó phải phù hợp
với yêu cầu của hội nhập kinh tế, thông lệ quốc tế chống lại thủ đoạn
cạnh tranh không lành mạnh của nớc ngoài. Tham gia vào các khối liên
kết kinh tế, chúng ta đã ký các cam kết về u đãi thuế nhập khẩu, u đãi
tối huệ quốc trong hiệp định thơng mại giữa Việt Nam với các nớc, u
đãi đặc biệt với các nớc ASEAN, APEC, EU trong thời gian qua và các
cam kết trong thời gian tới với các nớc thành viên của tổ chức thơng
mại thế giới (WTO) và mới đây là hiệp định thơng mại Việt - Mỹ. Các
cam kết này là cơ sở pháp lý, cũng nh thể hiện rõ ràng chính sách thuế
nhập khẩu đợc phân biệt theo mức độ quan hệ thơng mại giữa Việt Nam
với các nớc, tạo thuận lợi cho đàm phán về thuế với các nớc khu vực và
thế giới. Vì vậy chính sách thuế xuất nhập khẩu cũng cần phải quy định
các mức thuế suất khác nhau.
Đồng thời, để tăng cờng các công cụ pháp lý bảo hộ sản xuất trong
nớc phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện tự do hoá thơng mại
hiện nay, thuế xuất nhập khẩu cần đợc bổ những quy định về các mức
thuế suất tạm thời áp dụng trong các trờng hợp nớc nào đó sử dụng
những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, hoặc có những phân biệt
đối sử trong buôn bán với Việt Nam.

11


Từ những mục tiêu, phơng hớng cơ bản nêu trên, việc hoàn thiện
chính sách thuế xuất nhập khẩu cần phải tập trung vào cả nội dung, tổ
chức thực hiện và áp dụng đồng bộ các loại thuế khác nhau:
1. Đối với thuế xuất khẩu.
Trong việc hoàn thiện, sửa đổi biểu thuế xuất khẩu hiện hành thì
chính phủ nên bỏ việc thu thuế xuất khẩu. Bỏ thuế xuất khẩu sẽ hỗ trợ
cho hàng hoá Việt Nam khả năng cạnh tranh tại thị trờng nớc ngoài.
Mặc dù bỏ thuế xuất khẩu sẽ giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nớc,
nhng bù lại Chính phủ sẽ thu đợc các khoản thuế khác do phát triển sản
xuất và mở rộng xuất khẩu. Hoặc ít ra thì Chính phủ cũng nên thu hẹp
diện các mặt hàng chịu thuế. Nếu có đánh thuế xuất khẩu thì chỉ nên
đánh thuế đối với các sản phẩm thật cần thiết, thuế có khả năng hạn chế
hoặc có khả năng thu đợc nh: những mặt hàng là nguyên liệu sản xuất
trong nớc, những tài nguyên khoáng sản không khuyến khích xuất
khẩu, những sản phẩm có thị trờng ổn định. Trớc mắt xin bỏ thuế xuất
khẩu đối với nhóm mặt hàng hải sản để hỗ trợ thêm trong xuất khẩu và
khuyến khích phát triển ngành nghề khai thác, đánh bắt, nuôi trồng
thuỷ, hải sản, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Trong tơng lai, cùng với việc đẩy mạnh quá trình hội nhập và phát
triển của nền kinh tế Việt Nam thì số mặt hàng bị đánh thuế xuất khẩu
còn tiếp tục giảm.
2. Đối với thuế nhập khẩu.
Việc hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu cần hớng vào những
vấn đề sau:
Một là, xây dựng các mức bảo hộ khác nhau cho các ngành
12



