Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

skkn đổi mới phương pháp dạy các yếu tố hình học về thể tích cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.62 KB, 32 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY YẾU TỐ HÌNH HỌC
VỀ THỂ TÍCH
CHO HỌC SINH LỚP 5
BỘ MÔN: TOÁN

1


Năm học 2014 - 2015
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Đổi mới phương pháp dạy yếu tố hình học về thể
tích cho học sinh lớp 5
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn Toán Tiểu học
3. Tác giả:
Họ và tên: Vũ Thị Hạnh

Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 13 - 11 - 1976
Trình độ chuyên môn: ĐHTH
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn 4+5
Đơn vị công tác: Trường TH Nhân Huệ.
Điện thoại: 0979752835
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường TH Nhân Huệ
Địa chỉ: Xã Nhân Huệ, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương


Điện thoại: 03203881028
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:
Tên đơn vị: Trường TH Nhân Huệ
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Nhà trường tạo điều
kiện nhất trí với kế hoạch giảng dạy của GV, GV quan tâm, mong muốn nâng
cao chất lượng bộ môn, HS được tham gia đầy đủ các tiết học về thể tích.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: năm học 2014 - 2015
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG

(ký, ghi rõ họ tên)

SÁNG KIẾN
2


Vũ Thị Hạnh
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong nhiều năm dạy học lớp 5 và chỉ đạo sinh hoạt tổ chuyên môn, vấn
đề dạy học về thể tích một hình luôn là vấn đề các đồng chí giáo viên(GV) thắc
mắc, đặc biệt là các GV trẻ mới ra trường. Việc hình thành biểu tượng thể tích,
các công thức tính thể tích, giúp học sinh(HS) vận dụng công thức để giải toán
liên quan đến thể tích khiến bản thân tôi và nhiều GV cùng trăn trở làm thế nào
để có được cách làm phù hợp nhất để giúp GV giảng dạy thuận lợi, HS nắm
chắc kiến thức. Hơn nữa, trong cuộc sống hàng ngày, có rất nhiều việc liên
quan đến thể tích của một vật thể mà HS lại chưa biết áp dụng công thức được
học để thực hiện tính toán. Do vậy, tôi đã tìm hiểu và viết sáng kiến “Đổi mới
phương pháp dạy yếu tố hình học về thể tích cho học sinh lớp 5” nhằm

nâng cao chất lượng dạy và học về thể tích cho HS lớp 5.
2. Các điều kiện, thời gian, đối tượng để áp dụng sáng kiến:
Điều kiện áp dụng sáng kiến:
* Đối với nhà trường: Tạo điều kiện cho GV nghiên cứu và áp dụng sáng kiến.
*Về phía giáo viên: GV phải nghiên cứu kĩ và nắm chắc nội dung chuẩn kiến
thức, kĩ năng của môn học nói chung và phần hình về thể tích một hình nói
riêng.
- Cần vận dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt, kích thích hứng thú
học tập và phát huy được sự sáng tạo, chủ động khám phá kiến thức của HS.
* Về phía học sinh: Có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa, vở ghi, có một
số sách tham khảo như: Bài tập Toán 5, vở bài tập Toán 5.
- Học sinh phải chuẩn bị bài chu đáo, có ý thức tự học, tự nghiên cứu, có lòng
hăng say trong học Toán.
Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2014 - 2015
Đối tượng áp dụng sáng kiến: học sinh lớp 5.
3. Nội dung của sáng kiến
3


+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Áp dụng sáng kiến trong dạy học là GV không còn phụ thuộc vào hướng
dẫn giảng dạy của sách giáo viên (SGV), không dừng lại như nội dung của sách
giáo khoa (SGK). Các giải pháp được đưa ra trên cơ sở mục tiêu của các tiết
học đảm bảo phát triển kĩ năng thực hành cho HS. Dạy học phải đi đôi với thực
hành. Chính vì vậy tôi đã đề nghị thực hiện một tiết thực hành cho phần thể
tích.
+ Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Các giải pháp của sáng kiến được tôi áp dụng cho HS lớp 5 ở trường TH
nơi tôi công tác. Trong điều kiện nhà trường ở vùng khó khăn của thị xã Chí
Linh, HS còn chịu nhiều thiệt thòi, ít được tiếp xúc với thế giới bên ngoài,

những giải pháp trên được áp dụng rất phù hợp cho việc giảng dạy và học tập
của GV và HS. Các giải pháp trên không chỉ phù hợp cho các trường khó khăn
mà còn có thể áp dụng rộng rãi cho lớp 5 của các trường Tiểu học.
+ Lợi ích thiết thực của sáng kiến:
- Nâng cao chất lượng dạy giải toán về thể tích cho học sinh lớp 5, đáp ứng
được yêu cầu của giáo dục hiện nay là đào tạo những con người phát triển toàn
diện, linh hoạt, năng động, chủ động, sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề.
- Đổi mới cách đặt vấn đề trong dạy kiến thức mới cho học sinh một cách tích
cực. Giúp học sinh luôn tự giác, tích cực, chủ động học tập. Phát triển ở học
sinh những phẩm chất đạo đức cá nhân như: tính kiên trì, lòng nhẫn nại, tinh
thần trách nhiệm, ý thức tập thể.
- Học sinh nắm vững, hiểu sâu và bền vững hơn về kiến thức.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Sáng kiến “Đổi mới phương pháp dạy yếu tố hình học về thể tích cho
học sinh lớp 5” đã thực sự giúp GV nâng cao chất lượng dạy về thể tích, giúp
HS nắm chắc kiến thức và vận dụng thành thạo.
5. Đề xuất, kiến nghị

