Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu khi Việt Nam đã là thành viên của WTO.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.83 KB, 72 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế toàn cầu hóa trên thế giới ngày càng mạnh mẽ. Tự do hóa thương mại là vấn đề
cần thiết với mỗi quốc gia hiện nay, hệ quả của nó là vấn đề khu vực hóa và toàn cầu hóa
nền kinh tế . Hội nhập kinh tế được xem là tất yếu khách quan và trở thành vấn đề thời sự
quốc tế.
Việt Nam trong hơn một thập niên gần đây đã có những nỗ lực rất lớn để hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Đặc biêt trong
những năm đầu của thiên niên kỷ mới, chính sách thuế và trợ cấp của Việt Nam đã từng
bước để điều chỉnh nhằm thực thi các hiệp định thương mại song phương và khu vực, đồng
thời gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Trong chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách thuế quan được coi là phải điều chỉnh
nhiều nhất sau khi gia nhập WTO do chúng có liên quan trực tiếp với việc thực thi các cam
kết gia nhập
Ngày 29-12-1987, Quốc hội khóa VIII kỳ họp lần thứ 2 thông qua Luật Thuế xuất
khẩu, Thuế nhập khẩu, đồng thời có ban hành kèm theo biểu thuế chung, biểu thuế xuất
nhập khẩu cho từng mặt hàng, chưa tách 2 biểu thuế riêng biệt. Biểu thuế này, được xây
dựng dựa trên danh mục hàng xuất nhập khẩu Việt Nam theo tiêu chuẩn của Hội đồng
Tương trợ kinh tế (khối SEV). Biểu thuế này hoàn toàn tuân theo từng mục đích sử dụng.
Nói chung, biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và cả Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu
chỉ phù hợp cho giai đoạn nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc xuất nhập khẩu theo chế
độ nghị định thư ký giữa các chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa (thị trường khu vực I),
sau đó cải tiến ban hành thêm khung thuế xuất nhập khẩu để chính phủ kịp thời điều chỉnh
cho hợp lý.Việc điều chỉnh chính sách thuế nhằm hướng tới việc đáp ứng các nguyên tắc và
quy định WTO như từng bước cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, đối xử bình
đẳng với các loại hình doanh nghiệp trong và ngoài nước và nỗ lực cải thiện tính công khai,
minh bạch trong hoạch định và thực thi chính sách kinh tế
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Luật Thuế xuất - nhập khẩu cũ bộc lộ nhiều
nhược điểm và chưa bảo vệ nền sản xuất hàng hóa nội địa, hướng dẫn tiêu dùng, tăng thu
cho ngân sách... Vì vậy, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng và trình Quốc hội
thông qua Luật Thuế xuất - nhập khẩu ngày 26-11-1991. Mục đích của thuế xuất khẩu, thuế


1
nhập khẩu là bảo vệ nền kinh tế trong nước, tăng thu ngân sách cho Nhà nước và hướng dẫn
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Năm 1993, 1998 Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu cho phù hợp với tình hình kinh
tế chính trị của từng giai đoạn lịch sử. Sau 20 năm đổi mới, nước ta đã hội nhập sâu với nền
kinh tế thế giới, tham gia và ký kết nhiều cam kết, hiệp định quốc tế. Do đó, chính sách
pháp luật cũng phải thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngày 14-6-2005, tại kỳ họp
thứ 7 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ngày
7-11-2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, đánh dấu một giai đoạn
mới của đất nước trong cải cách kinh tế - cải cách một nền kinh tế mở và chịu tác động
mạnh mẽ của luật chơi toàn cầu
Trong bối cảnh mới, một vấn đề bức thiết là Việt Nam phải làm gì và bằng cách nào
để nắm bắt thành công và những cơ hội mà quy chế thành viên WTO tạo ra, đồng thời giảm
thiểu những tác động tiêu cực từ việc thưc hiện cam kết gia nhập. Sự hòa nhập tất yếu của
Việt Nam vào WTO đang đặt ra nhiệm vụ thích hợp hóa các chính sách quản lý phát triển
kinh tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh chính sách thuế xuất nhập khẩu đối với các điều kiện
và thông lệ thế giới
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên, em xin thực hiện bài viết “Hoàn thiện chính sách
thuế xuất nhập khẩu khi Việt Nam đã là thành viên của WTO”
Luận văn của em trình bày theo 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về thuế xuất nhập khẩu
Chương II: Thực trạng thuế xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay
Chương III: Phương hướng và biện pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập
khẩu khi Việt Nam đã là thành viên WTO


2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. Tầm quan trọng của chính sách thuế xuất nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm thuế xuất nhập khẩu

Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán trao đổi hàng
hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia độc lập có chủ quyền đều
sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước
mình. Thuế này được gọi chung là thuế quan (Custom duty).
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa thì pháp luật
của các nước về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia trong khu vực và
trên phạm vi toàn thế giới.
Thuế quan ở Việt Nam có tên gọi là thuế xuất nhập khẩu (XNK).
Thuế XNK là loại thuế gián thu đánh vào những mặt hàng được phép xuất khẩu, nhập
khẩu qua biên giới Việt Nam kể cả thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu
phi thuế quan vào thị trường trong nước
Thuế XNK được nhà nước ta ban hành vào năm 1951, thời điểm này thuế XNK là
công cụ để nhà nước thực hiện chức năng quản lý việc XNK hàng hoá giữa vùng tự do và
vùng bị tạm chiếm, bảo vệ và phát triển kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại
hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phương châm đấu tranh kinh
tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết cho
kháng chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, nhà nước miễn thuế xuất khẩu cho tất
cả các loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch.
Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30 % trở lên.
Huy động nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước. Đối với thuế XNK ở mức cao vừa
bảo hộ sản xuất trong nước, vừa đóng góp nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên
thuế nhập khẩu ở mức thấp, số thu cho ngân sách nhà nước sẽ thấp hoặc không đáng kể,
nhưng thuế xuất nhập khẩu thấp có nghĩa là khuyến khích nhập khẩu, thu ngân sách nhà
nước sã tăng lên ở khâu tiêu thụ sản phẩm bằng các loại thuế nội địa.
Đối với thuế nhập khẩu nếu ở mức cao thì tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước,
nhưng hạn chế xuất khẩu . Nếu thuế nhập khẩu ở mức thấp sẽ khuyến khích xuất khẩu và
nguồn thu ngân sách Nhà nước sẽ tăng bằng các thuế nội địa khác.

3
Thuế XNK đánh vào giá trị hàng hóa xuất khẩu nhằm hạn chế xuất khẩu các mặt hàng

cần thiết và những loại vật tư, nguyên liệu quý hiếm để phát triển nền kinh tế trong nước,
thỏa mãn nhu cầu thị trường hoặc bảo vệ môi trường sinh thái.
Thuế nhập khẩu đánh vào giá trị hàng hóa nhập khẩu từ thị trường nước ngoài vào thị
trường trong nước, thong qua việc tác động vào giá cả hàng hóa nhập khẩu trên thị trường ,
thuế nhập khẩu đã bảo hộ sự xâm nhập của hàng hóa ngoại vào thị trường trong nước, thúc
đẩy sự phát triển của sản xuất nội địa.
Quản lý hoạt động XNK thông qua thuế XNK Nhà nước kiểm soát được số lượng
hàng hóa XNK vào thị trường trong nước, kết hợp chính sách ngoại thương thích hợp để có
biện pháp xử lý kịp thời nhằm tăng cường hoặc hạn chế hàng hóa ra vào thị trường trong
nước.
Thông qua công cụ thuế nhà nước khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài .
Nâng cao hiệu quả hoạt động XNK.
Góp phần hướng dẫn tiêu dùng trong nước .
Góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hợp tác quốc tế .
Ðối tượng điều chỉnh của Luật thuế XNK là quan hệ thu nộp thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép XNK qua cửa
khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và
từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước.
Theo quy định của Luật thuế XNK thì XNK đối với hàng hoá mậu dịch mang tính chất
gián thu. Còn đối với các loại hàng hoá khác thì tùy theo từng trường hợp mà thuế XNK có
tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
1.1.2. Đặc điểm thuế xuất nhập khẩu.
Thuế XNK là công cụ quan trọng trong chính sách nhà nước, thuế xuất nhập khẩu có
những đặc điểm quan trọng như sau:
Thứ nhất: Thuế XNK là loại thuế gián thu. Nhà nước sử dụng thuế XNK để điều
chỉnh ngoại thương thông qua việc tác động vào giá cả hàng hóa XNK. Người nộp thuế là
người thực hiện hoạt động XNK hàng hóa, người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng.
Việc tăng giảm thuế suất thuế XNK sẽ tác động trực tiếp tới giá cả hàng hóa XNK, từ đó
ảnh hưởng đến nhu cầu và sự lựa chọn của người tiêu dùng buộc nhà sản xuất và nhập khẩu
hàng hóa phải điều chỉnh sản xuất kinh doanh của mình cho phù hợp.


