Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

skkn dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong các tiết luyện tập toán 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.81 KB, 48 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH
TRONG CÁC TIẾT LUYỆN TẬP TOÁN 5
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Toán lớp 5.
3. Tác giả:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Hướng

Nam (nữ): Nữ

- Ngày/ tháng/ năm sinh: 15/7/1980
- Trình độ chuyên môn: Đại học
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên- Trường Tiểu học Đồng Lạc.
- Điện thoại: 01684165495
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Đồng Lạc - Thị xã Chí
Linh- Tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203888079
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Đồng Lạc - Thị
xã Chí Linh- Tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203888079
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến có thể áp dụng với tất cả các trường tiểu học trên toàn quốc với
những điều kiện cơ bản tối thiểu về cơ sở vật chất và chuyên môn theo quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 9 năm 2014 sáng kiến
được áp dụng.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN



Nguyễn Thị Hướng

1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Vấn đề đổi mới giáo dục trong đó có giáo dục phổ thông theo Nghị quyết
29 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” được thông qua tại Hội
nghị T.Ư 8 (Khóa XI) đặt ra yêu cầu chuyển biến căn bản và mạnh mẽ về chất
lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở các trường tiểu học Việt
Nam là phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng học sinh, từng lớp học, môn học, bài học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Tuy nhiên, cho đến nay sự chuyển biến về phương pháp dạy học trong
các loại hình nhà trường còn diễn tiến chậm; chủ yếu vẫn là cách dạy truyền
thống: thày thông báo các kiền thức có sẵn, trò thu nhận chúng một cách thụ
động; xen kẽ trong các bài dạy có sử dụng các phương pháp vấn đáp tái hiện
hoặc giải thích- minh hoạ với sự hỗ trợ của đồ dùng trực quan...Nếu cứ tiếp tục
cách dạy và học thụ động như thế, giáo dục sẽ không đáp ứng được yêu cầu đòi
hỏi của xã hội.
Để góp phần đổi mới căn bản toàn diện giáo dục trong đó có đổi mới
phương pháp dạy học thì vấn đề dạy học phát huy tính tích cực của học sinh là
một vấn đề rất quan trọng. Chính vì vậy, tôi đầu tư và viết sáng kiến “Một số
biện pháp dạy học phát huy tích cực chủ động của học sinh trong các tiết
luyện tập toán 5”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.

2.1.Điều kiện áp dụng sáng kiến: Dùng cho giáo viên giảng dạy môn toán
tại trường tiểu học và áp dụng trong giảng dạy đối với học sinh lớp 5.
2.2.Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2014- 2015.
2.3. Đối tượng áp dụng sáng kiến: Giáo viên giảng dạy và học sinh lớp 5
- Lớp 5A gồm 24 học sinh: lớp đối chứng
- Lớp 5B gồm 22 học sinh: lớp thực nghiệm
2


3. Nội dung sáng kiến.
+ Tính mới tính sáng tạo của sáng kiến: Khi chưa áp dụng sáng kiến này
vào giảng dạy tôi thấy các em nắm bài chưa chắc, trong tiết dạy giáo viên còn
bỏ sót đối tượng học sinh, chưa quan tâm hết các đối tượng học sinh, tạo sự
nhàm chán cho các em,....Nhưng khi áp dụng sáng kiến này vào giảng dạy các
tiết luyện tập toán 5 bản thân tôi thấy các em nắm bài rất tốt. Học sinh chủ động
nắm kiến thức được thực hành nhiều hơn. Giáo viên thì xác định được mục tiêu
bài học sát với từng đối tượng học sinh từ đó lựa chọn cho mình một phương
pháp phù hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh chậm hiểu
không còn tự ti, học sinh năng khiếu không nhàm chán trong học tập. Tính tích
cực tự giác trong học tập của học sinh được nâng lên tạo cho học sinh hứng thú
học tập. Giáo viên nói ít, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh….Đó cũng
chính là những điểm mới của sáng kiến này mà tôi đã kiểm nghiệm khi thực
nghiệm.
+ Khả năng áp dụng của sáng kiến: Những biện pháp trong sáng kiến có
thể dễ dàng áp dụng đối với giáo viên và học sinh không chỉ trong tiết luyện tập
toán mà còn có thể áp dụng đối với những bài hình thành kiến thức mới nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh khi học môn toán.
+ Lợi ích thiết thực của sáng kiến: Những biện pháp đưa ra có thể áp
dụng dễ dàng, không tốn kém về kinh tế, không mất nhiều công sức nhưng
mang lại hiệu quả thiết thực trong dạy của giáo viên và học của học sinh. Chất

lượng học sinh nâng lên rõ rệt. Giúp giáo viên tiểu học biết phát huy tích cực,
chủ động sáng tạo của học sinh trong các tiết luyện tập toán lớp 5 nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục nước nhà.
4. Kết quả đạt được của sáng kiến.
Qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào thực tế được 69 tiết, tôi
thấy việc dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh là hết sức
quan trọng, nó quyết định lớn đến chất lượng học tập của học sinh. Trong các
tiết dạy tôi thấy các em ham học toán, mạnh dạn và hăng hái phát biểu, tiếp thu
kiến thức nhanh, nhiều em đầu năm tiếp thu chậm giờ đã có tiến bộ và chất
3


lượng học sinh đại trà được nâng cao. Từ đó khẳng định hiệu quả của các biện
pháp được trình bày trong sáng kiến.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện sáng kiến.
Trong quá trình áp dụng sáng kiến, tôi thấy không phải lúc nào kết quả
dạy và học cũng như mong muốn. Do vậy muốn phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh trong các tiết luyện tập toán 5 có hiệu quả, tôi có đề xuất và
kiến nghị như sau:
- Đối với nhà trường: Cho phép tổ chuyên môn triển khai chuyên đề môn
Toán theo nội dung sáng kiến đến tất cả các lớp.
- Đối với tổ chuyên môn: Triển khai chuyên đề môn Toán theo nội dung
sáng kiến đến tất cả các lớp.
- Đối với giáo viên:
+ Cần nắm vững mục tiêu và nội dung chương trình môn Toán lớp 5.
+ Cần tích cực học tập bồi dưỡng cá nhân nhằm nâng cao các kỹ năng sư
phạm và chuyên môn nghiệp vụ để giúp học sinh học tập phát huy tích cực chủ
động, sáng tạo trong các môn học.
+ Cần vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học,
sáng tạo, say mê nghiên cứu, yêu nghề mến trẻ.


