Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử việt nam từ 1965 đến 1975 ở trường trung học phổ thông (chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 103 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCHTW

:

Ban Chấp hành Trung ương

BĐTD

:

Bản đồ tư duy

CNTD

:

Chủ nghĩa thực dân

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

ĐHSP

:

Đại học Sư phạm


GV

:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

LSDT

:

Lịch sử dân tộc

NXB

:

Nhà xuất bản

SGK

:

Sách giáo khoa


THCS

:

Trung học sơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông

VN

:

Việt Nam

1


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN...........................................1
MỤC LỤC...........................................................................................................................2


2.1. Ở nước ngoài:...............................................................................................8
NỘI DUNG.......................................................................................................................12
Chương 1...........................................................................................................................12
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ
THÀNH VĂN THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ.........................................................................................13
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.....................................................................13

1.1. Cơ sở lý luận..............................................................................................13
1.1.1. Quan niệm về tài liệu lịch sử, tài liệu lịch sử thành văn trong dạy học
lịch sử............................................................................................................13
1.1.1.1. Tài liệu lịch sử..............................................................................13
Tài liệu lịch sử (tư liệu lịch sử) là âm Hán Việt, và ở tiếng Hán cũng là
tài liệu lịch sử. Tiếng Pháp là Document historique, tiếng Nga là
istochniki, istoricheskie ( ucmopuHuku, ucmopureckue). Cả hai từ này
khi dịch sát nghĩa tiếng việt cũng là tài liệu lịch sử. Từ cụm từ đầy đủ này
làm nảy sinh từ sử liệu ( cũng gọi là tài liệu lịch sử)................................13
Các nhà nghiên cứu quan niệm tài liệu lịch sử là bao gồm tất cả những gì
đã diễn ra trong quá khứ. Ngược lại có người cho rằng tài liệu lịch sử là
những tư liệu phản ánh và ra đời đồng thời với sự kiện lịch sử.v.v…Việc
xác định thế nào là tài liệu lịch sử là điều khó và phức tạp vì hiện nay có
nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa này.........................................13
Thứ nhất, tài liệu lịch sử là những tài liệu thành văn. Đại diện cho quan
điểm này là L. Răngke (thời kỳ văn hóa phục hưng), theo ông “Lịch sử
gắn liền với những tài liệu thành văn được lưu lại”. Ngày nay quan điểm
này ít được chấp nhận [1, tr.15]................................................................13
Thứ hai, tài liệu lịch sử là những gì được sử dụng để nghiên cứu quá khứ
và để nhận thức quá khứ. Đại biểu cho khuynh hướng này là N.chi
Khơminốp ( Nhà nghiên cứu Nga, thế kỷ XIX, theo ông “ tài liệu lịch sử

là tất cả những gì còn lưu lại của cuộc sống đã qua” theo quan niện này
thì khái niệm tài liệu lịch sử quá rộng rãi [1, tr.15]..................................14
2


Thứ ba, “tài liệu lịch sử là một khái niệm”, tiêu biểu cho quan điểm này
là nhà nghiên cứu người Nga Lapo Danhilépxki, theo ông “ tài liệu lịch sử
là một khái niệm phản ánh đặc tính của hiện vật và có thể được sử dụng
để thu nhận tri thức để thu nhận tri thức về một hiện vật khác”.[1,tr.15]. 14
Thứ tư, coi tư liệu lịch sử là trí nhớ xã hội, tức là một vật mang trí nhớ xã
hội, con người không thể nhớ được những gì đã xảy ra trong quá khứ, do
đó phải nhờ vật đó giúp đỡ để tái hiện lại. Đại biểu cho quan điểm này là
của I.a Rebans, theo ông “tư liệu lịch sử là tổng hợp những thành quả của
các hoạt động thực tiễn vào nhận thức của con người được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác bằng các phương tiện xã hội” [1,tr.15].........14
Thứ năm, tài liệu lịch sử như là một sản phẩm thuần túy tâm lý của tác
giả tư liệu. Chẳng hạn, theo Lapo Danhilepxki “Tất cả tài liệu (tư liệu) kể
cả tài liệu vật chất đều là những sản phẩm của tâm lý con người.” Quan
điểm này đã phủ nhận tính chất khách quan của tư liệu lịch sử. Từ đó dẫn
đến sự tùy tiện trong việc khai thác tư liệu lịch sử...................................14
Thứ sáu, trong cuốn trong cuốn Bách khoa toàn thư, xuất bản năm 1972
đã khẳng định “Tư liệu lịch sử là tất cả những gì phản ánh trực tiếp quá
trình lịch sử và cho ta khả năng nghiên cứu quá khứ của xã hội loài người.
Nghĩa là tấ cả những di sản của xã hội loài người dưới dạng các hiện vật
của nền văn hóa vật chất và các tài liệu thành văn cho phép ta nhận thức
về đạo đức, tập quán và ngôn ngữ của các dân tộc”. Khái niệm này nhấn
mạnh tính trực tiếp của tư liệu lịch sử.......................................................14
Tổng hợp các định nghĩa nói trên, ta có thể rút ra kết luận rằng “Tài liệu
lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ
xã hội nhất định và mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy,

phản ánh trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đấy của con
người.” [1,tr.18]........................................................................................14
1.1.1.2. Tài liệu lịch sử thành văn.............................................................14
Từ định nghĩa về tư liệu lịch sử, ta có thể định nghĩa “Tài liệu thành văn
là những tư liệu cho ta những thông tin về các sự kiện đã xảy ra được ghi
lại bằng chữ viết qua các kênh thông tin khác nhau. Nguồn tài liệu này
chiếm khối lượng lớn và đặc biệt quan trọng đôi khi chiếm vị trí chủ yếu
trong các nguồn sử liệu” [36, tr.4]............................................................14
1.1.2. Phân loại tài liệu lịch sử thành văn ................................................15
+ Các loại tài liệu thực tế sưu tầm trong đời sống xã hội thuộc các lĩnh vực
tư tưởng, triết học, nghệ thuật, đạo đức, tâm lí xã hội, xã hội học. Ngoài ra,
còn có các loại sách hướng dẫn giảng dạy, các sách lí giải hoặc một số giáo
án mẫu của một số Sở giáo dục biên soạn. Bên cạnh đó, còn phải kể đến các
bài viết trao đổi kinh nghiệm về giảng dạy, được đăng tải trên các sách báo,
các chuyên san của ngành.............................................................................17
1.1.3. Quan niệm về tính tích cực của học sinh trong học tập lịch sử...........17
1.1.3.1. Quan niệm về “tính tích cực”.......................................................17
1.1.3.2. Phương pháp tích cực:..................................................................18
1.1.4. Bộ môn lịch sử và việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh. .20

3


1.1.5. Ý nghĩa của việc sử tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến
1975...............................................................................................................21
1.2.1. Mục đích điều tra:...............................................................................27
...........................................................................................................................................30
Chương 2...........................................................................................................................30
HỆ THỐNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ THÀNH VĂN.........................................................30

ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM....................................30
TỪ 1965 ĐẾN1975 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG....................................30
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)..........................................................................................30

2.1. Nội dung lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975...................................31
2.2. Những nguyên tắc cơ bản để lựa chọn tài liệu lịch sử thành văn để dạy học
lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh....................................42
2.3. Hệ thống tài liệu lịch sử thành văn cần khai thác, sử dụng trong dạy học
lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975 ở trường Trung học phổ thông.........48
Chương 3...........................................................................................................................57
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ THÀNH VĂN..............................57
THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1965 ĐẾN 1975....................................................................57
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)...................58