4


Từ những lợi ích mà sáng kiến mang lại, tôi đề nghị các cấp lãnh đạo
nghiên cứu để sáng kiến được áp dụng cho tất cả HS lớp 5 trên toàn thị xã.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Trong thực tiễn dạy học
Năm học 2014-2015 là năm học đầu tiên thực hiện đổi mới đánh giá học
sinh theo TT 30 của Bộ GD & ĐT. Năm học tiếp tục áp dụng mô hình trường
học mới VNEN trong dạy học và giáo dục HS. Cùng với sự đổi mới toàn diện
nền giáo dục nước nhà, bản thân mỗi GV đều luôn nỗ lực phấn đấu hoàn thành

tốt nhiệm vụ giảng dạy của mình, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của
địa phương nói riêng và của ngành giáo dục nói chung. Một trong những môn
học góp phần không nhỏ trong kết quả giáo dục HS là môn Toán.
Đối với bậc học phổ thông nói chung và bậc tiểu học nói riêng, môn
Toán với tư cách là một môn học độc lập, nó cùng với các môn học khác góp
phần đào tạo nên những con người phát triển toàn diện. Môn Toán có một vị trí
hết sức quan trọng đối với học sinh tiểu học. Trong đó nội dung hình học có
một vai trò không nhỏ đối với kết quả học tập của học sinh. Phần hình học ở
tiểu học được chia ra làm hai mảng kiến thức rõ rệt là hình học phẳng và hình
học không gian, trong đó hình học không gian chiếm một phần không nhỏ. Để
học tốt phần hình học, các nhà giáo dục đã bố trí dung lượng kiến thức từ đơn
giản đến phức tạp, từ nhận dạng hình cơ bản đến cách tính chu vi, diện tích, thể
tích theo từng khối lớp. Trong các mạch kiến thức của môn Toán lớp 5 thì nội
dung hình học được trình bày trong chương 3 với 35 tiết và 5 tiết ôn tập trong
chương 5. Ngoài ra, các bài toán có nội dung hình học còn xen kẽ trong các
chương khác chiếm tương đối nhiều tiết. Ở nội dung hình học mà học sinh lớp
5 được tìm hiểu thì toán về thể tích là một dạng bài khó mà học sinh cần nắm
chắc để vận dụng trong cuộc sống.
Qua các buổi họp tổ chuyên môn, một số đồng chí giáo viên thường đưa
ra thắc mắc về việc dạy khái niệm hình học cho học sinh lớp 4+5. Trong đó
việc dạy thể tích cho học sinh lớp 5 được nhiều giáo viên quan tâm và đưa ý
5


kiến thảo luận. Tuy nhiên, để thống nhất về phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học như thế nào cho phù hợp là vấn đề cần được tìm hiểu và nghiên cứu kĩ
hơn. Vì thế tôi luôn suy nghĩ và tìm các biện pháp để cùng thực hiện giảng dạy
trong khối sao cho chất lượng học tập của HS được nâng cao.
1.2. Trong thực tế cuộc sống
Qua việc phỏng vấn một số học sinh lớp 6 của Trường THCS mà năm

trước tôi đã chủ nhiệm, tôi thấy nhiều vấn đề liên quan đến thể tích mà học sinh
chưa nắm được bản chất như: khối đất đá, khối nước, dung tích,..Tuy đã được
học ở lớp 5 nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, nhiều em đã quên công thức tính
thể tích hình hộp chữ nhật, thể tích hình lập phương, vận dụng để tính thể tích
trong thực tế rất hạn chế.
Điều đó chứng tỏ việc học về thể tích của các em còn mang tính hình
thức, chưa thực sự trở thành kiến thức để có thể vận dụng trong cuộc sống. Vậy
để việc học tập của các em về thể tích một hình thực sự đi vào cuộc sống hàng
ngày thì GV cần phải có những giải pháp mới, những cách làm hiệu quả.
Với những lí do trên, tôi đã chọn nghiên cứu sáng kiến “Đổi mới
phương pháp dạy yếu tố hình học về thể tích cho học sinh lớp 5”
1.3. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, sáng kiến đề xuất các biện
pháp nâng cao chất lượng dạy học về thể tích cho học sinh lớp 5 nhằm góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học.
1.4. Đối tượng nghiên cứu:
Các phương pháp nâng cao chất lượng dạy thể tích cho học sinh lớp 5.
1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của biện pháp nâng cao chất lượng dạy thể
tích cho học sinh lớp 5.
- Nghiên cứu thực trạng dạy của giáo viên và thực trạng học của học sinh
về thể tích một hình.
- Tìm hiểu phương pháp dạy tính thể tích hình .

6


- Bước đầu đề xuất một số phương pháp nhằm góp phần nâng cao chất
lượng dạy học về thể tích cho học sinh lớp 5.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm định các biện pháp mà sáng

kiến đề xuất.
2. Cơ sở lí luận
Phần "yếu tố hình học” là một mạch kiến thức trong chương trình Toán ở
Tiểu học nhằm cung cấp một số kiến thức gắn với thực hành trong đời sống
thực tế, chưa là phần hình học theo nghĩa quen thuộc. Do đặc điểm phát triển trí
tuệ của học sinh tiểu học, việc dạy học các yếu tố hình học chưa thể dạy trên
phép suy diễn, mà chủ yếu dạy trên sự quan sát, thực hành, giúp học sinh bước
đầu tiếp xúc với các biểu tượng hình học cơ bản, một số tính chất của các hình
hình học.
Các hoạt động hình học ở Tiểu học bao gồm:
- Hoạt động ”thuần túy” hình học: Nhận dạng, vẽ hình, cắt ghép, xếp hình.
- Hoạt động về hình học đo lường mà cốt lõi là tính toán với các số đo đại
lượng.
- Hoạt động giải các bài toán có nội dung hình học, có sự kết hợp giữa hình
học, số học và đại lượng hình học giúp học sinh làm quen với phương pháp suy
luận, suy diễn (cuối cấp học), vận dụng kiến thức đã học giải quyết tình huống
thực tế đơn giản.
Nội dung phần dạy học về thể tích là một trong các hoạt động có nội
dung hình học. Việc nghiên cứu đưa ra các phương pháp dạy học thể tích cho
học sinh lớp 5 góp phần nâng cao chất lượng hoạt động hình học nói chung và
chất lượng phần học về thể tích nói riêng.
Ở lớp 5, nội dung phần hình học gồm:
- Giới thiệu: hình hộp chữ nhật, hình lập phương (phần hình trụ, hình cầu được
giảm tải). Tính diện tích hình tam giác, hình thang, tính chu vi, diện tích hình
tròn. Tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích hình hộp chữ nhật,
hình lập phương. Trong đó nội dung, chương trình dạy về thể tích một hình ở
lớp 5 gồm những nội dung sau:
7



