Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

skkn dạy học toán theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.7 KB, 30 trang )

UBND THỊ XÃ CHÍ LINH
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
DẠY HỌC TOÁN THEO HƯỚNG TÍCH CỰC
HÓA HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
Bô môn : Toán

Năm học : 2014 - 2015


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến : Dạy học toán theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: môn Toán lớp 1
3. Tác giả:
- Họ và tên : Lê Thị Duyên
Nữ
- Ngày, tháng, năm sinh : 10 tháng 11 năm 1977
- Trình độ chuyên môn: Đại học Tiểu học.
- Chức vụ: Tổ trưởng - giáo viên dạy lớp 1
- Đơn vị công tác :Trường Tiểu học Hoàng Tiến
- Số điện thoại : 0986120121
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
- Trường Tiểu học Hoàng Tiến
- Số điện thoại: 03203590019
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Để học sinh giải tốt dạng toán có lời văn ở lớp 1 vận dụng theo hướng dạy học
tích cực hóa hoạt động của học sinh thì :
+ Học sinh phải có đầy đủ sách giáo khoa Toán 1, vở bài tập toán.
+ Có đủ dụng cụ học tập.
+ Có ý thức tích cực học tập, chăm chỉ làm bài tập ở lớp.


+ Học sinh say mê và hứng thú học bộ môn Toán theo hướng này.
- Tuy nhiên khi mới học dạng toán này học sinh hay nhầm lẫn, chưa tìm ra câu hỏi
trả lời đúng cho phép tính. Đồ dùng cho tiết học chưa đủ, chưa phong phú. Ngoài
ra trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, khi giải toán điển hình còn
dập khuôn máy móc, chưa có lời giải hay, trình bày bài chưa khoa học.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến
-Áp dụng ngay từ đầu năm đến thời gian dạy thực nghiệm (tháng 2/2014)
HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)

LÊ THỊ DUYÊN

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN


TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến :
Như chúng ta đã biết, môn toán là môn học "công cụ, cung cấp kiến thức, kĩ
năng, phương pháp, góp phần xây dựng nền tảng văn hoá phổ thông của con người
lao động mới. Toán học là công cụ của khoa học kĩ thuật có nguồn gốc trong thực
tiễn. Những kiến thức toán học phổ thông cơ bản sẽ giúp cho học sinh có cơ sở để
học các môn khoa học, kĩ thuật. Đồng thời với việc trau dồi kiến thức, kĩ năng
toán học cơ bản cho học sinh, môn toán còn giúp cho học sinh phương pháp suy
luận, phương pháp lao động tốt, phương pháp tự học, phương pháp giải quyết các
vấn đề, từ đó học sinh có phương pháp tự học và phát triển trí thông minh sáng
tạo. Chính vì vậy, qua hoạt động học toán học sinh được rèn luyện tính cẩn thận,
phân biệt rõ ràng, đúng sai. Môn toán còn có tác dụng trau dồi cho học sinh óc
thẩm mĩ: giúp các em thích học toán, thể hiện trong lợi ích của môn toán, trong
hình thức trình bày.
Nội dung môn toán ở tiểu học bao gồm nhiều chủ đề, kiến thức lớn nhưng

việc dạy học giải toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những
kiến thức về toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu được thể
hiện một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc dạy học giải toán mà học sinh có
điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn phương pháp suy luận và
những phẩm chất của người lao động mới phù hợp với xu thế giáo dục hiện nay
.Cho nên nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy học giải toán ở tiểu học
nhất là ở khối lớp 1- khối đầu cấp nên tôi nghiên cứu Giải toán có lời văn - theo
hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
- Nghiên cứu nội dung, phương pháp dạy học của bài :“Giải toán có lời văn"'
- Áp dụng giảng dạy thực nghiệm (tháng 2/2014)
- Sáng kiến kinh nghiệm này áp dụng cho học sinh khối 1
3. Nội dung sáng kiến
+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến
Dạy học tích cực hoá hoạt động của học sinh là :
+) Việc dạy học phải xuất phát từ người học, từ nhu cầu, động cơ và đặc điểm
của người học.
+) Phải để cho học sinh hoạt động cả về thể chất lẫn tinh thần, không để học
sinh bị động tiếp thu mà phải tích cực suy nghĩ và hành động.


+) Phải chú ý đến cấu trúc tư duy của từng học sinh, không bắt học sinh phải
suy nghĩ theo cách duy nhất đã định trước của giáo viên, thực hiện sự phân hoá và
cá thể hoá việc dạy học.
+) Động viên khuyến khích và tạo điều kiện để học sinh tự kiểm tra, đánh
giá quá trình học tập của mình từ đó cải tiến phương pháp học tập nhằm đạt được
kết quả cao nhất. Nâng cao năng lực tự học và phát huy tính sáng tạo của học sinh
theo cách đánh giá như thông tư 30 vừa ban hành ngày 28/8/2014 là rất phù
hợp .Bởi qua quá trình học tập theo phương pháp học này học sinh không những
được hình thành và phát triển một số năng lực mà còn được hình thành và phất

triển cả một số phẩm chất cơ bản của người học sinh
Qua quá trình nghiên cứu, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mang tính
đột phá trong quá trình dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập học tập
của học sinh thông qua bài Giải toán có lời văn hy vọng rằng đề tài sẽ mang lại lợi
ích thiết thực góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong xu thế hiện nay.
+ Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Qua việc áp dụng Giải toán có lời văn theo hướng tích cực hóa hoạt động
của học sinh Trường Tiểu học nơi tôi đang công tác, tôi thấy chất lượng tăng lên
rõ rệt. Từ đó tôi thấy nội dung đề tài này có thể áp dụng cho tất cả học sinh khối 1
của trường Tiểu học nơi tôi đang công tác.
+ Lợi ích thiết thực của sáng kiến
Khi áp dụng sáng kiến này giáo viên chỉ cần nghiên cứu phương pháp giảng
dạy cho phù hợp chứ không cần thay đổi nội dung.Có như vậy, giáo viên sẽ tiết
kiệm được rất nhiều thời gian và sức lực cho việc giảng dạy.Bởi vì khi vận dụng
cách dạy này các em tự mình chiếm lĩnh tri thức, làm chủ bài học của mình nên
các em hiểu bài một cách sâu sắc, giúp các em sẽ nhớ lâu, vận dụng làm bài tập
một cách nhanh, thành thạo.Cho nên giáo viên không mất nhiều thời gian giảng đi
giảng lại nhiều lần, sẽ có thời gian để nghiên cứu các nội dung khác phục vụ cho
việc giảng dạy tốt hơn.
4. Một số đề xuất để thực hiện áp dụng sáng kiến.
Qua thời gian nghiên cứu, áp dụng kinh nghiệm vào giảng dạy phương pháp
dạy học mới theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh tôi thiết nghĩ các
dạng toán ở lớp 1 có nội dung phong phú có cấu trúc đa dạng. Để giúp học sinh


nắm được kiến thức, làm chủ được tri thức đòi hỏi mỗi giáo viên phải tự tìm tòi
những phương pháp đổi mới để phù hợp với những khả năng nhận thức của mỗi
học sinh ở mỗi lớp học.
Đối với mỗi giáo viên muốn giảng dạy môn toán đạt kết quả cao, trước hết
phải thường xuyên trau dồi cả về phương pháp dạy học, cả về tri thức toán học.

