ỦY BAN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHÍ LINH
PHÒNG GD &ĐT THỊ XÃ CHÍ LINH
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
CHỈ ĐẠO KHAI THÁC HIỆU QUẢ CÁC BÀI DẠY
PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4
Lĩnh vực: Quản lý
NĂM HỌC 2014 - 2015
1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Chỉ đạo khai thác hiệu quả các bài dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lý chuyên môn cấp Tiểu học
3. Tác giả:
Họ và tên: Đỗ Thị Huyền
Ngày tháng năm sinh: 15 tháng 12 năm 1975
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ, đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng - Tiểu học Sao Đỏ 2 - Sao Đỏ
- Chí Linh - Hải Dương
Điện thoại: 0986. 891. 764
4. Đồng tác giả: Không có
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Sao Đỏ 2 - Sao Đỏ - Chí
Linh - Hải Dương
6. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Đỗ Thị Huyền - trường Tiểu học Sao Đỏ 2.
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Chỉ đạo áp dụng: Cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn hoặc tổ trưởng
chuyên môn cấp tiểu học.
- Thực hiện áp dụng: Giáo viên tiểu học có trình độ đạt Chuẩn trở lên.
- Trường học đảm bảo 10 buổi/tuần. Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ: về
phòng học/lớp; trang thiết bị dạy học đồng bộ đảm bảo đủ/ số lớp.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 12
năm 2015.
TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
(ký, ghi rõ họ tên)
SÁNG KIẾN
Đỗ Thị Huyền
2
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Sáng kiến "Chỉ đạo khai thác hiệu quả các bài dạy phân môn Luyện từ
và câu lớp 4" được tôi nghiên cứu và chỉ đạo áp dụng trong hơn một năm qua.
Sáng kiến ra đời xuất phát từ những trăn trở của tôi khi nghiên cứu chương
trình, sách giáo khoa, khi dự giờ thăm lớp giáo viên, chứng kiến thực trạng việc
dạy và học phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt lớp 4,5.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Điều kiện để thực hiện sáng kiến đòi hỏi sự chỉ đạo bài bản, sát sao của
cán bộ quản lý, tổ trưởng chuyên môn; trực tiếp thực hiện là giáo viên cấp tiểu
học có trình độ đạt chuẩn trở lên, nhà trường có điều kiện cơ sở vật chất tương
đối đảm bảo.
3. Nội dung sáng kiến
Nội dung sáng kiến chỉ rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, thực
trạng việc dạy của thầy và việc học của trò đối với phân môn Luyện từ và câu
lớp 4, từ đó xây dựng 6 giải pháp chính gần gũi, thiết thực, để chỉ đạo thực
hiện, đó là:
3.1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho giáo viên
3.2. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức Tiếng Việt phổ thông cho giáo viên.
3.3. Bồi dưỡng nâng cao kĩ năng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4
3.4. Chuẩn bị kế hoạch bài dạy cụ thể, khoa học
3.5. Khai thác kiến thức bài dạy linh hoạt, sáng tạo
3.6. Đổi mới và tổ chức hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên đề tại tổ chuyên
môn.
Các giải pháp mà sáng kiến nêu ra hoàn toàn mới, không có trong bất cứ
tài liệu nào. Các giải pháp có tính khả thi cao. Chỉ cần người cán bộ quản lý chỉ
đạo giáo viên thường xuyên nghiên cứu kĩ bài học, chuẩn kiến thức kĩ năng của
từng bài, từ đó lập kế hoạch cụ thể, khoa học, linh hoạt và sáng tạo, sắp xếp,
điều chỉnh nội dung bài dạy sao cho đạt được mục tiêu đề ra, bằng con đường
ngắn gọn nhất, nhẹ nhàng nhất, mang lại nhiều hứng thú cho học sinh. Và chỉ
có như vậy, học sinh mới tiếp cận tốt nội dung bài học, nắm bài hiệu quả.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
3
Sáng kiến có lợi ích thiết thực về xã hội, tạo điều kiện để các nhà quản lý
chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp dạy học một cách hiệu quả, sát thực tế
giảng dạy của giáo viên, thực tế học tập của học sinh hiện nay.
Mặc dù áp dụng lần đầu nhưng sáng kiến trên đã được tập thể giáo viên
hồ hởi đón nhận, khẳng định sự thiết thực của nó. Đồng thời, học sinh được
tiếp nhận bài học tốt hơn, hiệu quả hơn, tạo hứng thú học tập cho các em.
5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
Sáng kiến sẽ có hiệu quả tốt hơn nếu được triển khai và tiếp cận trong
nhiều nhà trường, áp dụng phương pháp chính cho các môn học khác nhau,
thường xuyên được kiểm tra, rút kinh nghiệm; nhận được nhiều ý kiến phản hồi
từ giáo viên thực hiện.
4
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Cùng với Toán, môn Tiếng Việt được xem là môn học đóng vai trò
"công cụ " trong trường tiểu học. Hơn thế nữa, với kiến thức và 4 kĩ năng:
nghe, nói, đọc, viết mà môn học mang lại, Tiếng Việt trở thành công cụ số Một,
quan trọng nhất ở bậc tiểu học, là chìa khóa mở cánh cửa tới các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở lớp 4 bao gồm 5 phân môn: Tập đọc, Kể chuyện,
Chính tả, Luyện từ và câu và Tập làm văn. Trong đó, chiếm thời lượng khá
nhiều và đóng vai trò quan trọng, cung cấp kiến thức sơ giản về từ, rèn luyện kĩ
năng: nói, viết và giao tiếp cho học sinh tiểu học là phân môn Luyện từ và câu.
Đặc biệt, khác với lớp dưới, phân môn Luyện từ và câu lớp 4 có những tiết học
riêng để trang bị kiến thức cho học sinh, giúp học sinh:
- Mở rộng, hệ thống hóa vốn từ theo chủ điểm, trang bị cho học sinh một
số hiểu biết sơ giản về từ và câu.
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng dùng từ, đặt câu và sử dụng dấu câu
- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu, có
ý thức sử dụng Tiếng Việt trong văn hóa giao tiếp.
Thực tiễn cho thấy, việc giảng dạy sao cho đạt được những mục tiêu trên
qua các bài dạy phân môn Luyện từ và câu không phải là dễ. Với khả năng của
giáo viên, trên cơ sở nội dung chương trình sách giáo khoa, giáo viên thực sự
gặp nhiều lúng túng, hiệu quả giảng dạy không cao, không đạt được mục đích
mà phân môn đặt ra. Cũng từ việc giảng dạy của giáo viên, việc nắm bắt kiến
thức luyện từ và câu của học sinh hời hợt, thiếu tính bền vững. Do đó, việc vận
dụng kiến thức của phân môn vào nói, viết, giao tiếp của học sinh gặp rất nhiều
khó khăn.
Trước những hạn chế mà giáo viên, học sinh gặp phải khi dạy và học
phân môn Luyện từ và câu, đặc biệt đối với lớp 4, lớp học có lượng kiến thức
nhiều và nặng hơn cả trong cấp tiểu học, lớp học mà lứa tuổi, tâm lý học sinh
tiểu học có nhiều thay đổi nhất là về nhận thức, tư duy, là một cán bộ quản lý,
tôi mong muốn tìm ra giải pháp để giúp giáo viên thoát ra vòng luẩn quẩn,
khuôn mẫu bấy lâu nay. Xuất phát từ lí do đó, tôi viết sáng kiến: " Chỉ đạo
khai thác hiệu quả các bài dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4."