4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI
(Nghị quyết số 29 -NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong nghị quyết đã
nêu rõ “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi
với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội.”
Mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người phát
triển toàn diện, những con người có đủ năng lực cần thiết, đáp ứng sự đòi hỏi
của cuộc sống hiện đại. Việc giáo dục một con người toàn diện không chỉ giáo
dục cho họ có đạo đức tốt, có trình độ hiểu biết, nắm chắc các kiến thức khoa
học và xã hội, có sức khoẻ, biết lao động, sẵn sàng lao động mà còn phải giáo
dục cho họ có năng lực tự lực, tự chủ, chủ động lĩnh hội kiến thức làm chủ hành
động của mình,… đó là một nhiệm vụ không thể thiếu được.
Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu
có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Môn
Toán còn là môn học rất cần thiết để học các môn học khác, nhận thức thế giới
xung quanh để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Môn Toán có khả năng
giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy
luận lôgic, thao tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu
tượng hoá, khái quát hoá, khả năng phân tích tổng hợp, so sánh, dự đoán, chứng
minh.

Thực tế số tiết luyện tập chiếm gần 1/2 tổng số tiết theo phân phối
chương trình Toán 5. Nhiệm vụ của các tiết luyện tập nhằm củng cố kiến thức
đã học vào thực hành luyện tập. Chính vì vậy các tiết luyện tập đóng vai trò rất
quan trọng trong rèn luyện phát triển tư duy, sáng tạo học sinh.
5


Qua nhiều năm dạy lớp 5 tôi thấy khi học các tiết luyện tập các em chưa
có phương pháp tự học, tự phát hiện vấn đề mới, tự tìm cách giải quyết và ứng
dụng theo khả năng của mình; việc tự giác làm bài tập còn hạn chế, mới chỉ chú
ý làm hết số bài mà không biết đến chất lượng bài giải đó ra sao, còn phụ thuộc
vào cách giải của thầy cô đưa ra. Chưa tìm nhiều cách giải để lựa chọn cách
giải hay cho một bài toán. Nề nếp làm bài chưa nghiêm túc, một số học sinh
còn ỉ lại chờ chữa, coi chép.
Xuất phát từ vị trí quan trọng của môn Toán, từ thực tế giảng dạy, qua
quá trình nghiên cứu và vận dụng có kết quả nên tôi đã viết và hoàn thành sáng
kiến “Một số biện pháp dạy học phát huy tích cực chủ động của học sinh
trong các tiết luyện tập toán 5” với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng
dạy học toán nói chung và dạy học các tiết luyện tập toán cho học sinh lớp 5 nói
riêng.
2. Cơ sở lý luận của vấn đề
Bậc tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho
việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Môn toán cũng như những
môn học khác là cung cấp những tri thức khoa học ban đầu, những nhận thức về
thế giới xung quanh nhằm phát triển các năng lực nhận thức, hoạt động tư duy
và bồi dưỡng tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người. Môn toán ở trường tiểu
học là một môn học độc lập, chiếm phần lớn thời gian trong chương trình học
của trẻ.
Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu
có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Môn

Toán còn là môn học rất cần thiết để học các môn học khác, nhận thức thế giới
xung quanh để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Môn Toán có khả năng
giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy
luận logic, thao tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu
tượng hoá, khái quát hoá, khả năng phân tích tổng hợp, so sánh, dự đoán, chứng
minh.
Môn Toán còn góp phần giáo dục lý trí và những đức tính tốt như: trung
6


thực, cần cù, chịu khó, ý thức vượt khó khăn, tìm tòi sáng tạo và nhiều kỹ năng
tính toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt
đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.
Nội dung cơ bản của sáng kiến trình bày những vấn đề trọng tâm về việc
dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiết luyện tập toán 5. Đó
là tổng quan về việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn toán
đặc biệt là trong các tiết toán luyện tập ở lớp 5, những cơ sở lí luận và thực tiễn,
một số biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh góp phần nâng
cao chất lượng dạy học môn toán lớp 5 đặc biệt là các tiết luyện tập. Trong sáng
kiến cũng trình bày một số kết quả cụ thể đã đạt được khi áp dụng sáng kiến
vào thực tế, bài học rút ra trong quá trình nghiên cứu sáng kiến. Nội dung trình
bày cũng nêu rõ phạm vi và điều kiện áp dụng của sáng kiến, những đề xuất,
kiến nghị với các cấp trong việc chỉ đạo cũng như thực hiện công tác dạy học
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Những biện pháp đã nghiên cứu và trình bày trong sáng kiến được đúc
rút từ việc nghiên cứu lí luận với thực tế, kết hợp giữa phương pháp dạy học
truyền thống và phương pháp dạy học mới giúp cho người làm công tác giáo
dục nói chung và người giáo viên trực tiếp giảng dạy nói riêng có biện pháp và
cách thức dạy học nhằm phát huy được tính tích cực, chủ động của người học,
giúp các em học sinh yêu thích học toán hơn. Đặc biệt là kết quả học tập cũng

như chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn trong nhà trường được nâng lên
rõ rệt góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu giáo dục đề ra.
3. Thực trạng của vấn đề
Qua thực tế dạy học nhiều năm giảng dạy đồng thời tham khảo bạn bè
đồng nghiệp và tìm hiểu việc dạy học các tiết luyện tập toán hiện nay, tôi nhận
thấy việc dạy học các tiết học này còn một số vấn đề đáng lưu ý đối với học
sinh và giáo viên:
3.1. Đối với học sinh.
* Điều tra hứng thú học tập và kết quả khảo sát đầu năm.

7



Lớp Số

Mức độ hứng thú học tập
Thích
Bình
Không
SL %
5 20,

thường
SL %
12 50,

Kết quả khảo sát đầu năm
Điểm
Điểm

Điểm
Điểm

thích
9-10
7-8
5-6
dưới 5
SL %
SL % SL % SL % SL %
7 29,2 7 29,2 10 41,7 5 20,8 2
8,3

5A

24

5B

8
0
22 3 13,6 10 45,5 9 40,9 2
Qua kết quả điều tra trên, tôi nhận thấy:

9,0 8

36,4 8

36,4 4


18,2

- Đa số học sinh chưa chú ý đến việc học, các em còn hay nói chuyện,
còn biểu hiện mỏi mệt khi tham gia học tập.
- Một số em cảm thấy chưa hứng thú khi học môn toán do tiếp thu chậm,
kiến thức cơ bản như nhân chia ở lớp dưới nắm chưa chắc.
- Trong cùng một thời gian ngắn phải dạy nhiều đối tượng học sinh nên
chất lượng chưa cao, học sinh được luyện tập ít.
- Khả năng tư duy sáng tạo của các em còn nhiều hạn chế.
- Học sinh chưa có phương pháp tự học, tự phát hiện vấn đề mới, tự tìm
cách giải quyết và ứng dụng theo khả năng của mình: việc tự giác làm bài tập
còn hạn chế, mới chỉ chú ý làm hết số bài mà không biết đến chất lượng bài giải
đó ra sao, còn phụ thuộc vào cách giải của thầy cô đưa ra. Chưa tìm nhiều cách
giải để lựa chọn cách giải hay cho một bài toán. Nề nếp làm bài chưa nghiêm
túc, một số học sinh còn ỉ lại chờ chữa, coi chép. Thế mà theo phân phối
chương trình số tiết luyện tập chiếm gần 1/2 tổng số các tiết học.
- Một số phụ huynh chưa đầu tư cho các em. Các em còn thiếu đồ dùng
học tập, hay quên vở ghi, ...
3.2. Đối với giáo viên.
Trong các tiết dạy và đặc biệt các tiết luyện tập toán tôi thấy giáo viên
vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh chưa
linh hoạt. Cụ thể:
Đối với chương trình môn Toán lớp 5 đặc biệt khi dạy các tiết luyện tập
do trình độ của mỗi giáo viên khác nhau nên một số giáo viên chưa nhận thức
được tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực của học sinh trong các tiêt
8


luyện tập dẫn tới chưa củng cố, khắc sâu, mở rộng kiến thức và rèn kĩ năng cho
học sinh. Biểu hiện là:

- Chưa biết xây dựng giáo án theo hướng tích cực, giáo án sơ sài chưa rõ
hoạt động.
- Vận dụng các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh còn lúng túng, chưa linh hoạt; giáo viên còn nói nhiều, truyền đạt, áp
đặt những kiến thức cần học đối với học sinh, còn vai trò của người học trở nên
thụ động và lu mờ.
- Sử dụng hình thức tổ chức dạy học chưa phong phú, gây nhàm chán cho
học sinh.
- Khi tổ chức dạy học các đồng chí giáo viên chưa thống nhất được cách
tổ chức tiết học theo hình thức dạy phát huy tính tích cực của học sinh, hệ
thống bài tập, câu hỏi đưa ra cho học sinh chưa có tác dụng phát huy khả năng
của học sinh (có khi quá khó hoặc quá dễ).
- Chưa phân loại từng dạng bài khác nhau để có phương pháp giải riêng
cho từng dạng bài.
- Trong giảng dạy chưa quan tâm sát sao tới mọi đối tượng học sinh
trong lớp, câu hỏi đưa ra chưa kích thích mọi đối tượng học sinh học tập; chưa
động viên khuyến khích kịp thời.
- Còn nhiều giáo viên chưa hiểu rõ dụng ý của các bài tập. Họ cho rằng
trong sách giáo khoa Toán chỉ có các bài tập cơ bản phổ cập, chưa có bài tập
rèn tư duy sáng tạo của học sinh tức là giáo viên không chỉ ra được một số
dạng bài tập có thể khai thác nhằm phát triển tư duy sáng tạo của học sinh.
- Việc giao nhiệm vụ học tập vẫn theo hướng đồng loạt, điều này chưa
đạt yêu cầu dạy học theo năng lực sở trường của học sinh. Việc tìm nhiều cách
giải cho một bài tập ở sách giáo khoa hầu như bỏ qua.
- Còn nhiều giáo viên chưa chú ý( nói đúng hơn là chưa thể phát hiện)
để sửa lỗi cho học sinh trong khi các em trình bày bài giải và lập luận lôgic tìm
kiếm các kết quả mà thường chú trọng tới đáp số.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
9



Từ việc điều tra thực trạng dạy và học các tiết luyện tập Toán 5 của giáo
viên và học sinh và qua nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 5, để phát huy tính
tích cực, chủ động nâng cao hiệu quả dạy – học các tiết luyện tập Toán 5 tôi đã
thực hiện những biện pháp sau:
4.1. Nhận thức vai trò của giáo viên và học sinh trong dạy học phát
huy tính tích cực.
Trong dạy học phát huy tính tích cực, người giáo viên không chỉ là người
truyền thụ kiến thức, nguồn thông tin, mà còn là người tổ chức hướng dẫn quá
trình học tập của học sinh.
Quá trình dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, học sinh là chủ
thể, nhân vật trung tâm của quá trình dạy học. Các em không phải là đối tượng
học tập thụ động, chỉ biết nghe thầy giảng mà các em phải được học tập một
cách tích cực bằng chính hành động của mình. Qua hoạt động mà học tập, rèn
luyện và phát triển. Chính vì vậy nhận thức đúng đắn về vai trò của người dạy
và người học có ý nghĩa cực kì quan trọng giúp giáo viên lựa chọn các phương
pháp, biện pháp, kĩ thuật dạy học, cách tác động phù hợp và đạt hiệu quả cao
của quá trình dạy học. Nhận thức vai trò của người học được coi là một trong
những khâu đột phá để thay đổi cách dạy và cách học tự biện không sát đối
tượng, không quan tâm đến sở thích nguyện vọng và không phù hợp với đặc
điểm tâm lí lứa tuổi, hoàn cảnh cụ thể của người học.
4.2. Tạo niềm say mê khám phá kiến thức
Muốn phát huy tích cực, tự giác, độc lập của học sinh cần phải biết tạo
niềm say mê học tập cho các em. Ngoài mục đích truyền thụ tri thức cho
người học, các tiết lên lớp cần phải có phương pháp giảng dạy phù hợp, sinh
động. Đây là điều bất cứ giáo viên nào cũng hiểu, tuy nhiên để tạo không khí
sinh động và lôi cuốn học sinh thì không hề đơn giản. Để làm được điều đó
người giáo viên không chỉ làm chủ kiến thức trong lĩnh vực dạy học của mình
mà cần phải có phương pháp sư phạm thích hợp để phát huy tích cực chủ động
của học sinh. Trước hêt giáo viên cần có tay nghề vững vàng, phải biết yêu

nghề, mến trẻ, phải có năng lực sư phạm gồm: năng lực khoa học; hiểu học
10


sinh; ngôn ngữ diễn đạt; cách tổ chức, trình bày bài giảng; óc tưởng tượng sư
phạm....
4.3. Tìm hiểu và nắm vững nội dung chương trình các tiết Luyện tập
Toán ở lớp 5
Trong chương trình toán 5 qua điều tra tôi thấy các tiết luyện tập gồm có
85 tiết trong 5 chương.
- Chương 1: Ôn tập và bổ sung về phân số, giải toán có liên quan đến tỉ
lệ. Bảng đơn vị đo diện tích gồm 14 / 30 tiết
- Chương 2: Số thập phân và các phép tính với số thập phân gồm 27 /51
tiết
- Chương 3: Hình học gồm 19/36 tiết
- Chương 4: Số đo thời gian. Toán chuyển động đều gồm 9/17 tiết
- Chương 5: Ôn tập 16/35 tiết
Như vậy số tiết luyện tập chiếm gần 1/2 tổng số tiết theo phân phối
chương trình Toán 5.
4.4. Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh.
Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh là việc làm rất quan trọng, bởi
lẽ khi phân loại được học sinh của lớp, giáo viên sẽ xây dựng kế hoạch dạy học
phù hợp. Qua nhiều kênh thông tin như: thể hiện năng lực học tập của học sinh,
qua biểu hiện năng lực và phẩm chất, qua giáo viên chủ nhiệm cũ hay qua gia
đình; đặc biệt qua là khảo sát đầu năm giáo viên có thể phân loại trình độ học
toán của học sinh.
Sau khi đã tiến hành phân loại đối tượng học sinh ta tiến hành đi tìm hiểu
tình hình của từng nhóm( nhóm học sinh năng khiếu, nhóm học sinh chậm hiểu,
…). Trong các nhóm học sinh đó, giáo viên cần quan tâm đến đối tượng học
sinh tiếp thu chậm. Nguyên nhân của tiếp thu chậm có nhiều như: Sự phát triển