3.1. Nguyên tắc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử......................................................58
3.1.1. Phải phù hợp với nội dung cơ bản của bài học...................................58
3.1.2. Phải đảm bảo tính khoa học, tính Đảng..............................................59
3.1.3. Phải đảm bảo phát huy tính tích cực của học sinh..............................62
3.1.4. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn phải nhằm mục đích giáo dục tư
tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, thẫm mĩ, năng lực tư duy và hoạt động
thực tiễn của học sinh....................................................................................65
3.1.5. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn phải nhằm mục đích rèn luyện kỹ
năng thực hành bộ môn.................................................................................67
3.2. Các trường hợp và biện pháp sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965
đến 1975............................................................................................................68
3.2.2. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để tạo biểu tượng về sự kiện, nhân
vật lịch sử......................................................................................................70

Sự kiện lịch sử là cơ sở để khôi phục lại hình ảnh quá khứ để tiến hành khái
quát lý luận. Cho nên việc chọn sự kiện trong dạy học lịch sử và cụ thể hóa
các sự kiện lịch sử là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Do tính toàn diện của
việc học tập lịch sử, các khóa trình và bài giảng cung cấp cho học sinh nhiều
loại sự kiện thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, như: Sự kiện
4


về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa – xã hội…Muốn học sinh có hiểu biết
đầy đủ về sự kiện, tăng thêm tính sinh động, gợi cảm của bài giảng, gây
hứng thú học tập, cần phải sử dụng nguồn tài liệu thành văn.......................70
3.2.3. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để giải thích sự kiện lịch sử, khái
niệm, thuật ngữ..............................................................................................73
3.2.4. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để tường thuật, miêu tả.................74
3.2.5. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để nêu vấn đề................................75
Dạy học nêu vấn đề là xu hướng tất yếu nhằm đề cao vai trò tích cực chủ
động, sáng tạo của học sinh, tránh lối nhồi nhét các sự kiện, bắt học sinh học
thuộc lòng. Trong dạy học nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, tìm cách giải
quyết nhằm phát triển tư duy, độc lập của các em........................................75
Trong dạy học lịch sử, tài liệu thành văn là một trong những nguồn quan
trọng có thể sử dụng nhằm tạo ra tình huống có vấn đề lịch sử. Qua đó, tạo
sự hứng thú và tạo tâm thế cho HS giải quyết các vấn đề đặt ra, góp phần
hoàn thành nhiệm vụ giờ học........................................................................76
3.2.6. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để khái quát, kết luận....................77
3.2.7. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn để xây dựng các bài tập nhận thức
.......................................................................................................................78
3.2.8. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với sơ đồ tư duy...............81
3.2.9. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với đồ dùng trực quan......83
3.2.9.1. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp tranh ảnh...................83
3.2.9.2. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp với bản đồ (lược đồ)

lịch sử........................................................................................................86
3.2.9.3. Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn kết hợp sơ đồ, biểu đồ, niên
biểu............................................................................................................89
3.3. Thực nghiệm sư phạm................................................................................94
3.3.1. Mục đích, yêu cầu...............................................................................95
3.3.2. Phương pháp và kế hoạch thực nghiệm sư phạm................................95
3.3.2.1. Lựa chọn đối tượng thực nghiệm sư phạm..................................95
3.3.2.2. Nội dung thực nghiệm sư phạm...................................................95
3.3.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm............................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................101

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh rằng: bất cứ một quốc gia,
dân tộc nào, nếu có chiến lược đầu tư phát triển Giáo dục - Đào tạo đúng đắn và phù
hợp thì sẽ đạt được sự phát triển nhanh chóng, toàn diện và bền vững. Sở dĩ như vậy bởi
Giáo dục - Đào tạo liên quan trực tiếp đến con người - nhân tố quyết định hàng đầu đối
với sự tồn vong, hưng thịnh của một đất nước.
Ở nước ta hiện nay, giáo dục và đào tạo đang được Đảng và Nhà nước đặt ở vị trí
là “Quốc sách hàng đầu”. Đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực thực sự
chất lượng, hữu ích cho đất nước để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới vừa là việc
thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu, vừa là một chiến lược mũi nhọn của quốc gia.
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông không chỉ trang bị cho học sinh những kiến
thức cơ bản về lịch sử nhân loại, lịch sử dân tộc, phát triển tư duy cho thế hệ trẻ mà còn
góp phần giáo dục cho các em tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, góp phần to lớn
trong việc giáo dục thế hệ trẻ thành nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực phát triển giáo dục, nhất là giáo dục phổ thông. Việc cải
tiến, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học bộ môn trở thành một yêu cầu có tính cấp
bách và phải tiến hành thường xuyên, đồng bộ, trong đó việc tăng cường sử dụng các
tài liệu thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh được sử dụng trong
dạy và học lịch sử sẽ gây nhiều hứng thú đối với học sinh.
1.2.Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, ngoài sách giáo khoa, tài liệu lịch
sử thành văn với vai trò là tài liệu tham khảo giữ một vị trí trọng yếu. Tài liệu lịch sử
thành văn không chỉ giúp cho học sinh khôi phục lại hình ảnh quá khứ một cách khách
quan, trung thực, sinh động mà còn giúp cho các em phát triển trí tưởng tượng, tích cực
hóa quá trình nhận thức và tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực trong học
tập. Việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông ngày càng có ý nghĩa quan trọng vì nó phù
hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh và mục tiêu đào tạo của nhà trường
1.3. Lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975 với nội dung chủ yếu là phản ánh
6


cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của nhân dân ta, nhằm bảo vệ và giữ vững nền độc
lập dân tộc. Đây là thời kỳ thể hiện rõ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, truyền thống đấu
tranh bất khuất của dân tộc, tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả…. Lịch sử Việt Nam từ
năm 1965 đến 1975 diễn ra với nhiều nội dung phong phú, để dạy học lịch sử có hiệu
quả chúng ta phải vận dụng nhiều biện pháp sư phạm khác nhau, trong đó việc sử dụng
tài liệu thành văn là một trong những biện pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả bài học
lịch sử. Đồng thời thông qua những kiến thức lịch sử quan trọng đó sẽ có ý nghĩa rất
lớn trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, bồi dưỡng thế giới quan khoa học, nhân sinh
quan cách mạng, đặc biệt là lòng tin cho HS. Vì thế việc sử dụng tài liệu thành văn
trong dạy học từ năm 1965 đến 1975 có ý nghĩa lớn trong việc phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh.
1.4. Thực tiễn dạy học ở phổ thông những năm gần đây cho thấy chất lượng bộ

môn có phần giảm sút, các em ít ham thích học tập, tìm hiểu lịch sử, môn lịch sử ít
được coi trọng và quan tâm đúng với vai trò, nhiệm vụ của nó trong công tác giáo dục
tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ. Thực tiễn dạy học lịch sử ở các
trường Trung học phổ thông, việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử còn hạn chế. Nhiều giáo viên và
học sinh chỉ dựa vào sách giáo khoa là chủ yếu, ít sử dụng tài liệu lịch sử thành văn, vì
vậy chất lượng giờ học chưa cao, một bộ phận không nhỏ giáo viên nghiêng về cung
cấp tri thức một chiều, thầy đọc trò chép khiến học sinh tiếp nhận tri thức rời rạc, thiếu
hệ thống, làm cho chất lượng dạy học lịch sử giảm sút.
Xuất phát từ định hướng về đổi mới phương pháp dạy học, nội dung, chương
trình, sách giáo khoa và yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử ở trường Trung
học phổ thông, tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965
đến 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)” làm đề tài luận văn
Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học môn lịch sử của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài đã có nhiều công trình trong và
ngoài nước nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau, được thể hiện trong nhiều nguồn tư
liệu về tâm lý học, lý luận dạy học đại cương, lý luận và phương pháp dạy học lịch sử...
của các nhà nghiên cứu giáo dục trong nước và ngoài nước.