- Về hình thành khái niệm:
+ Khái niệm về thể tích một hình.
- Về đơn vị đo thể tích:
+ Các đơn vị thường dùng: cm3, dm3, m3.
- Cách tính thể tích hình hộp chữ nhật, hình lập phương:
+ Quy tắc và công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật, hình lập
phương.
+ Từ công thức tính thể tích rút ra cách tính: chiều cao, diện tích đáy
tương ứng.
- Về chương trình: Phần thể tích một hình được đưa vào chương trình Toán 5
chủ yếu tập trung ở 6 tiết (Thể tích một hình, Xăng- ti- mét khối. Đề- xi- mét
khối, Mét khối, Luyện tập, Thể tích hình hộp chữ nhật, Thể tích hình lập
phương). Nhưng cách tính thể tích lại được vận dụng vào rất nhiều trong các
tiết Luyện tập chung và xuyên suốt cho đến bài cuối cùng của chương trình
Toán 5. Trong các nội dung đó, việc dạy nội dung thể tích một hình cho học
sinh rất quan trọng. Nó giúp học sinh có kiến thức để tiếp tục học tập ở những
lớp của bậc học THCS.
3. Thực trạng của vấn đề.
Qua dự giờ thăm lớp, kiểm tra chất lượng HS, tôi nhận thấy:
3.1.Việc dạy của giáo viên
3.1.1. Ưu điểm:
- GV luôn tìm tòi, nghiên cứu SGK, SGV và tích cực trao đổi cùng đồng
nghiệp, tổ chuyên môn về những nội dung hình học.
- Giảng dạy nhiệt tình, quan tâm đến các đối tượng học sinh, đảm bảo
bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, nội dung chương trình.
- Bước đầu vận dụng mô hình VNEN trong dạy học về thể tích.
3.1.2. Hạn chế
- Khi dạy hình thành biểu tượng thể tích cho học sinh lớp 5, nhiều giáo
viên còn lúng túng chưa thực sự hiểu rõ cách làm như SGK. Họ cho rằng SGK


8


đưa ra nội dung thật sơ sài, khó hiểu, khó nêu bật vấn đề cho học sinh nắm
được kiến thức một cách chủ động.
- Trong quá trình hình thành công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật,
hình lập phương, GV cũng chỉ biết thực hiện theo SGK, không sáng tạo theo
một cách dễ hiểu hơn nên HS thuộc và áp dụng một cách máy móc các công
thức.
- GV chưa biết liên hệ thực tế để mở rộng kiến thức và áp dụng kiến thức
trong thực tế.
3.2. Việc học của học sinh
3.2.1. Ưu điểm:
- HS có đầy đủ SGK, vở ghi, VBT, các đồ dùng học tập.
- Chú ý nghe giảng, thực hiện các nhiệm vụ học tập theo đúng yêu cầu
của GV.
- Tích cực trong hoạt động nhóm, biết áp dụng các công thức với các số
đo cụ thể.
3.2.2. Hạn chế
- Các em được tìm hiểu bài học chủ yếu qua nội dung SGK, nên chỉ nắm
được bài một cách máy móc mà chưa thực sự hiểu về bản chất của các biểu
tượng hình học, các công thức liên quan.
- HS còn lúng túng khi tính thể tích của hình khối không phải dạng hình
hộp.
- Nhiều học sinh chưa vận dụng được công thức một cách thành thạo,
chính xác, còn sai về đơn vị đo.
- Việc vận dụng tổng hợp các kiến thức trong giải toán có lời văn còn hạn chế.
Cụ thể qua việc học sinh làm một bài kiểm tra ngắn, kết quả lớp tôi năm học
trước như sau:
Đề bài (thời gian 10 phút)

Một bể nước dạng hình hộp chữ nhật có các kích thước đo trong lòng bể
là: chiều dài 4m, chiều rộng 3m, chiều cao 2,5m. Biết rằng 80% thể tích của bể
đang chứa nước. Hỏi:
9


a) Trong bể có bao nhiêu lít nước? (1l = 1dm3)
b) Mức nước chứa trong bể cao bao nhiêu mét?
Lớp
Năm
HS
Điểm 9-10
Điểm 7-8
5a

2013-2014

14

2

14,3%

5

35,7%

Điểm 5-6
6


42,9%

Dưới 5
1

Theo bảng kết quả trên, tôi thấy đa số HS chỉ làm được một phần của bài
toán. Vẫn còn HS chưa đạt yêu cầu và tỉ lệ HS đạt điểm cao còn hạn chế. Điều
đó chứng tỏ HS vận dụng kiến thức chưa tốt, chưa biết phân tích tìm lời giải
của bài toán.
Từ những hạn chế của GV và HS, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện
pháp để đổi mới phương pháp đã thực hiện nhằm khắc phục các hạn chế đó,
nâng cao chất lượng của học sinh trong việc học nội dung về thể tích. Những
biện pháp sau
được tôi bắt đầu áp dụng trong năm học này. Đồng thời, tôi cũng trao đổi cùng
GV
trong khối để cùng tham khảo.
4. Các biện pháp thực hiện
4.1. Nghiên cứu kĩ nội dung phần hình học trong chương trình Toán
5
Phần hình học trong chương trình Toán 5 được trình bày trọn vẹn trong
chương 3 gồm 35 tiết (có một tiết giảm tải được thay bằng tiết do GV tự chọn).
Ngoài ra còn một số tiết trong chương 5 khi ôn tập cuối năm.
Theo tác giả cuốn “Thực hành phương pháp dạy học Toán ở TH”- Trần
Ngọc Lan thì chương trình Toán của học kì II lớp 5 có một số điểm đáng chú ý
sau:
- Mục tiêu cốt lõi trong chương trình kì II Toán 5 là hình thành khái niệm
về một số hình hình học; công thức tính diện tích, thể tích các hình và vận dụng
tổng hợp các kiến thức vào giải toán.
- Kiến thức khó đáng lưu ý là khái niệm về thể tích một hình, về đơn vị
đo thể tích.