5
2. Cơ sở lý luận
2.1. Một số đặc điểm về tư duy, nhận thức của học sinh lớp 4, 5.
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường.
Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Cũng ở gia đoạn này, các phẩm chất tư duy
của các em cũng chuyển dần sang tư duy trừu tượng khái quát. Trẻ dần hình
thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình, chú ý có chủ định phát triển
dần và chiếm ưu thế. Ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như
học thuộc một bài thơ, một công thức toán, hay một quy tắc dài...( Trích lược
tại tài liệu BDTX của GV tiểu học - TH1). Chính điều này là cơ sở để các nhà
giáo dục có những biên soạn nội dung chương trình phù hợp đặc điểm tư duy,
nhận thức học sinh, khác hẳn với giai đoạn trước đó: giai đoạn lớp 1,2,3
2.2. Nội dung chương trình phân môn Luyện từ và câu:
Ở lớp 4-5, môn Tiếng Việt chiếm thời lượng 8 tiết/tuần/ 35 tuần với các
phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Trong
đó, phân môn Luyện từ và câu chiếm 2 tiết/8 tiết/tuần ( khác với lớp 2,3, chỉ có
01 tiết/tuần).
Cũng như các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, phân môn Luyện từ
và câu được sắp xếp thành bài trong từng tuần, theo từng chủ điểm. Cụ thể:
Học kì 1: 5 chủ điểm với 32 tiết; học kì 2: 5 chủ điểm với 30 tiết, không kể các
tiết ôn tập, kiểm tra.
Nội dung các tiết học được sắp xếp đan xen giữa các bài cung cấp kiến
thức về câu và từ với các bài mở rộng vốn từ theo chủ điểm với thời lượng: 3
tuần/1 chủ điểm. Mỗi chủ điểm có 2 tiết mở rộng vốn từ, còn lại là các tiết học
về câu và từ.
2.3. Yêu cầu kiến thức phân môn Luyện từ và câu:
2.3.1. Mở rộng vốn từ:
Có 20 tiết mở rộng vốn từ cho 10 chủ điểm trong toàn năm học. Nội
dung chủ yếu là cung cấp, mở rộng, hệ thống hóa cho học sinh những từ ngữ
( bao gồm cả thành ngữ, tục ngữ, một số từ Hán Việt) theo từng chủ điểm.
2.3.2. Trang bị kiến thức sơ giản về từ và câu:
Khác với các lớp dưới, đến lớp 4, học sinh được biết đến những khái
niệm sơ giản ban đầu về từ và câu, bao gồm:
6
2.3.2.1. Về từ: Học sinh nắm được những khái niệm sơ giản về:
+ Cấu tạo từ: Từ đơn, từ phức ( từ ghép, từ láy)
+ Từ loại: Danh từ, Động từ, Tính từ
+ Bước đầu làm quen với 1 số lớp nghĩa của từ ( đồng nghĩa, trái nghĩa)
2.3.2.2. Về câu: Học sinh nắm được những khái niệm sơ giản ban đầu về câu:
+ Các mẫu câu xét theo cấu tạo: Câu kiểu Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào?
+ Các mẫu câu xét theo mục đích nói: Câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến
+ Các thành phần câu: Chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ
+ Dấu câu: dấu gạch ngang, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép
Tất cả các kiến thức trên đều được chương trình sắp xếp hợp lí từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp, trong mối quan hệ với các phân môn khác của
môn Tiếng Việt. Học sinh đều đã được tiếp cận với các kiến thức trên từ lớp
dưới song chỉ mang tính chất giới thiệu, chưa khái quát hóa thành khái niệm cụ
thể. Ví dụ:
- Kiến thức về từ đơn, từ phức: lớp 2,3 học sinh đã được làm quen với từ
1 tiếng, từ nhiều tiếng.
- Kiến thức về từ loại: danh từ, động từ, tính từ: lớp 2,3 học sinh đã được
làm quen với từ chỉ sự vật, từ chỉ đặc điểm, từ chỉ hoạt động.....
2.4. Yêu cầu về kĩ năng đối với phân môn Luyện từ và câu lớp 4
Theo quyết định 16/2006/QĐ-BGD ĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông
và Chuẩn KTKN, thông qua phân môn Luyện từ và câu, học sinh lớp 4 cần đạt
được các kĩ năng cụ thể với từng đơn vị kiến thức như sau:
Nội dung kiến thức
2.4.1 Ngữ âm và chữ viết:
Kĩ năng cần đạt
- Sơ giản về cấu tạo của tiếng
- Nhận biết cấu tạo 3 phần của tiếng
- Cách viết tên người, tên địa lí Việt - Biết quy tắc viết hoa tên người, tên
Nam
địa lí Việt Nam và nước ngoài: nhớ
quy tắc viết hoa và biết vận dụng quy
tắc đó
2.4.2. Từ vựng
- Từ ngữ ( gồm cả thành ngữ, tục ngữ, - Biết thêm các từ ngữ (gồm cả thành
1 số từ Hán Việt) theo chủ đề ( chú ngữ, tục ngữ, 1 số từ Hán Việt thông
7
trọng chủ đề về phẩm chất con người)
dụng) về TN, XH…
- Sơ giản về cấu tạo từ: từ đơn, từ - Nhận biết được sự khác biệt về cấu
phức (từ ghép, từ láy)
tạo từ của các kiểu từ
- Biết tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa với
từ đã cho; kết hợp từ đã cho với từ
khác; tìm thêm từ cùng cấu tạo; tìm
thành ngữ, tục ngữ theo chủ điểm
2.4.3. Ngữ pháp
- Danh từ, động từ, tính từ
- Hiểu thế nào là danh từ, động từ, tính
- 1 số mẫu câu (đơn) theo cấu tạo từ; 3 mẫu câu đơn thường dùng và các
thường dùng
bộ phận chính của câu, thành phần
- Các thành phần chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ…
trạng ngữ
- Nhận biết được các từ loại đã học,
- Kiểu câu theo mục đích nói: câu kể, các mẫu câu cùng các thành phần câu:
câu hỏi, câu cảm, câu khiến
CN, VN, TN.
- Dấu hai chấm; dấu ngoặc kép; dấu - Nhận biết các kiểu câu theo mục đích
gạch ngang
nói dựa vào các từ ngữ, dấu câu đi
kèm và nghĩa của câu.
- Biết xưng hô, lựa chọn từ ngữ khi
giao tiếp ở trường, ở nhà, ở nơi cộng
cộng
- Biết đặt và trả lời câu hỏi trong trao
đổi, thảo luận
2.4.4. Phong cách ngôn ngữ và biện
pháp tu từ
- Các biện pháp tu từ: so sánh, nhân - Bước đầu nêu được cảm nhận về tác
hóa
dụng của 1 số hình ảnh so sánh, nhân
hóa trong câu văn, câu thơ
- Biết nói, biết viết câu có dùng phép
sánh, nhân hóa (mục đích chính dạng
bài này là để luyện văn)
Có thể nói, lên lớp 4, học sinh được tiếp cận với hàng loạt kiến thức
mang tính trừu tượng hơn, khái quát hơn, đòi hỏi sự tư duy hơn. Không chỉ
8
môn Tiếng Việt hay phân môn Luyện từ và câu mà môn Toán cũng vậy. Đây
cũng là điểm mới, là sự khó khăn đối với cả việc dạy của thầy và việc học của
trò.