sản xuất trong nớc, nhằm bảo vệ, hỗ trợ tối đa cho các ngành có khả
năng cạnh tranh và xuất khẩu, khắc phục tình trạng bảo hộ tràn lan
làm cho nền kinh tế kém hiệu quả.
Hai là, giảm mức thuế nhập khẩu hiện nay xuống còn bốn
hoặc năm mức. Sự chênh lệch giữa các mức là do yêu cầu yêu cầu
bảo hộ đối với từng ngành sản xuất. Nếu bảo hộ ở mức 1 là dới 10%,
thì ở mức 2 là 20%, mức 3 là 30%, mức 4 và mức 5 là 40% và 50%.
Thuế suất cao tối đa chỉ nên chỉ nên chiếm khoảng trên dới 10% tổng
danh mục hàng nhập khẩu chịu thuế. Và để phù với yêu cầu hội nhập
ta phải giảm dần mức thuế cao nhất và giảm số lợng mức thuế. Về lâu
dài mức thuế phù hợp với yêu cầu của AFTA là từ 0 - 5%, nhng trớc
mắt ta phải giảm dần. Đối với các mặt hàng mà chúng ta không có
tiềm năng lợi thế và cha có khả năng sản xuất trong những năm sắp
tới, những mặt hàng là nguyên liệu vật t quan trọng và chủ yếu cho
sản xuất của các ngành có thế mạnh cạnh tranh và xuất khẩu hoặc là
thiết bị đặc biệt chuyên dùng cho các ngành quốc phòng, an ninh, y
tế, giao thông, nông nghiệp, cần xây dựng các mức thuế nhập khẩu
thấp từ 0% đến 5%. Cùng với việc thu hẹp đến mức tối cần thiết diện
mặt hàng có mức thuế suất 0%, cần giảm bớt diện mặt hàng miễn
thuế nhập khẩu, theo hớng chỉ miễn thuế suất thuế nhập khẩu cho
một số trờng hợp theo thông lệ quốc tế.
Với việc giảm số lợng mức thuế nhập khẩu, có những mặt
hàng thì tăng thuế nhập khẩu, có những mặt hàng nhập khẩu thì giảm
thuế. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh cạnh tranh
và xuất khẩu đợc thì tăng mức thuế sát thuế nhập khẩu, còn đối với
những mặt hàng sẽ tăng thuế tiêu thụ, thuế giá trị gia tăng hoặc
chuyển sang thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT, hoặc các mặt hàng mà
mức thuế nhập khẩu hiện hành quá cao quá mức cần thiết thì giảm
mức thuế suất thuế nhập khẩu. Điều này sẽ tạo điều kiện để Việt Nam

hoà nhập vào hệ thống thuế quan của các nớc ASEAN trong thời gian
tới và thực hiện đảm bảo nguồn thu cho ngân sách.
13


Ba là, có thể áp dụng một phơng pháp khác trong việc sửa đổi
biểu thuế nhập khẩu để cho nó phù hợp với các quy định quốc tế mà
nớc ta đã và sẽ cam kết thực hiện, để áp dụng trong các trờng hợp
khác nhau tuy thuộc vào mức độ quan hệ giữa Việt Nam với các nớc,
tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, chính sách thuế xuất nhập khẩu
nên quy định 3 loại thuế suất đối với hàng hoá nhập khẩu đó là thuế
suất phổ thông, thuế suất u đãi, thuế suất tạm thời. Trong đó:
Thuế suất phổ thông (thuế suất tiêu chuẩn) là mức thuế suất
để áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu của các nớc không có quan
hệ, thoả thuận song phơng hoặc đa phơng về thuế quan với Việt Nam.
Thuế suất tạm thời là loại thuế suất do chính phủ quy định
để áp dụng trong thời gian nhất định, nhằm bảo hộ sản xuất trong nớc
trong những trờng hợp sản xuất trong nớc bị thiệt hại do những tác
động của hàng nhập khẩu. Đó là trờng hợp: hàng nớc ngoài áp dụng
chính sách trợ giá nhập khẩu vào thị trờng Việt Nam do môtk nớc
đang có chính sách hạn chế hàng nhập của Việt Nam; hàng của nớc
ngoài cố tình bán phá giá vào thị trờng Việt Nam; hàng của nớc ngoài
hạn chế xuất khẩu nhng Việt Nam lại rất cần nhập khẩu. Thuế suất
này có thể cao hơn hoặc thấp hơn thuế suất phổ thông.
Thuế suất u đãi: nh đã nêu ở trên thì thuế suất u đãi là loại
thuế suất đợc áp dụng cho hàng nhập khẩu từ các nớc có ký các điều
khoản u đãi trong quan hệ buôn bán với Việt Nam với điều kiện phải
ghi rõ từng mặt hàng, số lợng, mức thuế suất u đãi cụ thể.
3. Về miễn, giảm thuế:
Trong điều kiện mở của, thu hút vốn đầu t nớc ngoài để phát

triển. Nhà nớc ta đã có những qui định xét miễn, giảm thuế cho một
số trờng hợp. Điều đó là cần thiết, song các quy định cha thất cụ thể,
chặt chẽ. Vì vậy, trong việc quy định miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu cần ghi rõ hơn đối với những hàng hoá liên quan tới khuyến
14


khích đầu t nớc ngoài, phục vụ liên doanh liên kết.