7


2.1. Ở nước ngoài:
Đề tài luận văn này chủ yếu tập trung vào các tài liệu ở trong nước, liên quan
đến phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả N.A.Êrôpheep(1997 )với công trình “Lịch sử
là gì?”, đã giải quyết vấn đề tại sao chúng ta phải học lịch sử? học lịch sử làm gì? đã
giúp giáo viên có cái nhìn khái quát về bộ môn lịch sử, cũng như thấy được tầm quan
trọng của lịch sử; N.G.Đairi với tác phẩm “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?” đã

khẳng định vai trò, tầm quan trọng của nguồn tài liệu tham khảo đồng thời nêu ra những
yêu cầu quan trọng nhất của một giờ học và chú trọng tổ chức các hoạt động nhận thức
cho học sinh. Ông cũng cho rằng, giáo viên bắt buộc phải biết rõ những thành tựu của
khoa học lịch sử và các khoa học giáo dục, những vấn đề mà khoa học đang giải
quyết, phải biết tất cả những hiện tượng quan trọng của đời sống chính trị, xã hội và
văn hóa; A .Vaghin trong giáo trình “Phương pháp dạy học ở trường phổ thông” đã
khẳng định nguồn tài liệu lịch sử chiếm vị trí quan trọng trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông. Ông cũng cho rằng, việc lĩnh hội tài liệu là điều kiện cần thiết để HS có
quan điểm đúng đắn về lịch sử…; I.F. Kharlamốp trong cuốn “Phát huy tính tích cực
của HS như thế nào?” đã khẳng định: “tài liệu học tập tự nó đã chứa đựng nhiều yếu
tố kích thích, động viên tính ham hiểu biết và tính tích cực tư duy của HS. Đó là tính
chất mới lạ của tri thức khoa học, tính sáng tỏ của các sự kiện...sự thâm nhập sâu xa
vào bản chất của hiện tượng”. [18, tr.88] Việc xử lí mối quan hệ giữa sử dụng tư liệu và
bài giảng mà ông nêu ra vẫn còn giá trị thực tiễn, được nhiều giáo viên lịch sử ở trường
phổ thông nước ta thừa nhận,..
. Như vậy, qua các tài liệu nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, chúng tôi thấy
rằng các tác giả chỉ dừng lại ở việc nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nguồn tài liệu
nói chung trong dạy học lịch sử, chứ không đề cập đầy đủ, toàn diện đến vai trò của
việc sử dụng tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên, đây chính là định
hướng quan trọng để chúng tôi xác định một phần cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu.
2.2. Ở trong nước:
Bàn về vấn đề sử dụng tài liệu thành văn đã được trình bày trong các giáo trình về
phương pháp dạy học lịch sử ở trường Đại học, Cao đẳng như: Nguyễn Thị Côi
(2006),với công trình “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở
trường phổ thông”, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội; Phan Ngọc Liên (Chủ biên) với
các công trình chủ biên như:“Phương pháp dạy học lịch sử”, tập I, tập II( 2005),Nxb
Đại học sư phạm, Hà Nội; hoặc Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (2006), “Nhập môn sử
8



học”, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội; Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị
Côi, Trần Vĩnh Tường (Đồng chủ biên) (2002), trong công trình“Một số chuyên đề về
phương pháp dạy học lịch sử”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội; … đã đề cập nhiều đến
việc cần thiết phải sử dụng tài liệu thành văn và đề xuất một số nguyên tắc khi sử dụng
tài liệu thành văn trong dạy học lịch sử.
Đề cập đến các sự kiện lịch sử dân tộc từ 1965 đến 1975, có các tác phẩm như :
Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu, NXB Quân đội nhân, Hà Nội; Bộ
Quốc phòng, Viện lịch sử Việt Nam (1999), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước (1954 – 1975), tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần Bá Đệ - Lê Cung
(2010), Giáo trình Lịch sử Việt Nam (1954 – 1975), tập VII ( in lần thứ hai), NXB
ĐHSP; “ Một số văn kiện chỉ đạo tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975- Chiến
dịch Hồ Chí Minh”,Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội; Chiến trường Trị
Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nhà xuất bản Thuận Hóa,
Huế(1985).... công trình này đã tái hiện lại quá khứ hào hùng của nhân dân ta trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước giai đoạn 1965- 1975.
Như vậy,mặc dù có nhiều công trình, bài viết đề cập đến vấn đề sử dụng tài liệu
thành văn trong dạy học lịch sử nhưng chưa có công trình nào đi sâu, nghiên cứu vấn
đề sử dụng tài liệu thành văn theo hướng phát huy tính tích cực trong dạy học lịch sử
Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) ở một
giai đoạn cụ thể. Đấy là nhiệm vụ mà đề tài của tôi phải giải quyết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “quá trình sử dụng tài liệu lịch sử thành văn
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965
đến 1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn).”
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ việc xác định đối tượng nghiên cứu nêu trên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
và vận dụng những thành tựu của lý luận dạy học hiện đại về vấn đề sử dụng tài liệu
lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử
Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn) và tiến hành thực

nghiệm sư phạm ở tỉnh Đồng Nai .Trên cơ sở đó, rút ra những kết luận về tính khả thi
của đề tài.
9


4. Mục đích nghiên cứu
Xác định nội dung, hình thức và biện pháp sư phạm cần thiết để sử dụng tài liệu
lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử
Việt Nam từ 1965 đến 1975 để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường THPT
(Chương trình Chuẩn)
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu tài liệu về giáo dục học, tâm lý học, chương trình, SGK lịch sử
lớp 12 (Ban cơ bản) để xác định cơ sở lí luận của vấn đề.
- Tiến hành điều tra xã hội học việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến
1975 ở trường THPT để tìm hiểu thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu lịch sử Việt Nam để xây dựng các đoạn tường thuật, miêu
tả,..để vận dụng vào dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT
(Chương trình Chuẩn) theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
- Đề xuất những nguyên tắc và biện pháp sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến
1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn).
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm định tính khả thi của đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về lịch sử và giáo dục lịch
sử, chủ yếu là lí luận về phương pháp dạy học môn lịch sử.
6.2. Phương pháp cụ thể

- Điều tra xã hội học để tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng tài liệu lịch sử
thành văn theo hướng phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh.
- Nghiên cứu tài liệu giáo dục học, tâm lý học, chương trình, nội dung SGK và
các tài liệu tham khảo để xác định các đoạn tài liệu lịch sử thành văn đưa vào sử dụng
khi giảng dạy Lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT (Chương trình
Chuẩn) theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
- Phương pháp tham vấn chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia để nêu

10


giả thuyết khoa học của đề tài và xác định các biện pháp giải quyết giả thuyết khoa học
của đề tài
- Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm định tính khả thi
của đề tài theo nguyên tắc từ điểm suy ra diện.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh bằng những hình thức và biện pháp phù hợp mà đề tài đề ra Thì sẽ nâng cao hiệu
quả việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh và nâng cao hiệu quả bài học lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến
1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn), đồng thời góp phần tích cực vào quá trình
đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT.
8. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu lý luận về phương pháp
dạy học và việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn trong dạy học lịch sử, cùng với việc
tham khảo các tài liệu liên quan, luận văn có những đóng góp như sau:
- Về lý luận: Góp phần cụ thể hóa lý luận việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn
trong dạy học lịch sử dân tộc theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh ở
một giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Về thực tiễn:

+ Đề tài xác định được mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử Việt Nam với hệ
thống tài liệu lịch sử thành văn đảm bảo tính chính xác, khoa học phù hợp với chương trình,
nội dung SGK Lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường THPT (Chương trình Chuẩn).
+ Đề xuất một số nguyên tắc và biện pháp khả thi để sử dụng tài liệu lịch sử
thành văn theo hướng phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh một cách hợp lý,
hiệu quả trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 để góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học môn lịch sử.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn được chia làm
3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng tài liệu lịch sử thành văn
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường Trung
học phổ thông.
11


Chương 2: Hệ thống tài liệu lịch sử thành văn được sử dụng theo hướng phát
huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975
ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
Chương 3: Phương pháp sử dụng tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1965 đến 1975 ở trường
Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).

