Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn rèn chữ viết cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.79 KB, 27 trang )

PHẦN 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:

Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt
3. Tác giả: Nguyễn Thị Hà

Nam (nữ): Nữ

Ngày tháng/ năm sinh: 07/08/1976
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm
Tổ trưởng tổ 1, trường tiểu học Bắc An
Điện thoại: 0968647906
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Bắc An - Thị xã Chí LinhTỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203887034
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Bắc An - Thị xã Chí
Linh- Tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203887034
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên lớp 1 trường tiểu học Bắc An.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: năm học 2013-2014

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Hà


1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Lý do chọn viết sáng kiến này xuất phát từ thực trạng của việc dạy học môn
Tiếng Việt lớp 1 đặc biệt là các tiết Tập viết. Đó là chữ viết của học sinh hiện
nay còn xấu và thiếu chính xác. Các em còn viết sai, viết quá chậm hay có
những học sinh viết tốt, nhanh, làm tính giỏi nhưng viết quá xấu, trình bày
không sạch sẽ, rõ ràng thì không thể trở thành một học sinh giỏi toàn diện
được. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học Tiếng Việt nói riêng
và các môn học khác nói chung.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
2.1: Cơ sở vật chất đầy đủ, phòng học khang trang, đủ ánh sáng và các
phương tiện đồ dùng dạy học môn Tập viết.
2.2.Thời gian: 35 tuần học/ năm
2.2. Đối tượng: Giáo viên và học sinh lớp 1.
3. Nội dung sáng kiến
Trong đề tài này tôi đã đưa ra các kết quả đối chứng trước - sau khi áp
dụng đề tài và các biện pháp khi dạy tập viết như: điều kiện về cơ sở vật chất;
sử dụng các đồ dùng trực quan khi dạy học Tập viết; tư thế ngồi và cách cầm
bút; rèn kỹ năng viết cho học sinh. Các em học sinh sẽ từng bước làm quen và
có kĩ năng viết đúng, viết đẹp, tạo cho các em sự thích thú và chủ động tích
cực học tập ở phân môn Tập viết.
Sáng kiến của tôi trình bày về việc rèn kĩ năng viết đúng, viết đẹp cho
học sinh lớp 1 trong môn Tiếng Việt. Trong sáng kiến này tôi đã nêu rõ tổng
quan về việc dạy học nâng cao hiệu quả phân môn Tập Viết cho học sinh
trong môn Tiếng Việt lớp 1.
4. Giá trị, kết quả của sáng kiến.
Đề xuất được một số biện pháp về rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 nhằm
giúp học sinh viết đúng mẫu chữ, viết đẹp và viết nhanh hơn. Từ đó học sinh

sẽ có điều kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học được tốt hơn .

2


PHẦN 2:
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1 Dựa vào nghị quyết số 29 - NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện về giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
1.2. Dựa vào mục tiêu giáo dục tiểu học:
Giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản
Hình thành và phát triển những cơ sở nền tảng nhân cách con người
Sản phẩm của GDTH có giá trị cơ bản, lâu dài, có tính quyết định đối
với cuộc đời mỗi con người
Bất kì ai cũng phải sử dụng các kĩ năng nghe, nói, đọc viết và tính toán
được học ở tiểu học để sống để làm việc
Trường tiểu học là nơi đầu tiên dạy trẻ em biết yêu gia đình, quê
hương, đất nước và con người, biết đọc, biết viết biết làm tính, biết tìm hiểu
tự nhiên, xã hội và con người.
1.3 Thực hiện việc đổi mới theo thông tư 30.
Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến
khích tính tích cực và vượt khó trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp
học sinh phát huy tất cả khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan.
Đánh giá toàn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến
thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục

tiêu giáo dục tiểu học.
Kết hợp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, trong đó
đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất.
Đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học
sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh
3


1.4 Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt. Việc
rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh, nhất là học sinh lớp 1 lại càng quan
trọng hơn. Vậy nên, tôi rất muốn giảng dạy phân môn Tập viết thật tốt để học
sinh viết đẹp hơn, sạch hơn và cẩn thận hơn. Đó cũng là nhằm nâng cao chất
lượng dạy- học ở Tiểu học nói chung và dạy – học phân môn Tập viết ở lớp 1
trường tôi nói riêng.
Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của
nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn
luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như với thầy
cô và bạn đọc bài vở của mình...”
Qua đề tài: Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học, tôi
muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tập viết để
tìm ra phương pháp giúp giáo viên rèn luyện cho học sinh lớp 1 viết đẹp hơn,
đặc biệt là viết chữ hoa tốt hơn.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1 Trên cơ sở lí luận dạy học
Như chúng ta đã biết mơ ước lớn nhất của trẻ em là được đến trường,
được học đọc, học viết. Biết đọc, biết viết là cả một thế giới mở ra trước mắt
các em. Bởi vậy mục tiêu giáo dục học sinh trong nhà trường Tiểu học hiện
nay là giáo dục học sinh một cách toàn diện, hình thành và phát triển cho học
sinh những tri thức và kĩ năng cơ bản thiết thực với cuộc sống cộng đồng,
phương pháp suy nghĩ và học tập, lòng tự tin, tính hồn nhiên, sự năng động và

linh hoạt, cách ứng sử đúng mức, hợp đạo lý với tự nhiên, con người và xã
hội, tăng cường sức khoẻ và thường xuyên rèn luyện thân thể, có đầy đủ phẩm
chất, ý chí và ước mơ đem sức mình làm cho cuộc sống bản thân, gia đình,
đất nước trở nên giàu có, lành mạnh, hạnh phúc, đáp ứng được những nhu cầu
phù hợp với yêu cầu của xã hội trong thời đại mới. Do đó chúng ta phải dạy
cho học sinh đầy đủ các môn học theo phương pháp đổi mới đã được quy
định trong trường Tiểu học. Song môn Tiếng Việt là một trong những môn
học chiếm nhiều thời lượng nhất trong chương trình nó bao gồm các phân
4