4
Thứ hai : Thuế XNK là loại thuế gắn liền với hoạt động ngoại thương. Hoạt động
ngoại thương giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển của nền kinh tế quốc dân, tuy
nhiên hoạt động này đòi hỏi có sự quản lý của nhà nước. Thuế XNK là công cụ quan trọng
của nhà nước nhằm kiểm soát hoạt động ngoại thương thông qua việc kiểm soát giá cả và
chủng loại hàng hóa XNK. Việc đánh thuế XNK thường căn cứ vào giá trị và chủng loại
hàng hóa XNK. Giá cả của hàng hóa được xác định làm căn cứ tính thuế XNK là giá trị cuối
cùng của hàng hóa qua cửa khẩu xuất( đối với thuế xuất khẩu) và giá cả hàng hóa tại cửa
khẩu nhập đầu tiên( đối với thuế nhập khẩu ).
Thứ ba: Thuế XNK chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế như: sự biến
đông kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế…Thuế XNK điều chỉnh vào hoạt động
XNK hàng hóa của một quốc gia. Sự biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mai quốc
tế trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp tới hàng hóa XNK của các quốc gia. Sự biến đông
kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp tới
hàng hóa XNK của các quốc gia nhất là xu thế tự do hóa thương mại, mở cửa và hội nhập
kinh tế như hiện nay. Để đạt được những mục tiêu đặt ra đòi hỏi chính sách thuế XNK phải
có tính linh hoạt cao, có những biến đổi phù hợp tùy theo tình hình kinh tế thế giới và đảm
bảo phù hợp với những cam kết quốc tế.
1.1.3. Quá trình phát triển thuế xuất nhập khẩu.
Thuế XNK hay còn gọi là thuế quan có lịch sử phát triển từ lâu đời. Nó ra đời từ thời
cổ đại, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Trong lịch sử phát triển, luôn tồn tại hai
trường phái về việc sử dụng thuế XNK. Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển do
nhu cầu xuất khẩu tư bản và hàng hóa lớn thì muốn xóa bỏ hàng rào thuế quan để củng cố
và tăng cường bành trướng kinh tế. Ngược lại các nước có nền kinh tế kém phát triển,
không bị lệ thuộc hoặc thống trị bởi các nền kinh tế bên ngoài thì muốn duy trì và củng cố
hàng rào thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước. Hai quan điểm sử dụng thuế XNK đã
được thể hiện rõ nét qua tiến trình phát triển kinh tế thế giới
Vào thời kỳ đầu của Chủ nghĩa Tư bản, được khuyến khích bởi các học thuyết kinh tế
thuộc trào lưu tự do hóa kinh tế, người ta cho rằng thuế XNK là một cản trở lớn cho quá

trình phát triển kinh tế. Vì vậy giai cấp tư sản đấu tranh đòi xóa bỏ hàng rào thuế XNK
trong buôn bán giao dịch quốc tế

5
Bước vào giai đoạn Chủ nghĩa Tư bản độc quyền, hầu hết các nước đế quốc đều sử
dụng thuế XNK là công cụ quan trọng trong chính sách ngoại thương để giành ưu thế buôn
bán trên thị trường quốc tế. Mục đích sử dụng thuế XNK của các nước đế quốc trong giai
đoạn này là hỗ trợ các ngành độc quyền trong nước phát triển. Đây là công cụ bảo hộ chính
vào những năm 1930 và từng là cơ sỏ cho quá trình công nghiệp hóa, thay thế hàng nhập
khẩu mà Đức và Mỹ theo đuổi vào thế kỷ 19. Thuế nhập khẩu tạo điều kiện cho các nhà
độc quyền thâu tóm thị tường nội địa nâng giá nhằm trang trải cho các khoản lỗ xuất khẩu
do bán dưới giá thành để chiếm ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Sau chiến tranh thế giới thứ I, đặc biệt là sau khủng hoảng kinh tế 1929-193, đã làm
cho nền kinh tế các nước tham chiến mất cân đối nghiêm trọng, mối liên kết thương mại
quốc tế tan rã. Trong hoàn cảnh đó, các nước tư bản phát triển tiếp tục sử dụng thuế XNK
làm công cụ điều tiêt chính sách ngoại thương. Bên cạnh đó họ còn gia tăng sử dụng các
công cụ phi thuế quan trong hoạt động ngoại thương như: hạn ngạch XNK, hạn mức ngoại
tệ trong thanh toán
Sau chiến tranh thế giới II nhu cầu phục hồi kinh tế ở các nước tham chiến trở nên cấp
bách và hoạt động ngoại thương trở thành nhân tố quan trọng cho việc phục hồi kinh tế. Sự
ổn định trong buôn bán quốc tế và sự ra đời của hệ thống tiền tệ quốc tế thế giới đã thúc
đẩy các nước tư bản phát triển dần dần xóa bỏ các biện pháp quản lý hành chính trong hoạt
động ngoại thương. Hiệp định chung về thương mai thuế quan(GATT) giữa các nước tư
bản phát triển ra đời vào tháng 10/1947( có hiệu lực thi hành từ tháng 01/1948). Với các
nước tham gia hiệp định này, thuế XNK được giảm xuống hoặc xóa bỏ. Tuy nhiên trong
GATT việc cắt giảm thuế XNK mới được áp dụng đối với hàng hóa công nghiệp, đối với
hàng hóa nông nghiệp vẫn sử dụng thuế XNK để bảo hộ
Trái với xu thế tự do hóa thương mại ở các nước TB phát triển, sau chiến tranh thế giới
thứ II, các nước có nền kinh tế đang phát triển vẫn coi trọng thuế XNK. Lý do chính là
kinh tế nước này còn non kém, không có khả năng cạnh tranh. Mặt khác nguồn tài chính

của nhà nước còn hạn hẹp cần phải tranh thủ mọi nguồn thu để phát triển kinh tế
Ngày nay với lý thuyết lợi thế so sánh trong hoạt động ngoại thương, các nước phát
triển cũng như đang phát triển đều bị lôi kéo theo trào lưu mở cửa hội nhâp, tự do hóa
thương mai. Giữa các nước có trình độ phát triển kinh tế tương đồng hoặc có chung lợi ích
hình thành nên những khu vực kinh tế phi thuế quan hoặc hạn chế thuế quan. Trong hoàn