NỘI DUNG
Chương 1

12


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TÀI LIỆU

LỊCH SỬ THÀNH VĂN THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về tài liệu lịch sử, tài liệu lịch sử thành văn trong dạy học lịch sử
1.1.1.1. Tài liệu lịch sử
Trong nghiên cứu lịch sử, tài liệu đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì, trong
quá trình nghiên cứu nhà sử học không trực tiếp quan sát sự kiện lịch sử để khôi phục
lại sự kiện phải dựa trên cơ sở các nguồn tài liệu, thông qua tài liệu để nhận biết quá
khứ. Tài liệu là cơ sở của mọi kết luận khoa học, đặc biệt là khoa học lịch sử. Khẳng
định tầm quan trọng của tài liệu F.Ăng-ghen đã viết: “Chỉ sau khi tài liệu khoa học tự
nhiên và lịch sử đã thu thập đến một trình độ nhất định nào đó, thì mới có thể phân tích
và so sánh một cách có phê phán và cứ theo đó mà phân tích ra các lớp, các cấp và các
bài”. [ 35, tr.203]
Do vậy, càng xem trọng công tác sưu tầm tài liệu lịch sử bao nhiêu thì thành quả
nghiên cứu sẽ càng đạt chất lượng cao bấy nhiêu. Trong thực tiễn công tác nghiên cứu
khoa học nói chung, nhà nghiên cứu dành đại bộ phận thời gian và công sức cho công
tác tài liệu. Đã có nhà nghiên cứu cho rằng: “Khi công tác tư liệu đã làm xong về cơ
bản có nghĩa là công trình khoa học đã hoàn thành ít nhất là 80%”. [24, tr.64]
Tài liệu lịch sử (tư liệu lịch sử) là âm Hán Việt, và ở tiếng Hán cũng là tài liệu
lịch sử. Tiếng Pháp là Document historique, tiếng Nga là istochniki, istoricheskie
( ucmopuHuku, ucmopureckue). Cả hai từ này khi dịch sát nghĩa tiếng việt cũng là tài
liệu lịch sử. Từ cụm từ đầy đủ này làm nảy sinh từ sử liệu ( cũng gọi là tài liệu lịch sử)
Các nhà nghiên cứu quan niệm tài liệu lịch sử là bao gồm tất cả những gì đã diễn
ra trong quá khứ. Ngược lại có người cho rằng tài liệu lịch sử là những tư liệu phản ánh
và ra đời đồng thời với sự kiện lịch sử.v.v…Việc xác định thế nào là tài liệu lịch sử là
điều khó và phức tạp vì hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa này.
Thứ nhất, tài liệu lịch sử là những tài liệu thành văn. Đại diện cho quan điểm này
là L. Răngke (thời kỳ văn hóa phục hưng), theo ông “Lịch sử gắn liền với những tài
liệu thành văn được lưu lại”. Ngày nay quan điểm này ít được chấp nhận [1, tr.15]


13


Thứ hai, tài liệu lịch sử là những gì được sử dụng để nghiên cứu quá khứ và để
nhận thức quá khứ. Đại biểu cho khuynh hướng này là N.chi Khơminốp ( Nhà nghiên
cứu Nga, thế kỷ XIX, theo ông “ tài liệu lịch sử là tất cả những gì còn lưu lại của cuộc
sống đã qua” theo quan niện này thì khái niệm tài liệu lịch sử quá rộng rãi [1, tr.15]
Thứ ba, “tài liệu lịch sử là một khái niệm”, tiêu biểu cho quan điểm này là nhà
nghiên cứu người Nga Lapo Danhilépxki, theo ông “ tài liệu lịch sử là một khái niệm
phản ánh đặc tính của hiện vật và có thể được sử dụng để thu nhận tri thức để thu nhận
tri thức về một hiện vật khác”.[1,tr.15]
Thứ tư, coi tư liệu lịch sử là trí nhớ xã hội, tức là một vật mang trí nhớ xã hội,
con người không thể nhớ được những gì đã xảy ra trong quá khứ, do đó phải nhờ vật đó
giúp đỡ để tái hiện lại. Đại biểu cho quan điểm này là của I.a Rebans, theo ông “tư liệu
lịch sử là tổng hợp những thành quả của các hoạt động thực tiễn vào nhận thức của
con người được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng các phương tiện xã
hội” [1,tr.15]
Thứ năm, tài liệu lịch sử như là một sản phẩm thuần túy tâm lý của tác giả tư
liệu. Chẳng hạn, theo Lapo Danhilepxki “Tất cả tài liệu (tư liệu) kể cả tài liệu vật chất
đều là những sản phẩm của tâm lý con người.” Quan điểm này đã phủ nhận tính chất
khách quan của tư liệu lịch sử. Từ đó dẫn đến sự tùy tiện trong việc khai thác tư liệu
lịch sử.
Thứ sáu, trong cuốn trong cuốn Bách khoa toàn thư, xuất bản năm 1972 đã
khẳng định “Tư liệu lịch sử là tất cả những gì phản ánh trực tiếp quá trình lịch sử và
cho ta khả năng nghiên cứu quá khứ của xã hội loài người. Nghĩa là tấ cả những di sản
của xã hội loài người dưới dạng các hiện vật của nền văn hóa vật chất và các tài liệu
thành văn cho phép ta nhận thức về đạo đức, tập quán và ngôn ngữ của các dân tộc”.
Khái niệm này nhấn mạnh tính trực tiếp của tư liệu lịch sử.
Tổng hợp các định nghĩa nói trên, ta có thể rút ra kết luận rằng “Tài liệu lịch sử

là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã hội nhất định và
mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy, phản ánh trực tiếp và trừu tượng
hóa một mặt hoạt động nào đấy của con người.” [1,tr.18]
1.1.1.2. Tài liệu lịch sử thành văn.
Từ định nghĩa về tư liệu lịch sử, ta có thể định nghĩa “Tài liệu thành văn là
những tư liệu cho ta những thông tin về các sự kiện đã xảy ra được ghi lại bằng chữ