môn như: Học vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện ….Trong đó phân
môn Tập viết được coi là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc
biệt nhất là đối với học sinh lớp Một. Học vần, Tập đọc giúp các em đọc
thông, Tập viết giúp các em viết thạo. Đọc thông, viết thạo có quan hệ mật
thiết với nhau cũng như dạy Tập viết, Học vần, Tập đọc không thể tách rời
nhau. Viết đúng mẫu chữ rõ ràng và nhanh học sinh sẽ có điều kiện ghi chép bài
học của tất cả các môn học được tốt hơn .
Tập viết là một phân môn có tính chất thực hành. Trong chương trình
không có tiết học lý thuyết, chỉ có các tiết rèn luyện kĩ năng. Tính chất thực
hành có mục đích của việc dạy học Tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí
quan trọng của phân môn này ở trường Tiểu học.
Ngoài ra Tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học
sinh có những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tỉ mỉ, tinh thần kỉ luật
và óc thẩm mĩ. Bởi vậy mà người xưa thường dùng thành ngữ: '' Văn hay, chữ
tốt '' để khen những học trò giỏi và câu: " Văn dai như chão, chữ vuông như
hòm" để chê những học trò yếu, kém. Rõ ràng từ xa xưa chữ viết đã được coi
trọng chẳng kém gì nội dung văn chương. Chữ viết đẹp, dễ xem gây được
thiện cảm cho người đọc. Chữ viết phần nào cũng phản ánh ý thức rèn luyện,
óc thẩm mĩ và tính nết của người viết. Để khẳng định tầm quan trọng của chữ

viết cố vấn Phạm Văn Đồng có nói trong: "Dạy nét chữ -nết người " ( Báo
Tiền phong số 1760, ngày 18 - 1 - 1968 ) như sau: " Chữ viết cũng là một
biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là
góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng
như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình".
Như vậy việc rèn chữ viết góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh,
tạo điều kiện cho học sinh học tốt các môn học khác. Trong chương trình
luyện viết chữ ở phân môn Tập viết cho học sinh Tiểu học được dạy ở các
lớp 1, 2, 3 và thường xuyên thực hành ở các môn học khác trong suốt những
năm học ở Tiểu học.
5


Vì vậy Tiểu học chính là bậc học nền tảng, dạy các em biết đọc, biết
viết chính là chúng ta đã trao cho các em chìa khoá để mở ra những cánh cửa
bước vào tương lai, chính chúng ta đã trang bị cho các em những công cụ để
các em mang theo và vận dụng nó suốt cả cuộc đời. Bởi vậy, khi học, học
sinh phải có kỹ năng viết chữ rõ ràng, đặc biệt là kỹ năng nối liền chữ cái
trong một chữ, viết đúng chính tả, tốc độ viết nhanh dần và chữ viết tương đối
đẹp . Song song với việc học âm, vần và tập đọc các em được luyện chữ viết
dưới hai hình thức chủ yếu là: Luyện viết chữ trong các tiết học âm, vần và
luyện viết chữ theo kỹ thuật ( vở Tập viết ). Chính vì vậy mà việc rèn chữ viết
cho học sinh lớp Một là việc làm thật sự cần thiết và rất quan trọng đối với
mỗi người giáo viên trực tiếp giảng dạy nó đòi hỏi tính kiên trì, lòng say mê
nghề nghiệp và sự công phu của người thầy. Đặc biệt là người thầy trực tiềp
giảng dạy lớp Một ở trường Tiểu học.
2.2.Trên Cơ sở thực tiễn.
Như chúng ta đã biết tình trạng chung của học sinh các trường trong
toàn thị xã nói chung khi học xong Tiểu học vẫn còn nhiều học sinh viết chữ
xấu, ẩu thả, sai lỗi chính tả, chữ viết không đúng cỡ, đúng mẫu, thừa nét,

thiếu nét, viết không đúng dòng kẻ, không bám dòng, khoảng cách giữa các
nét trong một chữ và giữa các chữ với chữ chưa đúng qui định. Điều đó ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng học Tiếng Việt nói riêng và học các môn
khoa học khác nói chung. Tất cả những vấn đề vừa nói ở trên cũng do rất
nhiều nguyên nhân: Một phần do tính cẩu thả của học sinh khi viết, một phần
là do thiếu sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm chưa cải tiến phương pháp
giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Là một giáo viên trực
tiếp giảng dạy và chủ nhiệm lớp 1 đã nhiều năm. Với tình hình thực tế và kết
quả thi vở sạch chữ đẹp của lớp trong những năm qua, khiến tôi vẫn trăn trở,
day dứt làm thế nào để nâng chất lượng chữ viết của học sinh lên cao nữa?
Chính vì vậy mà tôi đã suy nghĩ, nghiên cứu và đưa ra sáng kiến “ Rèn chữ
viết cho học sinh lớp Một ”.

6


3. Thực trạng về việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 ở phân môn Tập
viết.
Tập viết thuộc giai đoạn đầu của kĩ năng viết. Vì vậy trọng tâm của
việc dạy Tập viết là dạy viết chữ cái và liên kết các chữ cái để ghi tiếng. Vì
thế, ở lớp 1 ( giai đoạn cuối ) song song với việc rèn viết chữ hoa, học sinh
còn được rèn viết văn bản. Từ việc giới hạn nhiệm vụ của việc dạy tập viết ở
Tiểu học có nhiệm vụ quan trọng và cụ thể là: Dạy học sinh những khái niệm
cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ, toạ độ viết chữ, tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ
cái, vị trí dấu thanh...đến các khái niệm liên kết nét chữ hoặc liên kết chữ
cái ...Từ đó hình thành cho các em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự
cân đối, tính thẩm mĩ. Mặt khác, dạy Tập viết còn dạy học sinh xác định được
khoảng cách, vị trí, cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành cho trẻ kĩ năng viết
đúng mẫu, đúng cỡ và đẩy nhanh dần tốc độ viết, tiến tới viết đẹp. Ngoài ra,
tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở, cách trình bày bài viết ... cũng là một kĩ

năng đặc thù của việc dạy Tập viết mà giáo viên cần thường xuyên quan tâm
đến học sinh .
Chương trình tập viết lớp 1 yêu cầu học sinh tập viết đúng tư thế, hợp
vệ sinh. Viết các chữ cái cỡ vừa và nhỏ; tập ghi dấu thanh đúng vị trí; làm
quen với chữ hoa cỡ lớn và cỡ vừa theo mẫu chữ quy định.
3.1 Khảo sát thực trạng về kĩ năng viết của học sinh lớp 1 vào đầu năm
học 2013-2014.
Lớp 1D do tôi chủ nhiệm và dạy thực nghiệm
Lớp 1B là lớp đối chứng :
Kết quả điều tra, khảo sát cụ thể
Lớp