Phải nhận thức và vận dụng tốt được phương pháp dạy học toán theo hướng tích
cực hoá hoạt động của học sinh để vận dụng vào từng tiết dạy cho phù hợp. Bởi vì
khi nói tới phương pháp tích cực thực tế là nói tới một nhóm các phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính cực của học sinh. Mặt khác, phương pháp dạy học
theo hướng tích cực bao giờ cũng nổi bật lên một đặc điểm quan trọng: Học sinh
là người hoạt động tích cực, là diễn viên. Còn người thầy là người đạo diễn, tổ
chức các trò chơi học sinh chơi mà học, hành để học, học bằng hành động của
chính mình. Có nhận thức được như vậy giáo viên sẽ dành nhiều thời gian cho
việc đọc các tài liệu, sách tham khảo ... có liên quan tới môn toán. Qua đó giáo
viên có thời gian đầu tư cho mỗi bài giảng để học tập cách tổ chức điều khiển các
buổi thảo luận, các trò chơi toán học được khéo léo hấp dẫn người học hơn.


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Như chúng ta đã biết, hoà trong xu thế tiến bộ của toàn nhân loại : Sự bùng nổ
của tri thức khoa học và công nghệ, Việt Nam cũng đang tiến nhanh trên con
đường công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , đưa đất nước ta tiến kịp với các
quốc gia khác trong khu vực . Trong sự phát triển đi lên của đất nước thì giáo dục
đóng vai trò quan trọng , được coi là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Muốn vậy nghành giáo dục phải thực hiện những đổi mới toàn diện và đồng
bộ, góp phần chuẩn bị năng lực, học vấn và sự thích ứng chủ động cho thế hệ trẻ.
Do đó, Đảng và nhà nước ta đã thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng
đầu. Điều đó đã được cụ thể hoá bằng những văn bản, nghị quyết của các Đại hội
Đảng.
Một trong những đổi mới cơ bản, quan trọng của giáo dục hiện nay là đổi
mới phương pháp dạy học, đổi mới cách đánh giá học sinh nhằm giúp học sinh
phát huy tất cả khả năng vốn có.
Nghị quyết Trung ương IV khoá VII cũng chỉ rõ : Cần đổi mới phương
pháp dạy học ở tất cả các bậc học cấp học. Áp dụng những phương pháp giáo dục

hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh những năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết
vấn đề.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, tiểu học là bậc học có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Nó được coi là bậc học nền tảng, tạo cơ sở cho các bậc học trên. Học
sinh tiểu học đang trong thời kì phát triển, có nhiều khả năng về mọi mặt. Vì thế
dạy học tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh sẽ đem lại cho các em khả
năng tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh tri thức mới. Chỉ có quá trình
nhận thức tích cực mới tạo cho các em có tri thức kỹ năng, kỹ xảo cần thiết sâu
sắc, hình thành ở các em tính độc lập, sáng tạo và nhạy bén khi giải quyết vấn đề
của thực tiễn. Phát huy tính tích cực của học sinh là điểm tựa để nâng cao chất
lượng dạy và học phù hợp với cách thức đánh giá học sinh trong giai đoạn hiện
nay.
Mặt khác, giáo dục phổ thông nước ta có rất nhiều thành tựu nhưng cũng
không tránh khỏi những yếu kém và bất cập. Do vậy các yếu tố như mục đích, nội
dung, phương tiện, phương pháp, ... phải luôn có những điều chỉnh cho phù hợp


với yêu cầu, hoàn cảnh khách quan của đất nước. Chúng ta đang sống trong thiên
niên kỷ mới, chương trình sách giáo khoa tiểu học mới được tiến hành giảng dạy
trong cả nước. Chương trình sách giáo khoa mới đã có cải tiến về nội dung để đáp
ứng được với yêu cầu của thời đại. Bởi vậy, khi nội dung có điều chỉnh, cải tiến
thì phương pháp giảng dạy cũng phải cải tiến để cho phù hợp với nội dung mới.
Đó cũng là điều tất yếu phải cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với đối
tượng học sinh hiện nay. Các em không chịu ngồi nghe thày giảng, thày làm mẫu
mà các em muốn chính mình tham gia hoạt động, tạo ra, khám phá ra cái mới cho
mình. Bởi thế để đổi mới căn bản, toàn diện cả về nội dung, phương pháp giảng
dạy còn đổi mới cả về hình thức đánh giá học sinh như thông tư 30 ban hành ngày
28/8/2014 là rất phù hợp.Cho nên, qua chương trình sách giáo khoa, qua một số
giờ thảo luận và một số chuyên đề - thăm lớp dự giờ, tôi thiết nghĩ : Dạy thế nào
mà khơi dậy được tính tích cực, tự giác của các em học sinh là một điều băn khoăn

đối với tôi. Không những bản thân mà còn nhiều giáo viên khác trong trường nói
chung cũng như các giáo viên khối 1 nói riêng đều có nỗi băn khoăn giống như
tôi. Vì thế, là giáo viên đứng lớp, giảng dạy nhiều năm lớp 1, tôi mạnh dạn chọn
đề tài : “ Dạy học toán theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh ”. Hy vọng
rằng qua đề tài này sẽ đóng góp một phần nhỏ vào hệ thống các phương pháp dạy
học ở trường Tiểu học trong xu thế đổi mới giáo dục chung của đất nước hiện nay.
1.2.Mục đích của sáng kiến
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung và phương pháp dạy học chương “ Các số
trong phạm vi 100. Đo độ dài. Giải toán có lời văn ” của toán lớp 1. Tôi đề xuất
một phương hướng dạy học tích cực hoá hoạt động của học sinh trên bài : “Giải
toán có lời văn” nhằm nâng cao hiệu quả dạy học bài đó của chương.
1.3.Các phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài , tôi đã sử dụng những
phương pháp sau :
* Phương pháp đọc tài liệu :
Các tài liệu nghiên cứu :
- Sách giáo khoa toán lớp 1
- Sách hướng dẫn giảng dạy toán 1
- Các tài liệu khác liên quan
* Phương pháp nghiên cứu lý luận.