14


viết qua các kênh thông tin khác nhau. Nguồn tài liệu này chiếm khối lượng lớn và đặc
biệt quan trọng đôi khi chiếm vị trí chủ yếu trong các nguồn sử liệu” [36, tr.4]
1.1.2. Phân loại tài liệu lịch sử thành văn .
Tài liệu thành văn: là loại tài liệu hết sức phong phú và có vị trí quan trọng đối
với các công trình nghiên cứu. Thông qua loại tài liệu này nhà sử học biết được toàn
diện về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của quá khứ. Các nhà sử học đã từng quan
niệm rằng chỉ có những tài liệu thành văn mới có thể được dùng làm tư liệu, còn những
tài liệu khác đều không đáng tin cậy.
Trên thực tế, tài liệu thành văn ra đời cùng với chữ viết. Sự xuất hiện chữ viết
cùng với ra đời của nghề in đã làm cho tài liệu thành văn ngày càng đa dạng, phong phú
Chữ viết cũng được sáng tạo trên cơ sở những yêu cầu ghi nhớ bức thiết của con người
mà các hình thức ghi nhớ khác không thỏa mãn được. Tuy nhiên ở những thời kỳ đầu
của lịch sử ghi nhớ được ghi chép, sử liệu thành văn chỉ được phản ánh một mặt hoạt
động nhất định của một bộ phận xã hội - chủ yếu của giai cấp thống trị và bộ phận tăng
lữ. Sử liệu viết về nhân dân ra đời muộn hơn nhưng đa dạng hơn và phản ánh đầy đủ
những hoạt động của nhân dân.Việc phân loại tài liệu thành văn tùy thuộc vào cơ sở
nhận thức vị trí tài liệu, cụ thể là các căn cứ sau:
1.1.2.1. Giáo sư Trương Hữu Quýnh trong “Nhập môn sử học” đã phân thành các loại
tài liệu thành văn sau:
- Tài liệu kinh điển: Trong tài liệu kinh điển gồm 2 loại:

+ Các tác phẩm của C.Mác và Ăngghen, Lê Nin và các tác phẩm chung của
Mác-Ăngghen.
+ Các văn kiện của quốc tế cộng sản, các hiệp ước, điều ước, tuyên ngôn, các tác
phẩm báo chí, bài viết, sách của các lãnh tụ ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các văn
kiện của Đảng ta, các bài viết, các báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh..
- Nguồn tài liệu chính thống: bao gồm những tài liệu liên quan đến nhà nước,
chính trị, pháp luật, tài chính kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao,..
- Nguồn tài liệu tư nhân: Nhật ký, hồi ký, ký sự, di chúc... các lão thành cách mạng.
1.1.2.2. Một số tác giả khác lại chia tài liệu thành văn thành 2 loại:
- Tài liệu gốc, là loại tài liệu do người đương thời ghi lại khi sự kiện lịch sử
đang diễn ra.

15


- Tài liệu trung gian, là loại tài liệu phản ánh lịch sử qua thời gian của một tài
liệu khác.
Tóm lại, tùy theo góc độ nhìn nhận khác nhau mà tài liệu thành văn được phân
loại như sau :
- Xét ở góc độ xuất xứ tài liệu:
+ Tài liệu gốc
+ Tài liệu trung gian
- Xét ở góc độ nội dung phản ánh :
+ Tài liệu chính trị, quân sự
+ Tài liệu kinh tế
+ Tài liệu văn hóa, xã hội
- Xét ở góc độ ý nghĩa sự kiện :
+ Tài liệu cơ bản
+ Tài liệu không cơ bản
- Xét ở góc độ tầm quan trọng của nguồn tài liệu :

+ Tài liệu của Mác, Ăng ghen, Lênin, Hồ Chí Minh, các nhà lãnh đạo Đảng
và Nhà nước ta.
+ Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta.
+Các bài nói, bài viết của các Đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước ta.
+ Các công trình nghiên cứu đã xuất bản như giáo trình, sách chuyên khảo
về các vấn đề kinh tế, chính trị- xã hội, các tác phẩm sử học...
+ Tài liệu báo chí viết về những vấn đề lịch sử
+ Tài liệu từ nguồn internet như từ google, vi.wikipedia...
1.1.2.3. Trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm” do Nguyễn Thị Côi chủ
biên, tài liệu thành văn được phân chia như sau:
+ Tài liệu giáo khoa: Là tài liệu cơ bản dành cho HS và cả cho GV trong nhà
trường. Đây là loại tài liệu đã được biên soạn, chỉnh lí và qua nhiều lần cải cách giáo
dục. Do vậy, ngoài tài liệu giáo khoa hiện hành, GV còn có thể sử dụng các tài liệu giáo
khoa trước đó.
+ Tài liệu tham khảo: Gồm nhiều loại tư liệu khác nhau, trước hết là tài liệu
lịch sử như trích dẫn tài liệu gốc, sách báo, bài viết chuyên khảo về một sự kiện lịch sử
trong nước và thế giới. Đây là loại tài liệu quý giúp HS có thể hiểu được các hiện tượng

16


lịch sử một cách sinh động, chính xác. Tài liệu tham khảo gồm các tác phẩm văn học,
các văn bản văn nghệ dân gian, các trích đoạn từ tác phẩm khoa học khác có liên quan
đến sự kiện, hiện tượng lịch sử như tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh.
+ Các loại tài liệu thực tế sưu tầm trong đời sống xã hội thuộc các lĩnh vực tư tưởng,
triết học, nghệ thuật, đạo đức, tâm lí xã hội, xã hội học. Ngoài ra, còn có các loại sách
hướng dẫn giảng dạy, các sách lí giải hoặc một số giáo án mẫu của một số Sở giáo dục
biên soạn. Bên cạnh đó, còn phải kể đến các bài viết trao đổi kinh nghiệm về giảng dạy,
được đăng tải trên các sách báo, các chuyên san của ngành
1.1.3. Quan niệm về tính tích cực của học sinh trong học tập lịch sử

1.1.3.1. Quan niệm về “tính tích cực”
Tính tích cực là một khái niệm quan trọng trong dạy học đã được rất nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới và trong nước đề cập.
I.F.Kharlamôp cho rằng: “Tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể,
nghĩa là của con người hành động. Vậy tính tích cực là trạng thái hoạt động của học
sinh, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình
nắm vững kiến thức” [ 18, tr. 43].
Tính tích cực là một quá trình hoạt động có mục đích và ý chí vươn lên để đạt tới
tầm cao..Có thể hiểu một cách khái quát rằng tính tích cực là sự cố gắng cao độ để làm
việc nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
Như vậy tính tính cực là nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con
người năng động, sáng tạo thông qua các hoạt động dạy và học. Tính tích cực tạo ra sự
biến đổi bên trong (tư duy, tình cảm) và tính tích cực bên ngoài (thái độ, hành động của
thầy và trò).
Tính tích cực là cơ sở thuận lợi để phát triển các năng lực khác trong hoạt động
nhận thức của mỗi người. Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá
trình nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều mà loài người chưa biết
về bản chất, quy luật của các hiện tượng khách quan mà nhằm lĩnh hội tri thức mà loài
người đã tích lũy được. Đồng thời trong quá trình dạy học, chúng ta có thể nhận biết
thái độ, tình cảm của học sinh trước một hiện tượng, một tri thức mới. Những biểu hiện
đó thường khác nhau hoặc thờ ơ, hoặc vô cảm, hoặc sôi nổi, nhiệt tình, tập trung chú ý
hay tỏ vẻ chán chường.