Sĩ số

1D

23

Chữ loại A
SL
%
10
43.5

Chữ loại B
SL
%
13
56.5
7


Chữ loại C
SL
%
0
0


1B

23

10

43.5

12

52.2

1

4.3

3.2 Nguyên nhân
Qua thực trạng điều tra, khảo sát học sinh lớp 1D nói riêng và học sinh
lớp 1B của trường tôi đa số các em viết chưa đúng mẫu chữ; kĩ thuật viết chữ
chưa chính xác, ánh sáng phòng học chưa đủ nên các em chưa xác định rõ
điểm đặt bút, điểm kết thúc chữ trên dòng kẻ, chưa có mẫu chữ to rõ nét từng
nét chữ nên nét chữ rộng hơn quy định ô ly , độ cao chữ cái không đảm bảo

vượt quá ly, chữ viết không đều, nét nối chữ viết chưa chính xác, tốc độ viết
chữ chậm; nhìn chung chữ viết rất xấu…
4. Các giải pháp thực hiện
Trước thực trạng trên, là một giáo viên chủ nhiệm với trách nhiệm nghề
nghiệp, tôi đã nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp nhằm khắc phục những
hạn chế đó để giúp các em viết đúng, đều, đúng kĩ thuật và đẹp.
4.1. Những điều kiện về cơ sở vật chất:
4.1.1 Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế của học sinh:
Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức
khoẻ của học sinh. Hiện nay hầu hết các trường Tiểu học ở thị xã đều đảm
bảo các yêu cầu cơ bản, nhất là đối với trường tôi – trường đã đạt danh hiệu
chuẩn quốc gia giai đoạn 1 từ nhiều năm nay. Ánh sáng đủ tiêu chuẩn học
đường, có bảng chống loá, có dòng kẻ rõ ràng, bàn ghế đúng kích cỡ tiêu
chuẩn.
4.1.2 Đồ dùng học tập của học sinh:
Từ loại bút thích hợp đến cách chọn vở, chọn bảng và phấn viết cũng
được tôi lưu tâm đến. Hướng dẫn học sinh, cha mẹ học sinh tìm mua cho các
em những quyển vở có đường kẻ tin đều, rõ ràng. Được sự ủng hộ từ phía nhà
trường, có vở của nhà trường được sản xuất với chất lượng cao, giấy không bị
thấm mực. Đối với vở tập viết có nhãn vở, có tờ lót tay khi viết để thấm mồ
hôi ở tay ra giấy trong mùa hè, mùa thu.

8


Thực tế dạy viết hiện nay cho thấy sử dụng bảng con trong việc rèn chữ
cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1 vẫn là tối ưu nhất. Có nhiều học sinh
được bố mẹ mua cho bảng làm chất liệu mêca màu trắng, dùng bút dạ viết
bảng. Dùng loại bảng và bút này có nhiều hạn chế: bảng trơn, học sinh viết
không chủ động, mực ra đậm nhạt không đều, khi xoá dễ gây bẩn, mất vệ

sinh. Hơn nữa, do bút to quá cỡ tay cầm bút của học sinh khiến các em khó
điều khiển ngòi bút khi viết chữ.
Cho nên trong buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đưa ra những quyển
vở, bút chì, bút mực để phụ huynh tham khảo. Riêng bảng con thì tôi thống
nhất toàn lớp để tránh tình trạng của em này thì có ô to, bảng của em kia thì
có ô nhỏ sẽ gây khó khăn khi dạy Tập viết.
4.2. Sử dụng các đồ dùng trực quan khi dạy học Tập viết:
4.2.1 Những đồ dùng dạy Tập viết hiện nay:
Trong luyện viết cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng không
nhỏ, nó hỗ trợ và là phương tiện giúp cho việc luyện viết của học sinh. Những
đồ dùng này nhằm mục đích là giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về
chữ viết, có ý thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn chấn trong
quá trình dạy viết chữ theo hướng “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đồ dùng
trực quan có thể sử dụng trong quá trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố
bài học.
* Mẫu chữ trong khung chữ phóng to theo bảng mẫu chữ hiện hành treo
trên lớp. Bảng mẫu chữ cần cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ
động sử dụng khi cần thiết không chỉ trong giờ Tập viết mà ngay trong cả
những môn học khác khi có học sinh viết chưa đúng mẫu chữ.
* Bộ mẫu chữ in theo quy định cho giáo viên.
4.2.2 Đồ dùng tự làm đạt hiệu quả trong việc dạy - học Tập viết:
Để việc dạy Tập viết có hiệu quả, giáo viên có thể nghiên cứu tự làm
các loại đồ dùng trực quan rất hữu ích cho việc dạy học Tập viết như: chữ
mẫu phần từ ứng dụng để học sinh nhìn rõ cách viết, điểm đặt bút từ đâu đến
đâu để viết cho liền mạch và giúp cho thao tác của giáo viên được nhanh hơn.
9


Hay loại đồ dùng tự làm cũng rất tiện lợi cho các loại bảng con có đính
nam châm ở sau để viết trực tiếp lên bảng cho học sinh lên viết để học sinh

ngồi dưới dễ dàng nhận xét.
4.2.2.1 Đồ dùng lật từng trang hiện ra từng nét (dùng để phân tích chữ
mẫu):
* Mục đích sử dụng của đồ dùng: Giúp học sinh nắm rõ cấu tạo, kích thước
của con chữ:
- Cấu tạo gồm những nét nào?
- Kích thước cao, rộng bao nhiêu ô?
* Cách làm đồ dùng:
- Giấy bìa cứng khổ A4 (1 tờ).
- Các tờ nhựa trong khổ A4 (số lượng tuỳ thuộc vào số nét chữ trong con
chữ).
- Giấy đề can màu đỏ để cắt từng nét chữ rồi dàn lên từng tờ nhựa trong.
- Một đến hai gáy xoắn bằng nhựa mềm để đóng các tờ nhựa trong lại.
- Màu dạ để kẻ ô vuông lên tờ bìa cứng.
* Cách sử dụng: Dùng trong phần giảng bài mới: Viết chữ hoa, chữ thường:
- Giáo viên dùng que chỉ chỉ vào từng nét chữ trên trang nhựa cứng.
- Giáo viên nói đến nét nào thì lật từng nét ấy lên để minh họa cho học sinh
nhìn rõ.
- Giáo viên giới thiệu xong nét nào, yêu cầu học sinh nhắc lại tên nét chữ ấy
và giáo viên chốt lại bằng câu hỏi: “Để hoàn thành một con chữ thì các con
cần viết mấy nét và đó là những nét nào?”
* Tác dụng của đồ dùng:
- Giúp giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách rõ ràng, dễ hiểu,
sinh động, hấp dẫn.
- Giúp học sinh nắm rõ cấu tạo, kích thước của con chữ cần viết.
- Giáo viên cũng có thể dùng đồ dùng này hướng dẫn học sinh cách viết một
con chữ hoàn chỉnh.