6
cảnh đó buộc tất cả các nước phải xem xét lai chính sách sử dụng thuế XNK sao cho phù
hợp với diễn biến và trình độ phát triển của kinh tế thế giới
Ở Việt Nam thuế XNK phát triển qua nhiều giai đoạn
Năm 1946 sau khi giành được độc lập và tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp,
nhà nước đã ban hành thuế quan đánh vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu qua cửa khẩu
biên giới và trao đổi hàng hóa giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm. Thuế suất được quy
định theo tỷ lệ % tính trên giá trị lô hàng XNK. Giai đoạn từ 1965-1988, đây là thời kỳ kế
hoạch hóa tập trung, nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thương nên chỉ có các tổ chức
kinh tế nhà nước mới được phép trao đổi hàng hóa với nước ngoài thông qua tổ chức
XNK. Thị trường ngoại thương rất hẹp, chủ yếu được thực hiện trong phạm vi các nước
XHCN. Vì vậy nhà nước thực hiện chế độ thu bù trừ chênh lệch ngoại thương và thu kết
hối ngoại tệ từ 5% đến 20% đối với hàng hóa XNK mậu dịch. Đối với hàng hóa XNK phi
mậu dịch thì thực hiện chế độ hàng hóa XNK phi mậu dịch. Nhiệm vụ chủ yếu của chế độ
thu bù chênh lệch ngoại thương là nhà nước đảm bảo về mặt tài chính cho các tổ chức
XNK, nó chưa đặt ra mục tiêu thu ngân sách nhà nước và hoạt động quản lý ngoại thương.
Việc chuyển sang cơ chế thị trường, cùng với chủ trương mở rộng kinh tế đối ngoại đã
làm cho hoạt động ngoại thương ở nước ta có điều kiện phát triển đòi hỏi phải có sự can
thiệp của nhà nước bằng các chính sách công cụ tài chính trong đó có thuế XNK. Luật thuế
XNK mậu dịch được quốc hội khóa 8 thông qua vào tháng 12/1987 có hiệu lực thi hành
vào năm 1988. Từ năm 1989 nước ta đã bãi bỏ thuế hàng hóa nhập khẩu mậu dịch, chỉ còn
thu vào hoạt động XNK theo 2 biểu thuế riêng biệt: thuế XNK hàng mậu dịch và thuế
XNK hàng phi mậu dịch. Mục tiêu của thuế XNK thời kỳ này là khuyến khích xuất khẩu ,
hạn chế nhập khẩu để bảo hộ hàng hóa trong nước: thuế xuất khẩu đã giảm bớt nhóm mặt

hàng đánh thuế, điều chỉnh thuế suất theo từng nhóm mặt hàng cần khuyến khích hay hạn
chế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đánh thuế cao vào hành hóa nhập khẩu trong nước đã sản
xuất được, hàng hóa cần hạn chế nhập, không đánh thuế nhập khẩu đối với hàng là vật tư,
nguyên liệu nhập khẩu để phục vụ cho sản xuất trong nước.
Ngày 26/12/1991 tại kỳ hop thứ 10 quốc hội khóa 8, luật thuế XNK mới đã được thông
qua, thống nhất chính sách thuế đối với mọi hình thức XNK. Từ đó đến nay, luật thuế
XNK đã được sửa đổi bổ sung hai lần vào các ngày 5/7/1993 và 25/5/1998. Trong bối cảnh
hoạt động kinh tế đối ngoại mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mục tiêu của

7
chính sách thuế XNK trong giai đoạn này là thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước một
cách có hiệu quả thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu,
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước phù hợp với quá trình cải cách hệ thống thuế ở
nước ta, chính sách thuế XNK phù hợp với những cam kết quốc tế về cắt giảm thuế quan
mà Việt Nam đã ký kết tham gia.
1.1.4. Vai trò chính sách thuế xuất nhập khẩu.
Thuế quan đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế đất nước,
bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển, đóng góp số thu cho ngân sách. Tuy
nhiên, khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, việc bảo hộ sản xuất trong nước
bằng con đường thuế quan không còn phù hợp. Vậy làm thế nào để thuế quan góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với 160 nước và vùng lãnh
thổ, tham gia 86 hiệp định thương mại, 46 hiệp định hợp tác đầu tư và 40 hiệp định chống
đánh thuế 2 lần, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 70 nước, chính thức là thành
viên thứ 150 của WTO năm 2006. Đối với mỗi quốc gia, thuế quan có vai trò quan trọng
trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước; đóng góp nguồn thu cho ngân sách và điều tiết
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của mỗi quốc gia.
Thuế quan là thuế chính phủ đánh vào hàng hóa được chuyên chở qua biên giới quốc
gia hoặc lãnh thổ hải quan. Thuế quan gồm thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu

(thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu). Thuế xuất khẩu là một công cụ mà các nước đang phát
triển thường sử dụng để đánh vào một số mặt hàng nhằm tăng lợi ích quốc gia. Trái lại, ở
nhiều nước phát triển người ta không sử dụng thuế xuất khẩu do họ không đặt mục tiêu tăng
nguồn thu ngân sách từ thuế xuất khẩu. Vì vậy, ở những nước đó, khi nói tới thuế quan
người ta đồng nhất nó với thuế nhập khẩu. Để xác định mức độ chịu thuế của các hàng hóa
khác nhau mỗi nước đều xây dựng một biểu thuế quan. Biểu thuế quan là một bảng tổng
hợp quy định một cách có hệ thống các mức thuế quan đánh vào các loại hàng hóa chịu thuế
khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Biểu thuế quan có thể được xây dựng dựa trên phương pháp
tự định hoặc phương pháp thương lượng giữa các quốc gia. Có hai biểu thuế quan là biểu
thuế quan đơn và biểu thuế quan kép. Biểu thuế quan đơn là biểu thuế quan trong đó chỉ quy
định một mức thuế quan cho mỗi loại hàng hóa. Hiện nay, hầu hết các nước không còn áp

8
dụng biểu thuế quan này. Biểu thuế quan kép là biểu thuế quan trong đó mỗi loại hàng hóa
quy định từ hai mức thuế trở lên. Những loại hàng hóa có xuất xứ khác nhau sẽ chịu những
mức thuế khác nhau.
Thuế quan có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, theo phương pháp tính
thuế, thuế quan được chia thành thuế quan đặc định, thuế suất theo giá trị và thuế suất hỗn
hợp. Thuế suất đặc định là thuế tính trên một đơn vị hiện vật của hàng hóa, ví dụ thuế tính
trên 1 tấn, 1 chiếc... Thuế trị giá là thuế đánh vào giá trị hàng hóa và được tính theo tỷ lệ
phần trăm của giá trị hàng hóa đó. Thuế quan hỗn hợp là sự kết hợp giữa thuế đặc trưng và
thuế suất theo giá trị. Theo mục đích đánh thuế, thuế quan được phân chia thành thuế quan
tài chính và thuế quan bảo hộ. Thuế quan tài chính là thuế quan nhằm vào mục tiêu tăng thu
cho ngân sách quốc gia. Thuế quan bảo hộ là thuế quan nhằm bảo hộ các ngành sản xuất
trong nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Theo mức thuế, thuế quan được
chia ra mức thuế tối đa, mức thuế tối thiểu và mức thuế ưu đãi. Mức thuế tối đa được áp
dụng cho những hàng hóa có xuất xứ từ các nước chưa có quan hệ thương mại bình thường.
Mức thuế tối thiểu được áp dụng cho những hàng hóa có xuất xứ từ các nước có quan hệ
bình thường. Mức thuế ưu đãi được áp dụng cho hàng hóa xuất xứ từ các nước có thỏa
thuận hợp tác.