10

7,1%


- Phương pháp dạy học chủ yếu khi hình thành các công thức tính diện
tích và thể tích hình học là phương pháp trực quan kết hợp với “ Gợi mở – Vấn
đáp” và “ Thực hành – Luyện tập”. Sử dụng phép quy nạp không hoàn toàn
giúp học sinh thừa nhận các công thức một cách có căn cứ.
Như vậy, phần dạy về thể tích là một trong những kiến thức khó đáng lưu
ý của nội dung hình học. Một số công thức, biểu tượng hình học khác còn có cơ
sở từ kiến thức nền tảng đã được học sinh làm quen từ những năm học trước,
nhưng thể tích thì là lần đầu tiên các em được tiếp cận. Sau này trong chương
trình Toán học bậc THCS thì thể tích được đưa vào phần hình học lớp 8. Học
sinh lớp 5 bước đầu được làm quen với khái niệm thể tích rồi sau đó rất lâu các
em mới lại được gặp lại phần kiến thức này. Vì thế giáo viên cần nắm chắc các
nội dung và thông qua giảng dạy để giúp học sinh vận dụng kiến thức một cách
hợp lí trong cuộc sống, không để rơi vãi kiến thức.
4.2. Chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học.
Trong bộ đồ dùng dạy học Toán 5 đã có hình hộp chữ nhật, hình lập
phương, mô hình để dạy thể tích hình hộp chữ nhật. Tuy nhiên để đảm bảo cho
tiết dạy được phong phú và vận dụng tích cực trong thực tế thì Gv cần chuẩn bị
thêm một số vật thể khác không thuộc dạng hình hộp mà có thể dễ dàng tìm
trong thực tế như: sỏi, đá, chai, lọ, vỏ hộp…
Trong quá trình dạy về thể tích, tôi đã sử dụng giáo án điện tử để thuận
lợi cho HS quan sát từ thực tế: Hình ảnh của những khối đất, đá để làm đường,
nước trong bể cá...Ngoài ra, tôi còn làm mô hình của các khối gỗ trong bài tập
2 trang 121, bài tập 3 trang 123 của tiết Luyện tập chung bằng đất nặn để có thể
thực hiện quan sát và chia cắt hình.
4.3. Dạy tiết “ Thể tích một hình” theo hướng phân hóa đối tượng

HS.
Thể tích của một vật thể được hiểu như khả năng chiếm không gian của
vật thể đó. Biểu tượng thể tích được hình thành bằng cách xét một vật thể đặc
biệt là khối hình hộp chữ nhật. Học sinh sẽ tìm hiểu: khối hình chữ nhật này
chứa được bao nhiêu hình lập phương cạnh 1cm. Số lượng các khối hình lập
11


phương cạnh 1cm sẽ nói lên khả năng chiếm chỗ không gian của khối hình chữ
nhật. Qua đó học sinh có biểu tượng ban đầu về thể tích của khối hình chữ nhật
này. Qua các hoạt động tiếp với các khối hình hình học, HS sẽ có biểu tượng
đúng về thể tích.
Sau khi thực hiện các nội dung như SGK, tôi cho HS quan sát và so sánh
thêm về thể tích của một số vật khác, không thuộc dạng khối hộp như: viên sỏi,
hòn đá, hòn gạch, chai, lọ,..Học sinh dễ dàng nhận ra thể tích của viên sỏi nhỏ
hơn thể tích hòn đá mà các em quan sát được.
Từ các mô hình trong SGK, qua ví dụ 2( Hình C và hình D cùng có 4
hình lập phương như nhau nhưng hình dạng khác nhau), tôi giúp học sinh nhận
thấy: các hình có thể tích bằng nhau nhưng hình dạng có thể khác nhau. Qua ví
dụ 3( Hình P gồm 6 hình lập phương như nhau, ta tách hình P thành hai hình M
và N. Hình M gồm 4 hình lập phương, hình N gồm 2 hình lập phương như thế),
học sinh thấy được: Thể tích của một hình có thể tách ra mà tổng thể tích không
bị thay đổi. (GV có thể so sánh với hình học phẳng như chu vi chẳng hạn)
Cụ thể trong tiết dạy này, tôi đã thực hiện giảng dạy theo các bước như
giáo án trong phần phụ lục.(Tiết 1)
4.4. Dạy về các đơn vị đo thể tích thông dụng phải đảm bảo tính thực
tế.
Khi dạy về xăng- ti- mét khối, đề- xi- mét khối, mét khối, ngoài việc đảm
bảo
cho HS nắm được mục tiêu tiết dạy thì tôi đã liên hệ thực tế để học sinh lấy

được ví dụ về những trường hợp sử dụng các đơn vị đó một cách phù hợp.
Ví dụ: Đo khối cát, đất, đá, gỗ xây dựng, nước,..người ta dùng đơn vị
mét khối, không dùng xăng- ti- mét khối, đề- xi- mét khối. Đo thể tích của một
khối rubic, khối gỗ nhỏ, chai nước, dầu ăn,… người ta thường dùng xăng- timét khối hoặc đề- xi- mét khối, lít, tùy thuộc vào cỡ hình.
Sau đó, tôi giúp HS thấy được việc sử dụng từ “thể tích” trong thực tế có
khác so với trong sách vở. Đó là từ “ khối” mà người ta thường trao đổi với
nhau hàng ngày. Ví dụ: Trong thực tế, người ta hỏi: “ Mỗi tháng gia đình bạn
12


dùng mấy khối nước?” Vậy phải hiểu đây là hỏi về thể tích của số nước đó (tức
là bao nhiêu mét khối) chứ không phải hỏi về khối lượng như một số học sinh
nhầm lẫn.
4.5. Hình thành công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật, hình lập
phương đảm bảo tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
4.5.1. Hình thành công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật
Khi hình thành công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật, tôi tổ chức cho
HS thực hành trên mô hình trong bộ đồ dùng Toán 5. GV nêu vấn đề: “Để tính
thể tích hình hộp chữ nhật này bằng xăng-ti-mét khối, ta cần tìm số hình lập
phương 1 cm3 xếp đầy trong hộp”. Các em sẽ tự đếm số hình lập phương 1cm 3
xếp ở lớp cuối của hình hộp gồm 16 hàng, mỗi hàng 20 hình lập phương 1cm 3,
và rồi tìm xem phải xếp bao nhiêu lớp như thế (10 lớp). Cuối cùng học sinh tự
tìm ra công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật. Các bước cụ thể được thể hiện
minh họa trong giáo án phần phụ lục.(Tiết 2)
4.5.2. Hình thành công thức tính thể tích hình lập phương
Đối với hình lập phương, học sinh vận dụng kiến thức đã được học: hình
lập phương là hình hộp chữ nhật đặc biệt có chiều dài, chiều rộng và chiều cao
bằng nhau. Như vậy các em có thể tính ngay thể tích của hình lập phương có
cạnh 3 cm. Từ đó HS tự rút ra công thức tính thể tích hình lập phương.
4.6. Thay tiết dạy “Giới thiệu hình trụ, giới thiệu hình cầu” bằng tiết