17


Từ những định nghĩa trên chúng ta có thể khái quát : tính tích cực là đem hết khả
năng và tâm trí vào làm việc, như học tập, công tác, trong đó yếu tố tích cực được biểu
hiện xuyên suốt, có thể thấy tính tích cực là trạng thái học tập của học sinh đặc trưng bởi
ý muốn tìm tòi, làm chủ và nắm vững kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên, đồng

thời là kết quả của sự phát triển nhân cách và trí tuệ học sinh.
1.1.3.2. Phương pháp tích cực:
Bản chất của dạy học là đề cao chủ thể nhận thức, chính là phát huy tính tự giác
của người học. Tính tích cực trong dạy học lịch sử là yếu tố cơ bản có tính quyết định
và nâng cao hiệu quả học tập của học HS. Trong dạy học lịch sử tính tích cực trong
nhận thức, đặc biệt trong tư duy sẽ đảm bảo học sinh lĩnh hội sâu sắc nhớ sâu kiến thức
lịch sử, và phương tiện hình thành kiến thức, khơi dậy những cảm xúc lịch sử, đây
chính là cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh. Tính tích cực hóa
hoạt động nhận thức là một trong những phương hướng cơ bản của việc đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử, người thầy không truyền đạt kiến thức có sẵn mà định
hướng cho HS khám phá kiến thức. Người giáo viên bằng mọi biện pháp hướng dẫn,
điều khiển tổ chức quá trình nhận thức của học sinh, học sinh được xem là nhiệm vụ
trung tâm của quá trình dạy học, các em phải chủ động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh
tri thức và vận chúng vào thực tiễn.
Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông việc phát huy tính tích cực học tập của
học sinh trở thành một nguyên tắc được quán triệt trong mọi hoạt động, mọi khâu của
quá trình dạy học. Từ trước đến nay việc tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh
trong dạy học thể hiện như sau:
Thứ nhất: Truyền đạt tri thức có sẵn trong sách giáo khoa
Thứ hai: Hình thành trí thức cho học sinh trên cơ sở hoạt động độc lập của học
sinh
Cả hai tố đó thì yếu tố thứ hai có thể giải quyết thông qua việc tích cực hóa hoạt
động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học, đồng thời phải được thực hiện
trên cơ sở kết hợp giữa việc phát huy tính tích cực của chủ thể nhận thức (học sinh) với
chủ thể giảng dạy (giáo viên) nhằm thực hiện việc dạy học là phát triển năng lực tư duy,
năng lực thực hành, kỹ năng kỹ xảo, học tập cho học sinh nói chung và rèn luyện các
thao tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng.

18



Mặt khác việc phát triển tính tích cực học tập trong dạy học lịch sử còn góp phần
phát triển hứng thú học tập và rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh. Bởi vì sự phong phú
sinh động của nhiều nguồn kiến thức, kết hợp với việc khéo léo gợi mở, hướng dẫn của
giáo viên sẽ lôi cuốn học sinh tham gia xây dựng bài học. Hơn nữa ngôn ngữ liên quan
chặt chẽ đến tư duy, tư duy có phát triển thì ngôn ngữ mới mạch lạc, chính xác. Rõ
ràng, việc phát triển các hoạt động nhận thức tích cực, đặc biệt là tư duy độc lập của
học sinh có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả bài học. Việc phát huy tính
tích cực trong học tập sẽ “ khêu gợi, đòi hỏi con người suy nghĩ, tìm tòi và phát huy tư
duy đến mức cao nhất, moi móc trong con người mình cái gì có thể giải quyết được vấn
đề đặt ra”. [19, tr.5]
Như vậy tính tích cực trong dạy học lịch sử được thể hiện trong việc con người
nắm bắt được quy luật, hiện tượng, sự việc của thế giới tự nhiên và xã hội thông qua
học tập. Tính tích cực của học sinh là trạng thái hoạt động của người học thể hiện khát
vọng học tập trong quá trình nắm vững kiến thức. Thông qua việc phát huy tính tích cực
hoạt động nhận thức của học sinh, giáo viên lựa chọn nội dung, phương pháp, phương
tiện dạy học để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của các em. “Tính tích cực không
phải là phép phản xạ gương, phản xạ đơn nghĩa là phản ánh tất cả các hiện tượng như
cái gương chiếu lại đứng trước nó. Đây là sự phản ánh tích cực có chọn lọc” [ 19, tr.
336].
Hình thành và phát triển tư duy học sinh thông qua hoạt động tích cực là nhiệm
vụ chủ yếu của ngành giáo dục, nhằm đào tạo những con người năng động, sáng tạo, thích
ứng với sự phát triển của thời đại. Có thể coi tính tích cực như là một điều kiện đồng thời là
kết quả của sự phát triển nhân cách và trí tuệ học sinh trong quá trình giáo dục.
Cũng như việc học tập các môn khác ở trường phổ thông, học tập lịch sử là một
quá trình nhận thức, mỗi cá nhân phải tự thực hiện cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn,
điều chỉnh của thầy cô giáo. Khi học lịch sử, học sinh không chỉ dừng ở việc ghi nhớ sự
kiện. Điều quan trọng là phải hiểu biết bản chất sự kiện, quá trình lịch sử, rút ra quy
luật, bài học của quá khứ hiện tại. Vì vậy, trong dạy học lịch sử cần phải phát huy tính
tích cực nhận thức của học sinh.

Phương pháp tích cực là phương pháp dạy mà trong đó mối quan hệ biện chứng
giữa thầy và trò được xác định như sau:

19


- Trò là chủ thể của hoạt động giáo dục, là trung tâm trong quá trình dạy học.
Trò không còn thụ động nghe thầy giảng mà phải tích cực chủ động trong việc học.
Trong khi giáo viên giảng bài luôn đặt ra các tình huống có vấn đề thì trò phải làm việc,
tìm cách giải quyết các vấn đề bằng tích cực tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu,..) để tiếp thu bài giảng một cách tốt nhất đạt hiệu quả cao nhất. Cho nên người
học phải tích cực, năng động, sáng tạo mới thật sự phát triển trí thông minh, phát triển
nhân cách toàn diện. Người đọc không chỉ tiếp thu những kiến thức có sẵn mà phải tự
đặt ra và đối chiếu với những tình huống có vấn đề và tự tìm cách giải quyết vấn đề.
Lớp học là nơi giao tiếp thường xuyên giữa trò với thầy.
- Thầy đóng vai trò chỉ đạo trong quá trình dạy học, tức là thầy không còn là
người truyền đạt kiến thức cho học sinh theo lối một chiều mà là người hướng dẫn, giúp
học sinh tự nhận thức các kiến thức, tự đi tìm các chân lý.
Tóm lại việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh ngày nay đã và đang
được ngành giáo dục đẩy mạnh toàn diện cả về nội dung và hình thức. Học sinh trở
thành trung tâm chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn trong quá
trình dạy học. Nó góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực tự chủ, năng động và sáng
tạo. Đó là một trong những mục tiêu mà nhà trường cần hướng tới.
1.1.4. Bộ môn lịch sử và việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
Sử học là một môn khoa học, nếu không có sự hoạt động tích cực của tư duy thì
không nhận thức được lịch sử. Mặc khác, việc dạy học lịch sử có rất nhiều điều kiện
thuận lợi để rèn luyện tính tích cực cho học sinh. Muốn đào tạo con người phù hợp với
thời đại của chúng ta, cần phải không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng dạy học
lịch sử. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, sự hứng thú, hấp dẫn ngày càng tăng đối
với hiện tại không hề làm giảm bớt sự chú ý của chúng ta đối với việc dạy học lịch sử.