trí tuệ chậm, kiến thức không vững chắc, thái độ học tập không đúng, hoàn
cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn... Người giáo viên phải tìm được nguyên
nhân chủ yếu đối với từng học sinh để có biện pháp thích hợp giải quyết dần
tình trạng yếu kém.
11


Một số giáo viên không quan tâm đến tình trạng lớp có nhiều trình độ
khác nhau nên tổ chức giờ dạy không đạt kết quả. Cách giải quyết tốt nhất là
coi lớp đang dạy như một “lớp ghép” và vận dụng cách dạy của lớp ghép để
phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp.
Công việc của giáo viên dạy “lớp ghép” khó khăn, phức tạp hơn nhiều so
với giáo viên dạy lớp đơn. Từ công việc soạn bài, giảng dạy, quản lí học sinh,
kiểm tra đánh giá học sinh...đều phải chuẩn bị chi tiết, khoa học.
Giáo viên cần điều chỉnh tốc độ giảng dạy để học sinh tiếp thu chậm có
thể theo kịp không nên chỉ chú ý đến học sinh năng khiếu để bài trôi chảy, sinh
động. Nhưng cũng không vì chú ý đến số học sinh tiếp thu chậm mà hạ thấp giờ
học khiến học sinh chán nản. Để mọi học sinh trong lớp đều hứng thú, tự tin
trong giờ học, giáo viên cần đưa ra những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau để học
sinh tự chọn. Trong khi học sinh thực hiện, giáo viên theo dõi, kiểm tra từng cá
nhân, từng nhóm. Sau đó đánh giá nhận xét kết quả theo yêu cầu đã đặt ra. Tổ
chức cho tiết dạy làm thế nào để học sinh tự học, tự làm việc một cách tự
giác và đầy hứng thú. Giáo viên cho những bài tập phù hợp với trình độ học
sinh để các em năng khiếu phát huy được khả năng tư duy, các em tiếp thu
chậm tự tin. Giáo viên cần thường xuyên ôn tập và hệ thống hoá kiến thức, kĩ
năng, nhất là đối với học sinh tiếp thu chậm và các em này chưa thực sự nắm
được bản chất và mối liên hệ giữa các hiện tượng, hay ghi nhớ một cách máy
móc.
Đối với học sinh năng khiếu, trong chừng mực nhất định, giáo viên mở
rộng kiến thức đã học để học sinh thấy được sự phát triển của kiến thức, nâng

cao tầm hiểu biết của các em. Tuy nhiên không nên nâng cao, mở rộng kiến
thức một cách tuỳ tiện mà phải có trọng tâm.
Người giáo viên phải nắm vững những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của
từng bài. Khi dạy giáo viên phải biết nên dạy cái gì trong bài đó và nó liên quan
đến bài trước bài sau như thế nào. Phải gắn kiến thức đang dạy với chuỗi kiến
thức của toàn chương trình bậc học, chương trình của lớp mình phụ trách. Như

12


thế, giáo viên mới có kế hoạch cụ thể hướng dẫn học sinh ôn lại kiến thức cũ và
tiếp nối chương trình mới một cách khoa học. Tuỳ từng đối tượng học sinh mỗi
lớp, giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu bài.
4.5. Xây dựng nề nếp học tập cho học sinh
Như trên đã nói học sinh là nhân vật trung tâm và chủ thể của quá trình
dạy học. Do đó học sinh chỉ có thể học tập đạt kết quả cao khi và chỉ khi học
sinh chủ động quan tâm và hứng thú vào hoạt động học tập, muốn vậy giáo
viên phải xây dựng cho học sinh một nề nếp, ý thức học tập tốt như:
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, dụng cụ học tập như: SGK, vở ghi, vở nháp,
vở bài tập, thước kẻ, com pa, ê-ke…
- Ý thức học tập phải nghiêm túc, tự giác, có thói quen tự học, chuẩn bị
bài chu đáo ở nhà. Chuẩn bị bài chu đáo ở nhà một cách tự giác, kĩ lưỡng sẽ
giúp học sinh tiếp thu bài một cách tự tin thoải mái, các em có khả năng tham
gia trả lời, không bị động, lúng túng…do đó hứng thú học tập của học sinh
được nâng cao hơn; trước những tình huống có vấn đề được đặt ra ở lớp học
sinh sẽ biết cách lí giải với các phưong án khác nhau, có thể đó là phương án
khác của giáo viên…
- Rèn cho học sinh biết kết hợp các động tác: nghe, nhìn, nghĩ, nói, ghi
( đây là một yếu điểm lớn nhất của học sinh tiểu học).
Muốn làm được điều đó, giáo viên cần:

+ Xây dựng nội quy lớp học.
+ Vận dụng mô hình trường tiểu học mới VNEN: xây dựng Hội đồng tự
quản trong lớp học để học sinh giúp giáo viên đôn đốc mọi nề nếp theo quy
định.
+ Giáo viên cần đôn đốc, kiểm tra thường xuyên nhằm tạo cho học sinh
có thói quen và tự giác thực hiện.
4.6. Chuẩn bị bài dạy trước khi lên lớp.
4.6.1. Thiết kế bài học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh.

13


Theo mục tiêu của giáo dục hiện nay là dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ
năng và dạy phát huy tính tích cực chủ động học sinh để làm được việc này thì
ngay từ bước thiết kế giáo án, giáo viên đã phải chú ý đến điều đó. Khi dạy
theo hướng phát huy tích cực của học sinh cần nghiên cứu nội dung chương
trình để có hệ thống chuỗi kiến thức, xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức
mới và kiến thức cũ, giữa kiến thức của môn này vối phân môn khác để lựa
chọn nội dung cho phù hợp; xác định đúng mục đích yêu cầu của tiết dạy.
Việc thiết kế bài học cần thực hiện theo các bước sau:
* Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ
năng và yêu cầu thái độ của tiết học.
* Bước 2: Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để:
+ Hiểu chính xác, đầy đủ nội dung của bài.
+ Xác định những kiến thức kĩ năng, thái độ cơ bản cần hình thành và
phát triển ở học sinh.
+ Xác định trình tự lô gic của bài học.
* Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ nhận thức của học sinh.
+ Xác định những kiến thức học sinh cần có và đã có.