Thuế quan ở nước ta đóng vai trò quan trọng trong việc thu ngân sách quốc gia (chiếm
khoảng 30% tổng thu ngân sách). Trong giai đoạn 2001 - 2005, ngành hải quan luôn đạt và
vượt chỉ tiêu thu ngân sách, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách của Bộ
Tài chính. Số thu năm sau luôn cao hơn số thu năm trước, cụ thể: năm 2001 đạt 29.381 tỷ
đồng, năm 2002 đạt 36.784 tỷđồng, năm 2003 đạt 39.178 tỷ đồng, năm 2004 đạt 46.017 tỷ
đồng, năm 2005 đạt 52.000 tỷ đồng và năm 2006 đạt khoảng 58.000 tỷ đồng (tốc độ tăng
thu bình quân hàng năm 15%). Đây là một nỗ lực rất lớn của ngành hải quan trong bối cảnh
chúng ta đang thực hiện cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế (như cắt giảm thuế
theo lộ trình thực hiện CEPT trong ASEAN, các hiệp định song phương và gia nhập WTO).
Đặc biệt, đây là giai đoạn đầu thực hiện xác định trị giá hải quan theo các nguyên tắc của
Hiệp định trị giá GATT, tình trạng trốn thuế, gian lận qua giá còn khá phổ biến, nhưng
ngành đã tập trung chỉ đạo và đưa ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo nhiệm vụ thu thuế đồng
thời chống thất thu qua gian lận trị giá.

9
Tác động của thuế quan đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì
thuế quan sẽ mang lại thu nhập thuế cho nước đánh thuế. Nhưng đứng trên giác độ toàn bộ
nền kinh tế, thuế quan lại làm giảm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác
nguồn lực của nền kinh tế thế giới. Nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động
XNK của một quốc gia. Thuế quan có thể có những ảnh hưởng tiêu cực. Thuế quan cao sẽ
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa được
tiêu thụ. Thuế quan cao cũng sẽ kích thích tệ nạn buôn lậu. Thuế quan càng cao, buôn lậu
càng phát triển. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá
thấp hơn ở thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài do
họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó cũng không khích lệ các nhà
sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng năng xuất,
chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp, thuế quan xuất khẩu
sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi ích đáng kể
cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ thị trường nội
địa, đặc biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá

hàng hóa, do vậy sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ
làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu có thể
giúp cải thiện thương mại của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản phẩm mà giá của chúng
không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa này thuế quan có thể khuyến
khích nhà sản xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi nhuận sẽ được chuyển dịch một phần
cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng đó, nước nhập khẩu phải là nước có
khả năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới của hàng hóa nhập khẩu.
Chính sách thuế quan trọng trong điều kiện hội nhập: Nhìn chung chính sách thuế
quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay đều có ảnh hưởng nới lỏng sự hạn chế
thương mại, từng bước giảm dần các mức thuế trên cơ sở các hiệp định đa phương và song
phương. Thương lượng trong việc xây dựng biểu thuế quan được coi như là một đặc trưng
cơ bản của chính sách thuế xuất nhập khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của
các liên minh thuế quan đã có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao
đổi giữa các nước trong liên minh và các nước ngoài liên minh. Chính sách liên minh thuế
quan đã có tác động làm tăng đáng kể khối lượng thương mại giữa các nước thuộc liên minh
trong khi đó nó tạo ra một hàng rào ngăn cản hàng hóa của các nước ngoài liên minh. Điều

10
này dường như đã trở thành một xu hướng trong việc hoạch định chính sách thuế quan hiện
nay nhằm tự do hóa thương mại giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực
trước sự cạnh tranh của hàng hóa đến từ bên ngoài. Trong trường hợp tự do hóa thương mại,
lợi ích thương mại cho các thành viên không còn là điều phải tranh cãi vì mỗi quốc gia nhờ
đó sẽ tận dụng triệt để những nguồn lực có thế mạnh, loại bỏ những ngành sản xuất không
hiệu quả, đồng thời người dân cũng sẽ được tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất
lượng tốt hơn. Trong trường hợp bảo hộ thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một ngành
duy nhất, có thể có một số nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do phải nhập khẩu những sản
phẩm của các nước trong liên minh với giá cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên, liên minh thuế
quan là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do vậy, nếu như một nước chịu
thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ được lợi từ một ngành khác trên cơ sở cân
bằng về lợi ích giữa các thành viên.

Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã giành được những thành tựu
to lớn trên lĩnh vực kinh tế và chính trị. Là thành viên của WTO, nước ta có được vị thế
bình đẳng trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội thiết lập một trật
tự kinh tế mới công bằng, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của
doanh nghiệp. Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên
với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo
các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó tạo điều
kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu
1.2. Nguyên tắc và phương pháp xây dựng thuế xuất nhập khẩu
1.2.1. Nguyên tắc xây dựng thuế xuất nhập khẩu
Nguyên tắc 1: Thuế XNK chỉ đánh vào hàng hóa thực sự xuất khẩu, nhập khẩu:
Là công cụ quản lý của nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, nhưng cũng phải
đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi hàng hóa trong quan hệ thương
mại quốc tế theo khuôn khổ quy định của pháp luật, thuế XNK chỉ điều chỉnh vào hàng hóa
thực sự nhập khẩu, xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu thực sự là hàng hóa được sản xuất trong
nước và tiêu dùng nước ngoài. Hàng hóa nhập khẩu thực sự là hàng hóa được sản xuất ở
nước ngoài và tiêu dùng ở thi trường nội địa vì vậy các nước thường không đánh thuế XNK
vào hàng quá cảnh, mượn đường qua cửa khẩu, biên giới quốc gia, hàng hóa đưa từ nước
ngoài vào khu chế xuất, từ khu chế xuất ra nước ngoài, hàng hóa từ nước ngoài vào kho bảo

11
thuế, hoặc quy định các trường hợp miễn thuế, hoàn thuế XNK cho hàng hóa không thực sự
xuất khẩu như hàng tạm nhập- tái xuất, hàng tạm xuất- tái nhâp
Nguyên tắc 2: Phải phân biệt theo khu vực thị trường và các cam kết song phương, đa
phương:
Thuế XNK phải điều chỉnh vào hoạt động XNK hàng hóa giữa các quốc gia. Để tạo
thuận lợi cho việc di chuyển hàng hóa trong quan hệ thương mại quốc tế, các nước có thể
đặt ra những quy tắc nhất định đối với hàng hóa XNK và việc đánh thuế vào những hàng
hóa này. Đặc biệt trong điều kiện tự do hóa thương mại như hiện nay, các quốc gia cùng
chung lợi ích có thể ký kết với nhau các hiệp định song phương hoặc đa phương thực hiện

ưu đãi đối với hàng nhập khẩu. Các quốc gia khi tham gia ký kết hiệp định phải từ bỏ tính
chủ quyền trong đánh thuế XNK mà phải tuân thủ các hiệp định thuế đã được ký kết . Theo
đó hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ khu vực thị trường phổ thông( không có cam kêt) thì
áp dụng thuế suất phổ thông, đối với khu vực có cam kết đối xử tối huệ quốc thì áp dụng
thuế suất ưu đãi, đối với khu vực thị trường có cam kết ưu đãi đặc biệt thì áp dụng thuế
suất ưu đãi đặc biêt
Nguyên tắc 3: Căn cứ vào lợi thế so sánh thương mại và yêu cầu bảo hộ của từng loại
hàng hóa và khu vực thị trường để thiết lập biểu thuế phù hợp:
Một trong những mục tiêu khi xây dựng chính sách thuế XNK mà các nước hướng tới
là bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước. Tùy theo trình độ phát triển kinh tế XHCN của
từng quốc gia mà mục tiêu trên có thể nhấn mạnh hoặc giảm bớt. Căn cứ vào lợi thế so
sánh thương mại của các mặt hàng sản xuất trong nước, chính sách thuế XNK sẽ xây dựng
biểu thuế cho phù hợp. Những mặt hàng có lơi thế so sánh tương đối thấp, tính cạnh tranh
kém, nhà nước sẽ xây dựng biểu thuế nhập khẩu cao nhằm bảo hộ sản xuất trong nước và
ngược lại. Biểu thuế nhập khẩu phải chi tiết, cụ thể với từng nhóm hàng, cũng như tính
năng và công dụng của nó. Sự cụ thể chi tiết của biểu thuế một mặt góp phần tăng cường
quản lý của nhà nước với hoạt động XNK đồng thời nó cũng tạo ra những khẽ hở để các
đối tượng lợi dụng tránh thuế gây khó khăn cho công tác quản lý thuế. Do đó vấn đề đặt ra
là làm sao dung hóa được mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước và mục tiêu đơn giản hóa,
tiết kiệm chi phí quản lý. Bên cạnh đó chính sách XNK phải có tính linh hoạt cao. Tùy theo
biến động của thị trường trong nước và quốc tế, thuế suất thuế XNK thường xuyên được

