Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

skkn giáo dục lòng yêu quê hương đất nước thông qua các nhân vật lịch sử ở địa phương hải dương qua các thời kỳ lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.41 KB, 40 trang )

Phần 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Giáo dục lịng u q hương đất nước thơng qua các
nhân vật lịch sử ở địa phương Hải Dương qua các thời kì lịch sử”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Lịch sử
3. Tác giả:
Họ và tên: Đỗ Văn Nơi

Nam (nữ): Nam

Ngày tháng/năm sinh: 05 - 04 - 1975
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Lịch sử
Chức vụ, đơn vị công tác: Trường THCS Hưng Đạo
Điện thoại: 03203930108
4. Đồng tác giả (nếu có)
Họ và tên;
Ngày tháng/năm sinh;
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ, đơn vị công tác;
Điện thoại:
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) :
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2014 - 2015.
HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN


TĨM TẮT SÁNG KIẾN


1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Hiện nay trong sự phát triển chung của xã hội, ảnh hưởng của cơ chế thị
trường do vậy một số chuẩn mực đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang
bị giới trẻ nói chung, học sinh trung học nói riêng xem nhẹ. Các em không chú ý
đến những bài học, kinh nghiệm được rút ra từ các gương sáng của các nhân vật,
sự kiện điển hình trong lịch sử đặc biệt là các nhân vật lịch sử ở địa phương. Vì
vậy giáo dục lịng u q hương đất nước cho học sinh nói chung, giáo dục lịng
u q hương đất nước thông qua các nhân vật lịch sử ở địa phương Hải Dương
qua các thời kì lịch sử nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng của các bộ mơn trong
chương trình trung học cơ sở trong đó có chương trình lịch sử địa phương Hải
Dương. Đề tài này tôi đưa ra thực trạng của việc dạy học môn lịch sử hiện nay đặc
biệt là việc dạy học phần lịch sử địa phương và một số nội dung, giải pháp cơ bản
nhằm giáo dục lòng yêu nước cho các em học sinh và qua đó cũng đưa ra các
nguyên tắc và biện pháp giáo dục lòng yêu nước cho học sinh.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
2.1: Điều kiện áp dụng đề tài.
2.1.1: Đối với giáo viên
- Để áp dụng được sáng kiến này đòi hỏi giáo viên phải nắm chắc được
những phương pháp cơ bản có những tư liệu cơ bản nhất về các nhân vật lịch sử
tại địa phưng Hải Dương
- Thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp cùng chuyên môn về biện pháp
giáo dục lòng yêu nước cho học sinh đặc biệt là đối với học sinh đầu cấp.
- Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh đặc biệt là với các em
học sinh khối lớp đầu cấp học là một việc làm tương đối khó khăn do các em học
sinh bước đầu làm quen với phương pháp học tập ở trung học cơ sở do vậy giáo
viên phải kiên trì và thường xun thực hiện để tạo thói quen tốt cho các em và
thường xuyên kiểm tra các em. Đối với các em học sinh lớp 9 cần thường xuyên


nhắc nhở, động viên các em có ý thức sưu tầm, tìm hiểu, tham gia các hoạt động

liên quan tới các nhân vật lịch sử ở địa phương qua đó sẽ nâng tầm hiểu biết của
các em về lịch sử của quê hương qua đó sẽ giáo dục các em lịng u, niềm tự hào
về q hương mình, đất nước mình.
2.1.2: Đối với học sinh.
- Phải có đủ phương tiện học tập: Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, tranh
ảnh… Phải có thái độ học tập nghiêm túc, cầu tiến
- Có ý thức tìm hiểu lịch sử của dân tộc, của địa phương, tích cực tham gia
các hoạt động như: giữ gìn, bảo vệ và tơn tạo các di tích lịch sử ở địa phương,
tham gia sưu tầm các tư liệu về lịch sử địa phương, tham gia các lễ hội truyền
thống ở địa phương ... qua đó sẽ hun đúc thêm lòng yêu quê hương, đất nước.
2.2: Thời gian áp dụng:
Trong suốt cả q trình học tập mơn lịch sử ở trường THCS
2.3: Đối tượng áp dụng:
Học sinh trường trung học nói chung, trường THCS nói riêng
3. Nội dung sáng kiến:
3.1: Điểm mới của đề tài:
Phương pháp giáo dục tư tưởng, tình cảm cách mạng qua mơn lịch sử nói
chung, giáo dục lịng u q hương đất nước cho học sinh nói riêng đã có nhiều
tài liệu, nhiều nhà giáo dục trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu. Trong cuốn
“Phương pháp dạy học lịch sử” (Phan Ngọc Liên - chủ biên và Trịnh Đình Tùng,
Nguyễn Thị Cơi, nhà xuất bản Đại học sư phạm) đã khẳng định “Giáo dục tư
tưởng - chính trị, truyền thống dân tộc, phẩm chất đạo đức cho học sinh qua dạy
-học lịch sử ở trường phổ thông là điều rất cần thiết, quan trọng. Song vấn đề ở
đây là hiệu quả giáo dục, chứ khơng phải là sự phơ trương hình thức, giáo điều,
áp đặt. Phải xuất phát từ nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ nói chung, từ mục tiêu đào
tạo của trường, nội dung, chức năng, nhiệm vụ bộ môn mà chọn lựa các biện
pháp sư phạm có hiệu quả cao. Đây là một lao động sư phạm khó khăn, sáng tạo


của giáo viên”. Tuy nhiên chưa có một tài liệu nào đề cập một cách đầy đủ, sâu

sắc và có hệ thống về phương pháp giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc
trong thời kì dựng nước và giữ nước nói chung giáo dục lịng u q hương đất
nước thông qua các nhân vật lịch sử ở địa phương đặc biệt là các nhân vật lịch sử
ở Hải Dương qua các thời kì lịch sử nói riêng. Đây là cơ sở và là điểm mới để tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài này
3.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến này hồn tồn có khả năng áp dụng và áp dụng rộng rãi trong q
trình giảng dạy mơn lịch sử trường THCS nói riêng và giảng dạy mơn lịch sử
trong trường phổ thơng nói chung
Thứ nhất: Khai thác triệt để nội dung các khóa trình lịch sử theo đúng
phương pháp bộ môn. Trên cơ sở những sự kiện lịch sử cụ thể, chính xác, vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học lịch sử để tạo biểu tượng có hình ảnh về
những nhân vật lịch sử tại địa phương trong các thời kì lịch sử.
Thứ hai: Đối với những chương, những bài và những phần có liên quan đến
lịch sử của địa phương, có liên quan đến các nhân vật lịch sử điển hình ở địa
phương giáo viên chú ý giới thiệu, trình bày về những nhân vật đó để các em xây
dựng được biểu tượng nhân vật, những cống hiến của nhân vật lịch sử đó đối với
lịch sử của địa phương và của cả nước.
Như vậy với những tấm gương về các nhân vật lịch sử ở địa phương mà
giáo viên đã lồng ghép trong các tiết lịch sử, học sinh ngồi việc được giáo dục
lịng yêu nước, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm và tinh thần chiến đấu bền
bỉ vì độc lập dân tộc các em đã thấy rất tự hào về vùng đất Hải Dương quê hương.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Đối với sáng kiến này khi thực hiện sẽ làm cho bài giảng lịch sử trở nên
sinh động hơn, hấp dẫn hơn, học sinh sẽ thêm yêu bộ mơn lịch sử, thêm kính trọng
các nhân vật lịch sử điển hình ở địa phương mình. Khi các em đã hiểu được tầm
quan trọng, ảnh hưởng của các nhân vật lịch sử điển hình ở địa phương đối với