* Phương pháp quan sát điều tra.
* Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm
* Phương pháp thực nghiệm giáo dục
1.4.-Điểm mới của sáng kiến
- Khi vận dụng “ Dạy học toán theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh ”
vào giảng dạy, tôi thấy có nhiều ưu điểm đó là học sinh thích học, say sưa tự mình
tìm ra kiến thức mới. Nhìn chung, dạy học toán theo hướng này sẽ khuyến khích
tính tích cực trong học tập giúp học sinh phát huy tất cả khả năng tư duy toán học,

tạo điều kiện phát triển toàn diện cho học sinh. Đào tạo con người đáp ứng được
với yêu cầu của xã hội hiện nay. Đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên,
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực ngày một tốt hơn.
2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề :
2.1. Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã thấy, thực tiễn giáo dục sinh động là cánh cửa đầu tiên để
các lý thuyết tâm lý học đi vào cuộc sống. Cho nên trẻ em là những nhân cách
đang hình thành và phát triển. Để có một nhân cách phát triển hoàn thiện, trẻ em
phải được giao tiếp và hoạt động. Vì vậy, một phương pháp dạy học tốt là phải
hướng vào tổ chức cho trẻ hoạt động, phát huy tích cực, chủ động sáng tạo của trẻ
trong việc tìm ra kiến thức mới.
Hoạt động là quy luật chung nhất của tâm lý học, là phương thức tồn tại
của cuộc sống chủ thể. Bất cứ hoạt động nào cũng có chủ thể và đối tượng. Tính
có chủ thể và tính có đối tượng là hai đặc trưng bản chất nền tảng của hoạt động.
Trong dạy học, học sinh là chủ thể hoạt động học tập của mình. Bài học là đối
tượng của chủ thể học sinh. Tuy nhiên, không phải tất cả các bài học đều trở thành
đối tượng hoạt động của học sinh ngay khi nó xuất hiện. Điều quan trọng là dạy
học phải làm thế nào để bài học xuất hiện trước các em như một đối tượng. Các
em xem đó là những đối tượng cần khám phá, tìm hiểu. Từ đó các em trở thành
những chủ thể tích cực và mong muốn hoạt động để tìm hiểu, chiếm lĩnh đối
tượng, cải biến đối tượng (bài học) thành vốn riêng của mình để hình thành và
phát triển nhân cách.
Trong cuộc sống mỗi con người có nhiều nhu cầu cùng tồn tại một lúc, nó
đấu tranh với nhau, cạnh tranh nhau trong đó có một nhu cầu nổi trội lên thành


lòng mong muốn, khát khao và nhu cầu đó trở thành động cơ thúc đẩy con người
hành động để thoả mãn nhu cầu. Trong dạy học phải tạo cho học sinh sự hứng thú,
sự say mê để tiếp thu kiến thức và đó chính là nhu cầu thiết yếu cho các em.
Như vậy, quá trình dạy học phải làm cho bài học xuất hiện trước học sinh

như một đối tượng, đưa các em làm chủ thể. Dạy học phải làm sao cho đối tượng
thực sự hấp dẫn, lôi cuốn các em tham gia hoạt động. Muốn vậy phải có những
phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực, sáng tạo của các em. Dạy học
theo hướng tiếp cận vào học sinh sẽ tạo điều kiện thuận lợi để học sinh thích nghi
với môi trường xã hội xung quanh. Giúp các em hình thành và phát triển nhân
cách theo đúng cơ sở khoa học của lý thuyết hoạt động.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta cần có những con người
khả năng thích ứng cao có bản lĩnh năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám
làm. Bởi vậy, trong dạy học yêu cầu phải giáo dục con người có tri thức sáng
tạo ,... đó là giáo dục con người phát triển toàn diện. Nhận thức của các em từ trực
quan sinh động cụ thể, thích tò mò ham hiểu biết. Bởi vậy, phương pháp dạy học
toán theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh sẽ giúp cho các em phát triển
các thao tác tư duy đơn giản như: phân tích, tổng hợp, so sánh,... Đồng thời nắm
được kỹ năng quan sát khoa học, tự nghiên cứu, tự giải quyết, khám phá ra vấn đề
cần học. Bên cạnh đó còn giáo dục các em tính kỷ luật, ý thức chăm học, say mê
công việc, hiểu được cái đẹp, cái xấu trong học toán ... Như vậy, dạy học theo
hướng này đã hình thành và phát triển một số năng lực - phẩm chất của học sinh
phù hợp với xu hướng giáo dục hiện nay.
2.3.Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực.
Hiện nay xuất hiện khá nhiều xu hướng dạy học như: dạy học hợp tác ; dạy
học nêu vấn đề ; dạy học cá thể ; dạy học chương trình hoá ... Tất cả các phương
pháp dạy học trên đều nhằm mục đích phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo
của người học trong việc chiếm lĩnh kiến thức cho chính bản thân. Các xu hướng
dạy học trên đều là những phương pháp dạy học tích cực. Qua nghiên cứu các tài
liệu, tôi tâm đắc với những đặc trưng của hệ phương pháp dạy học tích cực mà tác
giả Nguyễn Kỳ đưa ra như sau :