3. Thực trạng dạy và học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 hiện nay:
Là một cán bộ quản lý được tham gia công tác nghiệp vụ của phòng Giáo
dục, có điều kiện dự giờ thăm lớp không chỉ giáo viên nhà trường mà cả giáo
viên nhiều trường bạn, tôi nhận thấy một số thực trạng khi dạy và học phân
môn Luyện từ và câu lớp 4 như sau:
3.1. Thực trạng việc dạy:
3.1.1. Sự thiếu hụt kiến thức phổ thông về Tiếng Việt
+ Phải khẳng định rằng 40-50% giáo viên trong các trường tiểu học hiện
nay thiếu hụt kiến thức phổ thông về Tiếng Việt, thể hiện đó là:
- Vốn từ hạn chế, hiểu các kiến thức về từ và câu còn hời hợt, thiếu chắc
chắn, kĩ năng phân tích ngôn ngữ, phân tích ngữ liệu chỉ đạt mức bình thường.
- Kiến thức về từ vựng, ngữ nghĩa học có nhiều hạn chế, bộc lộ những sơ
suất khi giảng dạy đặc biệt với các tiết dạy về mở rộng vốn từ.
- Kiến thức về phong cách ngôn ngữ và biện pháp tu từ hầu như không
có.
Thực tiễn cho thấy, những vấn đề giáo viên mắc nhiều nhất khi dạy
Luyện từ và câu lớp 4 là mảng kiến thức về Ngữ pháp Tiếng Việt, trong đó tập
trung là:
+ Kĩ năng xác định từ đơn với từ phức, từ ghép với từ láy trong các đoạn
văn, đoạn thơ
+ Kĩ năng xác định từ loại danh từ, động từ, tính từ trường hợp danh từ
chỉ khái niệm và động từ chỉ trạng thái
+ Kĩ năng xác định các mẫu câu kể Ai làm gì? với câu kể Ai thế nào?
trường hợp vị ngữ là động từ chỉ trạng thái.
+ Kĩ năng xác định thành phần câu.
Những hạn chế này của giáo viên tác động trực tiếp lên học sinh. Thực
tiễn, đây cũng là vấn đề học sinh hay mắc trong khi học tập, thực hành phân
môn Luyện từ và câu.
9
3.1.2. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thiếu chủ động, thiếu linh
hoạt, chưa hiệu quả.
Vấn đề trở thành lối mòn khó sửa của giáo viên bấy nay là:
- Phương pháp giảng dạy đơn điệu, chủ yếu dựa vào sách giáo viên, sách
thiết kế bài dạy, chỉ hướng dẫn học sinh giải quyết lần lượt các nhận xét, bài
tập theo đáp án mà sách giáo viên hoặc sách thiết kế nêu ra; sợ sai, không tự tin
đưa ra các ví dụ, các trường hợp khác để mở rộng, khắc sâu cho học sinh.
- Hướng dẫn học sinh luyện tập, khai thác nội dung bài chưa tốt, sửa sai
cho học sinh chưa hiệu quả, không giúp học sinh thấy được cái sai và cách sửa
chữa mà chỉ nêu ngay đáp án đúng.
3.1.3. Nhận thức chưa đầy đủ của giáo viên
- Qua dự giờ, thăm lớp, qua phỏng vấn cho thấy, một bộ phận không nhỏ
giáo viên chưa xác định đầy đủ tầm quan trọng của việc giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu nói riêng, của môn Tiếng Việt nói chung.
- Xuất phát từ nhận thức trên mà việc giảng dạy phần lớn hời hợt, thiếu
trọng tâm, ngại tìm hiểu nội dung, đổi mới phương pháp để có những tiết dạy
hiệu quả dẫn đến tình trạng soạn cho xong, dạy cho xong.
3.2. Thực trạng việc học:
Phần lớn học sinh ngại học phân môn Luyện từ và câu nhất là các tiết
học về kiến thức từ và câu. Nguyên nhân từ mấy vấn đề sau:
+ Những kiến thức mà các em được nắm bắt từ giáo viên tuy sơ giản
nhưng thiếu tính bền vững, khó nhớ, nhanh quên, bởi ngay chính giáo viên
cũng chưa chủ động thì không thể truyền tải kiến thức đến học sinh một cách
chắc chắn được.
+ Hệ thống kiến thức phân môn Luyện từ và câu được sắp xếp xen kẽ:
Kiến thức về từ - Mở rộng vốn từ - Kiến thức về dấu câu...Tư duy logic của học
sinh hạn chế, giáo viên dạy lại không khéo củng cố kiến thức cũ trong bài mới;
không tích hợp thường xuyên trong các phân môn, học sinh lại chưa tích cực ôn
luyện nên khi quay trở lại bài học có liên quan sau 1-2 tuần hoặc sau thời gian
vài tuần thì nhiều em lại bỡ ngỡ như mới.
Để kiểm tra việc nắm bắt kiến thức phân môn luyện từ và câu lớp 4 của
10
học sinh 2 lớp 4 A, 4C của trường tôi, tháng 11 năm học 2013 - 2014 - vào cuối
tuần 10, tôi đã tiến hành khảo sát ( Đề khảo sát nằm trong phần Phụ lục) và thu
được kết quả như sau:
Lớp
4A
4C
Số HS
31
32
Đạt 5 điểm trở lên
SL
%
23
74,1
28
87,5
Đạt dưới 5
SL
8
4
%
25,9
12,5
Kết quả trên cho thấy, tỉ lệ học sinh chưa đạt còn nhiều, các em không
xác định đúng trọng tâm yêu cầu bài, lẫn lộn giữa từ và cụm từ. Lớp 4C là lớp
có chất lượng tốt hơn cũng còn số học sinh làm bài chưa đạt cao.
Thực trạng diễn ra và kết quả dạy và học phân môn Luyện từ và câu lớp
4 đã thôi thúc tôi nghiên cứu với mong muốn tìm ra giải pháp gần gũi nhất,
hiệu quả nhất, thúc đẩy chất lượng dạy và học của thầy và trò nhà trường ngày
một cao hơn.
4. Một số giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho giáo viên
Muốn chỉ đạo đổi mới hiệu quả việc đầu tiên cần làm phải làm thay đổi
nhận thức chưa đầy đủ của bộ phận giáo viên. Có thể thực hiện những việc làm
sau:
- Xác định rõ và nhấn mạnh tầm quan trọng khi giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu lớp 4 nói riêng, môn Tiếng Việt lớp 4 nói chung.
- Chỉ ra những điểm còn thiếu, còn yếu của giáo viên về việc nắm bắt
kiến thức chuyên sâu Tiếng Việt cũng như việc thiếu hụt các kĩ năng giảng dạy
cần thiết khi dạy về các mảng kiến thức của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 và
hậu quả của nó. Việc chỉ ra những điểm thiếu, điểm yếu này thông qua những
lỗi mà giáo viên mắc phải khi giảng dạy, cán bộ quản lý nắm được qua quá
trình dự giờ thăm lớp, qua phỏng vấn, trao đổi hay qua chính kết quả học tập
của học sinh, qua những lỗi mà học sinh mắc phải khi làm bài trên lớp cũng
như qua các bài kiểm tra định kì.