12
điều chỉnh cho mục tiêu phát triển kinh tế và điều kiện kinh tế xã hội trong nước và thế
giới trong từng thời kỳ
Nguyên tắc 4: Tuân thủ các quy định về thông lệ quốc tế về phân loại mã hàng XNK
và giá tính thuế hàng hóa XNK
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa, các quốc gia cần tuân thủ các
quy định chung liên quan đến hoạt động ngoại thương. Trong đó đánh thuế bao nhiêu vào
hàng nào có liên quan chặt chẽ đến phân loại hàng hóa và xác định trị giá tính thuế của

hàng hóa XNK
1.2.2 Phương pháp tính thuế xuất nhập khẩu
1.2.21. Các căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu :
Thứ nhất: Căn cứ vào giá tính thuế XNK:
Giá tính thuế XNK được áp dụng theo quy định đối với từng trường hợp sau đây:
+ Giá tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu
xuất (FOB), không gồm chi phí vận tải (F), phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng bán hàng.
+ Giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là giá mua cuả khách hàng tại cửa khẩu
nhập, bao gồm cả chi phí vận tải (F), phí bảo hiểm (I) theo hợp đồng mua hàng, tức là giá
CIF.
+ Ðối với hàng hoá XNK: nếu có hợp đồng mua bán và có đủ các chứng từ hợp lệ đủ
điều kiện để xác định giá tính thuế thì giá tính thuế được xác định theo hợp đồng.
+ Trong trường hợp hàng hoá XNK: theo phương thức khác hoặc giá ghi trên hợp
đồng quá thấp so với giá mua bán tối thiểu thực tế tại cửa khẩu thì giá tính thuế áp dụng
theo biểu giá do Chính phủ quy định.
Giá tính thuế tính bằng đồng Việt Nam. Ngoại tệ được quy đổi ra đồng Việt Nam theo
tỷ giá mua vào do Ngân hàng nhà nước công bố.
Thứ hai: Căn cứ vào thuế suất:
Thuế suất đối với hàng nhập khẩu gồm thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và
thuế suất ưu đãi đặc biệt:
• Thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước
không có thoả thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam.

13
Thuế suất thông thường được quy định cao hơn không quá 70% so với thuế suất ưu
đãi của từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định.
• Thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước có thỏa
thuận đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam.
• Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ nước mà
Việt Nam và nước đó đã có thoả thuận ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu.

Hàng hoá nhập khẩu trong các trường hợp sau, ngoài việc chịu thuế theo quy định như
trên còn phải chịu thuế bổ sung
• Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hoá đó quá thấp so
với giá thông thường do được bán phá giá, gây khó khăn cho sự phát triễn ngành
sản xuất hàng hoá tương tự cuả Việt Nam .
• Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam với giá bán của hàng hoá đó quá thấp so
với giá thông thường do có sự trợ cấp của nước xuất khẩu, gây khó khăn cho sự
phát triển ngành sản xuất hàng hoá tương tự cuả Việt Nam.
• Hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ từ nước mà nước đó có sự
phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có những biện pháp phân biệt đối xử khác
đối với hàng hoá cuả Việt Nam.
Thứ ba: Căn cứ vào số lượng hàng hoá XNK:
Là số lượng hàng hoá thực tế ghi trên tờ khai mà cơ sở có hàng xuất khẩu, nhập khẩu
nộp cho cơ quan hải quan .
1.2.2.2. Phương pháp tính thuế xuất nhập khẩu:
Đối với hàng hóa áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm:
Số thuế xuất
khẩu, thuế
nhập khẩu
= Số lượng đơn vị từng mặt
hàng thực tế xuất khẩu, nhập
khẩu ghi trong Tờ khai hải
X Trị giá tính thuế
tính trên một đơn
vị hàng hóa
X Thuế suất của
từng mặt hàng

14
phải nộp quan

Trường hợp số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thực tế có chênh lệch so với hoá
đơn thương mại do tính chất của hàng hoá, phù hợp với điều kiện giao hàng và điều kiện
thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá thì số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp
được xác định trên cơ sở trị giá thực thanh toán cho hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và thuế
suất từng mặt hàng.
Đối với hàng hóa áp dụng thuế tuyệt đối:
Số thuế xuất
khẩu, thuế nhập
khẩu phải nộp
=
Số lượng đơn vị từng mặt hàng
thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi
trong Tờ khai hải quan
x
x
Mức thuế tuyệt đối quy định
trên một đơn vị hàng hoá
1.3. Cam kết của Việt Nam về thuế xuất nhập khẩu với WTO
1.3.1 Miễn thuế
a. Miễn thuế hàng viện trợ không hoàn lại:
Hàng hoá viện trợ không hoàn lại song phương hoặc đa phương cuả các tổ chức Chính
phủ, các tổ chức phi Chính phủ.
Hàng hoá viện trợ do các tổ chức nhân đạo, giáo dục, y tế, văn hoá nước ngoài hoặc
cuả các tổ chức tôn giáo quốc tế viện trợ cho các cơ quan khoa học, giáo dục, y tế, văn hoá
và các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam để dùng trực tiếp cho khoa học, giáo dục, y tế, văn hoá
và tôn giáo.
b. Miễn thuế hàng tạm nhập tái xuất, hàng tạm xuất tái nhập để dự hội chợ, triển lãm
bao gồm những hàng hoá được phép tạm xuất khẩu hoặc tạm nhập khẩu để dự hội chợ, triển
lãm, hết thời hạn hội chợ, triển lãm phải nhập về Việt Nam đối với hàng tạm xuất và xuất
khẩu ra nước ngoài đối với hàng tạm nhập.

c. Miễn thuế hàng là tài sản di chuyển cuả tổ chức, cá nhân Việt Nam hay nước ngoài
di chuyển vào Việt Nam hay đưa ra nước ngoài trong mức quy định bao gồm:
Hàng là tài sản di chuyển của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài khi được phép
vào cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc chuyển ra khỏi Việt Nam khi hết thời hạn cư trú và
làm việc tại Việt Nam.
Hàng hoá là tài sản di chuyển cuả tổ chức, cá nhân Việt Nam được Chính phủ Việt
Nam cho phép đưa ra nước ngoài để kinh doanh và làm việc, khi hết hạn chuyển về nước.

15
Hàng hoá là tài sản di chuyển cuả cá nhân người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang
về nước khi được phép trở về định cư ở Việt Nam hoặc mang ra nước ngoài khi được phép
định cư ở nước ngoài.
Hàng hoá mang theo hoặc gửi về nước cuả công dân Việt Nam đi hợp tác lao động,
hợp tác chuyên gia, công tác và học tập ở nước ngoài trong tiêu chuẩn hành lý xuất nhập
cảnh theo quy định cuả Chính phủ.
d. Hàng hoá XNK cuả tổ chức, cá nhân người nước ngoài được hưởng tiêu chuẩn miễn
trừ ngoại giao do Chính phủ quy định phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia.
e. Hàng hoá là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho nước ngoài rồi xuất khẩu
cho nước ngoài theo hợp đồng đã kí kết bao gồm các hình thức: nhận vật tư, nguyên liệu về
sản xuất rồi giao lại toàn bộ thành phẩm; hoặc trả tiền một phần hay toàn bộ vật tư, nguyên
liệu để bán lại toàn bộ thành phẩm cho nước ngoài theo hợp đồng gia công đã ký kết.
f. Ngoài các trường hợp quy định miễn thuế trên đây, các tổ chức và cá nhân còn được
xét miễn thuế XNK đối với hàng hoá XNK theo các mục đích mà nhà nước cần khuyến
khích vì lợi ích mang tính quốc gia; trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư hoặc hàng
hoá là quà biếu, quà tặng trong mức quy định hoặc một số trường hợp khác do Chính phủ
quy định. Các trường hợp được xét miễn thuế bao gồm:
Hàng nhập khẩu chuyên dùng phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng, nghiên cứu
khoa học và giáo dục, đào tạo trên cơ sở kế hoạch hàng năm đã được Bộ trưởng Bộ chủ
quản duyệt.