+) Học sinh là chủ thể của hoạt động học tập, tích cực hoạt động bằng hành

động của chính mình để tìm ra kiến thức.
Với phương pháp dạy học tích cực, người học không phải được đặt trước
những kiến thức có sẵn của sách giáo khoa hay những bài giảng của thầy giáo đã
được soạn trước theo một trình tự mà ở đây học sinh được đặt trước những tình
huống thực tế rất cụ thể của cuộc sống. Trước những vấn đề rất phong phú của
cuộc sống làm cho các em có nhu cầu và hứng thú giải quyết những khó khăn,
mâu thuẫn trong nhận thức của mình để tự tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá.
Các tri thức và phương pháp học sinh đã tự khám phá ra có khi không theo một
khuôn mẫu có sẵn , mang tính sáng tạo của học sinh.
+) Học sinh tự thể hiện mình và hợp tác với bạn, học bạn.
Lớp học được coi là cộng đồng của chủ thể, thông qua lớp học với các hoạt
động hợp tác, học sinh không ngừng tự thể hiện mình. Đó cũng là một nhu cầu nổi
trội của con người. Với các hình thức sắm vai hay tập sự sắm vai các nhân vật
trong các tình huống học tập, học sinh tự mình đưa ra những cách giải quyết của
riêng mình và nêu chính kiến của mình trước các bạn trong quá trình thảo luận.
Qua đó học sinh phát huy được khả năng giao tiếp, ứng xử. Tuy nhiên, những ý
kiến mà các em đưa ra còn mang tính chủ quan, phiến diện cần có sự bổ sung và
tiếp nhận ý kiến của các bạn trong lớp để kiến thức các em tiếp thu mang tính
khoa học hơn. Học bạn, hợp tác với bạn trong quá trình học tập, người học mới
nâng mình lên trình độ mới.
+) Thầy cô giáo là người tổ chức và hướng dẫn hoạt động học của học sinh.
Vai trò của người thầy cũng rất quan trọng, Thầy giáo là người định hướng
cho học sinh tìm ra kiến thức. Bằng hệ thống các tình huống học tập, thầy giáo là
người đạo diễn và tổ chức cho tập thể lớp thảo luận .
Khi hoạt động thảo luận của tập thể lớp gặp phải những vấn đề nan giải, khó
đi đến kết luận khoa học thì vai trò của người thầy là không thể thiếu được. Thầy
là người kết luận các cuộc thảo luận của nhóm, lớp và giúp đỡ lớp hoàn thiện sản
phẩm có tính khoa học nhất .
+) Học sinh tự kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh.
Trong quá trình tự mình tìm ra kiến thức, người học tạo ra một sản phẩm

giáo dục ban đầu có thể là chưa chính xác, khoa học. Sau khi trao đổi , hợp tác với


bạn và dựa vào những kết luận của thầy, người học tự đánh giá lại sản phẩm của
mình. Học sinh so sánh, đối chiếu kết luận của thầy với sản phẩm của mình xem
có gì đúng, sai, đủ, thiếu hay dở. Từ đó tự sửa sai, tự điều chỉnh bổ sung những
điều cần thiết vào sản phẩm ban đầu, tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách giải
quyết vấn đề và cách xử lý tình huống của mình. Từ đó hoàn thiện sản phẩm, học
sinh tự đánh giá kết quả học tập của mình, làm cơ sở cho việc đánh giá của thầy cô
giáo.
Đồng thời do yêu cầu của cải cách giáo dục nhằm đào tạo con người đáp
ứng được yêu cầu của xã hội. Nên nội dung chương trình sách giáo khoa được cải
tiến khoa học hơn, tinh giản hơn và cập nhật được kiến thức hiện đại. Đòi hỏi
phương pháp dạy học cũng phải cải tiến, đổi mới cho phù hợp. Tạo điều kiện để
phát huy hết khả năng tư duy sáng tạo, độc lập suy nghĩ tìm ra kiến thức mới.
Giúp học sinh bộc lộ phát triển tiềm năng của mình. Thích ứng với điều
kiện hoàn cảnh mới một cách nhanh nhất.
3.Thực trạng Dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh ở
trường Tiểu học
3.1. Về học sinh:
- Trường có tổng số học sinh khối 1 là 105 em/3 lớp. Tất cả các em đều học
chương trình hai buổi/ngày. Phòng học được trang bị bàn ghế đầy đủ, SGK, đồ
dùng học Toán đúng qui định đáp ứng được yêu cầu của dạy học toán theo đúng
hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh. Đặc biệt về chất lượng học tập môn
toán của các em cũng tương đối tốt. Đa số các em ham thích môn toán nên việc tổ
chức dạy học toán theo hướng trên là rất phù hợp.
3.2. Về giáo viên:
- Với trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn của mỗi giáo viên khối 1. Tuổi nghề của
từng đồng chí đã tương đối cao. Người ít nhất tuổi nghề cũng trên 7 năm dạy học.
Cùng với tập thể sư phạm vững mạnh của trường đã là môi trường tốt để các đồng

chí vươn lên trong giảng dạy. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm tôi cần đề cập tới
trong chuyên đề này về phương pháp dạy học toán theo hướng tích cực hoá hoạt
động của học sinh
3.3. Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy học một số bài trong chương
"Các số trong phạm vi 100. Đo độ dài. Giải toán có lời văn".


a. Về nội dung:
Chương 3 gồm 43 tiết: Từ tiết 69 đến tiết 111 chủ yếu là các dạng bài: Bài
mới, luyện tập, thực hành đo độ dài đoạn thẳng, phép cộng, trừ dạng 14 + 3, 17
-3, 17-4, ... cộng, trừ các số tròn chục hay các số có hai chữ số , so sánh các số có
hai chữ số , giải toán có lời văn
b.Về phương pháp vận dụng .
Qua điều tra, dự giờ toán lớp 1 ở cả 3 lớp, tôi thấy đa số các đồng chí giảng
dạy ở khối 1 đã bước đầu sử dụng phương pháp dạy học tích cực hoá hoạt động
của học sinh.
Đối với chương trình toán lớp 1 giáo viên không cần đổi mới nội dung mà
chỉ nghiên cứu bài từ đó tìm phương pháp giảng dạy, lựa chọn đồ dùng trực quan
cho thích hợp và tổ chức các trò chơi toán học sẽ gây hứng thú học tập cho học
sinh.
3.4 . Thực trạng dạy và học chương : Các số trong phạm vi 100
Mặc dù các đồng chí giáo viên đã tích cực nghiên cứu bài giảng. Bước đầu
đã sử dụng phương pháp dạy học tích cực hóa hoạt động học của học sinh.Tuy
nhiên các đồng chí giáo viên vẫn không tránh khỏi sự lúng túng trong khi áp dụng
phương pháp này.
Trong giờ học, ở một số lớp học sinh chưa được thực hành nhiều. Các việc
làm theo mẫu của học sinh vẫn còn. Việc dạy chưa cá thể hoá tới từng học sinh
trong lớp nên chưa phát huy hết tính độc lập, sáng tạo của từng cá nhân. Giáo viên
đã tổ chức trò chơi toán học giúp học sinh hiểu bài tốt hơn. Nhưng bước đầu giáo
viên mới vận dụng, áp dụng nên cánh thức tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả cao,