Ví dụ: Khi dạy mảng kiến thức về Từ ghép và từ láy, giáo viên có
chuyên môn không chắc chắn sẽ hướng dẫn học sinh phân tích nhận xét rồi
nhanh chóng rút ra ghi nhớ theo hướng dẫn tại sách giáo viên hoặc sách thiết kế
11
bài giảng một cách trung thành, sau đó đến phần luyện tập, gặp các bài tập yêu
cầu xác định từ ghép, từ láy thì giáo viên yêu cầu đọc đầu bài rồi gạch chân xác
định dưới các từ ghép, từ láy sau đó báo cáo kết quả. Đến khi học sinh xác định
chưa đúng, giáo viên chỉ biết nói em xác định chưa đúng đáp án phải là từ A
hay từ B hoặc chỉ biết bám vào ghi nhớ để nhắc nhở học sinh, vì vậy mới xảy
ra lỗi học sinh cho rằng cụm từ " học giỏi" là từ ghép trong câu:
Minh nổi tiếng là một lớp trưởng học giỏi và chăm chỉ trong trường em.
Đáng lẽ ra trong bài tập trên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh làm lần
lượt 2 bước:
+ Bước 1: Tách rõ các từ trong câu bằng chì và dấu gạch chéo:
Minh/ nổi tiếng/ là /một/ lớp trưởng/ học /giỏi/ và/ chăm chỉ/ trong/ trường/
em.
Với bước này, sau dần quen thành kĩ xảo, học sinh có thể chỉ cần xác
định bằng mắt mà không cần dùng chì gạch chéo.
+ Bước 2: Xác định từ ghép, từ láy theo đề bài yêu cầu:
Dựa vào kết quả của bước 1, học sinh dễ dàng xác định được từ ghép là:
nổi tiếng, lớp trưởng; còn từ láy là: chăm chỉ.
Trường hợp học sinh tiếp tục còn nhầm lẫn xác định cụm từ " học giỏi"
hay " trường em" là từ ghép ( vì nghĩ rằng cụm từ này đã diễn đạt 1 nội dung,
chỉ 1 sự vật) thì giáo viên cần tiếp tục sử dụng các phép xác định kết hợp 2 từ
đơn hay 1 từ ghép để hướng dẫn học sinh ( các phép xác định này sẽ được trình
bày cụ thể trong mục 4.3, trang 13).
Nếu cán bộ quản lý chỉ ra được các lỗi càng cụ thể, giáo viên càng nhận
thấy những lỗi riêng của mình, của đồng nghiệp cùng tác hại của nó tới quá
trình học tập của học sinh, từ đó mới thay đổi nhận thức, nảy sinh nhu cầu,
mong muốn được bồi dưỡng, khắc phục.
4.2. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức Tiếng Việt phổ thông cho giáo viên
Đây là vấn đề cơ bản đầu tiên cần quan tâm trong mỗi nhà trường vì chỉ
khi giáo viên có vững kiến thức thì mới có thể chủ động đứng trên bục giảng
hướng dẫn học sinh khám phá tri thức. Với giáo viên tiểu học, nội dung bồi
dưỡng phục vụ phân môn Luyện từ và câu lớp 4 nên lựa chọn sát với nội dung
giảng dạy, tập trung vào các vấn đề sau:
12
4.2.1. Kiến thức về từ:
- Từ Tiếng Việt: đặc điểm, ngữ âm và ngữ pháp của từ Tiếng Việt
- Cấu tạo từ Tiếng Việt: đơn vị, phương thức cấu tạo từ
- Các kiểu từ xét theo cấu tạo, xét theo ngữ nghĩa
- Ý nghĩa của từ Tiếng Việt
- Hiện tượng nhiều nghĩa của từ, sự chuyển biến ý nghĩa của từ.
4.2.2. Các lớp từ Tiếng Việt
- Từ thuần Việt
- Từ vay mượn
- Tạo lập từ, sử dụng từ trong giao tiếp
4.2.3. Kiến thức về câu và thành phần câu, dấu câu
- Các kiểu câu Tiếng Việt phân loại theo cấu tạo hoặc theo mục đích nói.
- Dấu câu và tác dụng của 1 số dấu câu
- Chức năng ngữ pháp.
4.2.4. Phong cách ngôn ngữ, các biện pháp tu từ
- Nội dung này tập trung về các biện pháp tu từ như: so sánh, nhân hóa, điệp từ,
điệp ngữ, sử dụng từ ngữ,...
4.3. Bồi dưỡng nâng cao kĩ năng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
Ngoài kiến thức chuyên sâu của Tiếng Việt phổ thông, người cán bộ
quản lý cần tập trung bồi dưỡng giáo viên nắm chắc các kĩ năng sau khi giảng
dạy:
* Một số quy tắc chính tả cơ bản:
+ Viết hoa tên người VN và tên người nước ngoài phiên âm Hán Việt
+ Viết hoa tên địa lí Việt Nam và tên địa lí nước ngoài phiên âm Hán Việt
+ Viết hoa tên người, tên địa lí nước ngoài
+ Viết hoa tên riêng các tổ chức chính trị xã hội
+ Viết hoa bày tỏ phép lịch sự, tôn trọng
+ Viết hoa khi nhân hóa
+ Viết hoa trong phép đặt câu
* Xác định yêu cầu trọng tâm khi dạy các bài tập về từ:
* Các dạng bài tập chính:
+ Xác định từ ( dạng bài chủ yếu)
13
+ Tạo lập từ
+ Sử dụng từ
Với mỗi dạng bài tập, cần lưu ý làm rõ từng bước để học sinh dễ làm, dễ
nhớ. Cụ thể:
* Dạng bài tập xác định từ:
Cần đảm bảo các bước: + Bước 1: Phân cách ranh giới từ
+ Bước 2: Xác định loại từ
Trong dạng bài này, giáo viên thường lúng túng khi hướng dẫn học sinh
xác định cấu tạo của một số kết hợp từ, không chắc chắn là 2 từ đơn hay 1 từ
ghép. Trường hợp này, giáo viên có thể hướng dẫn sử dụng một trong các thao
tác sau:
+ Dựa vào định nghĩa về từ đơn, từ ghép. Chú ý nhấn mạnh kết cấu chặt
chẽ của từ ghép:"hai hay nhiều tiếng ghép lại với nhau mà có một nghĩa chung"
+ Dựa vào văn cảnh: Một số kết hợp từ trong văn cảnh này là từ ghép
nhưng trong văn cảnh khác là từ đơn. Ví dụ:
a) Em rất thích ăn cánh gà rán.
2 từ đơn ( ý là: cánh của con gà)
b) Bên cánh gà sân khấu, Mai đang chuẩn bị cho tiết mục của mình.
1 từ ghép ( chỉ khoảng trống bên cạnh sân khấu)
+ Dùng thao tác thêm xen: Nghĩa là thêm xen 1 tiếng vào giữa kết hợp từ
còn chưa chắc chắn. Nếu thấy nghĩa của kết hợp từ không thay đổi thì đó là 2
từ đơn; nếu nghĩa của kết hợp từ bị thay đổi thì đó là từ ghép.