Chính lịch sử là bằng chứng hiển nhiên về sự toàn thắng của công cuộc xây dựng sáng
tạo đối với sự tàn phá, chiến thắng của hòa bình đối với chiến tranh, sự gần gũi hiểu
biết của các dân tộc về văn học và các mặt khác, khắc phục tình trạng biệt lập. Bài học
lịch sử luôn đặt ra nhiều vấn đề cần phải lý giải, do đó có điều kiện phát huy tính tích
cực của học sinh. Nhận thức đúng lịch sử là yếu tố quan trọng để hành động có hiệu quả
trong hiện tại.
Mọi khoa học đều là tổng kết những hiểu biết, kinh nghiệm trong cuộc đấu
tranh với tự nhiên và xã hội, đạt tới trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa, đi sâu

20


vào bản chất sự kiện hiện tượng, rút ra quy luật vận động của sự vật. Việc học tập và
nghiên cứu lịch sử cũng là một hình thức nhận thức khoa học, đòi hỏi học sinh cần
tích cực trong tư duy.
Lịch sử không phải là “ môn phụ”, môn thứ yếu mà có tầm quan trọng đặc biệt
trong giáo dục thế hệ trẻ. Môn lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức về khoa
học lịch sử, học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học
được vào cuộc sống. Do vậy, nó đòi hỏi phải phát triển tư duy, trí thông minh, tính sáng
tạo.
Đặc điểm của lịch sử chi phối nhận thức lịch sử. Bản thân lịch sử là một hiện
tượng khách quan xảy ra trong quá khứ và vận động theo quy luật từ thấp đến cao.
Nhận thức lịch sử không hề quan sát trực tiếp mà học sinh chỉ thực sự nắm vững được
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo thì trong quá trình đó huy động mọi năng lực nhận thức: Trí
tưởng tượng (tái hiện và sáng tạo), trí nhớ (chủ yếu là trí nhớ logic), tư duy tích cực và
có khả năng vận dụng tri thức cần thiết để thành công việc đề ra.
Học tập lịch sử không phải chỉ ghi nhớ sự kiện, hiện tượng mà phải tìm ra cái
tiềm ẩn, bản chất sự kiện. Muốn vậy, học sinh phải từ sự kiện tạo biểu tượng, hình
thành khái niệm, nêu quy luật và rút ra bài học lịch sử. Đó là con đường phát triển tính
tích cực.

Bài học lịch sử có thể phát huy tính tích cực của học sinh ở nhiều khía cạnh:
+ Có ý thức khám phá lịch sử đằng sau các sự kiện và hiện tượng lịch sử.
+ Hướng dẫn học sinh biết phân tích cụ thể dễ hiểu bản chất sự kiện.
+ Hướng dẫn học sinh biết xem xét vấn đề một cách cụ thể, đặt các sự kiện lịch
sử cụ thể trong bối cảnh của nó để hiểu đúng sự kiện.
+ Hướng dẫn học sinh nhìn nhận mối liên hệ hiện tại, tác động qua lại, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
1.1.5. Ý nghĩa của việc sử tài liệu lịch sử thành văn theo hướng phát huy tính tích
cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1965 đến 1975.
- Sử dụng tài liệu thành văn góp phần tạo biểu tượng lịch sử, giúp các em hình
dung quá khứ lịch sử phong phú, đa dạng, chính xác…
Trong học tập lịch sử, việc tạo biểu tượng có ý nghĩa rất quan trọng. Xuất phát từ
đặc điểm của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ trực quan sinh

21


động. Muốn học sinh khôi phục được bức tranh lịch sử quá khứ với đầy đủ tính cụ thể
và sinh động của nó, cần thiết phải sử dụng tài liệu thành văn.
Trước hết, tài liệu lịch sử thành văn góp phần tạo biểu tượng lịch sử, khôi phục
bức tranh lịch sử. Bởi vì: “một trong hai chức năng – nhiệm vụ chủ yếu của bài giảng
lịch sử là khôi phục bức tranh lịch sử và một trong những biện pháp chủ yếu để có thể
khôi phục bức tranh lịch sử là tạo biểu tượng lịch sử” [37, tr.12]. Với những cách khác
nhau (thông báo, miêu tả, tường thuật,…) giáo viên giúp học sinh tái hiện lại các biến
cố, hiện thực lịch sử với đầy đủ tính cụ thể và gợi cảm của nó để các em sống lại với
quá khứ.
Như vậy, trong dạy học lịch sử, trước hết phải tạo biểu tượng lịch sử. Không tạo biểu
tượng lịch sử cụ thể thì HS sẽ không hiểu được lịch sử.

Ví dụ: Khi dạy bài 22: “ Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ

xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1973)”, khi nói đến
cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam , GV có thể sử dụng đoạn trích dưới đây:
Từ ngày 7-2-1965 đến 15-1-1973, đế quốc Mĩ đã hai lần tiến đánh chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc (lần thứ
nhất :từ 7-2-1965 đến 1-11-1968 của chính quyền Giônxơn ; lần thứ hai:
từ 6-4-1972 đến 15-1-1973 của chính quyền Nichxơn).Không quân Mĩ
ném xuống miền Bắc hàng triệu tấn bom. Bình quân 1 km 2 phải chịu đựng
6 tấn bom, mỗi người dân miền Bắc phải chịu đựng 45,5 kg bom.
Đã gây thiệt hại:
Về người: giết và gây thương tật cho hơn 200.000 người (gần 80 000
người chết), để lại hậu quả 70 000 trẻ em mồ côi.
Về kinh tế: tất cả các cơ sở kinh tế và quốc phòng đều bị đánh phá: 100%
các nhà máy điện, 1 500/1 600 công trình thủy lợi, hơn 1000 quãng đê
xung yếu ; 6 đường xe lửa với hầu hết cầu cống bị sập, hỏng, 66/70 nông
trường quốc doanh bị bom đạn địch bắn phá; trên 40 000 trâu, bò bị giết
hại; 6 thành phố lớn bị đánh phá trong đó có 3 thành phố: Hà Nội, Hải
Phòng, Thái Nguyên bị phá hoại nặng nề, 28-30 thị xã (trong đó có 12 thị
xã bị phá hủy hoàn toàn), 96/116 thị trấn, 4000/5 788 xã miền Bắc (có
hơn 300 xã bị phá hủy hoàn toàn), 350 bệnh viện (có 10 bệnh viện bị phá
hủy hoàn toàn), 1 500 bệnh xá, 1 300 trường học, hàng trăm chùa chiền,
nhà thờ và di tích lịch sử, hơn 5 triệu m 2 nhà ở bằng ghạch ngói, hàng
chục vạn hecta ruộng vườn bị bom đạn cày xới, để lại hậu quả nặng nề
cho nhân dân ta phải khắc phục sau chiến tranh. [25, 158-159]
22


Sử dụng đoạn tài liệu thành văn trên giúp học sinh tái hiện lại các biến cố, hiện
thực lịch sử với đầy đủ tính cụ thể ,qua đó thấy rõ những tội ác và hậu quả mà đế quốc
Mĩ đã gây ra cho miền Bắc Việt Nam.
- Sử dụng tài liệu thành văn để làm sáng tỏ bản chất của sự kiện lịch sử