“ Thực hành về thể tích một hình”
Thực hiện theo hướng dẫn giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tiết
“Giới thiệu hình trụ, giới thiệu hình cầu” được giảm tải và thay vào đó nội dung
do tổ chuyên môn thống nhất. Tôi đã nghiên cứu và đề nghị Ban giám hiệu nhà
trường thống nhất trong chuyên môn thay tiết học đó bằng tiết “Thực hành về
thể tích một hình”. Ban giám hiệu nhà trường đã nhất trí với những nội dung tôi
đề xuất và duyệt kế hoạch thay đổi nội dung như trên. Trong tiết thực hành này,
tôi giúp học sinh tự đo thể tích của các loại hình hộp và thực hành đo thể tích
của một số vật thể không phải hình hộp. Đồng thời phân biệt cho HS khi nào sử
dụng từ “thể tích”, khi nào sử dụng từ “dung tích”. Các em đã biết đơn vị lít,
13


làm tính với đơn vị lít, tập đong, đo, ước lượng theo lít từ lớp 2. Mục tiêu của
tiết thực hành này là giúp học sinh có kĩ năng tìm thể tích của một hình bất kì
do GV yêu cầu. Các hoạt động cụ thể của tiết học này được thể hiện trong giáo
án phần phụ lục.(Tiết 3)
4.7. Nghiên cứu và hướng dẫn học sinh vận dụng tổng hợp các công
thức để giải các bài toán có lời văn.
4.7.1. Một số dạng bài liên quan đến thể tích hình hộp chữ nhật
Từ công thức tính thể tích hình hộp chữ nhật, tôi hướng dẫn học sinh
cách rút ra các công thức liên quan:
Từ
Ta có

V=axbxc
a x b = V : c ; c = V : (a x b)

(Trong đó: V là thể tích, a là chiều dài, b là chiều rộng, c là chiều cao
của hình hộp chữ nhật; a x b là diện tích đáy của hình hộp chữ nhật.)

Một số bài tập vận dụng kiến thức vào giải toán liên quan trong thực tế
cuộc sống như: bài 1 trang 128, bài 3 trang 156, bài 3 trang 168, bài 2 trang
169,…Ngoài ra còn một số bài tập dành cho học sinh có năng khiếu về toán mà
tôi thường cho HS thực hiện. Ví dụ như một số dạng bài sau:
Bài 1: Một phòng học dạng hình hộp chữ nhật có chiều dài 8m, chiều rộng 6m,
chiều cao 4,5m. Nếu mỗi người trong phòng cần 3m3 không khí thì phòng học
đó chứa được nhiều nhất bao nhiêu người? Biết thể tích đồ đạc trong phòng là
3,5m3.
Bài 2: Một bể cá dạng hình hộp chữ nhật có chiều dài 80cm, chiều rộng 50cm,
chiều cao 60cm. Khi bể không có nước, hỏi cần đổ vào bể bao nhiêu ca nước
biết mỗi ca
chứa 1,5l để 2/3 bể có nước.
Bài 3: Một thửa ruộng hình chữ nhật có chu vi bằng 340m, chiều dài hơn chiều
rộng 25m. Giữa ruộng đào 1 cái ao hình vuông có chu vi 60m. Nếu đất đào ao
rải đều trên mặt ruộng còn lại thì lớp đất này dày đến 4cm. Hỏi ao sâu bao
nhiêu mét?.( Biết đất đào lên do xốp nên thể tích tăng 48,75m3.)
4.7.2. Một số dạng bài liên quan đến thể tích hình lập phương
14


Đối với thể tích hình lập phương, GV hướng dẫn HS tính được diện tích
một mặt của hình lập phương đó thì sẽ suy luận ra độ dài một cạnh và sẽ tính
được thể tích của hình lập phương. Vận dụng các công thức để giải quyết các
bài tập cơ bản như: bài 1,2 trang 122; bài 3 trang 123; bài 2, 3 trang 128,…
Tóm lại, để học sinh tính đúng và giải được các bài toán ứng dụng về tính
thể tích trước hết phải giúp các em nắm chắc các công thức, sau đó hướng dẫn
học sinh thực hiện theo các bước sau:
*Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán, xác định yêu cầu của đề bài:
+ Chỉ ra những yếu tố đã biết.
+ Xác định được yếu tố cần tìm.

+ Xác định một vài yếu tố có liên quan.
+ Từ điều kiện bài toán rút ra mối quan hệ giữa các yếu tố đã cho và yếu
tố cần tìm.
Biểu thị bằng mối quan hệ toán học qua các công thức hoặc phép toán
thích hợp. Cần sàng lọc, lựa chọn yếu tố có liên quan.
Có thể tóm tắt đề bài toán bằng hình học, sơ đồ đoạn thẳng, ngôn ngữ, ký
hiệu sẵn có.
*Bước 2: Lập kế hoạch giải.
- Dựa vào công thức để lập kế hoạch giải.
- Tôi sử dụng lối phân tích xuất phát từ câu hỏi, yêu cầu của bài toán để
suy nghĩ xem tìm được kết quả của bài cần biết được những yếu tố nào, điều gì
đã biết. Dựa vào cái đã biết để tìm cái chưa biết.
- Qua cách phân tích ngược từ cuối lên từ các yêu cầu cần tìm trở về
những điều đã cho trong bài toán.
Sơ đồ như sau:
(cái cần tìm) X

C

B

A (cái đã biết hoặc có thể tìm được)

+ Muốn tìm X phải tìm được C.
+ Muốn tìm C phải tìm được B.
+ Muốn tìm B phải tìm được A.
* Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải.
15