* Ví dụ: Bông hoa hồng(1) này là hoa hồng(2).
2 từ đơn
1 từ ghép
Từ " hoa hồng(1)" là 2 từ đơn bởi xét nghĩa của nó trong ngữ cảnh trên có
nghĩa là chỉ " bông hoa có màu hồng" còn " hoa hồng(2)" là 1 từ ghép bởi từ này
chỉ tên 1 loài hoa. Kể cả dùng thao tác thêm xen thì kết hợp từ " hoa hồng" (1)
cũng thêm xen được theo cách trên, còn " hoa hồng"(2) thì kết cấu rất chặt chẽ,
không thể thêm xen được.
* Dạng bài tập tạo lập từ:
+ Đưa ra nhiều dạng bài khác nhau, có thể cho từ gốc hoặc không.
+ Tạo lập từ để được từ theo cấu tạo hoặc theo từ loại yêu cầu
14
+ Tạo lập từ để được từ ngữ theo chủ điểm
*Dạng bài tập sử dụng từ: để đặt câu hoặc viết đoạn
+ Đơn giản: Đặt câu có từ ngữ yêu cầu
+ Khó hơn: Đặt câu có từ ngữ yêu cầu kèm theo chủ đề
* Lưu ý: Khi đặt câu, từ yêu cầu không chuyển loại hay bị đổi cấu tạo
*Một số dạng bài cơ bản về từ loại : Như đối với dạng từ theo cấu tạo. Gồm 3
dạng chính:
+ Xác định từ loại
+ Tạo lập từ loại
+ Sử dụng từ loại
- Đối với HS khá, giỏi: Giáo viên cần lưu ý các bài tập về sự chuyển loại
của từ, khả năng kết hợp của từng từ loại.
* Ví dụ: từ " mập, chắc" thông thường ta nghĩ rằng nó là tính từ, nhưng
trong trường hợp sau nó là động từ chỉ trạng thái của những bắp ngô đã đến kì
thu hoạch:
Những bắp ngô đã mập và chắc chỉ còn chờ tay người đến bẻ mang về.
Đây là điểm khó mà nhiều giáo viên dễ mắc khi hướng dẫn học sinh.
Khắc phục điểm khó này, giáo viên cần làm tốt bài dạy giới thiệu các từ kết
hợp với động từ: " đã, đang, sắp" - Tiết Luyện từ và câu " Luyện tập về động
từ " (Tiếng Việt 4, tập 1, trang 106). Cũng tương tự vây, giáo viên cần nắm
được và khắc sâu cho học sinh một số kĩ năng xác định danh từ qua các từ kết
hợp đứng trước là từ chỉ số lượng ( một, hai, ba...; vài, dăm, các...), từ kết hợp
đứng sau là từ chỉ trỏ (ấy, đó,...)...v...v..
* Đảm bảo tính đồng tâm, liên kết kiến thức liên tục qua các bài học cùng
hoặc khác phân môn của môn Tiếng Việt.
*Ví dụ: Luyện từ và câu tiết 1 - Tuần 3: Từ đơn và từ phức thì đến tiết 2
tuần 3, bài "Mở rộng vốn từ: Nhân hậu - Đoàn kết", sau khi làm xong bài tập
1: Bài tập tìm từ có chứa tiếng " hiền", chứa tiếng "ác", giáo viên cần cho học
sinh củng cố kiến thức đã học bằng cách thêm câu hỏi ở phần củng cố, mở
rộng:
+ Trong các từ em tìm được ở bài tập 1, từ nào là từ đơn, từ nào là từ
phức?
15
+ Hãy tìm thêm từ đơn chứa tiếng ác? hoặc từ phức chứa tiếng hiền?
Bằng cách đào xới liên tục như vậy, học sinh sẽ nhớ lâu và nhớ có hệ
thống hơn để học tiếp bài sau: "Từ ghép và từ láy" mà không bị bỡ ngỡ.
* Dạy về các mẫu câu và thành phần câu:
Hướng dẫn học sinh nắm chắc bảng ghi nhớ mẫu câu sau:
Tên mẫu câu
Đặc điểm chủ ngữ
Đặc điểm vị ngữ
- Thường là DT chỉ: Người, sự - thường là danh từ, cụm DT
Ai là gì?
vật, sự việc
- Có thể là ĐT, TT..
- Thường là DT chỉ: Người, sự - động từ, cụm động từ chỉ hoạt
Ai làm gì? vật, sự việc
động
- Có thể là ĐT, TT..
- Thường là DT chỉ: Người, sự - Tính từ, cụm tính từ
Ai thế nào? vật, sự việc
- động từ, cụm động từ chỉ trạng
- Có thể là ĐT, TT..
thái
* Trường hợp còn băn khoăn về 2 kiểu câu Ai làm gì? Ai thế nào? thì
giáo viên cần nắm được:
+ Câu Ai làm gì? có vị ngữ phải là động từ chỉ hoạt động và bản thân của
sự vật được nói đến trong câu ( chủ ngữ) phải là chủ thể của hoạt động đó, có
thể hoạt động được.
Khi dạy học sinh các bài tập xác định thành phần câu, giáo viên cần hướng
dẫn xác định tốt chủ ngữ chính, vị ngữ chính, số lượng chủ ngữ, vị ngữ trong
câu, từ câu ngắn đến câu dài, từ đơn giản đến phức tạp trong mối liên hệ của
các câu với nhau để từ đó giúp học sinh hiểu bản chất vấn đề.
*Ví dụ:
Câu
a) Em bé //cười.
Tình huống hướng dẫn học sinh
HS xác định được ngay: Chủ ngữ: Em
b) Em bé //đang toét miệng cười.
bé; Vị ngữ: cười
HS cùng dễ dàng xác định được chủ
ngữ, vị ngữ của câu trên mặc dù khác
câu a. GV nhấn mạnh: các từ làm rõ
nghĩa cho vị ngữ chính "cười" thì cũng
thuộc bộ phận vị ngữ.
16
c) Em bé nằm trong nôi// đang toét Bằng cách suy luận của phần b, HS sẽ
miệng cười.
xác định được Chủ ngữ, vị ngữ của câu
theo phân chia như cột bên.
Cứ tiếp tục thêm dần như vậy rồi thay đổi mẫu câu, giáo viên sẽ dần
hướng dẫn học sinh xác định tốt thành phần câu và ghi nhớ bền vững cách xác
định.Việc xác định tốt thành phần câu còn giúp học sinh xác định tốt mẫu câu
theo cấu tạo.
*Dạy về các biện pháp nghệ thuật:
- Hướng dẫn HS nhận biết 2 biện pháp chính: so sánh, nhân hóa. Đặc
biệt cần lưu ý trường hợp so sánh mà dấu hiệu so sánh là dấu câu ( hai chấm,
gạch ngang) như:
Trường Sơn: chí lớn ông cha
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào.
hoặc chẳng hề có dấu câu nào như kết hợp: Mắt bồ câu; Lông mày lá liễu,...
- HS khá, giỏi: trong các tiết tập đọc, ngoài nhận biết tên gọi còn phát
hiện được tác dụng của biện pháp trong câu văn, câu thơ.