còn mang nhiều tính chất hình thức.
Qua một số tiết dự giờ của một số đồng nghiệp tôi thấy vẫn có học sinh đã
hiểu bài nhưng không trình bày diễn đạt được. Hoặc có học sinh chỉ làm theo mẫu
nhưng không hiểu được hết bản chất của nội dung kiến thức. Bởi trong lúc giảng
dạy có những lúc giáo viên còn sử dụng phương pháp giảng giải, thuyết trình. Đôi
khi, còn biểu hiện của phương pháp cũ. Có giờ dạy giáo viên đã để học sinh tự
nghiên cứu, tự nêu ý kiến của mình, học sinh làm việc trong vở bài tập, nhận xét
cách làm, cách trả lời của bạn, đổi chéo vở sửa bài cho bạn khi giáo viên đã cho


học sinh sửa trên bảng...Song khi tổ chức cho học sinh làm chưa triệt để, chưa dứt
khoát vẫn còn lúng túng trong từng thời điểm nhất định của tiết dạy.
Về nhận thức đặc trưng phương pháp bộ môn : Qua trao đổi, đàm thoại,
phỏng vấn, xem bài soạn của giáo viên, tất cả giáo viên dạy toán khối 1 đều có
chung nhận xét : Phải vận dụng dạy học toán theo hướng tích cực hoá hoạt động
của học sinh nhằm phát huy khả năng học tập, sáng tạo để vận dụng thực hành tốt
hơn. Bởi vì chỉ khi áp dụng phương pháp dạy học trên sẽ hình thành cho học sinh
khả năng tự thực hiện nhiệm vụ học cá nhân trên lớp, làm việc trong nhóm, lớp.
Ngoài ra học sinh biết vận dụng những điều đã học để giải quyết nhiệm vụ trong
học tập, trong cuộc sống.... biết chia sẻ kết quả học tập với bạn, với cả nhóm giúp
các em mạnh dạn hơn khi giao tiếp ... Không những vậy, khi vận dụng phương
pháp dạy học trên còn hình thành cho học sinh một số phẩm chất như chăm học,
chăm làm, tích cực tham gia các hoạt động, hay phong trào học tập.Từ đó giúp học
sinh tự tin, mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ học tập, biết trình bày ý kiến cá
nhân trước nhóm...
Do vậy các giáo viên đã bước đầu có khái niệm về dạy học toán theo hướng
tích cực hoá hoạt động của học sinh. Nhưng để vận dụng vào các tiết dạy thì còn
một khoảng cách nhất định giữa lý thuyết và thực tiễn học sinh trong lớp.
4. Một số biện pháp nâng cao chất lượng Dạy học theo hướng tích cực hóa
hoạt động của học sinh

4.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
- Mỗi giáo viên muốn giảng dạy môn toán đạt kết quả cao, giáo viên nên
tiếp tục học thêm, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức cho mình, từ đó sẽ giúp
giáo viên soạn, giảng và áp dụng tốt hơn. Cho nên, khi có kiến thức giáo viên sẽ
biết được nội dung cơ bản của bài dạy là gì? Cần kiến thức nào liên quan phục vụ
cho bài đó. Ngoài ra có thể không cần phụ thuộc vào các bài tập trong sách giáo
khoa mà giáo viên biết chọn lọc kiến thức bên ngoài đưa vào cho phù hợp. Từ việc
hiểu được nội dung sẽ chọn được phương pháp tổ chức điều hành học sinh cho đạt
kết quả tốt. Mặt khác từ nội dung bài học giáo viên có thể soạn các phiếu bài tập
làm sao xoáy sâu vào kiến thức cơ bản của bài chứ không phải phiếu bài tập là
chép sẵn các bài đã có trong sách giáo khoa. Từ cách hiểu đó giáo viên sẽ biết


được bài nào cần phiếu bài tập, bài nào thì không cần phiếu. Cho nên việc có kiến
thức sẽ giúp cho mỗi giáo viên ứng xử, giải quyết tốt các tình huống xảy ra trên
lớp.
- Khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực hoá hoạt động của học sinh,
hàng tuần giáo viên trong tổ nên tổ chức chuyên đề một buổi để thảo luận một số
bài toán khó dạy trong tuần. Khi đó giáo viên vận dụng biết cách tổ chức các trò
chơi toán học, buổi thảo luận của lớp đạt kết quả tốt hơn, làm cho các em thêm
ham thích môn học, vừa học vừa chơi mà vẫn hiểu bài. Chính từ đó tạo ra môi
trường toán học giúp các em dần hình thành, phát triển nhân cách con người lao
động tự chủ - năng động và sáng tạo và tự tin trong giai đoạn hiện nay.
- Ngoài ra trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải phân loại học sinh theo
nhóm-đối tượng để thường xuyên theo dõi đánh giá kịp thời, khuyến khích động
viên học sinh.Thường xuyên bổ sung các dạng bài tập có tính thực tiễn để các em
dễ nhớ, phát huy tư duy sáng tạo giúp củng cố kĩ năng toán học cho các em .
-Khi dạy theo hướng này giáo viên cần lựa chọn nội dung sao cho phù hợp
với đối tượng lớp mình

- Ngoài ra mỗi giáo viên cần tăng cường tiếp tục công tác dự giờ, thực tập
để học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp. Đối với dạy học toán theo hướng
tích cực hoá hoạt động của học sinh việc học tập cách tổ chức điều khiển mọi hoạt
động của học sinh, việc ứng xử các tình huống ở một tiết dạy, cách tổng kết của
giáo viên sau khi học sinh làm xong phiếu bài tập, .... là rất cần thiết.
4.2. Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước giải dạng giải toán có lời văn
theo hướng tích cực
Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn phức tạp.Việc hình thành kĩ
năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ năng tính.Vì bài toán là sự kết hợp nhiều
khái niệm, nhiều quan hệ toán học
Giải toán không chỉ là sự kết hợp nhờ giải mẫu rồi áp dụng mà đòi hỏi phải
nắm chắc quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính.Giải toán gồm những
thao tác: xác lập được mối liên hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm
trong điều kiện của bài toán, chọn phép tính thích hợp trả lời đúng câu hỏi của bài


toán. Bởi vậy, muốn giải toán được tốt - đòi hỏi học sinh phải có khả năng độc lập
suy nghĩ, biết tính đúng, nắm chắc được qui tắc chung để giải được toán.
Cho nên điều chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp học sinh tự tìm
hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện bài toán mà
thiết lập các phép tính số học tương ứng, phù hợp. Để tiến hành được điều đó, việc
dạy toán diễn ra theo 3 mức độ.
- Mức độ thứ nhất: Hoạt động chuẩn bị cho việc giải toán.
- Mức độ thứ hai: Hoạt động làm quen với việc giải toán.
- Mức độ ba: Hoạt động hình thành kĩ năng giải toán.
Để học sinh nắm vững được các bước của quá trình giải toán giáo viên cần
tiến hành như sau:
4.2.1 -Hoạt động chuẩn bị cho việc giải toán:
Trước mỗi giờ toán giáo viên nên nghiên cứu kĩ bài toán tìm xem đồ dùng
nào phù hợp với bài như các nhóm đồ vật, các mẫu hình, tranh vẽ.