10



Ví dụ: Trong bài Tập viết Tuần 13“Nhà trường, buôn làng, hiền lành” (lớp 1),
khi hướng dẫn học sinh viết từ “buôn làng”, giáo viên dùng que chỉ và đưa ra
hệ thống câu hỏi:
+ (?) Các con nhìn lên bảng và cho cô biết đây là từ gì? (buôn làng)
+ (?) Từ buôn làng gồm mấy chữ ?
+ (?) Nêu độ cao của từng con chữ ?
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh viết nét chữ, nối từng con chữ, khoảng
cách giữa các con chữ với nhau, khoảng cách giữa các chữ trong một từ
với nhau.
4.2.2.2 Đồ dùng viết hoàn chỉnh một chữ cái bằng cách di chuyển nam
châm (dùng để hướng dẫn các nét tạo thành con chữ):
* Mục đích sử dụng của đồ dùng: Giúp học sinh điều chỉnh 1 chữ cái đúng
yêu cầu từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc.
* Cách làm đồ dùng:
- Một tờ bìa cứng khổ A4 có in sẵn mẫu chữ hoa hoặc thường theo đúng quy
định.
- Hai viên nam châm tròn, một viên có dán giấy màu đỏ ở trên, một viên để
nguyên.
* Cách sử dụng đồ dùng:
Giáo viên dùng thao tác viết ở phía sau tờ bìa bằng cách di chuyển viên
nam châm không có giấy màu đỏ. Di chuyển viên nam châm đúng theo quy
trình viết một con chữ từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc nét bút để viên nam
châm có dán giấy màu đỏ phía trước đúng khi giáo viên viết một con chữ cái.
Ví dụ: Hướng dẫn bài Tập tô “Chữ A, Ă, ”
Giáo viên giảng: Từ điểm đặt bút ở đường kẻ ngang thứ 3, viết nét móc
ngược (trái) từ dưới lên, nghiêng về bên trái và lượn ở phía trên, dừng bút ở
đường kẻ 6. Từ điểm dừng bút của nét 1, chuyển hướng bút viết nét móc
ngược phải, dừng bút ở đường kẻ ngang 2, (vừa nói, giáo viên vừa di chuyển
viên nam châm ở phía sau tờ bìa).

11


(?) Đến đây, cô đã viết xong chữ A chưa?
Giáo viên giảng tiếp: Cô đưa bút lên khoảng giữa của thân chữ (trên
đường kẻ ngang thứ 3 một chút), viết nét lượn ngang mềm mại chia đôi con
chữ.
* Tác dụng của đồ dùng:
- Giúp học sinh biết cách viết liền nét từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc nét
bút mà không nhấc bút.
- Giúp học sinh hình dung rõ quy trình viết hoàn chỉnh một con chữ mà
không hề bị tay hay người của giáo viên trong quá trình viết che khuất.
- Đồ dùng sinh động với sự di chuyển chấm đỏ trên chữ mẫu rất thu hút sự
chú ý của học sinh.
4.3. Tư thế ngồi và cách cầm bút:
Để giúp các em viết được những nét chữ, đúng mẫu, đẹp tôi đã hướng
dẫn cả lớp tư thế ngồi viết: “Con phải ngồi tư thế ngay ngắn, lưng thẳng,
không được tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách trang giấy khoảng
25- 30 cm”. Tư thế ngồi viết không ngay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ
viết. Ngồi nghiêng vẹo sẽ kéo theo chữ viết không thẳng, bị lệch dòng. Không
những thế còn có hại cho sức khoẻ: sẽ bị cận nếu cúi sát vở, vẹo cột sống, gù
lưng, phổi bị ảnh hưởng... nếu ngồi viết không ngay ngắn. Trước mỗi giờ viết
bài, đặc biệt là giờ học Tập viết, tôi thường yêu cầu các em nhắc lại tư thế
ngồi viết. Ví dụ như câu hỏi: “Muốn viết đẹp con phải ngồi thế nào?”. Dần
dần, các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư thế.
Một việc hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp là cách cầm bút
và cách đặt vở trên bàn. Điều này các em được tôi hướng dẫn kỹ càng: “Khi
viết, các con cần cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của
bàn tay phải, đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, phía bên phải của đầu bút tựa vào
đầu đốt giữa ngón tay giữa, …”. Tôi cũng lưu ý các em cầm bút vừa phải. Vì