Mặc dù không được giới thiệu trong chương trình học, song giáo viên
cũng nên giới thiệu biện pháp nghệ thuật khác như: điệp từ, điệp ngữ; cách
dùng từ đặt câu, đảo ngữ vì học sinh sẽ được gặp tất cả các biện pháp này cùng
với so sánh, nhân hóa trong các bài tập đọc ở chương trình học cấp tiểu học.
Giải pháp 4.2 và 4.3 cho thấy lượng kiến thức chuyên sâu và kĩ năng
giảng dạy từng mảng kiến thức cần bồi dưỡng tương đối nhiều, đòi hỏi độ
chuẩn xác cao, sát với thực tiễn giảng dạy của giáo viên nên nhà trường cần
quan tâm chỉ đạo xây dựng kế hoạch bồi dưỡng một cách cụ thể, hiệu quả.
Phương án hữu hiệu nhất là:
- Ngay từ cuối năm học trước, chỉ đạo cá nhân giáo viên tự đăng kí nhu
cầu bồi dưỡng nội dung cụ thể kiến thức chuyên sâu hoặc kĩ năng, sau đó Ban
giám hiệu cùng tổ trưởng chuyên môn tập hợp. Dựa trên nhu cầu bồi dưỡng của
số đông, xây dựng phương án bồi dưỡng, đưa vào nội dung bồi dưỡng thường
xuyên hằng năm, xác định nội dung bồi dưỡng theo tổ chuyên môn, nội dung
bồi dưỡng theo khối chuyên môn, cá nhân bồi dưỡng, nội dung bồi dưỡng theo
đơn vị trường; đề xuất Phòng giáo dục tổ chức nội dung liên trường, nếu thấy
17
điều kiện nhà trường không thể đáp ứng.
- Với nội dung khó, đòi hỏi kiến thức chuyên sâu ( mục 4.2) nên tổ chức
bồi dưỡng cấp trường hoặc liên trường. Người bồi dưỡng phải cán bộ nghiệp vụ
có kiến thức chuyên sâu vững vàng hoặc có thể mời giảng viên các trường cao
đẳng, đại học chuyên ngành liên quan trực tiếp bồi dưỡng những vấn đề đại
cương, tài liệu sử dụng bồi dưỡng cũng phải là tài liệu Tiếng Việt đại cương,
nguồn gốc bởi các trường Đại học có danh tiếng trong nước.
- Để bồi dưỡng hiệu quả kĩ năng giảng dạy từng nội dung của phân môn
Luyện từ và câu (mục 4.3) cũng có thể làm theo cách trên, nhưng người bồi
dưỡng chỉ cần sử dụng đội ngũ nghiệp vụ cốt cán của nhà trường, của Phòng
giáo dục, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ sắc sảo, vững vàng, giàu kinh
nghiệm trong giảng dạy.
- Bên cạnh việc tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng cấp trường, liên
trường, giao cho tổ, khối chuyên môn tổ chức các chuyên đề cụ thể làm sáng tỏ
nội dung đã bồi dưỡng qua các bài dạy cụ thể, tình huống cụ thể.
- Phát huy vai trò tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên trong các nội dung,
hoạt động trên.
- Hằng năm, thư viện lấy ý kiến thăm dò của giáo viên để có kế hoạch
đăng ký mua bổ sung các tài liệu cần thiết, hữu ích cho nhu cầu tự học và giảng
dạy của giáo viên.
- Ban giám hiệu, đặc biệt là hiệu phó chuyên môn cần kiểm tra, nắm bắt
kết quả tự bồi dưỡng và bồi dưỡng của giáo viên thông qua dự giờ thăm lớp,
qua các bài viết thu hoạch để có những đánh giá, điều chỉnh kịp thời.
4.4. Chuẩn bị kế hoạch bài dạy cụ thể, khoa học
Để chuẩn bị chu đáo cho kế hoạch bài dạy, mỗi giáo viên cần xác định rõ
ràng Chuẩn kiến thức kĩ năng và yêu cầu cần đạt cho mỗi nội dung đối với từng
bài dạy. Tập trung vào các việc chính sau:
4.4.1. Soạn giáo án lên lớp
Căn cứ Yêu cầu cần đạt ( Tài liệu HD Chuẩn KTKN) để xác định cho
từng bài dạy ( tiết học), GV soạn ngắn gọn thể hiện các yêu cầu sau:
4.4.1.1. Mục tiêu: Xác định và trình bày đảm bảo 3 nội dung: kiến thức, kĩ
năng, thái độ, không chỉ chép nguyên yêu cầu cần đạt.
18
*Ví dụ bài: Cách viết tên người, tên địa lí Việt.Nam ( TV4, tập 1, trang 68):
Yêu cầu cần đạt theo tài liệu
Mục tiêu GV cần xác định
Chuẩn KTKN
- Nắm được quy tắc viết hoa tên - Kiến thức: Nắm được quy tắc viết hoa
người, tên địa lí Việt Nam; biết vậntên người, tên địa lí Việt Nam
dụng quy tắc đã học để viết đúng một- Kĩ năng: Biết vận dụng quy tắc đã học
số tên riêng Việt Nam (BT1,2, mụcđể viết đúng một số tên riêng Việt Nam;
III), tìm và viết đúng 1 vài tên riêng tìm và viết đúng 1 số tên riêng Việt Nam
Việt Nam (BT3). HS khá, giỏi làm- Giáo dục: Ý thức viết đúng chính tả;
được đầy đủ bài tập 3.
bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước,
tự hào về con người Việt Nam anh hùng.
4.4.1.2. Chuẩn bị: Nêu những yêu cầu cần chuẩn bị, ĐDDH của GV, HS
4.4.1.3. Hoạt động dạy học: Xác định nội dung, phương pháp giảng dạy đối với
GV, yêu cầu học với từng đối tượng học sinh.
4.4.2. Tổ chức hoạt động dạy học trên lớp
* Nên thực hiện theo quan điểm chung đó là:
- GV căn cứ vào mục tiêu đã xác định rõ ràng để chia bài dạy thành các
phần nhỏ, xem mỗi phần nhỏ của mục tiêu đó ứng với bài tập nào, phần nào.
- Tìm phương pháp hướng dẫn HS đạt được KTKN của từng phần nhỏ
đó và cứ như vậy sâu chuỗi thành bài học chung, lồng vào đó là GD học sinh
sao cho cuối cùng đạt được mục tiêu bài học, mọi HS nhất định phải đạt Chuẩn.
*Ví dụ: Bài: Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam - TV 4, tập 1, tr 68
* Nội dung các bài tập trong tiết học được trình bày ở SGK như sau:
I- Nhận xét: Hãy nhận xét cách viết những tên riêng sau đây:
a) Tên người: Nguyễn Huệ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai
b) Tên địa lí: Trường Sơn, Sóc Trăng, Vàm Cỏ Tây
II- Ghi nhớ: Khi viết tên người, tên địa lí Việt Nam, cần viết hoa....tên đó.
III- Luyện tập:
1. Viết tên em và địa chỉ gia đình em
2.Viết tên 1 số xã (phường, thị trấn) ở huyện ( quận, thị xã, thành phố) của em
3. Viết tên và tìm trên bản đồ:
Căn cứ vào mục tiêu và nội dung bài như trên, tôi chỉ đạo giáo viên khai
a) Các quận, huyện, thị xã ở tỉnh hoặc thành phố của em.
thác bài dạy theo hướng cơ bản sau:
b) Các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở tỉnh hoặc thành phố của em.