lịch sử dân tộc các em sẽ càng thấy tự hào về quê hương và qua đó các em thêm

yêu q hương, đất nước mình và qua đó các em cũng thấy được trách nhiệm của
mình đối với quê hương, đất nước.
5. Đề xuất kiến nghị để áp dụng sáng kiến:
Đề nghị các nhà trường cần trang bị thêm cho các giáo viên nhất là giáo
viên dạy lịch sử các tư liệu, tài liệu về lịch sử địa phương Hải Dương đặc biệt cần
trang bị cho giáo viên cuốn sách nói về các danh nhân ở Hải Dương qua các thời
kì lịch sử để giáo viên làm tài liệu giảng dạy.
Mỗi một giáo viên cần có ý thức, trách nhiệm đối với lịch sử dân tộc và lịch
sử địa phương để ln ln có ý thức tìm hiểu, sưu tầm tư liệu về lịch sử địa
phương và dân tộc và qua đó giáo dục thế hệ trẻ sống có trách nhiệm với lịch sử
và càng thêm tự hào về vùng đất quê hương.


Phần 2: MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Thế hệ trẻ của nước ta ngày nay, ngày ngày được cắp sách đến trường trong
hoàn cảnh đất nước thống nhất, thanh bình, khơng có chiến tranh, kinh tế phát
triển, đời sống no đủ. Chính vì vậy các em chưa hiểu hết giá trị của những gì mà
các em đang được hưởng thụ, các em có thái độ thờ ơ, lãnh đạm với quá khứ, các
em không hiểu được rằng để có được cuộc sống thanh bình hạnh phúc như ngày
hơm nay, đã có biết bao mồ hơi xương máu của những người đi trước đổ xuống
mảnh đất này. Thực tế trong xã hội hiện nay, do tác động của môi trường xã hội,
một bộ phận học sinh, thanh thiếu niên đang bị suy thoái về đạo đức, sống khơng
có lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính trị, rất bàng quan với sự phát triển đi lên của đất
nước, không thấy được vai trị vị trí của mỗi cá nhân trong dịng chảy lịch sử dân
tộc. Khi có một sự việc, vấn đề xảy ra trong xã hội thì khơng tự nhận định được
vấn đề đó đúng hay sai, xử lí như thế nào? dẫn đến những hành vi thiếu đạo đức
đáng tiếc.
Thực tế giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường trung học cơ sở, qua dự giờ của
các đồng nghiệp tơi thấy đã có nhiều chuyển biến trong giảng dạy, các đồng chí

giáo viên đã chú ý nhiều hơn đến những tiết dạy phần lịch sử địa phương, đã chú ý
kết hợp nhiều phương pháp trong giảng dạy. Các đồng chí giáo viên trong q
trình giảng dạy đã chú ý, tích cực giáo dục nhân cách cho người học qua bộ mơn,
chú ý bồi dưỡng lịng u nước, yêu lao động và thái độ biết ơn đối với những anh
hùng dân tộc, những người có cơng đối với làng, với nước. Tuy nhiên việc làm
này chưa thường xuyên, chưa được thể hiện rõ nét trong các bài giảng dẫn tới việc
giáo dục ý thức, thái độ cho học sinh chỉ mang tính chất chung chung, lướt qua mà
thơi.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi nhận thấy cần thiết phải tiếp tục đổi mới
phương pháp giảng dạy làm sao để dạy tốt bộ môn này ? Làm thế nào để học sinh
hứng thú, hăng hái học tập, yêu thích bộ môn? làm thế nào để thể hiện rõ chức


năng của bộ mơn là giáo dục trí tuệ, tư tưởng chính trị, tình cảm đạo đức …? làm
thế nào để thực hiện đúng theo tinh thần đổi mới là “lấy học sinh làm trung tâm”
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Tôi đã cải tiến phương pháp dạy học và
nhận thấy có hiệu quả rõ rệt, học sinh không chỉ hứng thú học tập, nhớ kiến thức
lâu hơn, biết so sánh, đối chiếu, biết phân tích, đánh giá các sự kiện lịch sử mà qua
đó các em thấy tự hào về lịch sử của đất nước, của quê hương Hải Dương, biết ơn
và trân trọng sự hi sinh, đóng góp của các bậc tiền nhân, yêu quý giá trị lao động
…. Vì vậy tơi mạnh dạn rút ra một số kinh nghiệm mà bản thân mình đã làm, đã
áp dụng trong giảng dạy. Đó là kinh nghiệm “Giáo dục lịng u q hương đất
nước thơng qua các nhân vật lịch sử ở địa phương Hải Dương qua các thời kì lịch
sử”
2. Cơ sở lí luận:
Mơn lịch sử ở trường trung học cơ sở có vị trí quan trọng trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Mơn lịch sử có vai trị quan trọng
trong q trình giáo dục lịng u q hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, tự
hào về những thành tựu đạt được của nền văn hoá, văn minh của địa phương mình
của dân tộc và của nhân loại. Từ đó mơn lịch sử giáo dục lịng biết ơn tổ tiên,

những anh hùng dân tộc đã hi sinh xương máu của mình cho nền độc lập của Tổ
quốc. Học lịch sử để học sinh biết rõ quá khứ, hiểu được hiện tại và xây dựng
tương lai. Trên cơ sở đó, cùng với các mơn học khác góp phần hình thành nhân
cách con người và góp phần vào những tiến bộ của nhân loại.
Mục tiêu giáo dục của chúng ta hiện nay đã được Đảng ta xác định rõ “Xây
dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của nhân loại, phát huy tiềm
năng của dân tộc và con người Việt Nam”. Như vậy, dạy - học môn lịch sử ở
trường phổ thông hiện nay thực chất là một quá trình giáo dục nhân cách học sinh


theo mục tiêu, yêu cầu giáo dục nhân cách con người mới trong thời kì cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Để thực hiện mục tiêu trên, trong những năm gần đây, Bộ giáo dục và đào
tạo đã tiến hành đổi mới chương trình giáo dục, đổi mới chương trình sách giáo
khoa bậc trung học cơ sở trong đó có mơn lịch sử theo hướng hiện đại, tồn diện,
phù hợp với tình hình mới. Bên cạnh đó Sở giáo dục và đào tạo cũng có sự đổi
mới, căn bản chương trình lịch sử địa phương cho sát hợp với quá trình học tập
lịch sử của dân tộc. Cùng với việc thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa,
phương pháp dạy học cũng tiến hành đổi mới. Trong những năm gần đây tồn
ngành giáo dục đang tích cực tiến hành đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. Đó là phương
pháp dạy và học theo hướng “lấy học sinh làm trung tâm”. Theo hướng đổi mới
đó, người thầy giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ, bổ
sung kiến thức cho học sinh, cịn học sinh chủ động tìm tịi, khám phá, khai thác
kiến thức và rèn kĩ năng tư duy.
Chương trình sách giáo khoa lịch sử hiện nay và chương trình lịch sử địa
phương Hải Dương đã chú ý đến tính tồn diện của lịch sử dân tộc. Chương trình
khơng chỉ chú trọng vào các bài có các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh giành độc lập

dân tộc mà còn chú ý, đi sâu tìm hiểu đến các thành tựu trong phát triển kinh tế,
xây dựng nền văn hóa địa phương và dân tộc. Do vậy, việc giáo dục các truyền
thống yêu quê hương đất nước cho học sinh cũng diễn ra một cách thuận lợi
nhưng đòi hỏi giáo viên dạy cần chú ý và tiến hành một cách thường xuyên, liên
tục.
3. Thực trạng vấn đề
3.1: Chức năng giáo dục của bộ môn lịch sử ở trường trung học:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu giáo dục đào tạo nhằm “nâng cao dân trí,


đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tay nghề,
có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, có
tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”. Đây là phương hướng quan trọng chỉ
đạo việc đào tạo thế hệ trẻ, kế tục và phát triển sự nghiệp cách mạng đi theo con
đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đấu tranh giành những
thắng lợi rực rỡ.
Trong đời sống xã hội, lịch sử có tác dụng quan trọng khơng chỉ về trí tuệ
mà cả về tư tưởng, tình cảm. Tất cả các môn học, kể cả tự nhiên và xã hội, ở
những mức độ khác nhau đều góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm. Ví dụ như
mơn Địa lý dạy cho học sinh hiểu rõ đất nước mình để tăng thêm lòng yêu Tổ
quốc, yêu quê hương, nâng cao trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên. Văn học giúp học
sinh hiểu giá trị, yêu thích thơ văn để càng yêu quý con người, dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên lịch sử có nhiều ưu thế trong giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức,
thẩm mĩ… Những con người và những việc thực của quá khứ có sức thuyết phục,
có sự rung cảm mạnh mẽ với các thế hệ trẻ. Giáo viên có thể lấy những tấm gương
anh dũng tuyệt vời của các chiến sĩ đấu tranh, hi sinh cho độc lập tự do của Tổ
quốc để nêu gương cho học sinh học tập, suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối
với đất nước. Các sự kiện về sự tán ác, dã man, sự phản phúc của bọn cướp nước

và bán nước bao giờ cũng gây cho học sinh lịng cơng phẫn chính đáng. Cảnh sống
lầm than và cuộc đấu tranh quật khởi của những người bị áp bức, của các dân tộc
bị thống trị luôn luôn khơi dậy cho học sinh sự thông cảm, đồng tình sâu sắc. Và
trong lịch sử, khơng phải chỉ giáo dục cho học sinh tình cảm yêu ghét trong đấu
tranh giai cấp, sự căm thù và chủ nghĩa anh hùng, mà còn bồi dưỡng cho các em
biết yêu quý lao động, yêu cái đẹp, có óc thẩm mĩ, biết cách ứng xử đúng đắn
trong cuộc sống … Bởi vì lịch sử chính là cuộc sống của nhân loại và dân tộc.
Khơng có gì đẹp hơn cuộc đời đấu tranh và lao động xây dựng. Khả năng giáo dục
tình cảm của sử học nói chung, của mơn lịch sử ở trường phổ thơng nói riêng “bắt
nguồn từ một sự thực là trong khoa học lịch sử rõ ràng, có những yếu tố nghệ


thuật”. Điều này đã được nhiều nhà sử học và nghiên cứu phương pháp dạy – học
lịch sử chứng minh. Song không phải vậy mà khẳng định lịch sử là nghệ thuật và
nhà sử học, giáo viên lịch sử làm nhiệm vụ giáo dục như các nhà văn, nhà nghệ sĩ,
giáo viên văn học… Lịch sử là một khoa học, mà cơ sở của nó được giảng dạy ở
trường phổ thơng, việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ … cũng mang những
đặc trưng, do nội dung của nó quy định.
Tác dụng giáo dục quan trọng của sử học cũng như của bộ môn lịch sử ở
trường phổ thông là giáo dục trí tuệ, tư tưởng chính trị, tình cảm, đạo đức.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4. 1. Nội dung chương trình giảng dạy mơn lịch sử có thể lồng ghép giáo
dục lịng u q hương, đất nước.
Lịng u q hương đất nước được hình thành qua một thời gian lâu dài
của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Việc giáo dục lòng yêu quê hương
đất nước cho học sinh cũng phải bắt đầu bằng những câu chuyện kể lịch sử đơn
giản từ thời tiểu học như: chuyện kể về cuộc đời Bác Hồ, về những tấm gương anh
hùng: Kim Đồng, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Trần Quốc Toản...
Ở bậc trung học cơ sở, trong hầu hết các bài lịch sử dân tộc, giáo viên đều
có thể khai thác, lồng ghép việc giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học

sinh. Bằng các sự kiện lịch sử chân thực, sinh động, những tấm gương anh dũng
tuyệt vời của các anh hùng qua các giai đoạn lịch sử, những trận đánh quyết tử,
những chiến thắng vẻ vang, những đóng góp vật chất lẫn tinh thần của những
người đi trước để khơi dậy trong các em sự rung cảm mạnh mẽ về quá khứ, từ đó
các em hiểu được rằng, để có được cuộc sống thanh bình, hạnh phúc như ngày
hơm nay, đã có biết bao người ngã xuống trên mảnh đất này, giành giật từng tấc
đất cho quê hương.
Giáo viên có thể phân thành các loại bài lịch sử góp phần giáo dục lịng yêu
quê hương đất nước cho học sinh theo các chủ đề để thuận lợi cho việc chọn nội
dung, phương pháp thực hiện mục đích giáo dưỡng:


- Loại bài về đấu tranh chống xâm lược.
- Loại bài về lao động sản xuất, sáng tạo văn học, nghệ thuật đấu tranh ách
thống trị của bọn đô hộ trong các lĩnh vực KT-VH-XH
4.2: Biện pháp thực hiện:
Trong qua trình giảng dạy đối với những bài có liên quan đến các nhân vật
lịch sử ở địa phương giáo viên dành thời gian để trình bày về các nhân vật lịch sử
ở địa phương để qua đó giáo dục lịng yêu quê hương đất nước cho các em.
4.2.1: Loại bài về đấu tranh chống xâm lược
4.2.1.1: Phần Lịch sử lớp 6
- Bài 17: "Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng"
Nội dung cần được giáo dục cho học sinh là: Lòng yêu nước, ý chí kiên
quyết đấu tranh, tinh thần hy sinh anh dũng của Hai Bà Trưng và sự tham gia đóng
góp to lớn của các tầng lớp nhân dân.
Đối với bài này giáo viên có thể sử dụng câu chuyện nhân vật lịch sử: Thiện
Nhân - Thiện Khánh tại địa phương Hải Dương để kể chuyện cho các em nhằm
tạo biểu tượng và giáo dục tinh thần yêu quê hương đất nước cho các em.
Thiện Nhân-Thiện Khánh: Thiện Nhân-Thiện Khánh là hai chị em sinh
đôi, quê làng Thời Cử, tổng Thời Cử huyện Đường An, nay là thôn Tuyển Cử, xã