Mỗi học sinh có 1 hộp hình học toán theo yêu cầu của giáo viên học sinh
được rèn luyện các thao tác trên tập hợp các nhóm đồ vật, các mẫu hình.
Phần lớn các bài toán đều có chủ đề liên quan tới các đại lượng và mối quan
hệ giữa các đại lượng trong bài toán. Vì thế, việc rèn kĩ năng thao tác qua việc học
về phép đo đại lượng là rất cần thiết cho việc giải toán.
4.2.2-Hoạt động làm quen với việc giải toán: Tiến hành theo 4 bước.
Bước 1:Tìm hiểu nội dung bài toán
Bước 2:Tìm cách giải bài toán
Bước 3: Thực hiện cách giải bài toán.
Bước 4: Kiểm tra cách giải bài toán.


a-Tìm hiểu nội dung bài toán:
Việc tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc đề toán
(dù bài toán cho dưới dạng lời văn hoàn chỉnh, hoặc bằng dạng tóm tắt, sơ đồ.)
học sinh cần phải đọc kĩ, hiểu rõ bài toán cho biết cái gì, cho biết điều kiện gì, bài
toán hỏi gì? Khi đọc bài toán học sinh phải hiểu thật kĩ một số từ, thuật ngữ quan
trọng chỉ rõ tình huống toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường, chẳng
hạn: "bay đi" "thưởng hai bút chì", "bị vỡ chai", “cho thêm”, “ bay đến”....
- Nếu trong bài toán có thuật ngữ nào học sinh chưa hiểu rõ, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ đó trong bài toán đang
làm. Sau đó học sinh thuật lại bằng lời vắn tắt bài toán mà không cần đọc lại
nguyên văn bài đó.
b-Tìm tòi cách giải toán;
Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ kiện,
điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác định mối liên hệ giữa chúng và tìm
được các phép tính số học thích hợp.
Hoạt động này thường diễn ra như sau:
*Minh hoạ bài toán bằng tóm tắt đề toán, dùng sơ đồ, dùng mẫu vật, tranh vẽ.
Ví dụ bài toán:

"Nhà An có 5 con gà. Mẹ mua thêm 3 con gà. Hỏi nhà An có tất cả bao nhiêu
con gà?"
Đầu tiên giáo viên cho học sinh đọc lại đề bài toán nhấn mạnh các từ ngữ
quan trọng như:


-An 5 con gà - thêm 3 con gà - Tất cả có bao nhiêu con gà?
Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng cách hỏi:
-

Có mấy con gà (5 con)

-

Thêm mấy con gà (3 con)

- Bài toán hỏi gì?

Trình bày bảng
Có: 5 con
Thêm : 3 con
Tất cả có...con?

Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán giáo viên hướng dẫn học sinh:
*Lập kế hoạch giải toán nhằm xác định trình tự giải quyết, thực hiện các phép
tính số học bằng việc đi từ câu hỏi của bài toán đến số liệu hoặc đi từ số liệu đến
các câu hỏi của bài toán.
Ví dụ:
dữ kiện:


Với bài toán trên ta có thể xuất phát từ câu hỏi của bài toán đến các

- Bài toán hỏi gì? (Hỏi tất cả có bao nhiêu con gà?)
- Muốn tìm xem tất cả có bao nhiêu con gà thì phải làm tính gì? (Phải
làm tính cộng 5 con gà + với 3 con gà)
c.Thực hiện cách giải bài toán: cho học sinh nắm vững các bước thực hiện
giải bài toán có lời văn ;
- Viết câu trả lời
-Viết phép tính
-Viết đáp số
d- Kiểm tra cách giải bài toán:
Việc kiểm tra này nhằm xem cách giải đúng hay sai chỗ nào để sửa chữa,
sau đó nêu cách giải đúng, ghi đáp số.


Ví dụ: Cũng có bài toán có chữ nhiều hơn như: Mẹ 36 tuổi, mẹ nhiều hơn
con 30 tuổi. Hỏi con bao nhiêu tuổi?
Có học sinh máy móc làm phép cộng vì thấy "nhiều hơn", được kết quả là
66 tuổi.
Phần kiểm tra cách giải bài toán này sẽ giúp các em hiểu được mình làm
đúng hay sai. Giáo viên cần giúp các em phân tích bài toán qua thực tế cuộc sống
như: Mẹ bao giờ cũng hơn tuổi con.
Bài toán nói: Mẹ hơn tuổi con có nghĩa là con kém tuổi mẹ.
Đến đây học sinh có thể tìm cách giải dễ dàng hơn-sau đó so sánh tuổi con
với mẹ xem đã hợp lí chưa. Nhờ phần kiểm tra lại bài toán mà học sinh ít nhầm
lẫn trong các dạng toán này.
4. 2.3.Mức độ ba: Hoạt động hình thành kĩ năng giải toán.
Hoạt động này bao gồm việc thực hiện các phép tính đã nêu trong kế hoạch
giải toán và trình bày giải. Mỗi bài đều có câu lời giải, phép tính, đáp số.
Đối với học sinh lớp 1 bước đầu làm quen với việc giải toán có lời giải nên

giáo viên không nên áp đặt học sinh làm theo ý mình mà để các em nêu câu lời
giải theo sự hiểu biết của học sinh có như vậy mới khơi dậy được tư duy toán học
ở các em.
Theo ví dụ trên học sinh có thể có lời giải như:
-

An có số con gà là:

-

Tất cả có số con gà là:

Sau khi tìm được lời giải - học sinh căn cứ vào từ khoá ở câu hỏi để chọn
phép tính thích hợp cho bài toán, phép tính viết theo quy ước có ghi tên đơn vị, ghi
đáp số kèm theo đơn vị.


-

Các bước hoàn chỉnh của phần giải bài toán theo ví dụ trên:
Giải
An có số con gà là:
5 + 3 = 8 (con gà)
Đáp số: 8 con gà.

Không phải ngay từ đầu học sinh đã quen với cách giải này, để giúp học
sinh nắm vững các bước giải giáo viên giúp học sinh nắm vững các bài toán mẫu,
giáo viên ra nhiều bài toán có dạng tương tự để học sinh được luyện tập thành
thạo, tự chiếm lĩnh tri thức hình thành nên quy tắc chung để giảo bài toán có lời
văn.