nếu cầm bút sát ngòi hoặc quá xa ngòi bút thì việc điều khiển bút khi viết sẽ
12


khó khăn, làm cho chữ xấu mà mực dễ bị ra tay, ra vở. Còn vở viết khi viết
bài, tôi cũng luôn hỏi lại học sinh cầm bút và cách đặt vở. Những yếu tố
tưởng chừng không quan trọng nhưng thực chất đã góp phần tích cực vào việc
rèn chữ cho học sinh.
4.4. Rèn kỹ năng viết cho học sinh:
4.4.1 Xác định dòng kẻ trong vở Tập viết
Khi dạy Tập viết cho học sinh cần yêu cầu học sinh nắm vững được vị
trí các đường kẻ trong vở Tập viết. Năm học 2009 - 2010 theo yêu cầu của
giáo viên trực tiếp giảng dạy Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành vở Tập viết
lớp 1 có dòng kẻ ô li để học sinh dễ viết và viết đúng kĩ thuật hơn. Nhưng
giáo viên phải cho học sinh nắm chắc đâu là đường kẻ ngang, đâu là đường kẻ
dọc, đâu là đường kẻ ngang trên, đâu là đường kẻ ngang dưới.
4.4.2. Kĩ thuật quan trọng để thực hiện viết chữ đúng mẫu như:
* Xác định điểm đặt bút:
Điểm đặt bút là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt
bút có thể nằm trên đường kẻ ngang hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
Ví dụ: Điểm đặt bút nằm trên đường kẻ ngang thứ hai bao gồm tất cả
các nét xiên như khi viết các chữ: b, h, i, k, l, p, t, u, ư, y.
Điểm đặt bút nằm trên đường kẻ ngang thứ nhất là khi ta viết các chữ:
s, r.
Điểm đặt bút không nằm trên đường kẻ ngang bao gồm tất cả các nét
tròn như khi ta viết các chữ: a, ă, â, o, ô, ơ, d, đ, g. Điểm đặt bút của các chữ
này bao giờ cũng nằm thấp hơn so với đường kẻ ngang thứ ba về phía bên
phải của chữ. Còn khi viết chữ v, x thì điểm đặt bút cũng nằm thấp hơn so với
đường kẻ thứ ba nhưng lại ở bên trái của chữ. Riêng chữ e, ê thì điểm đặt bút lại
nằm trong dòng kẻ thứ nhất.

* Xác định điểm dừng bút:

13


Điểm dừng bút là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm
dừng bút có thể nằm trên đường kẻ ngang hoặc không nằm trên đường kẻ
ngang.
Ví dụ: Điểm dừng bút nằm trên đường kẻ ngang thứ hai bao gồm các
chữ cái có các nét móc ngược như khi viết các chữ: a, ă, â, d, đ, h, i, k, l, m,
n, p, r, t, u, ư. Riêng hai chữ cái g, y có nét khuyết ngược nhưng điểm dừng
bút cũng nằm trên đường kẻ ngang thứ hai.
Điểm dừng bút không nằm trên đường kẻ mà nằm giữa dòng kẻ thứ
nhất như chữ c, e, ê, x, s. Có chữ điểm dừng bút lại dừng giữa dòng kẻ thứ
hai như chữ b, v.
Có những chữ cái điểm dùng bút lại trùng với điểm đặt bút như các chữ o,
ô, ơ.
* Kĩ thuật viết liền mạch:
Viết liền mạch là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét
đứng trước với điểm bắt đầu của nét đứng sau.
Ví dụ: Khi viết từ a nối sang n => an ; từ i nối sang m => im;
từ x nối sang i => xi.
* Kĩ thuật lia bút.
Kĩ thuật lia bút là khi viết các nét của chữ cái không thể hiện được liền
mạch, liên tục như khi viết các chữ cái d, đ hoặc từ chữ cái này sang chữ cái
kia.
Ví dụ: Khi viết l nối với o, a => lo, la....; h nối với o, a => ho, ha ....; b
nối với o, a => bo, ba...; n nối với o, a .... => no, na ; ......
* Kĩ thuật rê bút:
Kĩ thuật rê bút là khi viết từ điểm kết thúc của nét đứng trước không

được nhấc bút mà phải di ngòi bút chạy ngược lại nét đã viết rồi mới thực
hiện viết nét thứ hai. Như khi viết các chữ: h, k. n, m. p.
8.4.3. Yêu cầu học sinh nắm vững tên gọi của các nét cơ bản
14


Ngay từ bài học đầu tiên học sinh đã được học các nét cơ bản. Tất cả
các nét cơ bản tôi chia thành bốn nhóm như sau:
- Nhóm 1: Các nét sổ: Nét sổ thẳng:

|

Nét gạch ngang:
Nét xiên trái:
Nét xiên phải:
- Nhóm 2: Các nét móc: Nét móc xuôi:
Nét móc ngược:
Nét móc hai đầu:
Nét móc hai đầu thắt giữa:
Nét gút :
- Nhóm 3: Các nét cong : Nét cong trái:
Nét cong phải:
Nét cong tròn khép kín:

o

-Nhóm 4: Các nét khuyết: Nét khuyết xuôi :
Nét khuyết ngược:
Trong những bài học đầu tiên học sinh cần nắm chắc và viết thành thạo
các nét cơ bản. Để học sinh dễ nhớ và dễ viết xét cấu tạo nét chữ, hình dáng

các chữ tôi cũng chia theo nhóm như sau:
* Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét móc gồm: i, t, u, ư, p, m, n.
* Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét cong gồm: c, o, ô, ơ, e, ê, x.
* Nhóm các nét cong phối hợp với các nét móc hoặc các nét thẳng
gồm: a, ă, â, d, đ, q.
* Nhóm các nét khuyết phối hợp với các nét móc gồm: l, h, k, b, y, g
, ...
* Nhóm các nét móc phối hợp với các nét gút gồm: r, v, s.

15


Tất cả cách sắp xếp các nhóm chữ như trên tôi đều bám sát theo các bài
học mà học sinh được luyện tập trong vở Tập viết. Từ đó khi học đến chữ cái
nào tôi cho học sinh phân tích xem chữ cái đó gồm những nét cơ bản nào tạo
thành.
Ví dụ : Khi dạy viết chữ: d, đ. Tôi cho học sinh phân tích chữ d gồm
hai nét cơ bản là nét tròn và nét móc ngược tạo thành. Đến chữ đ tôi cho học
sinh so sánh xem chữ d và chữ đ giống và khác nhau ở nét nào? Từ đó học
sinh rút ra được chữ d và chữ đ giống nhau ở nét tròn và nét móc ngược. Chữ
đ khác chữ d ở nét gạch ngang. Lưu ý học sinh nét gạch ngang nằm trên dòng
kẻ có độ dài bằng một ô li. Khi viết nét tròn của chữ d và chữ đ học sinh cần
phải viết nét tròn kín sau đó mới lia bút lên để viết nét móc ngược, nếu viết
được chữ d đẹp rồi các em chỉ cần đặt thêm nét gạch ngang nằm trên dòng kẻ
như vậy các em sẽ được chữ đ rất đẹp.
Ví dụ : Khi dạy chữ cái a. Học sinh phải phân tích được chữ a gồm
hai nét cơ bản là nét tròn và nét móc ngược.
Khi dạy chữ cái k học sinh phân tích được chữ k gồm hai nét cơ bản là
nét khuyết xuôi và nét móc hai đầu thắt giữa.
Khi hướng dẫn học sinh viết các nét của chữ, đặc biệt là cách nối nét