Cách giải bài toán theo thứ tự ngược lại ở bước 2. X

C

B

A

* Bước 4: Kiểm tra, đánh giá kết quả.
a. Kiểm tra kết quả: phát hiện, tìm ra những sai sót trong quá trình tính toán
tìm lời giải.
- Biện pháp kiểm tra:
+ Đối chiếu với công thức, quy tắc.
+ Cách thực hiện tính toán, đơn vị.
+ So sánh các kết quả.
+ Thử lại bằng các phép tính ngược.
b. Đánh giá khai thác lời giải.
- Tìm ra nhiều lời giải khác nhau trong mỗi bài.
Ví dụ: Bài toán: Một hình hộp chữ nhật có diện tích xung quanh là 600 cm2.
chiều cao 10 cm, chiều dài hơn chiều rộng 6cm. Tính thể tích hình hộp chữ
nhật đó.
Tôi hướng dẫn HS thực hiện các bước như sau:
+Bước 1:
Tìm hiểu bài toán:
- Đọc đề, nêu yêu cầu: Bài toán cho biết gì? hỏi gì?
- Tóm tắt:
Sxq HHCN = 600 cm2, dài hơn rộng 6 cm
Chiều cao = 10cm. Tính thể tích?
*Bước 2: Lập kế hoạch giải:
Thể tích HHCN = Chiều dài x chiều rộng x chiều cao ( đã biết)

Chiều dài = (Tổng + Hiệu) : 2 ; Chiều rộng = Tổng – chiều dài
Tổng của chiều dài và chiều rộng = Diện tích xung quanh : 2 : chiều
cao

16


(Tính chiều dài, chiều rộng dựa vào dạng toán Tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu
của hai số đó.)
Để giải được bài toán này, từ sơ đồ biểu diễn trên ta cần làm từ dưới lên như
sau:
* Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải (viết lời giải)
Bài giải
Tổng của chiều dài và chiều rộng hình hộp chữ nhật là:
600 : 2: 10 = 30 (cm)
Chiều dài hình hộp chữ nhật là:
(30 + 6) : 2 = 18 (cm)
Chiều rộng hình hộp chữ nhật là:
30 – 18 = 12 (cm)
Thể tích hình hộp chữ nhật là:
18 x 12 x 10 = 2160 (cm3)
Đáp số : 2160 cm3
Với tất cả các bài toán lời văn, tôi đều hướng dẫn HS tự phân tích cách
giải như trên. Đây là ví dụ về một dạng bài cho HS đại trà được thưc hiện trong
các tiết học hàng ngày. Với tất cả các đối tượng HS, tôi nhận thấy cách làm này
rất phù hợp với các em. HS tiếp thu nhanh, dễ hiểu từ những bài cơ bản đến
những bài có yêu cầu phức tạp hơn. Ở bài tập trên, tôi phát triển cho HS năng
khiếu bằng cách thêm yêu cầu như sau: “ Nếu các kích thước của hình hộp chữ
nhật được tăng thêm 50% thì thể tích của hình hộp tăng bao nhiêu phần trăm?”.
Như vậy, với các bài tập cơ bản trong SGK, tôi đều có cách phát triển bài toán

cho phù hợp các đối tượng HS. Một số bài tôi còn khuyến khích các em tự nâng
cao yêu cầu.
5.Kết quả đạt được
5.1. Mục đích của sáng kiến.
Sáng kiến “Đổi mới phương pháp dạy học thể tích cho học sinh lớp
5” nhằm :

17


Giúp GV có phương pháp dạy học phù hợp, chủ động, sáng tạo trong
việc chuẩn bị bài giảng, linh hoạt trong sử dụng các hình thức dạy học, vận
dụng được mô hình trường học mới trong một số tiết phù hợp, có cách đánh giá
HS sát thực. Giúp HS tích cực học tập, hăng say tìm tòi kiến thức, hiểu bài,
nắm vững kiến thức và vận dụng được trong thực tế cuộc sống.
5.2. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Áp dụng sáng kiến trong dạy học là GV không còn phụ thuộc vào hướng
dẫn giảng dạy của SGV, không dừng lại như nội dung của SGK. Các giải pháp
được đưa ra trên cơ sở mục tiêu của các tiết học đảm bảo phát triển kĩ năng
thực hành cho HS. Dạy học phải đi đôi với thực hành. Chính vì vậy tôi đã đề
nghị thực hiện một tiết thực hành cho phần thể tích.
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Các giải pháp của sáng kiến được tôi áp dụng cho HS lớp 5 ở trường TH
nơi tôi công tác. Trong điều kiện nhà trường ở vùng khó khăn của thị xã Chí
Linh, HS còn chịu nhiều thiệt thòi, ít được tiếp xúc với thế giới bên ngoài,
những giải pháp trên được áp dụng rất phù hợp cho việc giảng dạy và học tập
của GV và HS. Các giải pháp trên không chỉ phù hợp cho các trường khó khăn
mà còn có thể áp dụng rộng rãi cho lớp 5 của các trường Tiểu học.
5.4. Lợi ích của sáng kiến:
Sáng kiến đã mang lại những kết quả khả quan. Cụ thể sáng kiến đã:

*Giúp GV:
- Có được những cách làm hiệu quả trong việc dạy về thể tích một hình,
cách chuẩn bị một số đồ dùng sẵn có, đồ dùng tự làm phục vụ cho việc dạy học
về thể tích. Đồng thời sáng kiến cũng giúp GV đổi mới hình thức dạy học, tập
trung vào học sinh, phát huy tính sáng tạo của các em.
- GV chủ động hơn trong việc sử dụng SGK, sáng tạo trong dạy học, phát huy
được tính chủ động của HS, liên hệ được thực tế giúp HS hiểu rõ vấn đề.
*Giúp HS:

18


- Tích cực học tập, hăng say tìm tòi kiến thức, hiểu bài, nắm vững kiến thức và
vận dụng được trong thực tế cuộc sống.
- Các em được tìm hiểu bài học một cách chủ động, hiểu về bản chất của các
biểu tượng hình học, các công thức liên quan.
- HS biết tính thể tích của hình khối không phải dạng hình hộp.
- Nhiều học sinh vận dụng được công thức một cách thành thạo, chính xác.
- Việc vận dụng tổng hợp các kiến thức trong giải toán có lời văn có nhiều tiến
bộ.
Năm học 2014-2015 là năm học đầu tiên tôi áp dụng sáng kiến này trong
giảng dạy phần thể tích cho HS. So với năm học trước, năm học này nhiều học
sinh học rất tiến bộ, nắm chắc kiến thức, biết vận dụng trong thực tế. Năm học
trước tôi giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5a, năm học này tôi giảng dạy và chủ
nhiệm lớp 5b. Về sĩ số HS và trình độ HS của hai năm là tương đương nhau.
Tôi nhận thấy kết quả làm bài của học sinh năm học này tốt hơn hẳn so với
năm học trước về phần tính thể tích một hình.
Cụ thể thông qua một bài kiểm tra ngắn, tôi thu được kết quả như sau:
(So sánh với bài làm của HS năm trước)
Đề bài (thời gian 10 phút)

Một bể nước dạng hình hộp chữ nhật có các kích thước đo trong lòng bể
là: chiều dài 4m, chiều rộng 3m, chiều cao 2,5m. Biết rằng 80% thể tích của bể
đang chứa nước. Hỏi:
a) Trong bể có bao nhiêu lít nước? (1l = 1dm3)
b) Mức nước chứa trong bể cao bao nhiêu mét?
Lớp Năm
5a

2013-2014

5b

2014-2015

HS

Điểm 9-10

14
15

2
5

Điểm 7-8

14,3%

5


33,3% 7

19

Điểm 5-6

35,7%
46,7% 3

6

Dưới 5

42,9%
20%

1
0

7,1%
0


Qua bảng kết quả trên, tôi thấy sử dụng sáng kiến này vào dạy học về thể
tích cho học sinh lớp 5 sẽ đạt kết quả cao hơn hẳn so với năm chưa ứng dụng
phương pháp đó.
Sở dĩ lớp năm nay tôi dạy có kết quả cao hơn là do các tiết học các em
được phát huy tính tích cực, chủ động trong việc rèn luyện, củng cố, khắc sâu
và mở rộng kiến thức, nắm chắc các phương pháp giải từng dạng bài khác nhau
nên khả năng vận dụng tốt.

Còn những năm trước do học sinh không được học theo cách dạy- học
trên nên học sinh nắm bài không sâu, không lôgic, khả năng thực hành chưa
tốt. Mặt khác kiến thức trong các tiết học trên lớp các em không được mở rộng,
không được liên hệ thực tế nên dẫn tới kết quả bài làm chưa cao.
Như vậy, khi tôi áp dụng biện pháp trên, 100% các em có kĩ năng tính
thể tích của một hình. Học sinh nắm vững, hiểu sâu và bền vững hơn về kiến
thức. Cụ thể là trong những đợt kiểm tra cuối tháng môn Toán, lớp do tôi trực
tiếp giảng dạy đều đạt 100% hoàn thành theo Thông tư 30, tỷ lệ HS hoàn thành
100% các bài tập rất cao.
Sáng kiến cũng giúp cho việc dạy học được thuận lợi mà không phải tốn
kém kinh phí cho việc chuẩn bị đồ dùng. Đồng thời, sáng kiến mang lại cho HS
một điều kiện học tập tốt, đảm bảo tính năng động, sáng tạo cho các em. Tạo
cho các em một môi trường học tập tích cực giúp các em phát triển trí tuệ. Các
em HS có những vận dụng tốt trong thực tế, giúp ích cho gia đình, cho cộng
đồng.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong việc thực hiện đổi mới
phương pháp, sử dụng đồ dùng. Quan tâm khích lệ GV hăng say nghiên cứu,
tìm tòi, sáng tạo trong giảng dạy.
GV tích cực, không ngại khó khăn trong công tác chuyên môn.

20


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Như đã đề cập phần hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến “Đổi mới
phương pháp dạy yếu tố hình học về thể tích cho học sinh lớp 5” là nội
dung có tính thực tiễn cao. Vậy dạy học như thế nào để học sinh nắm vững các
nội dung về thể tích, tính thành thạo thể tích của hình và một số bài toán có liên

quan đến thể tích trong thực tế, …đó là vấn đề mà người giáo viên cần phải
quan tâm. Thông qua thực tiễn giảng dạy và qua nghiên cứu tài liệu, trao đổi
với đồng nghiệp, tôi đưa ra những giải pháp giúp GV có biện pháp nâng cao
chất lượng về thể tích cho học sinh lớp 5. Sáng kiến đã góp phần:
- Nâng cao chất lượng dạy giải toán về thể tích cho học sinh lớp 5, đáp ứng
được yêu cầu của giáo dục hiện nay là đào tạo những con người phát triển toàn
diện, linh hoạt, năng động, chủ động, sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề.
- Khai thác triệt để SGK, vận dụng được từ những bài cơ bản để phát triển
thành những bài toán đòi hỏi tư duy lớn hơn.
- Đổi mới cách đặt vấn đề trong dạy kiến thức mới cho học sinh một cách tích
cực.
- Giúp học sinh luôn tự giác, tích cực, chủ động học tập.
- Phát triển ở học sinh những phẩm chất đạo đức cá nhân như: tính kiên trì,
lòng nhẫn nại, tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể. Phát triển được tinh thần
hợp tác và tương trợ lẫn nhau.
- Học sinh nắm vững, hiểu sâu và bền vững hơn về kiến thức.
Với kết quả đạt được như trên đã giúp tôi tự tin, mạnh dạn hơn để báo cáo
sáng kiến trước hội đồng khoa học của nhà trường và được hội đồng khoa học
của nhà trường đánh giá cao. Đó cũng là niềm động viên, khích lệ giúp tôi ngày
càng hăng say nghiên cứu, tìm tòi để nâng cao trình độ chuyên môn.
2. Khuyến nghị
2.1. Đối với nhà trường:
- Tổ chức các chuyên đề về dạy tính thể tích ở các dạng bài để giáo viên được
bồi dưỡng, học hỏi các phương pháp dạy học hay.
21


- Cần tiếp tục cung cấp đầy đủ sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, trang thiết bị
dạy học,…khuyến khích các lớp thi đua đọc tạp chí về Toán học, tổ chức Câu
lạc bộ Toán học.