Hàng XNK cuả xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cuả bên nước ngoài hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh trong từng trường hợp đặc biệt cần
khuyến khích đầu tư. Sau khi có sự thống nhất cuả Bộ tài chính, Uỷ ban nhà nước về hợp
tác và đầu tư xét miễn thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu cho từng trường hợp cụ thể.
Hàng là quà biếu, quà tặng cuả các tổ chức, cá nhân nước ngoài cho các tổ chức, cá
nhân cuả Việt Nam và ngược lại được miễn thuế theo mức quy định cuả Bộ Tài chính.
Hàng nhập khẩu để bán hàng miễn thuế tại các đơn vị được cơ quan có thẩm quyền
cho phép kinh doanh bán hàng miễn thuế phục vụ cho người xuất cảnh, các cơ quan đại diện
nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam.
1.3.2 Giảm thuế

16
Theo quy định cuả Luật thuế XNK thì trường hợp hàng hoá trong quá trình vận
chuyển, bốc xếp bị hư hỏng, mất mát nếu có lý do xác đáng và được Vinacontrol chứng
nhận thì đối tượng nộp thuế được giảm thuế tương ứng với tỷ lệ hư hao, mất mát cuả hàng
hoá đó.
Hiện tại, Việt Nam đã thực hiện các chương trình cắt giảm thuế theo yêu cầu của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư vào APEC đến
năm 2020. Ngay sau khi chính thức gia nhập WTO, nước ta đã chủ động cắt giảm các dòng
thuế theo đúng cam kết. Từ ngày 11/1/2007 nước ta đã chủ động thực hiện các cam kết ràng
buộc toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu gồm 10.689 dòng thuế, mức giảm bình quân từ 17,4%
xuống còn 13,4% với lộ trình thực hiện sau 5 đến 7 năm và công bố cắt giảm 1.812 dòng
thuế nhập khẩu với mức thuế suất giảm bình quân là 14,5%. Từ 1/1/2008, theo cam kết với
WTO, sẽ có khoảng 1.700 dòng thuế được cắt giảm, với mức giảm phổ biến từ 1- 6%, mức
giảm này không chênh lệch quá lớn so với sắc thuế hiện hành. Từ năm 2009 sẽ tiếp tục giảm
khoảng 2.000 dòng thuế của hơn 20 nhóm hàng với mức tối đa khoảng 2%. Trong những
năm tới, thực hiện các cam kết với WTO Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế suất nhiều hơn
đối với hàng nghìn dòng thuế, không chỉ có thế mà thực hiện cắt giảm thuế quan và hàng
rào phi thuế quan theo nhưng cam kết song phương và khu vực.
Trước những con số ấn tượng từ việc cắt giảm các dòng thuế nhập khẩu nhiều mặt

hàng theo lộ trình, đã có nhiều ý kiến cho rằng số thu ngân sách Nhà nước (NSNN) sẽ giảm
mạnh do cắt giảm thuế quan. Thế nhưng, trên thực tế tổng số thu NSNN từ đầu năm đến nay
vẫn tăng trưởng, thể hiện ở hiện tượng nhập khẩu của nước ta đã gia tăng mạnh trong thời
gian gần đây cả về quy mô tuyệt đối, cả về tỷ lệ so với GDP. Nếu năm 1995 mới có 8,15 tỷ
USD, bằng 39,2% GDP, năm 2000 là 15,63 tỷ USD, bằng 50,1% GDP thì năm 2007 là
62,68 tỷ USD, bằng 88% GDP.
Như vậy, tuy việc cắt giảm hàng loạt các dòng thuế theo các cam kết đa phương và
song phương, khu vực và thế giới được thực hiện ngày càng sâu rộng đối với hàng nhập
khẩu thì kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng, thể hiện ở hiện tượng nhập siêu năm 2007 là
14,1200 tỷ USD và 6 tháng đầu năm nay đã vượt cả năm trước đây. Nguyên nhân của số thu
NSNN tăng mạnh trong thời gian qua, do hiện tượng nhập siêu gia tăng nhanh chóng từ khi
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO.

17
Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình
quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%). Thời gian thực
hiện sau 5- 7 năm.
Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế
(chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700
dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức
thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối
với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải.
Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay
khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may,
cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện-điện tử.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia
nhập và 21,0% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. So sánh với mức thuế MFN bình quân đối với
lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt giảm đi sẽ là 10%. Trong lĩnh vực nông
nghiệp, Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng, gồm:
trứng, đường, thuốc lá lá, muối (muối trong WTO không được coi là mặt hàng nông sản).

Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện
hành (trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 50-60%, thuốc lá lá: 30%, muối ăn 30%),
thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là
16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của
hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23,9%.
Các mức cắt giảm này có thể so sánh tương ứng với các mức cắt giảm trung bình của
các nước đang phát triển và đã phát triển trong vòng đàm phán Uruguay (1994) như sau:
trong lĩnh vực nông nghiệp các nước đang phát triển và đã phát triển cam kết cắt giảm là
30% và 46%; với hàng công nghiệp tương ứng là 37% và 24%; Trung Quốc trong đàm phán
gia nhập của mình cam kết cắt giảm khoảng 45% thuế nhập khẩu (từ 17,5% xuống 10%).
Với các cam kết trên việc đánh giá định lượng tác động của việc Việt Nam gia nhập
WTO đối với thu ngân sách nhà nước và sự phát triển của các ngành hàng xuất nhập khẩu là
rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay

18
Mức độ cam kết và cắt giảm thuế của Việt Nam tổng hợp theo một số nhóm ngành
hàng và nhóm mặt hàng chính với thời gian thực hiện được cụ thể hoá trong các bảng dưới
đây:
Bảng 1-1: Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Nhóm mặt hàng
Thuế suất cam kết tại thời
điểm gia nhập WTO (%)
Thuế suất cam kết cắt giảm cuối
cùng cho WTO (%)
1. Nông sản 25,2 21,0
2. Cá, sản phẩm cá 29,1 18,0
3. Dầu khí 36,8 36,6
4. Gỗ, giấy 14,6 10,5
5. Dệt may 13,7 13,7

6. Da, cao su 19,1 14,6
7. Kim loại 14,8 11,4
8. Hóa chất 11,1 6,9
9. Thiết bị vận tải 46,9 37,4
10. Máy móc thiết bị cơ khí 9,2 7,3
11. Máy móc thiết bị điện 13,9 9,5
12. Khoáng sản 16,1 14,1
13. Hàng chế tạo khác 12,9 10,2
Cả biểu thuế 17,2 13,4

Như tất cả các nước mới gia nhập khác, Việt Nam cũng cam kết tham gia vào một số
Hiệp định tự do hoá theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản
phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham
gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để thực hiện cam
kết giảm thuế là từ 3-5 năm.
Trong các Hiệp định trên, tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng 330 dòng
thuế thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3-5 năm. Như vậy, các sản
phẩm điện tử như: máy tính, điện thoại di động; máy ghi hình, máy-ảnh kỹ thuật số… sẽ
đều có thuế suất 0%, thực hiện sau 3-5 năm, tối đa là sau 7 năm.
Việc tham gia Hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hoá mức thuế đã cam kết theo
các Hiệp định dệt may với EU, Hoa Kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đáng kể đối với các mặt
hàng này: vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%.