19
Mục tiêu
-
Kiến
Kế hoạch khai
thác bài học
thức: - Sử dụng ngữ liệu
Ví dụ phương pháp
và hình thức tổ chức
- GV có thể tiến hành theo phương
Nắm được quy phần nhận xét.
pháp khác nhau, song cần chọn cách
tắc viết hoa tên
đơn giản nhất, ngắn gọn nhất, giúp
người, tên địa lí
HS dễ nhớ khái niệm nhất.
Việt Nam
*Ví dụ:
+Phần a: HS thảo luận cặp hoặc làm
việc cá nhân rồi nêu nhận xét về cách
viết tên riêng của người.
-GV giới thiệu về các nhân vật lịch
sử được giới thiệu trong phần a và
chốt: Cách viết tên người trong phần
a chính là cách viết chung cho tên
người Việt Nam-> Gọi HS nêu cách
viết tên người Việt Nam-> GV khái
quát ghi nhớ thứ nhất.
+Phần b: Giáo viên giới thiệu tên địa
lí có trong phần b qua bản đồ Việt
Nam, làm cơ sở cho bài tập 3 - phần
luyện tập. Sau đó, hướng dẫn HS tiếp
cận ghi nhớ thứ hai như phương
- Kĩ năng: Biết - Hướng dẫn học
pháp phần a.
- Yêu cầu HS lên bảng viết ví dụ 1 số
vận dụng quy tắc sinh thực hành lấy
tên người, trong đó có tên em và tên
đã học để viết ví dụ và làm bài
địa lí Việt Nam, trong đó có địa chỉ
đúng một số tên tập 1,2,3 phần
gia đình em ( bài tập 1) sau phần
riêng Việt Nam; Luyện tập.
Nhận xét, trước khi rút ra Ghi nhớ.
tìm và viết đúng
- Bài tập 2: Có thể tổ chức thi giữa
1 số tên riêng
các nhóm.
Việt Nam
- Bài tập 3: Hướng dẫn HS làm vào
vở. Khuyến khích HS khá, giỏi làm 2
phần a,b rồi thực hành chỉ địa danh
20
- Giáo dục: Ý - Lồng ghép khi
trên bản đồ.
- Sau hoặc trong các hoạt động học
thức viết đúng thực hiện mục tiêu: tập để rút ra kiến thức, thực hành kĩ
chính
tả;
bồi Kiến thức và Kĩ
năng, giáo viên khéo léo lồng ghép
dưỡng tình yêu năng
giáo dục học sinh bằng câu hỏi hoặc
quê hương, đất
lời nhắc nhở, dặn dò sao cho hợp lí,
nước, yêu con
không nên tách riêng hay cứ phải để
người Việt Nam
vào phần Dặn dò cuối bài.
anh hùng.
Với cách làm như trên, khẳng định rằng, giáo viên sẽ có cách nhìn khái
quát từ việc chuẩn bị ý tưởng bài học đến khâu soạn bài. Học sinh sẽ được giáo
viên hướng dẫn và nắm bài một cách sâu sắc, chắc chắn, đạt được mục tiêu mà
tiết học đặt ra đồng thời vẫn phát huy được năng lực học tập của các em.
4.5. Khai thác kiến thức bài dạy linh hoạt, sáng tạo
Thực tiễn cho thấy, phần lớn giáo viên nhất nhất theo sách giáo khoa,
sách giáo viên nên máy móc hướng dẫn học sinh khai thác lần lượt từng bài,
theo trình tự từ đầu đến cuối. Dẫn đến tính trạng như củng cố khắc sâu kiến
1. Nói
tên đồchéo,
chơi hoặc
tả hiệu
trongquả,
cácmột
bứctrong
tranh.những yêu cầu
thức
bị chồng
trùngtrò
lặp.chơi
Để được
bài dạy
đòi hỏi giáo viên là phải biết tổ chức khai thác bài dạy một cách linh hoạt, sáng
tạo, không phụ thuộc vào khuôn mẫu của sách giáo khoa, sách giáo viên, thể
hiện bằng một số việc làm như: mạnh dạn thay đổi thứ tự hoặc ngữ liệu các bài
tập nếu thấy hợp lí, lồng ghép bài tập này vào bài tập kia, mở rộng khắc sâu
kiến thức liên quan một cách phù hợp mặc dù câu hỏi trong bài không có...
* Ví dụ 1: Bài: Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam - TV4, trang 68
Theo Dự kiến phương pháp và hình thức tổ chức đã nêu ở mục 4.4.2 thì
2. Tìm thêm các từ ngữ chỉ các đồ chơi hoặc trò chơi khác.
bài tập 1, mục Luyện tập đã được lồng ghép trong quá trình học sinh viết ví dụ
3. Trong các đồ chơi, trò chơi kể trên:
tên người, tên địa lí Việt Nam ngay sau khi nắm dấu hiệu qua tìm hiểu ví dụ mà
a) Những trò chơi nào các bạn trai thường ưa thích? Những trò chơi nào các
chưa rút ra ghi nhớ chung. Làm như vậy, học sinh vẫn được khắc sâu kiến thức
bạn gái thường ưa thích? Những trò chơi nào cả bạn trai và bạn gái đều ưa
mà vẫn hoàn thành Chuẩn kiến thức kĩ năng bài yêu cầu. Cũng vì thế, đến phần
thích?tập, giáo viên chỉ việc hướng dẫn học sinh làm tiếp bài 2 và bài 3.
Luyện
b)
Những
chơi
tròvốn
chơitừ:
nào
có ích?
có ích- như
* Ví
dụ 2:đồ
Bài
Mởnào,
rộng
" Đồ
chơiChúng
- Trò chơi"
TV4,thế
tậpnào?
1, TrChơi
147
cácNội
đồ dung
chơi, 4tròbài
chơi
như
thì trình
chúngbày
trởởnên
cógiáo
hại?khoa như sau:
tậpấy
của
tiếtthế
họcnào
được
sách
c) Những đồ chơi, trò chơi nào có hại? Chúng có hại như thế nào?
4. Tìm các từ ngữ miêu tả tình cảm, thái độ của con người khi tham gia
21
các trò chơi.
Mẫu: say mê.
Với nội dung các bài tập như trên, nêu giáo viên dạy theo trình từ từ đầu
đến cuối, tuân thủ theo hệ thống câu hỏi bài thì tiết dạy sẽ rất nhàm chán. Bởi
vậy giáo viên nên linh hoạt và sáng tạo cách làm khác mà vẫn giữ nguyên mục
tiêu bài học.
Dựa trên các bài tập trên, giáo viên có thể tiến hành theo phương án sau:
Bài
Dự kiến phương án thực hiện
1 - Thực hiện như yêu cầu sách giáo khoa nêu
Mở rộng khắc sâu
- HS phân chia: trò chơi
hiện đại, trò chơi dân
2
- Thực hiện kết hợp cùng bài tập 1
- Phần a: GV sử dụng phiếu thăm dò, cho - Liên hệ trò chơi HS
HS tự điền theo suy nghĩ và ý thích về trò thích chơi tại lớp, tại
3
chơi rồi gọi 1 số HS trình bày trước lớp.