Tân Hồng, huyện Cẩm Giàng. Hai bà lớn lên đều xinh đẹp, thông minh khác
thường, ham học binh thư, võ nghệ. Năm hai bà 17 tuổi, mẹ mất. Khi đoạn tang
mẹ, đúng vào lúc Tô Định mang quân xâm lược nước ta, gây bao tang tóc cho
trăm họ. Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa, hai chị em đã tìm đến căn cứ của Hai
Bà Trưng xin được tham gia nghĩa quân đánh giặc giữ nước. Hai Bà Trưng mến
đức, yêu tài phong cho hai bà là Cẩm tả hữu nội nhập công chúa, đi các nơi chiêu
mộ hào kiệt. Khi trong tay có hàng vạn nghĩa quân, hai bà kéo về Hát Giang ra
mắt chủ tướng. Hai bà được phái về trấn giữ vùng Kinh Môn. Cuộc khởi nghĩa
thành cơng, giải phóng nhiều thành trì, Trưng Trắc xưng vua, hai chị em bà được
phong Đại tướng, thưởng công hậu và về trấn giữ vùng đất cũ, đóng bản doanh tại


làng Huề Trì (nay thuộc xã An Phụ - Kinh Môn). Ba năm sau Mã Viện - một viên
tướng già từng trải, mang quân xâm lược nước ta. Hai Bà Trưng lãnh đạo nghĩa
quân chống giặc nhưng không thành công. Thiện Nhân - Thiện Khánh về Huề Trì
và mất tại đây.
Hiện nay tại làng Huề Trì cịn ngơi đình lớn thờ hai chị em Thiện Nhân Thiện Khánh làm Thành hoàng.
- Bài 26: "Cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương"
Nội dung cần giáo dục cho học sinh: tinh thần chiến đấu bền bỉ, quên mình
vì độc lập của Tổ quốc.
Để giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước cho các em học sinh, ở bài này
giáo viên dùng câu chuyện về Khúc Thừa Dụ để kể cho các em:
Cuối thế kỉ IX, triều đình nhà Đường đổ nát, loạn lạc khắp nơi, nội tình
Trung Quốc bị phân liệt thành cục diện "năm đời, mười nước", bọn đơ hộ khơng
cịn kiểm sốt vùng đất Giao Châu xa xôi nữa. Nhân dân các địa phương nổi lên
chống lại, bọn Tiết độ sứ lần lượt bỏ chạy về nước. Độc Cô Tổn là viên Tiết độ sứ
ngoại tộc cuối cùng được mệnh danh là "ngục thượng thư" (thượng thư ác) rời
khỏi nước ta. Lợi dụng thời cơ đó, năm Bính Dần (906) Khúc Thừa Dụ, một hào
phú ở làng Cúc Bồ thuộc Hồng Châu (nay là thôn Cúc Bồ xã Kiến Quốc huyện
Ninh Giang), được dân chúng ủng hộ đã tiến qn ra chiếm đóng thành Tống Bình

tự xưng là Tiết Độ sứ.
Theo "Việt sử thông giám cương mục tiền biên" thì: họ Khúc là một họ lớn
lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hịa, hay thương người, được dân
chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh hào trưởng một xứ, Khúc Thừa
Dụ tự xưng là Tiết Độ sứ. Triều đình nhà Đường buộc phải công nhận và gia
phong thêm cho Tĩnh hải quân Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương
sự". Tuy mang danh hiệu một chức quan của nhà Đường, nhưng về thực chất,
Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ, kết thúc ách đơ hộ hơn 1000


năm của phong kiến phương Bắc. Khúc Thừa Dụ được lịch sử ghi nhận như là một
trong những người mở đầu cho nền độc lập dân tộc.
4.2.1.2: Lịch sử lớp 7
*Bài 14: "Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên (TK
XIII)"
Nội dung cần được giáo dục cho học sinh là: Tinh thần yêu nước, chiến đấu
hy sinh anh dũng của tướng sĩ Đại Việt dưới thời Trần, sự đóng góp hy sinh to lớn
của các tầng lớp nhân dân trong đó có những người con của đất Hải Dương
Cũng ở bài này giáo viên dùng các câu chuyện về nhân vật Trần Quốc
Tuấn, Trần Khánh Dư để giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các em.
- Ở tiết 3 của bài giáo viên dùng câu chuyện nói về Trần Khánh Dư để
giáo dục tinh thần yêu quê hương đất nước cho các em:
+ Trần Khánh Dư: Trần Khánh Dư người huyện Chí Linh, nay là thơn
Linh Giàng, xã Nhân Huệ. Trần Khánh Dư là con của Thượng tướng Trần Phó
Duyệt. Ơng là người trong họ nhà vua nên được phong tước Nhân Huệ Vương.
Ông là người đánh giặc có cơng lại say mê sách vở, giỏi binh thư, nên được vua
Trần yêu mến nhận làm con nuôi (Thiên tử nghĩa nam - con nuôi vua). Sau lại
được phong chức Phiêu kỵ đại tướng quân, tước Thượng vị hầu áo tía rồi làm phán
thủ. Sau mắc tội, ơng bị cách chức, tịch thu tài sản, trở về quê ở Chí Linh làm
nghề bán than.

Tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) vua Trần Nhân Tơng đóng ở vụng Trần
Xá để họp vương hầu, trông thấy thuyền than, vua cho gọi đến thấy ông cực khổ,
vua Trần xuống chiếu tha tội và cho ngồi bàn việc quân, rất hợp ý vua, lại phong
cho ơng làm Phó Đơ tướng qn.
Năm Mâu Tý (1288) trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba
ơng làm phó tướng chỉ huy đạo qn trấn giữ cửa biển Vân Đồn (Quảng Ninh).
Khi cánh quân thủy của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp tới, ông đánh không được. Thượng
hoàng được tin sai trung sứ đến bắt Khánh Dư về kinh xử tội. Khánh Dư nói với


trung sứ rằng: "Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất lại, ba
ngày để mưu lập cơng rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn". Trung sứ theo lời
xin đó. Khánh Dư liệu quân giặc đã qua sẽ có đồn thuyền lương theo sau, ơng thu
quân đợi sẵn. Quả nhiên vài ngày sau thuyền lương của giặc đến. Trần Khánh Dư
đánh bại, bắt tù binh, qn lương khí giới nhiều khơng kể xiết. Tướng giặc là
Trương Văn Hổ chạy thốt thân một mình. Chiến cơng này làm cho quân giặc
kinh hoàng, thiếu hụt lương thực, nhụt chí xâm lăng và mở đường cho thủy quân
nhà Trần tạo nên chiến thắng Bạch Đằng sau đó.
Năm 1399 ông mất, thọ trên 60 tuổi, vua Trần thương tiếc sắc chỉ cho dân
làng Linh Giàng quê hương ông lập đền thờ. Ngày nay đến thờ Nhân Huệ vương
Trần Khánh Dư vẫn còn bên bến Linh Giàng.
- Ở tiết 4 của bài giáo viên dùng hai câu chuyện về Trần Quốc Tuấn để
giáo dục tinh thần yêu quê hương đất nước cho các em:
+ Trần Quốc Tuấn: Trần Quốc Tuấn là con An Sinh Vương Trần Liễu,
cháu gọi vua Trần Thái Tôn (Trần Cảnh) là chú ruột, quê ở làng Tức Mặc, huyện
Mỹ Lộc (Nam Định). Ông sinh năm 1226, mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý,
niên hiệu Hưng Long thứ 8 (tức ngày 3 tháng 9 năm 1300) tại Vạn Kiếp (Thị xã
Chí Linh)
Thuở nhỏ Trần Quốc Tuấn đã thơng minh hơn người, được rèn luyện, giáo
dục tồn diện, sớm có chí và tài kiêm văn võ

Trần Quốc Tuấn là chủ soái của cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thời Trần. Năm 1258, ông chỉ huy quân thủy bộ chặn đánh giặc Mơng Cổ
ở biên giới, góp phần quan trọng trong chiến thắng chống quân Mông Cổ lần thứ
nhất.
Tháng 10 năm 1283 ông được tiến phong làm Quốc cơng Tiết chế thống
lĩnh tồn bộ qn đội.
Tháng 8 năm 1284 ông triệu các tướng lĩnh vương hầu họp ở Đông Bộ Đầu
để bàn kế hoạch chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai.