+ Dự kiến những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và phương
án giải quyết.
* Bước 4: Lựa chọn phương pháp dạy học, hình thức tổ chức, phương
tiện dạy học và cách đánh giá thích hợp nhằm giúp học sinh học tập tích cực,
chủ động sáng tạo và phát triển năng lực tự học.
* Bước 5: Xây dựng kế hoạch bài học.
=> Một số lưu ý khi thiết kế bài dạy:
- Bài soạn cần thể hiện rõ phương pháp phát huy tính tích cực, nội dung
phân hoá đối tượng học sinh và hình thức tổ chức dạy học trong từng hoạt
động.
- Chuẩn bị đồ dùng và xây dựng các hoạt động dạy học, chuẩn bị câu hỏi
gợi ý, dẫn dắt, dự kiến các tình huống sư phạm và tiến trình thời gian phù hợp
với từng đối tượng học sinh.
14


- Giáo viên cần đầu tư nghiên cứu bài soạn để phân hóa đối tượng trong
từng hoạt động dạy và học, chốt kiến tức sau mỗi hoạt động; lựa chọn phương
pháp, hình thức và đồ dùng dạy học cho phù hợp, hiệu quả.
- Linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học: Hỏi đáp (Học
sinh tiếp thu chậm câu hỏi dễ, đơn giản; học sinh năng khiếu câu hỏi khó, khái
quát hơn), thảo luận nhóm, luyện tập thực hành, trò chơi,.... tạo hứng thú cho
các em học tập.
Đặc biệt để phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh thì
trong giáo án phải thiết kế, xây dựng bài tập phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Từ thực tiễn của lớp mình giảng dạy, khi soạn giáo giáo viên phải dự kiến
các câu hỏi và bài tập, các tình huống, các yêu cầu ở từng mức độ khác nhau
cho từng phần. Muốn vậy trước tiên giáo viên phải nắm chắc, yêu cầu, kĩ năng
cơ bản của từng bài. Cụ thể là:
a. Cần phân loại bài tập để có phương pháp giải từng loại bài tập đó.

b. Phải xác định được bài tập nào yêu cầu mọi đối tượng học sinh cần
phải và bắt buộc phải làm để đảm bảo yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức kĩ
năng của tiết học để từ đó có phương pháp dạy phù hợp.
=> Lưu ý:
- Học sinh tiếp thu chậm yêu cầu nắm được các kiến thức, kĩ năng cơ bản
của môn học theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Học sinh năng khiếu ngoài những
yêu cầu kiến thức, kĩ năng cơ bản cần phải đạt được những yêu cầu cao hơn.
Chính vì vậy trong một bài toán có thể giảm bớt yêu cầu cho HS tiếp thu chậm
hoặc có thể thêm yêu cầu đối với học sinh năng khiếu.
* Ví dụ : Dạy bài toán “Luyện tập chung ” (SGK toán 5 trang 31.)
- Mục tiêu đặt ra cho từng đối tượng học sinh như sau:
+ Học sinh tiếp thu chậm: Phải biết vận dụng công thức tính diện tích
diện tích hình vuông, hình chữ nhật để giải bài toán có liên quan đến diện tích.
-> học sinh làm bài 1, bài 2a.
+ Học sinh năng khiếu: Phải biết vận dụng công thức tính diện tích diện
tích hình vuông, hình chữ nhật để giải bài toán có liên quan đến diện tích ở bài
15


2a. Biết kết hợp với dạng toán quan hệ tỉ lệ để hoàn thành bài 2b. Học sinh phải
biết chia hình phức tạp thành các hình đã học để tính diện tích ở bài 4.
- Nếu còn thời gian có thể cho học sinh tự hoàn thành bài 3.
* Ví dụ : Dạy bài toán “Luyện tập chung” ( SGK toán 5 trang 43).
- Mục tiêu đặt ra cho từng đối tượng học sinh như sau:
+ Học sinh năng khiếu: Phải biết đọc, viết, so sánh số thập phân. Biết
tính nhanh bằng cách thuận tiện nhất -> học sinh làm cả 4 bài tập .
- Học sinh tiếp thu chậm: Phải biết đọc, viết, so sánh số thập phân ->
học sinh làm bài tập 1,2,3.
( Học sinh chưa đạt thì chỉ cần đảm bảo 2 mục tiêu: đọc, viết số thập phân.)
Ví dụ : Dạy bài toán “Luyện tập ” (SGK toán 5 trang 110).

- Mục tiêu đặt ra cho từng đối tượng học sinh như sau:
+ Học sinh tiếp thu chậm: Phải biết vận dụng công thức tính diện tích
xung quanh và diện tích toàn phần vào giải bài toán đơn giản( Bài 1,2)
+ Học sinh năng khiếu: Ngoài bài tập phải hoàn thành ( Bài 1,2) -> học
sinh làm cả bài 3.
c. Xác định được bài tập nào học sinh hay mắc sai lầm.
- Bài toán có lời văn liên quan đến tính diện tích, chu vi, thể tích các
hình đã học.
* Ví dụ: Bài 3 ( SGK trang 30): Một khu đất hình chữ nhật có chiều dài
200m, chiều rộng bằng

3
chiều dài. Hỏi khu đất bằng bao nhiêu mét vuông?
4

Bằng bao nhiêu héc-ta?
 Học sinh thường mắc sai lầm:
+ Tìm được kết quả đúng nhưng câu trả lời của một số em chưa chính xác:
+ Đáp số thiếu( chỉ ghi đáp số dưới dạng mét vuông chứ không ghi cả đáp
số héc-ta hoặc ngược lại.