với nhau. khi viết chữ a, nét cơ bản đầu tiên là phải viết nét cong tròn khép
kín sau đó mới viết nét móc ngược, khi viết nét móc ngược thì bản thân nét
móc phải nằm trùng lên bên phải của nét tròn, độ cao của nét móc ngược phải
cao bằng dòng kẻ mà ta vừa viết nét tròn. Hoặc khi hướng dẫn học sinh viết
các nhóm chữ có nét tròn như: o, a, c cần hướng dẫn học sinh điểm đặt bút
đầu tiên của chữ phải đúng khi đưa bút để viết các nét cong phải lượn sao cho
các nét cong thật chuẩn đúng mẫu chữ và đúng qui trình viết thì chữ viết mới
đẹp.
Hoặc khi dạy viết các nhóm chữ l, b, h, k. Nhóm chữ cái này đều
giống nhau là có nét khuyết xuôi muốn viết được các chữ cái này đẹp trước
hết giáo viên phải hướng dẫn học sinh viết nét khuyết xuôi thật thẳng và đẹp
16


đặc biệt là nét cắt của chữ phải nằm đúng giữa dòng kẻ. Học sinh viết thật đẹp
nét khuyết xuôi rồi mới hướng dẫn các em nối tiếp các nét còn lại để tạo
thành chữ. Khi hướng dẫn cho học sinh viết giáo viên phải hướng dẫn tỉ mỉ
từng nét, học sinh phải được luyện viết nhiều lần trên bảng con để giáo viên
uốn nắn và sửa sai sau đó mới cho học sinh viết vào vở. Có như vậy chữ viết
mới đúng mẫu, các nét chữ mới đẹp Nếu không các em sẽ viết nét khuyết
xuôi không thẳng hoặc khoảng cách giữa các nét không cân đối dẫn tới kết
quả chữ viết không đẹp.
Ngoài các chữ cái ra còn dấu của các chữ, các chữ cái có dấu như: ă, â,
ô, ơ, ê, i, ư. Và một số dấu ghi thanh đó là:
Thanh huyền : (

)

Thanh sắc :


( )

Thanh hỏi :

( )

Thanh ngã:

( ~).

Thanh nặng: ( . ).
Khi dạy học sinh viết chữ giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh viết
đúng độ cao, hình dáng của chữ và vị trí đặt dấu ở các nguyên âm để các em
thấy rõ và thể hiện được các yêu cầu về dấu khi viết chữ.
Học sinh lớp Một khi tập viết thường đi qua hai giai đoạn: Đó là giai
đoạn đầu viết các nét cơ bản cấu tạo nên chữ và giai đoạn hai là giai đoạn viết
liền mạch, không nhấc bút để viết từng chữ cho thành thạo.
Khi dạy giáo viên chú ý rèn học sinh kỹ năng viết liền mạch trong từng
chữ cái. Tốc độ này sẽ dần dần được nâng cao khi học sinh viết chữ thành
thạo.
Đến giai đoạn học vần học sinh được luyện tập cách nối liền các chữ
cái để tạo thành chữ. Khi viết có các trường hợp nối các chữ cái dễ dàng, giáo
viên chỉ cần làm mẫu chậm là học sinh có thể viết được như: mi, ti, li, hi,
ki...

17


Có những trường hợp nối các chữ cái phải điều chỉnh phần cuối nét của
chữ cái đứng trước để nối với chữ cái đứng sau cho đảm bảo tính rõ ràng của

chữ và khoảng cách của chúng.
Có trường hợp phải mở rộng phần cuối nét móc của chữ cái đứng trước
để nối với chữ cái đứng sau cho phù hợp.
Ví dụ các phụ âm đầu nối với chữ e như: me tre, le, xe, đe...
Cũng có trường hợp khi viết phải điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ
cái đứng trước hẹp hơn để nối với chữ cái đứng sau như nối với n, m. Ví dụ
như: im, iêm, en, ên......
Cũng có trường hợp khi viết phải điều chỉnh cả phần cuối nét của chữ
cái đứng trước và cả điểm đặt bút của chữ cái đứng sau như: Khi viết chữ: be,
ve, bi, vi, oe, .....
Cũng có trường hợp khi viết không thực hiện được yêu cầu viết liền
mạch mà phải ước lượng bằng vị trí điểm đặt bút để viết chữ cho đúng như
khi viết chữ: : ca nô, cô ca, ba, má …
Đối với học sinh lớp Một khi hướng dẫn các em viết liền mạch trong
một vần gồm ba đến bốn chữ cái, giáo viên cần phải cho học sinh nắm chắc
cách nối các chữ cái rồi mới thực hiện viết bài vào bảng, vào vở.
Trong các bài tập viết ở phần âm học sinh được hướng dẫn rất tỉ mỉ.
Sang phần vần chủ yếu là củng cố cách viết các chữ và củng cố hình dáng
chữ.
Bước sang giai đoạn học Tập đọc ngoài yêu cầu tập nối chữ trong vần
( ở các trường hợp trên). Tuỳ từng trường hợp mà vận dụng vào chữ viết. Học
sinh còn phải học cách ghi các dấu của các chữ cái và dấu thanh của chữ.
Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể tuỳ từng chữ có thể viết liền mạch phần nào
còn phần nào phải nhấc bút nhưng với yêu cầu phải viết hết các chữ cái trong
một chữ rồi mới đặt dấu thanh sau.
Ví dụ: Khi viết từ: tiếng việt