Năm 1285 qn Ngun do Toa Đơ, Thốt Hoan ồ ạt sang xâm lược nước
ta. Vua Trần Nhân Tông bàn với ông: "Tạm hàng để cứu muôn dân" ông khẳng
khái trả lời: "Xin bệ hạ chém đầu thần trước rồi sẽ hàng". Nghe câu nói đó nhà
vua vững tâm, quyết định đánh giặc. Tháng giêng năm 1285 ông tập hợp 20 vạn
quân ở Vạn Kiếp, rồi cùng Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải chặn đánh
cánh quân của Toa Đô ở Nghệ An. Tháng 6 năm 1285, ông cầm quân giao chiến
với Thoát Hoan, Lý Hằng ở Vạn Kiếp, đánh bại quân giặc, kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai.
Năm 1287 Hốt Tất Liệt lại sai con là Thốt Hoan cùng Toa Đơ, Ơ Mã Nhi
kéo 50 vạn quân sang xâm lược nước ta hòng rửa nhục thất bại. Tháng 8 năm 1288
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tổ chức đánh trận Bạch Đằng nổi tiếng, dìm
chết hàng vạn tên giặc, nhanh chóng kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên lần thứ ba. Dưới sự lãnh đạo thiên tài của Trần Quốc Tuấn, quân dân
nhà Trần đã đánh bại đội quân xâm lược Mơng - Ngun vơ cùng hung hãn, từng
tung vó ngựa khắp từ Âu sang Á: chặn đứng làn sóng xâm lược xuống Đông Nam
Á.
Tháng 4 năm 1289 vua Trần định công dẹp giặc Nguyên tiến phong Hưng
Đạo Vương làm Hưng Đạo Đại Vương, và lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp gọi là
"Sinh Từ"
Đến đời Trần Anh Tông (1293-1314) ông về sống những năm cuối đời ở
Vạn Kiếp, nơi quân doanh cũ rồi mất tại đó. Sử cũ chép rằng: An Sinh Vương (cha

Trần Quốc Tuấn) có hiềm khích với Trần Cảnh. Lúc sắp mất ông trăn trối lại với
Quốc Tuấn rằng: "Con khơng vì cha lấy được thiên hạ, thì chết dưới suối vàng
cha cũng khơng nhắm mắt được".
Quốc Tuấn ghi nhớ điều đó trong lịng, nhưng khơng cho là phải. Sau kháng
chiến chống quân Nguyến thắng lợi, ông đem lời cha dặn nói với gia nơ là Yết
Kiêu và Dã Tượng. Hai người can ông: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời mà
để tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại Vương há chắng đủ phú quý hay sao? Chúng tôi


xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà khơng có trung hiếu". Một
lần khác Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương
Trần Quốc Tảng, Quốc Tảng liền thưa: "Tống Thái tổ vốn là một ông lão làm
ruộng, đã thừa cơ dấy vận lên lấy được thiên hạ", Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
"Tên loạn thần từ đứa con bất hiếu mà ra", định giết Quốc Tảng... Khi Quốc Tuấn
lâm bệnh, vua Anh Tông đến thăm và hỏi kế sách giữ nước, ơng trả lời ... "Có
được đội qn một lịng như cháu con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức
dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".
Sau khi ông mất, vua Trần Anh Tông tặng phong là "Thái sư, Thượng phụ,
Thượng quốc công, Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương", và tự soạn văn bia ca ngợi
công đức của Trần Quốc Tuấn.
Đền Kiếp Bạc (thuộc xã Hưng Đạo, Chí Linh) ngày nay là khu tưởng niệm
lớn của cả nước là di tích lịch sử được xếp hạng đặc biệt quan trọng, hàng năm
nhân dân khắp nơi trong nước về hội đền từ ngày 15 đến 20 tháng 8 âm lịch.
Là nhà quân sự kiệt xuất, ơng đã đúc rút kinh nghiệm của mình, kế thừa tinh
hoa quân sự của các triều đại trước, viết thành sách lưu lại cho đời sau như: Binh
Thư yếu lược, Vạn Kiếp Tơng bí truyền thư, Hịch tướng sĩ.
* Bài 16: "Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV"
Nội dung của bài này giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, tinh thần vượt
gian khổ, hi sinh để chóng lại áp bức, cường quyền. Ở bài này giáo viên dùng hình
ảnh của Ngơ Bệ một nhân vật lịch sử ở địa phương Hải Dương để giáo dục lịng

u q hương, đất nước cho các em
Ngơ Bệ: Ông quê ở Trà Hương huyện Kim Thành là lãnh tụ của cuộc khởi
nghĩa nông dân thời Trần.
Sau kháng chiến chống quân Nguyên thắng lợi, triều Trần lúc đầu quan tâm
đến việc phục hồi kinh tế và xây dựng đất nước. Nhưng sau đó triều đình đã lấy
hàng loạt ruộng đất của các làng xã để phong cấp cho các vương hầu và những
cơng thần có cơng trong kháng chiến, các quý tộc nhân đó chiếm đoạt thêm ruộng


đất của dân. Ngô Bệ sinh ra và lớn lên vào lúc xã hội nhà Trần đã suy vi, nhân dân
đói khổ, loạn lạc khắp nơi. Một số quan lại chính trực đã treo mũ từ quan.
Nạn đói khủng khiếp xảy ra vào cuối năm 1343 khiến lòng dân li tán, ốn
thán triều chính, nổi dậy bạo động ở nhiều nơi. Không chịu cảnh đè nèn, áp bức
bất công của triều đình, Ngơ Bệ tập hợp lực lượng nổi dậy khởi nghĩa. Khởi nghĩa
của Ngô Bệ là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất đời Trần kéo dài 16 năm (từ
năm 1344 - 1360). Nghĩa quân lấy núi Yên Phụ làm căn cứ chiếm giữa một vùng
rộng lớn. Tại đây Ngô Bệ đã cho dựng lá cờ lớn và yết bảng tuyên cáo: "Cứu giúp
dân nghèo". Vì vậy mà thu hút được lực lượng đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Triều đình nhiều lần tập trung lực lượng đàn áp, Ngô Bệ và nghĩa quân phải phân
tán khắp nơi, nhưng sau đó lại trở về Yên Phụ, mở rộng địa bàn hoạt động ra các
vùng chung quanh làm cho quan quân nhà Trần nhiều phen lao đao, khốn đốn.
* Bài 20: "Nước Đại Việt thời Lê sơ (1428-1527)"
- Ở tiết 4 của bài giáo viên cần giáo dục cho học sinh ý thức đấu tranh
chống ngoại xâm và ý thức vươn lên trong quá trình xây dựng đất nước. Ở bài này
giáo viên cần tạo biểu tượng về Nguyễn Trãi, một danh nhân văn hóa thế giới, anh
hùng giải phóng dân tộc có đền thờ tại địa phương Chí Linh để giáo dục các em
lòng yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống hào hùng của địa phương.
Nguyễn Trãi: Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai. Tổ tiên ông vốn ở làng Chi
Ngãi, huyện Phượng Nhỡn (nay là phường Cộng Hịa, thị xã Chí Linh). Cha ơng là
Nguyễn Phi Khanh thiên cư về làng Nhị Khê, huyện Thường Tín - Hà Tây (nay là