4. Thực hiện đồng bộ thuế xuất nhập khẩu với thuế VAT, thuế
tiêu thụ đặc biệt và các sắc thuế khác.
Cho đến nay, do trình độ phát triển của nền kinh tế nớc ta ở
mức độ thập, các ngành kinh tế cha đạt đợc trình độ phát triển đồng
đều thể hiện ở những mức độ khác nhau về hiệu quả sản xuất và tỷ lệ
lợi nhuận, đòi hỏi những mức độ khác nhau về sự trợ giúp của Nhà nớc, về bảo hộ, về điều tiết. Trong điều kiện nh vậy, chính sách thuế bị
chi phối và cha thể tính toán về các mức thuế suất dựa trên mức lợi
nhuận binhf quân trong các ngành. Việc tham gia vào quá trình hội
nhập đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một hệ thống thuế trung lập thể
hiện rõ nhất ở việc đơn giản các mức thuế để tạo điều kiện phân bổ
các nguồn lực một cách hợp lý, khuyến khích các nhà sản xuất đầu t
vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh, có thể đạt đợc hiệu quả sản xuất
cao, có khả năng cạnh tranh đợc với hàng hoá các nớc. Một hệ thống
thuế trung lập và rõ ràng sẽ tạo điều kiện thu ngoài, khơi trong. Việc
đơn giản các mức thuế suất này cần đợc thực hiện cụ thể với từng sắc
thuế.
Cùng với việc giảm số lợng các mức thuế suất và giảm dần
thuế suất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nh đã trình bày trên
đây, cần nhanh chong mở rộng thuế tiêu thụ đặc biệt, áp dụng thuế
giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và tiến tới áp dụng thuế
thu nhập dân c... Với các biện pháp nh vậy, thì nguồn thu của ngân

sách Nhà nớc bị giảm sút do giảm thuế xuất nhập khẩu sẽ phần nào
đợc bù đắp lại bằng các loại thuế khác.
5. Đổi mới công tác tổ chức, quản lý thi hành chính sách
thuế xuất nhập khẩu.

15


Những nội dung về chính sách thuế xuất nhập khẩu nêu trên
không thể thực hiện tốt nếu công tác tổ chức, kiểm tra việc thi hành
các chính sách, luật pháp về thuế xuất nhập khẩu không đợc đổi mới,
hoàn thiện. Vì vậy, trong việc xây dựng luật thuế xuất nhập khẩu, cần
giảm tối đa việc giao cho các bộ chức năng đa ra những quy định hớng dẫn thực hiện luật. Việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách
thuế xuất nhập khẩu một cách thờng xuyên kịp thời là cần thiết, để
phù hợp với tình hình thay đổi của thị trờng trong và ngoài nớc. Tuy
nhiên cần có thời gian cho các doanh nghiệp thích kịp thời, trnáh gây
ra cho doanh nghhiệp, Nhà nớc một cách kiên quyết hơn nữa việc cải
cách hành chính để đảm bảo những chính sách đúng đã có trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu nói chung, chính thuế xuất nhập khẩu nói riêng
đợc thực hiện một cách nghiêm minh.

Kết luận
Thuế xuất nhập khẩu là một phạm trù kinh tế lịch sử. Sự ra
đời và phát triển của sắc thuế này gắn liền với quá trình phát triển của
16


hoạt động ngoại thơng và Nhà nớc. Quan hệ kinh tế đối ngoại phát
triển sẽ thúc đẩy sự hoàn thiện của các quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ này. Do đó, cùng với sự tiến bộ của hoạt động ngoại

thơng Việt Nam, việc hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu là
xu hớng tất yếu khách quan của thời đại./.

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình thơng mại quốc tế
2. Chính sách thuế trong kế hoặch 5 năm 1996-2000
3. Tạp chí: + Ngân hàng
+ Tài chính
+ Thơng mại
+ Kinh tế & phát triển
+ Phát triển kinh tế
+ Thông tin khoa học tài chính
+ Công nghiệp nhẹ
+ Kinh tế và Dự báo
...

17



×