Tóm lại, qua việc hướng dẫn các em nắm được các bước để giải được bài
toán có lời văn ở dạng phép cộng:
-

Học sinh biết cách tóm tắt bài toán bằng lời và sơ đồ . Qua đó giúp học

sinh hình thành được phép tính thích hợp.
-

Học sinh hiểu được một số thuật ngữ toán và ý nghĩa của bài toán.

-

Học sinh biết cách trình bày bài toán một cách hợp lí khoa học.

-

Học sinh được luyện tập nhiều qua các dạng toán nên khi chuyển qua

giải toán có lời văn ở dạng phép tính trừ rất thuận tiện và thao tác nhanh hơn.
5. Phần thực nghiệm.
5.1.Mục đích của thực nghiệm.
Qua phần thực nghiệm tôi muốn làm sáng tỏ một số vấn đề sau :
- Đổi mới phương pháp dạy học tạo ra môi trường khuyến khích từng học sinh
chủ động hoạt động học tập.
- Qua quá trình dạy học phải coi trọng và coi học sinh là nhân vật trung tâm,
giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh hoạt động tự nghiên cứu, tự nêu ý kiến


của mình. Từ đó giúp học sinh tự chiếm lĩnh tri thức một cách tự nhiên theo hướng

tích cực.
- Giáo viên được quyền và có trách nhiệm lựa chọn nội dung và phương pháp
dạy từng bài học thích hợp với học sinh nhằm đạt yêu cầu chung của chương trình
môn học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh .
- Qua thực nghiệm thấy rõ kết quả tương đối chính xác của việc dạy toán cho
học sinh lớp 1 bằng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng tích cực hoá hoạt
động của học sinh.
5. 2. Nội dung : Thực nghiệm bằng hai tiết trên cùng một bài dạy với hai lớp có
lực học tương đối ngang nhau.
- Tiết 1: Dạy theo phương pháp truyền thống, thực hiện trên lớp 1A- bài:
Giải toán có lời văn”
- Tiết 2 : Dạy theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, thực hiện trên lớp
1C .
5.3 Phương pháp :
- Phương pháp tự nghiên cứu
- Phương pháp nêu vấn đề.
5.4 Thời gian : tháng 2/ 2014
5.5.Địa điểm : Lớp 1A, 1C
6. Kết quả đạt được :
- Tiết 1 : Dạy thực nghiệm tại lớp 1A với phương pháp dạy truyền thống tôi
đã hướng dẫn học sinh biết cách thiết lập được các bước giải bài toán có lời văn
bằng phép tính cộng. Nhìn chung qua một số ví dụ các em đã nắm được cách giải
và vận dụng vào làm bài .Nhưng khi thay đổi đôi chút yêu cầu tìm câu trả lời khác
cho bài toán.Các em có vẻ tỏ ra lúng túng không biết trả lời như thế nào ? (đối với
học sinh chưa thành thạo vì các em mới được làm quen dạng toán này) .Ngoài ra
tôi thiết nghĩ đối với học sinh chậm hiểu đôi khi các em còn không nắm rõ được
cách viết câu trả lời cho bài toán như thế nào? nên thường thì các em sẽ việt lại bài
toán.Đây cũng là vấn đề vất vả khi mới dạy dạng toán này cho các em.
Qua đó chứng tỏ rằng phương pháp dạy học truyền thống học sinh tiếp thu
bài chưa thật tốt, các em chưa tích cực chủ động chiếm lĩnh tri thức nên kiến thức

các em vừa được hình thành chưa có chiều sâu và cũng dễ dàng mất đi. Các em có


thể quên ngay khi học xong bài, chưa ghi nhớ và có tính sáng tạo trong phần
chiếm lĩnh kiến thức mới của mình.
- Tiết 2 cũng vẫn bài đó, tôi dạy thực nghiệm ở lớp 1C sau khi nghiên cứu
thay đổi phương pháp dạy với cách tổ chức dạy học toán theo hướng tích cực hoá
hoạt động của học sinh. Vận dụng phương pháp đó với mục đích: Giáo viên chỉ là
người tổ chức, đạo diễn, hướng dẫn, còn học sinh là nhân vật trung tâm, là diễn
viên tích cực chủ động chiếm lĩnh tri thức thành kiến thức của mình để giúp học
sinh nắm bài tốt hơn.Từ đó học sinh biết cách làm và vận dụng kiến thức vừa học
vào thực tế. Muốn đạt được như vậy trước hết học sinh tự nghiên cứu thảo luận
cách làm dạng toán có lời văn xác lập được mối liên hệ giữa các dữ liệu, giữa cái
đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán, chọn phép tính thích hợp trả
lời đúng câu hỏi của bài toán. Sau đó giáo viên là người chốt lại các bước giải
bài toán có lời văn để học sinh vận dụng vào thực hành tốt hơn
Sau tiết học tôi cũng cho học sinh lớp 1 C làm bài như tiết 1 ( vừa học cá
nhân, học cả lớp, học nhóm ).
*Qua bài dạy thực nghiệm ở cả 2 lớp , tôi đã thu được một số kết quả sau :

Lớp Sĩ số
1A
1C

35
35

Đạt điểm 5 trở lên
9- 10
7-8

SL
%
SL
%
13
37,1
12
34,3
17
48,6
13
37,1

Đạt điểm dưới 5
5- 6
SL
%
8
22,8
5
14,3

SL
2
0

%
5,8

Qua thực nghiệm tôi thấy kết quả có sự tiến bộ rõ rệt.Từ đó càng chứng tỏ

áp dụng cách dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh - học sinh
tiếp thu bài tốt hơn so với tiết học trước. Vì vậy bài giảng có hiệu quả hơn.
Như vậy qua hai tiết dạy thực nghiệm ở hai lớp có lực học ngang nhau, với
hai cách dạy khác nhau tôi thiết nghĩ dạy học toán theo hướng tích cực hoá hoạt
động của học sinh có nhiều ưu điểm phát huy được tính chủ động, sáng tạo của
học sinh, học sinh dễ tiếp thu chú ý vào vấn đề học tập. Học sinh chủ động vận
dụng linh hoạt những kiến thức kĩ năng đã có để nhận thức các vấn đề mới tốt