Hà Nội). Mẹ là Trần Thị Thái con gái Trần Nguyên Đán, tể tướng nhà Trần.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất năm 1442. Lúc trẻ đã văn chương nổi
tiếng. Năm 20 tuổi đỗ Thái Học sinh, khoa Canh Thìn (1400). Hai cha con cùng
làm quan phục vụ nhà Hồ. Ơng giữ chức chính chưởng đài ngự sử.
Năm 1407, nhà Minh mượn cớ "Phù Trần diệt Hồ", đem quân xâm lược
nước ta. Phi Khanh bị giặc bắt giải về Kim Lăng (Trung Quốc). Nguyễn Trãi theo
cha đến ải Nam Quan. Phi Khanh khuyên ông "Hãy trở về tìm kế cứu nước, trả


thù cho cha". Ông nghe lời cha trở về quyết tâm rửa hận, không may bị sa vào tay
giặc, suýt bị Trương Phụ giết. Hoàng Phúc thâm hiểm giam lỏng ông ở Đông
Quan (Hà Nội) hòng dần dần thuyết phục mà dùng sau này.
Mười năm trong tay giặc, thù nhà nợ nước canh cánh trong lòng. Năm 1418
Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa), ơng trốn vào Thanh Hóa, yết kiến Lê
Lợi, dâng sách Bình Ngơ và được Lê Lợi trọng dụng. Trong 10 năm kháng chiến
gian khổ chống giặc Minh, giải phóng đất nước. Nguyễn Trãi trở thành linh hồn
của cuộc khởi nghĩa. Ông là người giúp Lê Lợi rất đắc lực trong mưu kế quân sự
và ngoại giao. Ông đã thay Lê Lợi thảo những thư từ giao thiệp với quân Minh.
Năm 1428, kháng chiến thành cơng, ơng lại thay Lê Lợi viết "Bình Ngơ đại
cáo" nổi tiếng. Đó là bản tun ngơn độc lập thứ hai của dân tộc. Vì có cơng lớn
với đất nước, Nguyễn Trãi được thăng chức Triều liệt đại phu, nhập nội hành
khiển, Thượng thư bộ lại, kiêm làm việc Viện khu mật. Lại được phong Quan
phục hầu và được Lê Thái Tổ cho đổi ra họ vua, là họ Lê, vì vậy có sách chép là
Lê Trãi.
Năm 1442 ơng làm chính giám thị kỳ thi Tiến sĩ đầu tiên, đúng lúc đó bọn
gian thần tìm cách ám hại ơng. Vụ biến Lệ Chi Viên là cớ để chúng buộc tội ông
chủ mưu giết vua và kết án Tru di tam tộc. Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (tức
ngày 19 tháng 9 năm 1442) Nguyễn Trãi cùng ba họ bị giết bởi lưỡi dao oan
nghiệt của triều đình hèn hạ, ngu muội, do chính ơng đã "nếm mật năm gai" mười
năm gian khổ để xây dựng nên.

Đời Vua Lê Thánh Tông (1460-1497), năm 1464 niên hiệu Hồng Đức thứ 5,
Nguyễn Trãi được minh oan. Thánh Tông truy phong ông quan tước cũ, tìm người
con trai duy nhất của ơng là Nguyễn Anh Vũ bổ làm quan và trọng dụng trong
triều. Lê Thánh Tơng viết về Nguyễn Trãi có câu: "Lịng Ức Trai sáng như sao
Khuê"
Ngày nay, nhà thờ họ Nguyễn ở làng Nhị Khê còn chân dung Nguyễn Trãi.
Chùa Hun ở Cơn Sơn (Chí Linh) là một danh thắng cũng là nơi kỉ niệm vị anh


hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi là một vị anh hùng xuất sắc của dân tộc,
một thiên tài trên nhiều lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn
học ... Tài kinh bang tế thế, cuộc đời sáng ngời phẩm chất cao quý của ông là niềm
tự hào chung cho cả dân tộc ta.
Bài 24: "Khởi nghĩa nơng dân Đàng Ngồi thế kỉ XVIII"
Nội dung cần giáo dục học sinh: Lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu hi sinh
để chống lại áp bức, cường quyền. Ở bài này giáo viên dùng hình ảnh Nguyễn
Hữu Cầu để tạo biểu tượng và qua đó giáo dục lịng u q hương đất nước.
Nguyễn Hữu Cầu: Người làng xã Lôi Động huyện Thanh Hà, ông sinh vào
đầu thế kỉ XVIII mất năm 1751).
Nguyễn Hữu Cầu mồ côi cha từ bé, nhà nghèo, mẹ làm nghề bán nước ở
gốc đa Đồng Tráng làng Lôi Động. Thuở nhỏ ông là cậu bé mạnh khỏe, thông
minh nhanh nhẹn và rất tài bơi lội được mệnh danh là He (cá He). Ông được mẹ
chắt chiu cho đi học chữ. Thời gian đi học của ông khơng lêu nhưng vốn thơng
minh, học đâu nhớ đó, khiến các bạn đồng niên phải nể vì.
Thời ấy, quan lại tham nhũng, phu dịch nặng nề, lụt lội mất mùa liên miên,
dân nghèo xứ Đông theo lời chiêu nạp của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, người làng
Ninh Xá - huyện Chí Linh, nổi dậy đánh phá các trấn ty trị sở. Năm 1731 ông
tham gia cuộc khởi nghĩa Ninh Xá, trở thành vị tướng tài dưới lá cờ "Ninh Dân"
với danh hiệu Quận He, được Nguyễn Cừ yêu mến gả con gái cho.
Sau khi Nguyễn Cừ thất bại (1742) ông đứng lên chỉnh đốn nghĩa quân, lá

cờ "Đông Đạo tổng quốc bảo dân đại tướng quân" của ông được giương lên ở Đồ
Sơn (Hải Phòng) chẳng bao lâu tung bay khắp một vùng rộng lớn. Khẩu hiệu:
"Lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo" do ông đề ra đã cổ vũ hàng vạn nông dân
vùng lên đấu tranh. Dưới sự chỉ huy tài giỏi của ông, nghĩa quân chiếm lĩnh miền
Duyên Hải từ Hải Phòng, Quảng Ninh lên Kinh Bắc (Bắc Ninh) uy hiếp thành
Thăng Long rồi tiến xuống Sơn Nam (nam Hà, Thái Bình, Hưng n, Hà Đơng)
đánh vào tận Thanh Hóa.


Năm Giáp Tý (1744) trước thế lực nghĩa quân ngày càng mạnh, chúa Trịnh
sai hai tướng giỏi là: Việp Quận Cơng Hồng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đi
Đồ Sơn để đàn áp nghĩa quân. Vốn có tư thù từ trước, Phạm Đình Trọng dốc tồn
lực lượng bí mật đánh úp. Nghĩa quân bị bất ngờ thua to. Nguyễn Hữu Cầu phải
vượt biển vào Nghệ An. Ở đây ông tiếp tục chiêu tập nghĩa binh khởi nghĩa.
Nhưng lực lượng không đủ mạnh. Trước sức tấn công của quân Trịnh, nghĩa quân
phải rút vào núi Hoàng Mai - Nghệ An, cuối cùng ơng bị bắt đóng cũi giải về kinh.
Trên đường đi, ông vẫn ung dung làm bài thơ "Chim trong lồng" để nói lên chí khí
lớn của mình.
4.2.1.3: Lịch sử lớp 8
Bài 26: "Phong trào kháng chiến chống Pháp trong những năm cuối thế
kỉ XIX"
Ở bài này giáo viên dùng hình ảnh của Đốc Tít một nhân vật ở địa phương
Hải Dương tham gia tích cực vào cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy để giáo dục cho các em
lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc.
Đốc Tít: Ơng tên thật là Nguyễn Tất Thắng, cịn gọi là Nguyễn Ngọc Tích,
Nguyễn Đức Thiệu thường gọi là Đốc Tít. Khơng rõ ơng sinh và mất năm nào, quê
ở làng Yên Lưu thượng phủ Kinh Môn (nay thuộc làng An Lưu thượng Thị trấn
An Lưu huyện Kinh Mơn)
Ơng dáng người nhỏ bé, nhưng khỏe mạnh, lanh lợi, rất giỏi võ và lại có
nhiều tài lẻ. Tương truyền khi ơng cịn nhỏ, bố mẹ có tham gia một cuộc khởi

nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, bị kết tội phản nghịch phải trốn đi, gửi chị
em ông nhờ người em trai nuôi. Người chú cho ông học ông thày đồ nổi tiếng
trong làng. Thày đồ là người có tinh thần yêu nước, thương dân, căm ghét chế độ
bất cơng, hà khắc của triều dình Nguyễn, nhất là khi triều đình đầu hàng giặc Pháp
Từ năm 1882, Nguyễn Tất Thắng đã bắt đầu hoạt động chống Pháp ở vùng
cù lao Hai sông giáp khu vực Hải Dương - Hải Phòng. Địa thế ở đây rấ hiểm trở,
chung quanh là núi đá vôi, ba mặt là sông, thuận tiện cho nghĩa quân hoạt động,


nhưng cũng cản đường rút lui của nghĩa quân nếu địch tập trung truy qt. Có lần
ơng cùng với Nguyễn Thiện Thuật diệt trừ bọn giặc cướp ở phủ Kiến Thụy (Hải
Phòng) và huyện Cẩm Giàng (Hải Dương) nên được triều đình phong chức Quản
tinh binh suất đội, rồi cầm suất đội.
Sau khi giặc Pháp đánh ra Bắc Kì lần thứ hai (1882) trước cảnh triều đình
nhà Nguyễn đớn hèn, ông càng nung nấu ý chí quyết tâm kháng Pháp đến cùng.
Giặc Pháp mấy lần tấn công đàn áp nhưng đều bị thiệt hại nặng.
Sau khi có Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi (1885) cuộc khởi nghĩa Bãi
Sậy của Nguyễn Thiện Thuật phát triển rộng lớn gồm hầu hết các tỉnh đồng bằng,
một phần miền núi và miền duyên hải. Hào kiệt khắp nơi theo về rất đông.
Nguyễn Tất Thắng tham gia phong trào Bãi Sậy. Đến tháng 10 âm lịch năm 1886
vua Hàm Nghi phong chức cho ông là Chưởng Vệ, lãnh đề đốc quân vụ tỉnh Hải
Dương, nên đương thời gọi ơng là Đốc Tít. Ơng hoạt động ở vùng Hai Sông, thu
thuế của nhân dân trong cùng để ni nghĩa qn, tích trữ được nhiều vũ khí, qn
nhu trong hang đá. Nhờ đó nghĩa qn Đốc Tít chiến đấu được với Pháp trong
nhiều năm
Năm 1888 nghĩa quân Bãi Sậy hoạt động mạnh, đánh địch ở khắp mọi nơi.
Trận thủy động do Đốc Tít chỉ huy diễn ra ngày 8-5-1888 đã thắng lợi lớn. Sau
nghĩa quân rút về Lục Nam, Đông Triều hiệp lực với nghĩa quân Lưu Kỳ đang
đóng ở đấy.
Tháng 7-1888 giặc Pháp bắt đầu bao vây và tấn cơng nghĩa qn Đốc Tít cả

4 mặt. Suốt trong một tháng địch tấn công liên tiếp, nã đại bác vào căn cứ, nhưng
dựa vào địa thế hiểm trở nên nghĩa quân đã đánh bật địch ra ngồi, gây cho chúng
nhiều tổn thất. Sau đó địch vừa tăng cường lực lượng tấn công vừa dụ hàng. Trải
qua 7, 8 năm chống Pháp, lúc này phong trào Bãi Sậy đã bắt đầu thoái trào và lực
lượng nghĩa quân cũng đã giảm sút. Trong lúc địch bao vây ở vào thế đường cùng,
để bảo toàn sinh mạng cho số nghĩa qn cịn lại, Đốc Tít phải ra hàng. Tháng 11890 Đốc Tít và gia quyến bị đày snag An-giê-ri. Ông mất ở đấy.


4.2.1.4: Lịch sử lớp 9
Bài 26: "Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1950-1953)"
Để giáo dục tinh thần dũng cảm quên mình cho nền độc lập của dân tộc giáo
viên dùng hình ảnh của Anh hùng lực lượng vũ trang Mạc Thị Bưởi, người con ưu
tú của nhân dân Nam Sách anh hùng để giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào
dân tộc.
Mạc Thị Bưởi: Mạc Thị Bưởi sinh năm 1927 trong một gia đình nơng dân
nghèo ở làng Long Động, xã Tân Hưng (nay là xã Nam Tân huyện Nam Sách)
một xã nằm bên sơng Kinh Thầy. Ơng thân sinh mất sớm, bà mẹ phải vất vả đi
làm thuê, cấy rẽ lúa nuôi Bưởi và các em gái. Lớn lên sau Cách mạng Tháng Tám,
Mạc Thị Bưởi làm cán bộ phụ nữ kiêm nhiệm vụ giao thông liên lạc cho chi bộ và
du kích của xã. Chị đã kiên trì học bình dân để biết chữ, hoàn thành tốt nhiệm vụ,
được kết nạp Đảng năm 1948.
Thực dân Pháp và tay sai lập hệ thống đồn bốt bên sông Kinh Thầy để ngăn
chặn sự liên lạc của vùng Đông Bắc với căn cứ chiến khu Chí Linh - Đơng Triều.
Mạc Thị Bưởi là người phụ nữ đầu tiên tham gia đội du kích của xã, quấy rối bốt
địch, phá hoại đường dây điện thoại, diệt bọn lính nghĩa dũng, phá tề, trừ gian.
Bọn địch tăng cường vây ráp, khủng bố, ban đêm bắt dân làng phải ngủ tập trung,
cán bộ cốt cán của xã phải ẩn nấp ngoài đồng. Mạc Thị Bưởi đã bất chấp hiểm
nguy, khôn khéo làm nhiệm vụ tiếp tế, liên lạc giữa tổ chức Đảng ở xã, với huyện,
nhiều lần ban đêm lội qua sông Kinh Thầy khi tàu địch đang tuần tiễu.

Mạc Thị Bưởi bị địch bắt khi đang ở nơi tập trung để đi học đào tạo cán bộ
của huyện. Tên đồn trưởng Pháp và bọn tay sai ở bốt Trung Hà khi nhận ra chị đã
tra khảo dã man, rồi dụ dỗ mua chuộc, bắt chị phải khai báo cán bộ, khai báo chỗ
cất giấu vũ khí của du kích. Khơng khuất phục được, chúng âm mưu thủ tiêu chị.
Được báo trước âm mưu của địch, chị đã giả vờ nhận lời đưa chúng về làng Đột
Lĩnh để lấy súng. Buổi chiều ngày 23 tháng 4 năm 1951, bọn địch đưa Mạc Thị