- Nhà trường tăng cường bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho GV, có khen
thưởng để động viên, khích lệ giáo viên kịp thời.
2.2. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Tổ chức các chuyên đề, đặc biệt chuyên đề dạy hình học để GV trao đổi, tháo
gỡ khó khăn, tìm ra phương pháp dạy học tốt nhất.
- Với những sáng kiến có tính thiết thực cao nên phổ biến rộng rãi để giáo viên
tham khảo và học tập bằng cách tổ chức các buổi hội thảo báo cáo sáng kiến.
Như vậy thì việc tổ chức viết sáng kiến hàng năm mới thực sự có hiệu quả và
có tính thực tiễn cao.
Qua quá trình nghiên cứu, tích lũy, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy,
tôi đã viết sáng kiến này. Với thời gian và khả năng của bản thân có hạn,
trong quá trình trình bày không tránh khỏi hạn chế. Tôi mong nhận được sự
góp ý của các cấp quản lý và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Chí Linh, tháng 2 năm 2015

22


PHỤ LỤC
1. Các giáo án minh họa:
Tiết 1: Giáo án minh họa cho tiết hình thành biểu tượng thể tích.
Toán
THỂ TÍCH CỦA MỘT HÌNH
I. Mục tiêu:
- Học sinh có biểu tượng về thể tích của một hình
- Học sinh biết so sánh thể tích của hai hình trong một số trường hợp đơn giản.
BTCL: 1, 2.
- Giáo dục HS yêu thích môn học.

II- Đồ dùng dạy học:
- Thước, phấn màu, khối hộp chữ nhật trong suốt, khối hình lập phương, một số
viên sỏi, hòn đá nhỏ, chai, lọ, quả cam, dao con.
III- Các hoạt động dạy học chủ yếu:
1. Kiểm tra bài cũ.
- Nêu cách tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần hình hộp chữ nhật và
hình lập phương.?- 2 HS lên bảng trả lời
- Nhận xét, đánh giá.
2. Bài mới
2.1. Giới thiệu về thể tích của một hình.
Ví dụ 1: Lấy trong bộ đồ dùng:
- GV cho hs quan sát các mô hình:

- HS quan sát

hình hộp chữ nhật trong suốt chiều dài 20cm,
chiều rộng 16cm, chiều cao 10cm
và hình lập phương cạnh 1cm.
- GV đặt hình lập phương cạnh 1cm vào
trong hình hộp chữ nhật
- GV nêu: Thể tích hình lập phương bé
23


hơn thể tích hình hộp chữ nhật hay thể tích hình hộp chữ nhật lớn hơn thể tích
hình lập phương.
- GV đưa một số mô hình khác bằng

- HS quan sát và nhận xét về thể tích


vật thật: viên sỏi, hòn đá, chai to,

của các hình

nhỏ… để HS quan sát và so sánh thể
tích của các hình.
KL: Các vật đều có thể tích.
Ví dụ 2:
GV yêu cầu HS đếm các hình lập

- HS quan sát hình trong SGK và đếm

phương của hình C và hình D

rồi báo cáo kết quả.

- So sánh thể tích hình C và thể tích

- Bằng nhau

hình D?
- Nhận xét về hình dạng của hai hình C, - Hình dạng khác nhau
D?
- Kết luận gì?

- Hình khác nhau nhưng thể tích có thể
bằng nhau.

Ví dụ 3.
GV hướng dẫn nhận xét như SGK.


- HS quan sát nhận xét theo hình vẽ

Kết luận: Thể tích của một hình có thể

SGK.

tách ra mà tổng thể tích không bị thay
đổi. (GV có thể so sánh với hình học
phẳng như chu vi chẳng hạn)
- Gv cắt đôi một quả cam, cho HS so

- HS nhận thấy thể tích của hai nửa quả

sánh thể tích của hai nửa quả cam và

cam chính là thể tích của quả cam lúc

quả cam lúc đầu.

đầu.

2 Thực hành
Bài 1.

- HS đọc yêu cầu bài 1.

- Hình A gồm 16 hình lập phương nhỏ.

- HS quan sát, nhận xét các hình trong


- Hình B gồm 18 hình lập phương nhỏ.

SGK Toán.

- GV tư vấn, góp ý cho HS.

- HS làm bài
24


- Thể tích hình B lớn hơn thể tích hình

- GV gọi một số HS trả lời.

A.

- HS nhận xét, GV rút ra kết luận.

GV hướng dẫn HS tính nhanh ngoài
cách đếm hình: dài x rộng x chiều cao
Bài 2.

- HS đọc yêu cầu bài

- GV quan sát, tư vấn cho HS cách đếm - HS tự làm bài.
hình lập phương
Hình A gồm 45 hình lập phương nhỏ.

- HS đổi vở, chữa bài theo nhóm 2.


Hình B gồm 26 hình lập phương nhỏ.

- Nêu cách làm của mình.

Thể tích hình B bé hơn hình A.

- Nhận xét bài làm trên bảng, chữa bài.

Bài 3.
- Gọi hs đọc yêu cầu bài

- HS đọc yêu cầu bài .

- GV lấy 6 hình lập phương, gọi HS lên - HS lên bảng xếp
xếp theo yêu cầu

- Lớp theo dõi, nhận xét

- Nhận xét, chốt ý đúng
IV. Củng cố - dặn dò
- Nhận xét chung giờ học

- Cả lớp lắng nghe

- CBBS
2. Tiết 2: Giáo án minh họa tiết dạy hình thành công thức tính thể tích
hình hộp chữ nhật.
Toán
THỂ TÍCH HÌNH HỘP CHỮ NHẬT

I. Mục tiêu:
- Hs tự hình thành được biểu tượng về thể tích của hình hộp chữ nhật .
- HS tự tìm được cách tính và công thức tính thể tích của hình hộp chữ nhật.
- HS biết vận dụng để giải 1 số bài tập có liên quan, hoàn thành các BT
trong SGK.
II. Đồ dùng dạy học:
- Bộ đồ dùng dạy học Toán 5, khối đất nặn có dạng như hình vẽ bài tập 2.
III. Hoạt động dạy học chủ yếu:
25


×