19
Bảng 2 dưới đây sẽ đề cập cụ thể về tình hình cam kết theo các Hiệp định tự do hoá
theo ngành của Việt Nam trong WTO.
Bảng 1-2: Các cam kết thực hiện Hiệp định tự do hoá theo ngành
Hiệp định tự do hoá theo ngành Số dòng thuế T/s MFN (%)
T/s cam kết
cuối cùng (%)

1. HĐ công nghệ thông tin ITA- tham gia
100%
330 5,2 0
2. HĐ hài hoà hoá chất CH- tham gia 81% 1.300/1.600 6,8 4,4
3. HĐ thiết bị máy bay dân dụng CA- tham gia
hầu hết
89 4,2 2,6
4. HĐ dệt may TXT- tham gia 100% 1.170 37,2 13,2
5. HĐ thiết bị y tế ME- tham gia 100% 81 2,6 0
Ngoài ra, tham gia không đầy đủ một số Hiệp định khác như thiết bị khoa học,
thiết bị xây dựng…
Năm 2008 mới qua 6 tháng, nhập khẩu đã lên đến 45,5 tỷ USD, tăng tới 64% so với
cùng kỳ năm trước, lớn hơn mức nhập khẩu trong cả năm từ năm 2005 trở về trước. Do
nhập khẩu cao hơn xuất khẩu nên nhập siêu những năm gần đây tăng mạnh: nếu năm 2000
mới có 1.153,8 triệu USD, bằng 8% tổng kim ngạch xuất khẩu và bằng 3,7% GDP thì năm
2007 đã lên đến 14.120,8 triệu USD, bằng 29,1% tổng kim ngạch xuất khẩu và bằng 19,8%
GDP. Năm 2008 mới qua 6 tháng, nhập siêu đã lên 14,7 tỷ USD, cao gấp 3,7 lần cùng kỳ
năm trước (bằng 43% tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 23,1% của cùng
kỳ), lớn hơn mức nhập siêu kỷ lục trong cả năm 2007.
Như vậy, về nguyên tắc, giữa việc cắt giảm thuế và tăng tự do hóa kinh doanh với việc
nhập siêu có sự liên hệ trực tiếp. Thực tế cho thấy, việc cắt giảm thuế khiến sức cạnh tranh
của hàng nội và hàng ngoại càng có sự cạnh tranh gay gắt, sức cạnh tranh về giá cả của hàng
ngoại nhập tăng. Cùng với việc “mở cửa” rộng hơn và tâm lý sùng bái hàng ngoại sẵn có
trong một bộ phận người tiêu dùng cấu thành trực tiếp làm tăng lượng hàng nhập khẩu vào
nước ta trong thời gian gần đây. Ngoài ra, việc dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam tăng cả về
vốn cam kết và mức độ thực hiện, cũng làm kích thích nhu cầu nhập thiết bị cho việc triển
khai và hoạt động của các dự án và giá cả hàng nguyên liệu và hàng hóa tăng cao trong thời
gian gần đây.

20

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA Ở
VIỆT NAM
2.1. Thực trạng chính sách thuế xuất khẩu hàng hóa
Trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới và khu vực, nước ta đã và đang
từng bước hòa mình để phát triển kinh tế và mơ rộng quan hệ đối ngoại.Việc buôn bán, trao
đổi hàng hóa giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như với các nước trên thế giới
ngày càng đa dạng phong phú. Để quản lý được các hoạt động mua bán với các nước, nhà
nước đã có nhiều biện pháp, trong đó thuế XNK là một trong những công cụ chủ yếu.

21
Thông qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế XNK, chúng ta có thể nắm đủ tìnhhình
XNK hàng hóa, tạo điều kiện cho nhà nước có căn cứ đề ra chính sách ngoại thương đúng
đắn, cân đối cung, cầu hàng hóa XNKvà cân bằng cán cân thanh toán. Thuế XNK là một
trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Luật thuế XNK của nước ta đã
được Quốc hội thông qua ngày 26.12.1991. Từ đó đến nay đã được sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp, đáp ứng các yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế và thực tiễn trong
bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực.
Năm 2008 chứng kiến một tần suất hiếm thấy trong điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu
đối với nhiều mặt hàng. Những điều chỉnh này, một mặt được thực hiện theo các cam kết
thuế quan giữa các nước thành viên khối ASEAN và theo lộ trình gia nhập WTO; mặt khác
cũng là ứng xử của nhà quản lý trước những biến động bất thường trên thị trường thế giới
nhằm hỗ trợ cho sản xuất, bình ổn thị trường trong nước, cũng như hỗ trợ các ngành hàng
xuất khẩu. Thuế một loạt các mặt hàng nông sản, đồ gỗ, sắt thép, xăng dầu, gas, ôtô, giấy,
nguyên vật liệu cho sản xuất liên tục được điều chỉnh; điển hình như thuế xuất khẩu thép,
thuế nhập khẩu xăng dầu. Một điểm đáng chú ý là tần suất điều chỉnh chính sách thuế xuất
nhập khẩu tập trung từ tháng 9 về cuối năm, giảm phổ biến ở nhiều mặt hàng (riêng thuế
nhập xăng dầu liên tục tăng).
Mặc dù đã từng bước được cải cách và hoàn thiện vào những năm 1990-2000, nhưng
hiện nay chính sách thuế vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục cải cách, sửa đổi cho phù
hợp với các nguyên tắc của WTO.

Một là: hệ thống chính sách thuế hiện nay vẫn còn phức tạp và thiếu tính ổn định:
làm cho chi phí quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế, tạo điều kiện cho việc
trốn thuế và bóp méo hệ thống thuế. Đồng thời, nó làm mất định hướng của nhà đầu tư, bóp
méo sự lựa chọn của người sản xuất và vi phạm một nguyên tắc chung của thông lệ quốc tế
là tính rõ ràng và có thể dự đoán trước của hệ thống chính sách thuế.
Việc thường xuyên thay đổi trong chính sách thuế, quy định không rõ ràng về phạm
vi của các sắc thuế và trong một sắc thuế có quá nhiều thuế suất, nhiều chế độ ưu đãi, miễn
giảm khác nhau đã cản trở quá trình hội nhập quốc tế trên các phương diện: khuyến khích
xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của DN và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

22
Hai là: việc quy định các sắc thuế thiếu tính rõ ràng, còn lẫn lộn trong chức năng
của từng sắc thuế, thể hiện ở phạm vi của đối tượng chịu thuế, các mức thuế suất quá cao vì
gặp nhiều loại thuế trong một sắc thuế. Ví dụ, thuế tiêu thụ đặc biệt, ngoài chức năng điều
tiết tiêu dùng với một số mặt hàng đặc biệt còn đảm đương cả chức năng của thuế VAT, vì
đối tượng chịu thuế là, để VAT không áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt. Vì vậy, thuế suất cao của thuế tiêu thụ đặc biệt đã gồm thuế VAT.
Thuế tiêu thụ đặc biệt còn được sử dụng cho chức năng bảo hộ sản xuất trong nước,
nên có sự phân biệt đối xử giữa một số mặt hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước (như ô
tô, thuốc lá…) dẫn đến vi phạm nguyên tắc của WTO. Mặt khác, có một số mặt hàng tiêu
dùng có tính chất xa xỉ lại không thuộc diện điều chỉnh của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, nên
trong biểu thuế nhập khẩu đang được áp dụng mức thuế suất cao, tạo sự hiểu lầm của dư
luận quốc tế về thuế nhập khẩu không phù hợp thông lệ quốc tế.
Ba là: hệ thống chính sách thuế được xây dựng để phục vụ nhiều mục tiêu trong từng
sắc thuế, làm mất đi tính trung lập – một yếu tố dẫn tới hiệu quả trong phân bổ nguồn lực.
Có nhiều mục tiêu trong chính sách thuế không thống nhất với nhau, do đó nếu đạt được
mục tiêu này thì lại gây thiệt hại tới mục tiêu khác. Một số mặt hàng nhập khẩu như: phân
bón, sắt xây dựng, kính xây dựng, đường… có thuế suất thuế nhập khẩu thấp vì là đầu vào
của một số ngành sản xuất, nhưng biện pháp quản lý lại là bảo hộ phi thuế quan (hạn chế số
lượng nhập khẩu), rõ ràng là vi phạm quy định của WTO. Một số mặt hàng thuế nhập khẩu