18



Chữ “ tiếng ” ta viết liền mạch được ( tieng ) sau đó mới đặt dấu cho
các chữ cái ê, dấu sắc, dấu chấm i và nét gạch ngang của chữ t . Chữ " việt"
viết liền mạch ta được" viet" sau đó mới đặt nét gạch ngang cho t, dấu mũ ê,
dấu chấm i và cuối cùng là dấu nặng đặt dưới ê.
Theo yêu cầu kỹ thuật để tiếp tục củng cố quy trình hình dáng chữ viết
và luyện tập từng trường hợp nối chữ khi viết vần và viết tiếng.
* Mười một tuần cuối năm học mỗi tuần có 2 tiết Chính tả ( từ tuần
25 ) dưới hình thức chính tả nghe đọc và tập chép, các em được nhìn bảng để
viết. Yêu cầu chữ viết phải rõ ràng, đúng độ cao, đúng vị trí các dấu, khoảng
cách giữa các nét và các chữ cái phải đều nhau, không có chỗ dầy chỗ thưa,
không có nét cao, nét thấp, không tẩy xoá, hình dáng các nét chữ phải chuẩn.
4.5 Nhận xét và đánh giá:
Với học sinh, việc nhận xét và sửa lỗi của giáo viên cũng góp phần rất
quan trọng để tạo hứng thú cho học sinh, Giáo viên có tiến hành theo cách sau
để thu hút học sinh đến với các giờ Tập viết:
- Cho học sinh nhận xét bài viết của bạn và bài viết của chính mình để các em
nhận ra những điểm được và chưa được để sửa chữa.
- Cho học sinh luyện viết lại những chữ chưa đạt yêu cầu.
- Tổ chức một số trò chơi để tránh căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh: Thi viết
chữ đẹp, thi viết nhanh...
- Sau khi học sinh viết xong bài, giáo viên cần kiểm tra ngay một số vở, sửa
lỗi sai cho học sinh: tuyên dương những bài viết tốt.
Với những bài viết chưa đẹp, viết ẩu thì ngoài việc kèm thêm ở lớp, tôi
còn trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của em đó trao đổi và cùng đưa ra hướng giải
quyết hay thống nhất cách dạy nhằm giúp học sinh tiến bộ hơn.
Với việc làm này cùng với sự chỉ bảo của giáo viên ở trên lớp mà những
em viết xấu, viết ẩu ở lớp tôi hiện nay cũng tiến bộ nhiều.
4.6 Giáo án dạy minh họa
19



Thứ sáu ngày 8 tháng 11 năm 2013
Tập Viết
Cái kéo, trái đào, sáo sậu , líu lo, hiểu bài, yêu cầu.

Tiết 1

Thứ sáu ngày 20 tháng 12 năm 2013
Tập viết
Thanh kiếm , âu yếm , ao chuôm, bánh ngọt...

Tiết 2:

Ghi chú: Giáo án được trình bày đóng sau phần phụ lục.

5. Kết quả đạt được
Qua quá trình dạy thực nghiệm rèn chữ viết cho học sinh theo phương
pháp đề xuất ở trên, cùng với sự đánh giá sát sao và theo dõi chặt chẽ cũng
như kiểm tra thường xuyên bài viết của học sinh.
Kết quả thực nghiệm ở lớp 1D và lớp đối chứng 1B qua bài viết của
học sinh cụ thể như sau:
Lớp

Sĩ số

Chữ loại A
Chữ loại B
Chữ loại C
SL
%

SL
%
SL
%
1D
23
19
82.6
4
17.4
0
0
1B
23
12
52.2
10
43.5
1
4.3
Kết quả thực nghiệm lớp 1D ở cuối năm so với lớp 1B tỉ lệ học sinh đạt

chữ viết đẹp tăng nhiều, không có chữ loại C. Kết quả đạt cao như vậy là do
học sinh đã được thể hiện đúng phương pháp rèn chữ. Chính vì vậy mà tỷ lệ
học sinh viết đúng mẫu, đúng kỹ thuật, viết đẹp nhiều hơn. Kết quả rõ nhất
trong các đợt dự thi vở sạch chữ đẹp do nhà trường phát động, lớp tôi chủ
nhiệm thường đứng thứ nhất trong tổ. Chữ viết của học sinh được nâng cao rõ
rệt cả về chất lượng và tốc độ viết. Chất lượng khảo sát tất cả các môn văn
hoá lớp 1D đạt 100 % trong đó tỉ lệ học sinh khá giỏi đạt cao.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.

6.1 Sáng kiến Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 đã được thực hiện
trong trường tôi và đã thu được kết quả tốt, đã được Hội đồng Khoa học trong
nhà trường đánh giá cao. Nếu các biện pháp của sáng kiến này được áp dụng
20


và triển khai rộng rãi với tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, có sự kiên trì,
say mê của các đồng chí giáo viên trực tiếp đứng lớp trong các nhà trường
tiểu học trong địa bàn thị xã hoặc các trường tiểu học địa bàn khác, tôi tin
chắc chắn rằng sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc rèn chữ viết cho học sinh
lớp 1.
6.2 Nắm chắc được vai trò quan trọng của môn Tập viết nên những việc
làm trên đã được tôi tiến hành một cách thường xuyên trong các tiết Tập viết
và các tiết học khác. Nếu so với đầu năm, nhiều em còn viết ẩu, viết xấu, viết
sai chính tả thì đến nay khi áp dụng sáng kiến này đem lại kết quả cao trong
việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 1. Chữ viết của học sinh lớp tôi tương đối
đều, bài viết sạch đẹp: tốc độ viết của học sinh đã nhanh hơn, tỉ lệ viết đúng
chính tả và viết đẹp của học sinh cũng nâng lên. Cụ thể :
- Nhiều em viết chữ đúng chính tả, mẫu chữ chuẩn, đẹp, sạch.
- Chữ viết của các em tương đối đều, thẳng hàng, đúng mẫu chữ quy định và
đạt được tốc độ yêu cầu đối với học sinh lớp 1 theo từng giai đoạn.
- Vở viết của học sinh sạch và đẹp, không nhàu nát, bài viết cẩn thận.
- Lớp đạt lớp Vở sạch chữ đẹp.