- Phần b,c: HS thảo luận nhóm bốn.
trường
+ 1 số HS trả lời câu hỏi sau khi thảo luận
+ HS khá, giỏi gộp phần b,c trình bày dưới
dạng thuyết trình về lợi ích và tác hại của trò
chơi.
- Sử dụng tranh hoặc ảnh chụp các trò chơi - Liên hệ ngày hội trò
trong mùa lễ hội khắp nơi trên đất nước để chơi dân gian được tổ
22
thực hiện yêu cầu bài tập qua tình cảm thái chức hằng năm của nhà
4
độ của người chơi.
trường
- Có thể yêu cầu nhìn tranh đặt câu để miêu - Liên hệ, giáo dục phát
tả tình cảm, thái độ của người chơi, không huy trò chơi dân gian
nhất thiết chỉ tìm từ.
trong nhà trường
4.6. Đổi mới và tổ chức hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên đề tại tổ chuyên
môn.
Để chỉ đạo hiệu quả nội dung sáng kiến, tôi đặc biệt quan tâm chỉ đạo đổi
mới và tổ chức hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên đề tại tổ chuyên môn. Có
nhiều nội dung có thể tổ chức sinh hoạt chuyên đề như:
- Bồi dưỡng giáo viên
- Bồi dưỡng học sinh
- Đổi mới phương pháp dạy học
- Sử dụng đồ dùng dạy học:
- Thực hiện chương trình, kế hoạch dạy học...
Đó là những nội dung thiết thực nhất, bồi dưỡng hiệu quả nhất chuyên
môn nghiệp vụ cho mỗi giáo viên. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên đề
này, giáo viên được đăng kí nội dung bồi dưỡng theo nhu cầu căn cứ vào mặt
thiếu và mặt yếu của mình, từ đó tổ trưởng, khối trưởng tập hợp để lựa chọn
nội dung bồi dưỡng cho tổ, khối chuyên môn. Cũng trong các buổi sinh hoạt
chuyên đề này, tổ trưởng, khối trưởng chỉ đạo tổ chuyên môn thảo luận về
những bài dạy khó, những tình huống khó trong 1 số bài dạy, cùng nhau thống
nhất tìm ra phương án giải quyết tốt nhất, hiệu quả nhất cho mỗi bài dạy hay
mỗi mảng kiến thức. Thảo luận, rút kinh nghiệm được điều này chính là giáo
viên đã làm tốt công tác bồi dưỡng học sinh, công tác đổi mới phương pháp dạy
học, sử dụng hợp lí đồ dùng dạy học, thực hiện chương trình, kế hoạch dạy
học...
Bên cạnh đó, tôi chỉ đạo tổ chuyên môn thực hiện các buổi sinh hoạt
chuyên môn theo nghiên cứu bài học để giáo viên có điều kiện tiếp cận tốt nhất
với phương án chỉ đạo khai thác hiệu quả các bài dạy Luyện từ và câu lớp 4 mà
23
tôi đã trình bày trong sáng kiến này ( Giáo án của chuyên đề nằm trong Phụ
lục 2).
Tóm lại, muốn khai thác hiệu quả bài dạy, cán bộ quản lý phải thực sự
chuyên tâm, có nghiệp vụ và năng lực sư phạm vững vàng, bám sát vào điểm
còn thiếu, còn yếu của giáo viên. Mỗi giáo viên phải tích cực tìm tòi, linh hoạt
và sáng tạo. Có như vậy mới có được những tiết dạy hấp dẫn, ưng ý, gây hứng
thú học tập cho học sinh, đạt mục tiêu đề ra.
5. Kết quả đạt được
Kể từ tháng 10 năm học 2013 - 2014 đến tháng 12 năm học 2014 - 2015,
tôi đã tiến hành nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện các giải pháp trên tại khối 4
trường tiểu học nơi tôi công tác. Các giải pháp mà tôi nêu ra được giáo viên
nhiệt tình ủng hộ và thực hiện, thể hiện trong kế hoạch dạy học hàng tuần của
mỗi người. Bản thân giáo viên cảm thấy thoải mái hơn khi giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu.
Sau một năm thực hiện, dường như giáo viên chỉ còn mắc ở kiến thức
chuyên sâu Tiếng Việt và sẵn sàng trao đổi khi gặp các trường hợp còn băn
khoăn. Cùng với đó, học sinh tham gia các tiết học Luyện từ và câu cũng cảm
thấy nhẹ nhàng hơn, dễ hiểu hơn, hiệu quả bài làm tốt hơn.
Tháng 11 năm học 2014 - 2015, tôi cũng sử dụng đề bài ( đã minh chứng
trong phần phụ lục 1) để khảo sát 2 lớp 4A và 4G. Đây là hai lớp có số lượng
và chất lượng học sinh tương đương như 2 lớp 4A và 4C năm học 2013 - 2014.
Kết quả khảo sát thu được như sau:
Đạt 5 điểm trở lên
Đạt dưới 5
SL
%
SL
%
4A
30
28
93,3
2
6,7
4G
33
33
100
0
0
Kết quả bài làm học sinh đạt được cho thấy số học sinh chưa đạt còn rất
Lớp
Số HS
ít. Lớp 4A chỉ còn 2 em là 2 học sinh nhận thức rất chậm của khối, một trong
hai em là học sinh lưu ban của năm học này. Lớp 4G có kết quả rất đáng mừng:
100% các em đều có kết quả đạt trong đó có 2/3 số học sinh trong lớp đạt điểm
9 trở lên. Kết quả khảo sát trên đã khẳng định rõ hiệu quả của các giải pháp mà
tôi nêu ra là hoàn toàn hợp lí, có tính khả thi cao.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
24
Các giải pháp mà sáng kiến " Chỉ đạo khai thác hiệu quả các bài dạy
phân môn Luyện từ và câu lớp 4" mà tôi đề xuất trình bày không khó thực hiện,
chỉ cần sự tận tâm, của cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn, sự nhiệt huyết
của người thầy không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, luôn tìm tòi sáng
tạo mong muốn đem lại những bài dạy hiệu quả cho thế hệ học trò.
Về nhân lực: Mọi cán bộ quản lý, mọi giáo viên, mọi nhà trường đều có
điều kiện thực hiện các giải pháp mà sáng kiến nêu ra.
Về trang thiết bị, kĩ thuật, phương tiện dạy học: Sáng kiến không đòi hỏi
trang thiết bị kĩ thuật hiện đại, tốn kém. Các nhà trường, cá nhân giáo viên vẫn
sử dụng trang thiết bị sẵn có như: máy chiếu đa năng, máy tính, tranh ảnh, bản
đồ,...để hỗ trợ cho đổi mới phương pháp đối với từng tiết dạy. Sử dụng một
cách linh hoạt, hợp lí, không lạm dụng.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Đổi mới phương pháp, nâng cao hiệu quả giảng dạy là vấn đề được đề
cập từ quá lâu, song thực tiễn cho thấy việc đổi mới hiệu quả lại chưa nhiều.
Tiếng Việt bản thân nó đã là một môn học khó, được ít giáo viên hứng thú đón
nhận. Song với giải pháp của mình, ở cương vị là cán bộ quản lý phụ trách
công tác chuyên môn, tôi đã quyết tâm chỉ đạo với mong muốn thay đổi cách
25