16


Bài giải của học sinh

Bài giải đúng

Chiều rộng hình chữ nhật là:


Chiều rộng của khu đất là:

24 x

3
= 150 (m)
4

24 x

3
= 150 (m)
4

Diện tích hình chữ nhật là:

Diện tích khu đất là:

200 x 150 = 30000(m2)

200 x 150 = 30000(m2)

30000 m2 = 3ha

30000 m2 = 3ha

Đáp số: 30000m2
Đáp số: 30000m2; 3ha
- Bài toán có liên quan đến thời gian, thời điểm.
Một số em chưa hiểu rõ khái niệm thời gian, thời điểm nên khi làm bài

tập còn lúng túng.
*Ví dụ: Bài 3 (SGK trang 146): Một xe máy đi từ A lúc 8 giờ 37 phút
với vận tốc 36 km/ giờ. Đến 11 giờ 7 phút một ô tô cũng đi từ A đuổi theo xe
máy với vận tốc 54 km/ giờ. Hỏi ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ?
- Bài tập liên quan đến đổi đơn vị đo.
Một số học sinh không chú ý đến việc đổi các số đo về cùng một đơn vị
đo trước khi tính nên dẫn tới tìm kết quả sai.
* Ví dụ : Bài 1 (SGK toán 5 trang 31): Để lát nền một căn phong hình
chữ nhật, người ta dùng loại gạch men hình vuông có cạnh 30cm. Hỏi cần bao
nhiêu viên gạch để lát kín căn phòng đó, biết rằng căn phòng có chiều rộng 6m,
chiều dài 9m ?( Diện tích phần mạch vữa không đáng kể).
* Ví dụ: Bài 2 (SGK trang 110): Một cái thùng không nắp dạng hình hộp
chữ nhật có chiều dài 1,5m, chiều rộng 0,6m và chiều cao 8dm. Người ta quét
sơn mặt ngoài của thùng. Hỏi diện tích quét sơn là bao nhiêu mét vuông?
d. Xác định được bài tập dành riêng cho học sinh năng khiếu
* Ví dụ: Tiết 99: Luyện tập( SGK trang 94)
- Bài 3b: dành riêng cho học sinh năng khiếu
* Ví dụ: Tiết 116: Luyện tập chung (SGK trang 123)
- Bài 3: chỉ dành riêng cho học sinh năng khiếu
* Ví dụ: Bài 4 ( SGK trang 77): Một vườn cây ăn quả có 1200 cây. Hãy
tính nhẩm 5%, 10%, 20%, 25% số cây trong vườn.
17


e. Xác định được bài tập nào phát hiện học sinh có tư duy phát triển.
(Thường là các bài tập có nhiều cách giải hay bài tập đòi hỏi tính tư duy cao)
* Ví dụ: Bài 1c ( Trang 68) Tính:

167: 25 : 4


Với yêu cầu đó: Học sinh bình thường giải như sau:
167: 5: 4 = 6,68:4 = 1,67
Học sinh có tư duy phát triển giải như sau:
167 : 25 : 4 = 167 : ( 25 x 4 ) = 167 : 100 = 1,67
g. Bài tập nào cần phải mở rộng để bồi dưỡng HS năng khiếu
*Ví dụ:
- Bài 1.b. ( SGK trang 28): Viết các số đo sau dưới dạng số đo là
đề- xi- mét vuông.
4dm2 65cm2 ;

95cm2 ;

102dm28cm2

+ GV có thể mở rộng thêm bài tập: 2dam2400dm2 = ...........m2
- Bài 1 (Trang 70). Tính rồi so sánh kết quả tính:
a. 5 : 0,5 và 5 x 2

b. 3 : 0,2 và 3 x 5

52 : 0,5 và 52 x 2

18 : 0,25 và 18 x4

Sau khi giải quyết xong yêu cầu của bài tập ( tính giá trị của các biểu
thức, so sánh kết quả tính và rút ra quy tắc nhẩm khi chia cho 0,5; 0,2 và 0,25).
Giáo viên nên đưa thêm bài tập:
* Ví dụ: Tính nhanh. 76,3 x 96 + 76,3 : 0,25
Học sinh năng khiếu sẽ vận dụng quy tắc trên để tính nhanh như sau :
76,3 x 96 + 76,3 : 0,25 = 76,3 x 96 + 76,3 x 4

= 76,3 x( 94 + 4)
= 76,3 x 100
= 7630
- Bài 2: ( GSK trang 94): Một thửa ruộng hình thang có đáy lớn 102m,
đáy bé bằng 2/3 đáy lớn. Đáy bé dài hơn chiều cao 5m. Trung bình cứ 100m 2
thu hoạch được 64,5kg thóc. Tính số ki- lô- gam thóc thu hoạch được trên thửa
ruộng đó.

18


+ Kiến thức cần đạt: Tính được đáy bé, chiều cao, diện tích thửa ruộng
hình thang và số thóc thu hoạch được.
+ HS năng khiếu: Biết diễn đạt bài toán bằng nhiều cách khác nhau.
VD 1: Một thửa ruộng hình thang có đáy lớn 102m, đáy bé bằng 2/3 đáy
lớn. Chiều cao hơn đáy bé 5m. Trung bình cứ 100m 2 thu hoạch được 64,5kg
thóc. Tính số ki- lô- gam thóc thu hoạch được trên thửa ruộng đó.
VD 2: Một thửa ruộng hình thang có đáy lớn 102m, đáy bé bằng 85%
đáy lớn. Chiều cao bằng 2/3 đáy bé. Trung bình cứ 100m 2 thu hoạch được
64,5kg thóc. Tính số ki- lô- gam thóc thu hoạch được trên thửa ruộng đó.
+ Mở rộng yêu cầu: Tính số tạ thóc, tấn thóc thu hoạch được hoặc số tiền
thu được,…
VD: Một thửa ruộng hình thang có đáy lớn 102m, đáy bé bằng 2/3 đáy
lớn. Đáy bé dài hơn chiều cao 5m. Trung bình cứ 100m 2 thu hoạch được 64,5kg
thóc. Giá mỗi ki-lô-gam thóc giá 9500 đồng. Tính số tiền thóc thu hoạch được
trên thửa ruộng đó.
Với việc đưa thêm bài tập như vậy giáo viên đã bồi dưỡng học sinh năng
khiếu ngay trong tiết học một cách tự nhiên và hiệu quả.
h. Dự kiến thời gian cho mỗi bài tập khi dạy trên lớp để phân bố thời
gian hợp lí giữa các bài trong tiết dạy.

Việc giáo viên dự kiến thời gian cho mỗi bài tập trong tiết dạy sẽ góp
phần nhỏ vào dạy học phát huy tích cực của học sinh. Giáo viên cần phân bố
thời gian cho mỗi bài tập một cách hợp lí. Nếu bài tập dễ như vận dụng trực
tiếp công thức, quy tắc để giải thì nên cho ít hơn; còn nếu bài tập khó đòi hỏi
học sinh phải tư duy, suy luận thì cần lượng thời gian nhiều hơn.
Từ việc phân loại bài tập và xác định mục đích của từng bài, giáo viên sẽ
lựa chọn được phương pháp - hình thức tổ chức tổ chức day học phù hợp nhằm
phát huy tích cực của học sinh.
4.6.2. Chuẩn bị chu đáo đồ dùng học tập cho tiết dạy
Chuẩn bị đồ dùng học tập tốt sẽ tạo cho tiết học sinh động. Đồ dùng trong