21


PHẦN 3:
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết quả của sáng kiến mang lại:

Để thực hiện mục tiêu đó giáo dục phổ thông đang thực hiện nhiều đổi
mới, Giáo dục tiểu học cũng không nằm ngoài guồng quay đó. Trong chương
trình, SGK mới, phân môn Tập viết giữ một vai trò hết sức quan trọng. Với ý
thức rèn nét chữ để rèn nết người nhiều thế hệ thầy giáo đã trăn trở góp nhiều
công sức cải tiến kiểu chữ, nội dung và phương pháp dạy Tập viết. Mong sao
có nhiều thế hệ học sinh có chữ viết đúng đẹp để các em có thể học tập tốt
hơn các môn học khác. Tôi mong muốn rằng với sáng kiến “Rèn chữ viết cho
học sinh lớp 1” sẽ góp phần nhỏ bé của mình để giúp các bạn đồng nghiệp
làm tốt hơn nhiệm vụ “Trồng người”.
Sáng kiến đã trình bày rõ các biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1
đã góp phần giúp giáo viên thuận lợi trong việc rèn chữ viết cho học sinh lớp
1. Khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy với đối tượng học sinh lớp tôi chất
lượng chữ viết đạt kết quả rất cao, nhiều em viết chữ đúng chính tả, mẫu chữ
chuẩn, đẹp, sạch. Chữ viết của các em tương đối đều, thẳng hàng, đúng mẫu
chữ quy định và đạt được tốc độ yêu cầu đối với học sinh lớp 1 theo từng giai
đoạn. Vở viết của học sinh sạch và đẹp, không nhàu nát, bài viết cẩn thận.
2. Khuyến nghị và đề xuất:
2.1- Đối với nhà trường:

22


- Quán triệt và nâng cao nhận thức về phát âm chuẩn chống nói ngọng và
khắc phục lỗi chính tả đối với giáo viên và học sinh.
- Mở các chuyên đề hội thảo để nâng cao chất lượng chính tả cho giáo viên và
học sinh.
- Nên trang bị cho mỗi giáo viên bộ chữ hoa mẫu theo kiểu lật từng trang hiện
ra từng nét chữ để giúp học sinh có hình ảnh cụ thể, sinh động về chữ mẫu
cần viết.
- Thường xưyên tổ chức các cuộc thi “Viết chữ đẹp” cho học sinh và giáo

viên.
- Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các
đồng nghiệp, các trường có phong trào “Vở sạch – Chữ đẹp” tiêu biểu.
2.2- Đối với giáo viên:
- Cần quan tâm đúng mức đến việc rèn chính tả cho các em học sinh, thường
xuyên rèn cho các em các thao tác viết đúng chính tả.
- Bản thân giáo viên cũng cần phải có ý thức trong việc luyện chính tả, thói
quen phát âm chuẩn, bởi giáo viên chính là tấm gương để các em học sinh học
tập.
- Thường xuyên rèn luyện để có chữ viết mẫu chuẩn
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách cẩn thận, có chọn lọc và sáng tạo
2.3- Đối với học sinh
- Luôn đầy đủ đồ dùng học tập theo quy định của nhà trường.
- Luôn luôn có ý thức và thói quen rèn chữ viết, chính tả không chỉ rèn trong
vở tập viết, chính tả mà còn rèn ở tất cả các vở ghi, không chỉ rèn trên lớp mà
còn rèn ở nhà và rèn cả trong giao tiếp.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đưa ra nhằm nâng cao chất lượng
“Rèn chữ viết cho học sinh lớp 1”. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến và bổ sung của các đồng nghiệp, các chuyên gia, các đồng chí lãnh đạo
giúp tôi hoàn thành kinh nghiệm này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

23


Môc lôc
Tiểu mục
Nội dung
PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
PHẦN 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN.

1
Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
2
Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1
Trên cơ sở lí luận dạy học
2.2
Trên cơ sở thực tiễn.
3
Thực trạng về việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 1 ở phân
môn Tập viết.
Khảo sát thực trạng về kĩ năng viết của học sinh lớp 1 vào
3.1
đầu năm học 2013-2014
3.2
Nguyên nhân
4
Các giải pháp thực hiện
4.1
Những điều kiện về cơ sở vật chất:
4.2
Sử dụng các đồ dùng trực quan khi dạy học Tập viết:
4.3
Tư thế ngồi và cách cầm bút:
4.4
4.5

Rèn kỹ năng viết cho học sinh:
Nhận xét và đánh giá:


4.6

Giáo án dạy minh họa

5
6
PHẦN 3:
1
2

Kết quả đạt được
Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết quả của sáng kiến mang lại:
Khuyến nghị và đề xuất:

24


Thứ sáu ngày 8 tháng 11 năm 2013
Tiết 1 :Tập Viết

Cái kéo, trái đào, sáo sậu , líu lo, hiểu bài, yêu cầu.
I. Mục tiêu :
- Hs đọc và viết đúng các chữ: Cái kéo, trái đào, sáo sậu, líu lo, hiểu bài, yêu
cầu; viết kiểu chữ viết thường cỡ vừa theo vở tập viết 1, tập 1.
- Giúp học sinh viết đúng cỡ chữ, nối đúng nét giữa các con chữ, ghi dấu
thanh đúng vị trí.
- Rèn học sinh tính cẩn thận, thẩm mĩ.
II.Đồ dùng dạy học.

- Bảng con được viết sẵn các từ.
- Chữ viết mẫu các chữ: Cái kéo, trái đào, sáo sậu, líu lo, hiểu bài, yêu cầu.
- Bảng lớp được kẻ sẵn.
III. Hoạt động dạy học.
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Đồ dùng
A.Kiểm tra bài cũ :
- Nhận xét chữ viết của học sinh- cho
- Viết: tươi cười
-Bảng con
học sinh viết lại chữ chưa đúng
- Nhận xét
B. Dạy học bài mới :
1.Giới thiệu bài :
- Đưa bảng phụ ra để giới thiệu bài .
- Yêu cầu hs đọc bảng phụ :
- Nghe
- Bảng phụ
- Giải nghĩa một số từ .
- Yêu cầu hs đọc :
- Đọc từ cần viết
2.Hướng dẫn hs viết bảng con.
- Nghe
- Giáo viên gắn chữ mẫu lên bảng giới - 2-3 học sinh đọc lại từ.
thiệu và hướng dẫn cách viết.
+ cái kéo
- Quan sát
- Từ gì?
- Chữ mẫu

- Độ cao các con chữ trong từ cái kéo?
- Khoảng cách giữa các tiếng trong
- cái kéo
một từ?
- chữ cái; c, a, i, e, o cao 2 li,
- GV viết mẫu- vừa viết vừa nói
chữ cái k cao 5 li
- Cho học sinh xem chữ mẫu.
- một chữ cái o
- Cho học sinh viết vào bảng con.
- Quan sát
* Dạy tương tự với những từ còn lại
3. Viết vào vở
- Viết trên bảng con
- Hướng dẫn học sinh cách cầm bút,
cách đặt vở, tư thế ngồi viết.
- bảng con
- Cho học sinh viết từng dòng vào vở.
25


×