hơn. Vậy dạy học toán theo hướng trên sẽ phát huy khả năng tư duy toán học cho
học sinh
7. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Như vậy qua việc áp dụng Giải toán có lời văn theo hướng tích cực hóa
hoạt động của học sinh tôi thấy chất lượng giảng dạy của lớp tăng lên đáng kể .
Từ đó tôi thấy nội dung đề tài này có thể áp dụng cho tất cả học sinh khối 1 của
trường Tiểu học nơi tôi đang công tác. Bên cạnh đó để sáng kiển có tính khả thi,
khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực hóa hoạt động của học sinh tôi thiết
nghĩ mỗi giáo viên phải tâm đắc say mê với nghề nghiệp lấy học sinh làm trung
tâm trong quá trình giảng dạy. Giáo viên cần giúp học sinh tự giác chủ động tiếp
thu tri thức, tự mình chiếm lĩnh tri thức, tự mình làm chủ tri thức, tránh để các em
lĩnh hội kiến thức một cách thụ động, máy móc.Cho nên dạy học theo hướng tích
cực hoá hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp cận, nắm vững các trò chơi
toán học với tri thức vừa chiếm lĩnh một cách nhanh chóng, dễ hiểu và hấp dẫn.
Từ đó động viên khích lệ kịp thời và kích thích lòng say mê hứng thú học tập làm
động lực thúc đẩy việc học tập đạt kết quả tốt của học sinh phù hợp cách đánh giá
theo thông tư mới như hiện nay.


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:

Để dạy toán lớp 1 được tốt thì giáo viên phải biết lý do chọn sáng kiến giới
hạn với học sinh lớp nào? Xác định đúng mục đích, nhiệm vụ của việc dạy toán
theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh đạt kết quả cao. Sau đó phải nắm
được các phương pháp nghiên cứu, nắm được nội dung của sáng kiến kinh
nghiệm, giáo viên phải hiểu được cơ sở của việc viết sáng kiến . Từ đó biết cách
tiến hành các phương pháp dạy học theo hướng tích cực, bằng thực nghiệm đối
với học sinh, có kết quả đánh giá chung để rút ra bài học kinh nghiệm. Muốn vậy
để có được kết quả tốt còn phải phụ thuộc vào điều kiện áp dụng của sáng kiến và
phải biết cách khắc phục hạn chế chung và riêng.
2. Khuyến nghị:
Căn cứ vào thực trạng sử dụng phương pháp dạy học toán ở trường tôi, để
góp phần xúc tiến việc thực hiện thành công sự đổi mới phương pháp dạy học toán
theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh. Tôi mạnh dạn đề xuất một số
biện pháp nhỏ mang tính thực tiễn tại trường tiểu học hiện nay.
2.1. Đối với giáo viên.
- Giáo viên phải yêu nghề, mến trẻ, luôn gần gũi với các em. Cần quan tâm
giúp đỡ các em thường xuyên liên tục, nhất là các em có tư duy toán học còn hạn
chế và hoàn cảnh đặc biệt để các em thích ứng dần với hướng học tập tích cực.
- Mỗi giáo viên phải nắm được quy tắc chung về dạy giải toán có lời văn.Từ
đó tìm ra những phương pháp thích hợp để hướng dẫn học sinh
-Thường xuyên tổ chức chuyên đề dạy toán có lời văn trong khối theo
hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh để học hỏi - trao đổi kinh
nghiệm
- Ngoài những bài toán dùng thuật ngữ, những bài toán có độ khó hơn một
chút cũng cần đưa vào nhiều hơn để các em có năng khiếu toán học, có điều kiện
phát triển năng lực của mình hơn nữa.


2.2 Đối với nhà trường.
a) Nhà trường cần quan tâm sâu sắc động viên kịp thời những lớp, cá nhân

học sinh và giáo viên có thành tích chất lượng học môn toán cao.
b) Nhà trường tăng cường trang bị đầy đủ tài liệu, trang thiết bị phục vụ
cho môn toán.
Đối với mỗi giáo viên khi dạy hai buổi / ngày thì giáo viên chỉ nên dạy thêm
không quá tám giờ / tuần để có thời gian nghiên cứu bài dạy. Như dạy bài “Giải
toán có lời văn ” khi biết được những bài trước là bài phép cộng dạng 14 + 3, phép
trừ dạng 17- 3. Sau bài đó là bài luyện tập nhằm tạo lại, gợi lại mạch kiến thức của
các em một cách lô gíc, gây hấp dẫn người học. Đối với phương pháp dạy học tích
cực hoá hoạt động của học sinh thì việc chuyển ý, tạo tình huống cho các em suy
nghĩ là cần thiết.
c) Nhà trường có kế hoạch giảm bớt số lượng học sinh trong một lớp học
để giáo viên có điều kiện dạy cá thể hoá hoạt động học tập của các em. Phải chăng
dạy học toán theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh thì học sinh phải tự
nghiên cứu, tự tìm tòi cách giải bài tập, tự mình lĩnh hội khái niệm, tự mình xử lý
các tình huống, giải quyết các vấn đề thầy đặt ra cho mình theo một trình tự nhất
định. Nếu trong lúc tự mình giải quyết vấn đề gặp khó khăn học sinh sẽ hỏi. Lúc
này giáo viên làm việc với cá nhân, nếu số lượng học sinh vừa phải ( khoảng 25
em / lớp ) thì giáo viên mới quan tâm được tới tất cả học sinh, mọi đối tượng.
Hoặc trong khi thảo luận, có vấn đề gì khó khăn các em lại hỏi, với lượng nhóm
học sinh vừa phải thì giáo viên mới hướng dẫn được hết các nhóm trong một thời
gian nhất định.
d) Nhà trường nên tạo điều kiện để giáo viên nắm bắt được các thông tin
mới nhanh để có phương pháp dạy học phù hợp.
e) Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận, câu lạc bộ toán
học để học sinh có điều kiện “ Chơi mà học, học mà chơi ” Từ đó giúp học sinh
phát huy khả năng tư duy sáng tạo, độc lập suy nghĩ tìm ra kiến thức mới. Đồng
thời có thể giúp học sinh bộc lộ, phát triển tiềm năng môn toán của mình.


Trên đây là đề tài nghiên cứu về cách “ Tổ chức dạy học toán theo hướng tích

cực hoá hoạt động của học sinh ” của tôi. Đề tài này còn có những hạn chế và
thiếu sót phần nào. Rất mong các đồng chí, đồng nghiệp đóng góp ý kiến cho sáng
kiến của tôi được hoàn thiện hơn, đồng thời giúp bản thân tôi trau dồi kinh nghiệm
giảng dạy cũng như quá trình công tác sau này được tốt hơn.
Kính mong sự quan tâm cộng tác và giúp đỡ của các đồng chí trong hội đồng
sáng kiến quan tâm chỉ dẫn để đề tài được hoàn thiện và mang lại hiệu quả thiết
thực.


×