quá cao sẽ kính thích sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu; đồng thời cũng sẽ chiếm
mất nguồn vốn, lao động, công nghệ của những hoạt động sản xuất hàng hóa khác có hiệu
quả cao hơn.
Việc kết hợp các mục tiêu của chính sách xã hội trong các sắc thuế xét về khía cạnh
xã hội là tốt, tuy nhiên nó thực sự làm chính sách thuế trở nên phức tạp, tạo ra sự bất bình
đẳng trong kinh doanh, ảnh hưởng đến sự minh bạch của hệ thống thuế.
Bốn là:, còn thiếu sự kết hợp hài hòa giữa các sắc thuế trong hệ thống chính sách
thuế, giữa mục tiêu số thu cho ngân sách và mục tiêu kích thích sản xuất phát triển và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua từng sắc thuế. Trong điều kiện mở cửa hội nhập và tích cực
chuẩn bị để tham gia WTO, hệ thống chính sách thuế phải được sửa đổi cho phù hợp với
các nguyên tắc của tổ chức này, đồng thời phải đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách nhà

23
nước, tăng cường sức cạnh tranh cho các DN trong nước, đồng thời phải có sự bảo hộ hợp
lý cho một số ngành then chốt trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Xuất khẩu của Việt Nam thời gian từ năm 2001 - 2006 đã đạt được những thành tích
rất ấn tượng và được xác định là một thế mạnh của Việt Nam trên con đường hội nhập đầy
đủ và sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa
(XKHH) của Việt Nam khá chậm vào những năm 2001 - 2002, đã vươn lên đạt mức trên
20%/năm từ 2003 tới nay. Kết quả là kim ngạch XKHH đã tăng gấp 2,64 lần trong thời gian
5 năm, từ 15 tỉ USD năm 2001 lên 39,6 tỉ USD năm 2006.
2.1.1 Khái quát xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2006
Cải cách cơ chế xuất khẩu của nước ta cũng có những thành tích nổi bật như cải cách
hệ thống quản lý nhập khẩu. Hệ thống lập kế hoạch xuất khẩu trực tiếp mang tính cứng nhắc
dần được thay thế bằng những hoạt động phi tập trung hoá và theo cơ chế thị trường. Xu
hướng thờ ơ và không coi trọng xuất khẩu của hệ thống thương mại trước cải cách dần dần
đã được huỷ bỏ vì chính phủ phi tập trung hoá hoạt động ngoại thương và đưa vào thực hiện
các chính sách tỷ giá hối đoái không đối xử phân biệt với hàng xuất khẩu.
Mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu: Thay đổi quan trọng nhất là mở rộng quyền
kinh doanh thương mại cho hoạt động xuất khẩu. Như trên đã đề cập, quyền kinh doanh

xuất nhập khẩu đã được nới lỏng, và ngay cả những mặt hàng thiết yếu Nhà nước cũng
không có chủ trương độc quyền hoàn toàn về kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, nếu doanh nghiệp dùng lợi nhuận đầu
tư vào sản xuất hàng xuất khẩu thì được giảm thuế lợi tức. Các doanh nghiệp sản xuất hàng
cần thay thế nhập khẩu được xét giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức trong thời gian sản xuất
ban đầu; các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được nhập khẩu miễn thuế
thiết bị vật tư phục vụ sản xuất. Kể từ năm 1998, những ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất
khẩu được mở rộng hơn. Theo Nghị định 57/1998/NĐ-CP Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài được phép xuất khẩu những mặt hàng không nêu trong giấy phép đầu tư của
mình. Còn các doanh nghiệp trong nước thì được quyền xuất khẩu sản phẩm trực tiếp mà
không cần có giấy phép xuất nhập khẩu.
Tháo dỡ hạn ngạch xuất khẩu: Việt Nam đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với hầu hết các mặt
hàng xuất khẩu, trừ một số mặt hàng thiết yếu đặc biệt là gạo. Trong Bản ghi nhớ về chế độ
ngoại thương nộp cho WTO, gạo là nông sản duy nhất bị áp dụng hạn ngạch xuất khẩu vì lý

24
do an ninh lương thực quốc gia. Cùng với đó, cải cách thuế xuất khẩu cũng được thực hiện.
Ví dụ, thuế xuất khẩu đối với gạo đã giảm từ 2%/năm (1997) xuống còn 0%/năm (1998).
Tuy nhiên, là một nước ĐPT nghèo, Việt Nam không phải đưa ra các cam kết cắt giảm trợ
cấp nông phẩm xuất khẩu trong vòng 6 năm khi gia nhập WTO.
Cải cách ngoại hối: Cải cách giá cả và phân bổ ngoại hối là một yếu tố khác rất quan
trọng liên quan đến tăng trưởng xuất khẩu trong những năm qua. Trong giai đoạn trước cải
cách, nhà nước đã cố định tỷ giá theo hướng định giá cao đồng nội tệ để trợ cấp nhập khẩu
các hàng hoá ưu tiên có hàm lượng vốn cao mà trong nước chưa thể sản xuất được. Vào
cuối thập kỷ 1980, nhà nước đã thay đổi dần các yếu tố này của hệ thống ngoại hối, cơ chế
hai tỷ giá đã được xoá bỏ để thay thế bằng cơ chế một tỷ giá chủ đạo là tỷ giá trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các quy định về kết hối ngoại tệ cũng được nới lỏng, các
quy định về quản lý dự trữ ngoại hối đã có sự thay đổi, và các nghiệp vụ thị trường mở đang
được xem xét áp dụng. Chính sách tỷ giá trong thời gian qua đã có những điều chỉnh, phân
theo ba giai đoạn sau:

 Thời kỳ thứ nhất: 1988-1991: tỷ giá được nới lỏng để đưa dần các yếu tố thị trường
vào cơ chế xác định tỷ giá.
 Thời kỳ thứ hai: 1992-1997 (trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính tiền tệ), tỷ giá
được ấn định và điều chỉnh gần như cố định để kiềm chế lạm phát, ổn định thị
trường tài chính tiền tệ và thu hút đầu tư nước ngoài.
 Thời kỳ thứ ba: từ sau khủng hoảng đến nay, chính phủ đã có những điều chỉnh có
tính chủ động hơn để khắc phục khủng hoảng và tránh đồng Việt Nam bị định giá
quá cao.
Chính sách tỷ giá như trên đã có tác động tích cực đến ngoại thương, đặc biệt đối với
lĩnh vực xuất khẩu. Đồng tiền đã được định giá ngày càng sát với giá trị thực của nó. Tuy
nhiên, tỷ giá hối đoái như hiện nay vẫn cần phải có sự điều chỉnh hơn nữa, tiến tới tự do hoá
tỷ giá trong giai đoạn sớm nhất.
Hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu cho nông nghiệp: Hiệp định nông nghiệp của
WTO yêu cầu các nước phải giảm các hình thức trợ cấp bóp méo thương mại. Hiệp định
nông nghiệp của WTO đã chia trợ cấp thành 4 nhóm: trợ cấp hộp xanh lơ, trợ cấp hộp xanh
lá cây, trợ cấp hộp vàng và trợ cấp hộp đỏ. Trợ cấp thuộc diện hộp xanh lơ và xanh lá cây là
các biện pháp trợ cấp được phép mà không phải chịu sự điều chỉnh. Trợ cấp hộp vàng ảnh

25

×