19


tiết luyện tập phần lớn là phiếu bài tập, vở, bảng con, bảng nhóm, bảng phụ của
giáo viên…
Để đồ dùng dạy học được đầy đủ, giáo viên cũng như học sinh cần chuẩn
bị trước tránh tình trạng học sinh đến lớp thiếu vở, bút, …ảnh hưởng đến việc
học tập. Nếu đồ dung trong tiết dạy chuẩn bị không chu đáo sẽ làm ảnh hưởng
đến tiết học không gây tính tích cực cho học sinh.
4.7. Giảng dạy trên lớp
Trong quá trình dạy học hoạt động của thầy và trò luôn diễn ra song
song, hỗ trợ cho nhau. Trong đó, hoạt động của thầy giữ vai trò chủ đạo, là
người tổ chức các hoạt động cho học sinh chủ động tham gia một cách tích
cực. Có thể nói, giờ học trên lớp( hoạt động học tập tích cực của học sinh) là
yếu tố quyết định kết quả giáo dục. Căn cứ vào mục tiêu được xác định theo
chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học linh hoạt,
phù hợp với từng đối tượng học sinh, đảm bảo tất cả học sinh được nắm tất cả
các yếu tố cơ bản nhất về kiến thức, kĩ năng bài học. Giáo viên dựa vào tình
hình thực tế của lớp mình đầu tư thời gian thích hợp để chủ động trong mọi tiết

học, linh hoạt, sáng tạo để phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết dạy
toán nói chung và tiết luyện tập toán nói riêng. Trong quá trình dạy học giáo
viên cần chú tới dạy phân hóa các đối tượng học sinh khác nhau để học sinh
năng khiếu không cảm thấy tẻ nhạt, các em được phát huy năng lực học tập của
mình. Và học sinh tiếp thu chậm không bị đứng bên lề mỗi tiết dạy, các em
được bồi dưỡng, rèn luyện để vươn tới sàn kiến thức kĩ năng cơ bản tối
thiểu cần đạt được. Do đó giáo viên cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
4.7.1. Sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt nhằm
phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh.
* Một số phương pháp dạy học tích cực là:
+ Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm .
+ Phương pháp trò chơi.
+ Phương pháp đàm thoại
+ Phương pháp trực quan.
20


+ Phương pháp luyện tập thực hành.
- Cần sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với từng dạng bài tập.
- Mỗi một phương pháp dạy học đều có những ưu – nhược điểm riêng,
không có một phương pháp nào là vạn năng. Vì vậy việc phối hợp một cách
khéo léo và hợp lí các phương pháp dạy học khác nhau sẽ góp phần làm cho
giờ học trở nên sinh động, nhiều màu sắc, phát huy tính chủ động, sáng tạo,
tích cực từ phía học sinh.
4.7.2. Tổ chức các hình thức dạy học phù hợp và phong phú nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động học tập của học sinh
- Khi dạy các tiết luyện tập toán 5, nếu hình thức dạy học đơn điệu,
nghèo nàn, học sinh sẽ rất ngại học, chán học. Vì vậy, bên cạnh việc phân loại
đối tượng học sinh và sử dụng phương pháp dạy học linh hoạt thì giáo viên cần
làm phong phú hình thức tổ chức dạy học giúp học sinh chống chán, tạo nhu

cầu học cho học sinh và để phát huy tốt vai trò chủ động sáng tạo, ý thức tự
học, tự rèn luyện của học sinh. Chẳng hạn, giáo viên có thể đan xen giữa hình
thức học cá nhân, học nhóm, học cả lớp; có thể thay đổi các bài tập trong SGK
thành bài tập trắc nghiệm, tự luận, câu đố xen kẽ việc chuẩn bị đồ dùng học tập
như bảng con, phiếu bài tập, vở…song cần lưu ý dưới hình thức nào cũng phải
đảm bảo:
+ Không ảnh hưởng tới thời lượng tiết dạy.
+ Tạo niềm tin, ổn định tâm thế, nhu cầu học cho học sinh.
- Đối với bài tập đơn giản mang tính chất luyện tập, giáo viên nên cho
học sinh hoạt động cá nhân để mỗi học sinh đều được luyện tập.
- Đối với bài tập khó, trừu tượng, đòi hỏi sự tư duy cao…giáo viên nên
cho học sinh hoạt động nhóm để các em có thể trao đổi, thảo luận với nhau. Do
đó những ý kiến riêng của mỗi người sẽ được hoàn chỉnh hơn trong sự giúp đỡ
của bạn bè. Nhiều khi ngôn ngữ của học sinh gần gũi nhau sẽ dễ hiểu với nhau
hơn, nên việc tiếp thu bài dễ dàng hơn vì “ Học thày không tày học bạn”. Bên
cạnh đó việc hoạt động nhóm còn rèn cho học sinh kĩ năng sử dụng ngôn ngữ
trong cách trình bày, trao đổi và diễn đạt tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin
21


hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp.
- Những ý kiến của các nhóm sẽ được đưa ra trao đổi, thảo luận rộng rãi
hơn để tìm ra những kết luận hợp lí nhất…Giáo viên nên tổ chức cho học sinh
hoạt động cả lớp. Tại thời điểm này người giáo viên sẽ thể hiện vai trò “Trọng
tài khoa học” giúp các em phân biệt đúng sai, hợp lí hoặc chưa hợp lí, nên làm
theo hay không nên, làm theo cách này hay cách kia…
Việc tổ chức các hình thức dạy học hợp lí sẽ làm cho không gian học cởi
mở hơn, phát triển ở học sinh những kĩ năng quan trọng như: làm việc theo
nhóm, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng trình diễn, kĩ năng trình bày…
4.7.3. Quy trình trong tiết dạy luyện tập toán 5 nhằm phát huy tính

tích cực, chủ động của học sinh.
1. Ổn định tổ chức (1-2 phút)
1. Giới thiệu bài (1-2 phút)
2. Nội dung luyện tập ( 25-30 phút)
* Hoạt động 1: Ôn kiến thức cũ (5-7 phút)
- GV tổ chức cho học sinh ôn kiến thức cũ ( KTBC)
* Hoạt động 2: Hoàn thành các bài tập củng cố kiến thức ( 10- 15
phút)
- Hệ thống bài tập trong SGK được sắp xếp từ dễ đến khó: Giáo viên cần
theo dõi và giúp đỡ các đối tượng học sinh theo cá nhân, nhóm, tổ...Có thể tổ
chức phong trào đôi bạn cùng tiến để phát huy khả năng của các em học sinh
năng khiếu trong việc giúp bạn học tập.
- Khi giảng dạy mỗi tiết luyện tập toán 5, giáo viên cần đặc biệt lưu ý
chốt kiến thức kĩ năng cho học sinh trong mỗi bài tập( Có thể câu hỏi gợi mở,
ôn tập lại kiến thức trước khi làm bài tập hoặc chốt kiến thức sau khi làm xong
mỗi bài tập).
*Hoạt động 4: Củng cố kiến thức (5 phút)
- Nêu kiến thức cần nhớ( hoặc tổ chức trò chơi để củng cố kiến thức).
- Nhận xét giờ, giao nhiệm vụ.