Bưởi về làng. Tức tối vì chị đã khơng khai báo thật những nơi giấu súng của du
kích, chúng đã sát hại chị vô cùng dã man.
Tấm gương hi sinh anh dũng của Mạc Thị Bưởi đã cổ vũ mạnh mẽ khí tiết
kháng chiến diệt địch của phụ nữ và du kích trong vùng. Năm 1955, Mạc Thị Bưởi
được chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Như vậy với những tấm gương về các nhân vật lịch sử ở địa phương mà
giáo viên đã lồng ghép trong các tiết lịch sử, học sinh ngoài việc được giáo dục
lịng u nước, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm và tinh thần chiến đấu bền
bỉ vì độc lập dân tộc các em đã thấy rết tự hào về vùng đất Hải Dương quê hương
qua đó các em càng thấy tự hào về quê hương và qua đó các em thêm yêu quê
hương, đất nước mình và qua đó các em cũng thấy được trách nhiệm của mình đối
với quê hương, đất nước.
4.2.2: Loại bài về lao động sản xuất, sáng tạo văn học, nghệ thuật, đấu
tranh chống ách thống trị của bọn đô hộ trong các lĩnh vực kinh tế-văn hoáxã hội
Truyền thống yêu nước của con người Việt Nam không chỉ thể hiện qua
tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm mà còn được thể hiện qua truyền thống cần
cù lao động sản xuất, sáng tạo trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, đấu tranh chống
bọn đô hộ gìn giữ bản sắc dân tộc. Giáo viên chọn những bài có thể lồng ghép
giáo dục tinh thần cần cù lao động, sáng tạo văn học nghệ thuật, bền bỉ đấu tranh,
duy trì sự phát triển kinh tế của đất nước, giữ gìn nền văn hố dân tộc qua từng
giai đoạn thăng trầm của đất nước
4.2.2.1: Lịch sử lớp 7

* Bài 15: "Sự phát triển kinh tế và văn hóa thời Trần"
- Tuệ Tĩnh: Tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, pháp hiệu là Tuệ Tĩnh Thiền Sư,
biệt hiệu là Hồng Nghĩa, người làng Nghĩa Phú - tổng Văn Thai - Cẩm Giàng (nay
là xã Cẩm Vũ - Cẩm Giàng)


Theo tư liệu thì Tuệ Tĩnh sinh năm 1330, húy là Phúc Trình, ơng có tướng
mạo ngũ trường (người và chân tay dài). Thông minh, giỏi võ, mắt giống mắt
Phật. Cha mẹ mất sớm, Nguyễn Bá Tĩnh đi làm Thiền đồng ở chùa Hải Triều
(chùa Giám). Lớn lên ông theo học thầy Phạm Tử Di, do chăm chỉ, học giỏi được
thầy yêu quý gả con gái cho
Năm Tân Mão (1351) ơng đỗ Hồng giáp lúc 22 tuổi. Ơng được triều đình
trọng dụng phong chức Bình Tây tướng quân, đi đánh Chiêm Thành. Nửa sau thế
kỉ XIV triều Trần suy yếu, chính sự rối ren, ơng chán ghét thời cuộc, từ quân đi
chu du thiên hạ làm nghề thuốc cứu giúp dân lành. Từ đó nghề y là sự nghiệp của
cuộc đời ông. Quan điểm của ông là "Thuốc Nam trị bệnh người nam Việt". Ơng
sử dụng các lồi cây cỏ Việt Nam để chữa bệnh, dùng các bài thuốc và phương
pháp điều trị thông thường trong dân gian, ghi chép lại như: châm cứu, chườm,
xoa bóp ...
Tuệ Tĩnh thiền sư là người có cơng đặt nền móng xây dựng sự nghiệp y học
dân tộc từ buổi đầu. Tương truyền vì giỏi y học ông được vua Trần cử đi sứ nhà
Minh năm Giáp Tý (1384). Ở Trung Quốc ông chữa khỏi bệnh cho Hoàng hậu vua
Minh, được vua Minh phong là "Đại y thiền sư". Do giỏi y học vua Minh giữ lại
khơng cho về. Biệt xứ ở nước ngồi ông vẫn say mê nghiên cứu y học và viết
sách. Đến nay nhiều tài liệu y học của Tuệ Tĩnh còn lưu lạc ở Trung Quốc mà
chúng ta chưa khai thác được.
Thiền sư Tuệ Tĩnh được nhân dân và giới y học tôn là Y Thánh và được lập
miếu thờ ở Hà Nội, Hải Dương. Suốt đời cống hiến cho sự nghiệp y học, ông đã
để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Bộ sách "Nam dược thần hiệu" của ông giới thiệu
580 vị thuốc nam và 3873 phương thuốc điều trị 184 loại bệnh. Ngày nay di sản y

học của Tuệ Tĩnh được kế thừa trong việc xây dựng nền y học dân tộc hiện đại.
* Bài 16: "Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV"
Bồi dưỡng học sinh tình cảm yêu thương người lao động, thấy được vai trò
của quần chúng nhân dân lao động. Tuy nhiên cũng ở bài này giáo viên khắc sâu


hình ảnh Thày giáo Chu Văn An để tạo biểu tượng cho học sinh và qua đó giáo
dục lịng u quê hương đất nước cho các em
Chu Văn An: Chu Văn An tên hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên
thụy là Văn Trinh, người thôn Văn, xã Quang Liệt, nay thuộc xã Thanh Liệt,
huyện Thanh Trì Hà Nội, sinh khoảng cuối thế kỉ XIII.
Thuở nhỏ, ông là người sớm có nghị lực, chuyên cần học tập, nghiêm khắc
sửa mình, khơng màng danh lợi. Khi trưởng thành thi đậu Thái Học sinh (Tiến sĩ)
nhưng không ra làm quan, ở nhà đọc sách dạy học. Tại thôn Văn, ông dựng nhà
làm trường học trên gò lớn giữa đầm. Học trị xa gần nghe tiếng kéo đến học rất
đơng, làm sự nghiệp lớn như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh. Vua Trần Minh Tơng
(1314-1329) thấy ơng là người có tài, thanh liêm mẫu mực đã mời làm Tu nghiệp
Quốc tử giám dạy Thái tử.
Trần Dụ Tơng là học trị của ơng, lên làm vua ham chơi, trễ nải chính trị, bề
tơi nhiều người vi phạm phép nước, nhiều lần khuyên vua sửa trị, nhưng Dụ Tơng
khơng nghe. Ơng bèn dâng sớ chém 7 tên nịnh thần đều là những kẻ có thế lực
trong triều được vua yêu lúc bấy giờ gọi là thất trảm sớ. Nhà vua vẫn bỏ qua
không xem xét. Ông thất vọng, trao trả mũ áo từ quan, trở về làng dạy học. Học
trò khi đã thành đạt, làm quan lớn trong triều nhưng vẫn giữ lễ học trị: "Khi có
đến thăm hỏi vẫn lạy ở dưới giường, được Chu Văn An hỏi chuyện vài câu rồi đi,
rất lấy làm mừng".
Trong những năm cuộc đời, ông đến thăm vùng núi Chí Linh - vùng đất
thiêng liêng của đất nước, nơi có nhiều di tích lịch sử và danh thắng, nơi hấp dẫn
nhiều danh nhân. Ông đến núi Phượng Hồng thuộc xã Kiệt Đặc, thấy rừng thơng
bát ngát, suối trong rì rào, đá núi lơ xơ, dựng nhà dạy học, làm thuốc chữa bệnh,

làm thơ, viết sách tiêu dao cùng năm tháng và đặt tên cho mình là Tiều Ẩn.
Tuy ở chốn lâm tuyền, ông vẫn không quên vận mệnh quốc gia và triều đình
cũng khơng qn một nhân tài mẫu mực. Khi triều đình có đại sự, mời ông vào
tham dự, bao giờ ông cũng tâu bầy thẳng thắn, hi vọng giữ vững kỉ cương làm cho


×