Nhận thức lịch sử bao giờ cũng phức tạp, vì con người là một bộ phận không thể
tách rời của đối tượng nghiên cứu. Tài liệu thành văn sử dụng trong dạy học lịch sử
không chỉ dừng ở việc tạo biểu tượng, mà còn giúp làm sáng tỏ bản chất của sự kiện
lịch sử. Qua đó, giúp học sinh hình thành khái niệm, nêu quy luật, rút bài học lịch sử.
Theo Phạm Hồng Việt “làm sáng tỏ bản chất của lịch sử có nghĩa là có cái nhìn đúng,
đánh giá đúng, phân tích đúng sự kiện, nhân vật lịch sử. Làm sáng tỏ bản chất của lịch
sử cũng có ý nghĩa làm sáng tỏ các thuật ngữ, khái niệm, quy luật, bài học lịch sử” [37,
tr.19].
Sử dụng tài liệu thành văn còn giúp HS hiểu sâu hơn bản chất và mối dây liên hệ
giữa các sự kiện, hiện tượng. Trên cơ sở giúp các em nhận thức rõ bản chất của sự kiện
hiện tượng lịch sử, nghĩa là giúp các em hiểu sử.
Ví dụ: Khi dạy bài 22: “ Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc
Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1973) ”, để giúp
HS hiểu rõ về âm mưu và thủ đoạn thâm độc của Mĩ trong việc thực hiện chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”, GV có thể sử dụng tài liệu thành văn sau đây:
Chiến lược" Việt Nam hóa chiến tranh” dự tính sẽ tiến hành qua 3 giai
đoạn:
Giai đoạn 1(từ năm 1969 đến tháng 6/1970): kiểm soát được những vùng đông
dân quan trọng nhất, quân ngụy được tăng cường để đủ sức đối phó với quân
giải phóng, rút được bộ phân quân Mỹ về nước, đồng thời đẩy mạnh chương
trình bình định nông thôn.
Giai đoạn 2 ( từ tháng 6/1970 đến tháng 6/1971): kiểm soát hầu hết những
vùng đông dân, rút đại bộ phận quân Mỹ về nước cùng với việc quân ngụy
đảm trách được phần lớn nhiệm vụ chiến đấu trên bộ.
Giai đoạn 3 ( từ tháng 6/1971 đến tháng 6/1972):cơ bản hoàn thành “Việt
Nam hóa chiến tranh”, phục vụ Níchxơn thắng cử trong cuộc bầu cử tổng
thống tháng 11/1972.
Biện pháp thực hiện:
23



Tập trung nổ lực xây dựng quân ngụy thành một đội tay sai hiện đại, làm
lực lượng chiến đấu ở miền Nam, có thể thay thế được quân Mỹ trong
chiến đấu trên bộ, đồng thời tăng cường các phương tiện chiến tranh hủy
diết lớn. Trong những năm(1969-1970) quân ngụy (chủ lực và địa phương)
tăng từ 700.000 lên đến 1.100.000 người, lực lượng nửa vũ trang tăng
1500.000 lên 2000000 người. Cuối 1972 quân đội Sài Gòn có 1.100 máy
bay chiến đấu và gần 2000 xe tăng thiết giáp.
Song song với việc xây dựng ngụy quân, Mỹ coi trọng việc củng cố bộ máy
tay sai từ trung ương tới địa phương và tăng cường viện trợ cho ngụy
quyền.
Với bộ máy bạo lực khổng lồ, Mỹ ngụy tập trung vào công cuộc bình định
nông thôn, coi đó là biện pháp then chốt của " Việt Nam hóa chiến tranh”,
quyết định sự sống còn của bản thân ngụy quyền.
Đánh vào hậu phương quốc tế của Việt Nam, mở rộng chiến tranh xâm
lược sang Lào và Campuchia , chia rẽ Liên Xô và Trung Quốc, hi vọng
dùng hai nước này tác động tiêu cực đến cuộc kháng chiến của nhân dân
ta. [10, tr. 221-222]
Sử dụng đoạn tài liệu thành văn trên giúp HS thấy rõ nội dung và hình thức
chiến lược chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ, thủ đoạn thâm độc
và xảo quyệt về quân sự, chính trị, ngoại giao như: “dùng ngưới Việt đánh người Việt”,
“người Đông Dương đánh người Đông Dương” giảm thương vong cho lính Mĩ ở chiến
trường, tránh được sự phản dối mạnh mẽ của nhân dân Mĩ…Mặt khác, Mĩ tiến hành
chiến tranh hủy diệt, phá hoại ở cả hai miền Nam ,Bắc, nhằm làm cho nhân dân ta phải
khiếp sợ, khuất phục, chịu nhận những điều kiện do Mĩ đưa ra, xâm phạm độc lập, chủ
quyền dân tộc…
- Sử dụng tài liệu thành văn góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo
đức và giá trị thẩm mỹ cho học sinh
Dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng,đó là một quá trình nhận thức đặc
thù, trong đó giáo viên tổ chức, dẫn dắt học sinh một cách có mục đích, có kế hoạch để

các em nắm vững tri thức văn hóa, kỹ năng cơ bản, hình thành cơ sở thế giới quan, bồi
dưỡng tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh.

24


Sử dụng tài liệu lịch sử thành văn góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình
cảm, đạo đức và giá trị thẩm mỹ cho học sinh. Bởi vì, khi biết nhận thức về hiện thực
quá khứ, các em không chỉ tri giác mà còn “rung động”, “ xao xuyến”. Những dấu hiệu
tâm lý đó thể hiện sự “nhập thân” vào lịch sử, biểu thị thái độ của học sinh đối với
những gì mà các em nhận thức được. Trong học tập lịch sử học sinh sẽ được học những
câu chuyện bi thảm, những tình thế bất ngờ, những số phận khác thường. “Trước mắt
chúng ta hiện lên những con người có những ước mơ, những sự thành đạt và có cả
những tấm bi kịch nữa,..tất cả mọi vật điều sẽ làm rung động trí tuệ và tình cảm của
con người. Điều này sẽ làm cho những câu chuyện về quá khứ có sức rung cảm mạnh
mẽ” [15, tr.157].
Lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Bởi
vì “khả năng tác động đến tình cảm bắt nguồn từ một sự thật trong khoa học lịch sử, rõ
ràng có những yếu tố nghệ thuật”. [15, tr.151]
Qua bài học lịch sử, những hành động anh hùng của những người đấu tranh quên
mình vì sự nghiệp chính nghĩa và tiến bộ, vì hạnh phúc và hòa bình của nhân dân lao
động, có sức lôi cuốn đối với học sinh, gây cho các em cảm xúc lịch sử sâu rộng. Trên
cơ sở đó góp phần hình thành ở các em sự kính phục tự hào đối với các vĩ nhân và trong
những hoàn cảnh nhất định, nó thổi bùng lên những ngọn lửa nhiệt tình cách mạng.
Ngược lại học sinh có những thái độ căm ghét với những hành vi hung bạo, độc ác của
các nhân vật đại diện cho các giai cấp thống trị đi ngược lại với quyền lợi của quần
chúng lao động.
Như vậy, tài liệu về các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử đã làm cho tình
cảm yêu ghét của các em được xác định rõ ràng không chỉ có khả năng tái tạo lịch sử
quá khứ mà còn có chức năng điều chỉnh hành động.

Ví dụ: Khi dạy bài 22, mục III.2.Chiến đấu chống chiến lược " Việt Nam hóa
chiến tranh" và " Đông Dương hóa chiến tranh của Mĩ", khi nói đến nội dung của sự
kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9- 1969, GV có thể sử dụng đoạn tư liệu sau
để có thể góp phần giáo dục cho học sinh lòng tiếc thương và kính yêu đối với Bác Hồlãnh tụ vĩ đại của cách mạng của nhân dân Việt Nam, người cha già dân tộc:
Sáu giờ sáng ngày 4/9/1969 trên làn sóng của đài phát thanh tiếng nói
Việt Nam truyền đi bản thông báo đặc biệt của bộ chính trị trung ương
Đảng lao động Việt Nam, Quốc hội, Hội đồng chính phủ và ủy ban trung

25


×