22


* Lưu ý: Giáo viên cần nắm quy trình chung để dạy mỗi bài tập trong tiết
luyện tập toán 5. Cụ thể là:
+ Bước 1: Đọc, xác định yêu cầu bài.
+ Bước 2: Học sinh làm bài tập( cá nhân, nhóm )
+ Bước 3: Đánh giá, nhận xét và chữa bài.
+ Bước 4: - Chốt kiến thức, kĩ năng cần củng cố qua nội dung bài tập đó.
- Nâng cao hoặc mở rộng kiến thức với học sinh năng

khiếu( nếu có).
4.7.4. Sử dụng câu hỏi phù hợp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh
Trong quá trình dạy học, việc đặt câu hỏi để dẫn dắt, gợi mở nội dung
bài, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Chính vì vậy, giáo viên cần có kỹ
năng đặt câu hỏi dẫn dắt học sinh khám phá thông tin, nội dung và kiến thức
của bài học và hình thành kiến thức mới. Kỹ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức
độ tham gia của học sinh càng nhiều.
* Một số dạng câu hỏi thường được dùng trong dạy học là:
- Câu hỏi biết:
+ Nhằm kiểm tra trí nhớ của học sinh về dữ kiện, số liệu, các định nghĩa,
quy tắc, khái niệm…
+ Giúp học sinh ôn lại kiến thức đã biết, đã trải qua và những kiến thức
mới biết.
+ Cụm từ thường dùng khi hỏi: Ai…?, cái gì…?, Ở đâu…? Thế nào….?,
Khi nào..?, Hãy định nghĩa…?, Hãy mô tả…?, Hãy kể lại…?
- Câu hỏi hiểu:
+ Nhằm kiêm tra cách liên hệ, cách kết nối các dữ kiện, các đặc điểm khi
tiếp nhận thông tin.
+ Giúp học sinh có khả năng nêu được các yếu tố cơ bản trong bài học.
+ Cụm từ thường dùng khi hỏi: Hãy so sánh…?, Hãy giải thích…?, Hãy
liên hệ…? Vì sao….?
- Câu hỏi áp dụng:
23


+ Nhằm kiểm tra khả năng áp dụng những thông tin đã thu được( các dữ
kiện, các đặc điểm…) vào tình huống.
+ Giúp học sinh biết được nội dung kiến thức, các khái niệm.
+ Biết cách lựa chọn nhiều phương pháp để giải quyết vấn đề trong cuộc

sống, giúp học sinh vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống.
+ Cụm từ thường dùng: Tính, thực hiện, vẽ, mô tả hãy áp dụng.
Cách đặt câu hỏi của giáo viên phải giúp học sinh phát triển tư duy, buộc
học sinh phải suy nghĩ trước khi đưa ra câu trả lời. Ngoài ra giáo viên phải quan
tâm chú ý đến đối tượng được hỏi hướng tới cá nhân học sinh, tính tích cực
trong dạy học. Vì vậy, khi đặt câu hỏi cần chú ý đến một số kĩ thuật sau:
- Câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, dễ trả lời và âm lượng đủ nghe.
- Câu hỏi phải kích thích suy nghĩ của học sinh.
- Câu hỏi phải phù hợp với mục tiêu bài học.
- Đặt câu hỏi phải xem xét học sinh có trả lời được không.
- Dừng lại sau khi đặt câu hỏi để tạo điều kiện cho học sinh đưa ra câu
trả lời tốt hơn, hoàn chỉnh hơn.
- Nếu HS không trả lời được thì có thể đặt câu hỏi khác khác đơn giản
hơn mà vẫn đảm bảo yêu cầu bài học.
- Cần tránh hệ thống câu hỏi đế.
- Câu hỏi nên phù hợp với từng đối tượng học sinh và để nhiều học sinh
trả lời nhằm tích cực hóa các đối tượng trong giờ học.
- Nên sử dụng cử chỉ, ánh mắt để khuyến khích học sinh trả lời.
- Nên khen ngợi, khuyến khích hay ghi nhận những câu trả lời đúng của
học sinh.
- Tránh làm cho học sinh ngại ngùng khi trả lời.
- Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
- Phải thay đổi nội dung câu hỏi.
- Khi đặt câu hỏi cần phối hợp ngôn ngữ, hình thể, cử chỉ để khuyến
khích học sinh trả lời.
- Cần bám sát mục tiêu kiến thức kĩ năng cần đạt của bài học và khả năng
24


của người học mà người dạy sử dụng thời lượng câu hỏi nhiều hay ít, mức độ dễ

hay khó.
Những câu hỏi hay cũng như cách đặt câu hỏi hợp lí, thú vị sẽ kích thích
các em tích cực tham gia xây dựng bài. Việc học sinh tích cực trong các hoạt
động học luôn mang lại những giá trị cho giờ lên lớp, góp phần không nhỏ vào
thành công của mỗi giờ học.
4.7.5. Sử dụng đồ dùng trực quan một cách hợp lí.
Đồ dùng dạy học toán có vai trò đặc biệt quan trọng trong đổi mới
phương pháp dạy học toán ở tiểu học, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí cũng
như nhận thức của trẻ. Việc đưa đồ dùng đến từng đối tượng học sinh tạo môi
trường tốt để thực hiện phương pháp học tập mới.
Đồ dùng trực quan đối với học sinh tiểu học đặc biệt quan trọng vì nó
giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh nhận
thức sâu hơn nội dung bài học, hình thành tốt kĩ năng, kĩ xảo. Song việc lựa
chọn các thiết bị dạy học phải tuỳ thuộc vào mục tiêu, nội dung, phương pháp
dạy học đồng thời cần đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm.
Khi sử dụng phương tiện trực quan, giáo viên phải đảm bảo 3 nguyên tắc:
- Đúng mục đích
- Đúng yêu cầu.
- Đúng quy trình.
Sử dụng đồ dùng cần chú ý:
- Chú ý làm sao cho tất cả học sinh trong lớp đều có thể quan sát, cảm
nhận đồ dùng trực quan như nhau. Tránh trường hợp chỉ những học sinh ở bàn
trên, hoặc những học sinh ở gần giáo viên mới biết đến phương tiện trực quan,
còn những học sinh khác cảm nhận nó như ảo ảnh.
- Khi sử dụng đồ dùng giáo viên cần trả lời được câu hỏi:
+ Đồ dùng này cung cấp cho học sinh kiến thức nào?
+ Cần đưa đồ dùng lúc nào cho hợp lí ?
4.7.6. Tạo và xử lí tốt các tình huống trong tiết dạy.
Để tạo và xử lí tốt các tình huống trong tiết học giáo viên cần nắm đặc
25



×