Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một số kinh nghiệm rèn kĩ năng giải toán hình học 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.39 KB, 22 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
“Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng giải
toán hình học 8”
Bộ môn: Toán

Năm học 2014 - 2015


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng giải toán hình học 8”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phân môn hình học khối 8
3. Tác giả:
Họ và tên:

Đỗ Quốc Đại

Nam (Nữ): Nam

Ngày/tháng/năm sinh: 19/09/1988
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm Toán - Tin
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Lê lợi
Điện thoại: 0943859886
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Đỗ Quốc Đại - Trường THCS Lê Lợi
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Trường THCS Lê Lợi – Lê
Lợi – Chí Linh – Hải Dương. Điện thoại: 03203593126
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
+ Môi trường giáo dục gồm: Giáo viên, học sinh, và các cơ sở vật chất


của trường học
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013 – 2014 cho đến
nay.

TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG

(ký, ghi rõ họ tên)

SÁNG KIẾN

Đỗ Quốc Đại


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
- Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Tình trạng học sinh học yếu môn toán trong những năm học vừa qua và
hiện nay, nhất là môn hình học còn khá phổ biến, kĩ năng giải toán môn hình
học còn yếu, năng lực suy luận logic, cách suy luận, lập luận đúng để tìm tòi,
dự đoán và phát hiện vấn đề còn thực sự chưa được tốt. Trong khi đó phân môn
hình học là một trong những phân môn giúp học sinh có phương pháp tốt để
rèn khả năng tư duy, kĩ năng vẽ hình, kĩ năng suy luận, khả năng diễn đạt chính
xác ý tưởng của mình, tăng tính thực tiễn, tính sư phạm và tính thẩm mỹ, tạo
điều kiện để học sinh tăng cường học tập thực hành, rèn khả năng tính toán.
- Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tại trường THCS và qua tìm hiểu
thực tiễn tại trường, tôi thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức
cơ bản của phân môn Hình học, chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm
tra, bài thi còn chưa đạt yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã

có những ý kiến như: phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong
giờ học còn nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn…
Với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi áp dụng một số
giải pháp hướng dẫn học sinh giải toán hình học 8 cho học sinh khối 8 từ năm
học 2013- 2014 đến nay.
- Tính mới sáng tạo:
Có thể khẳng định rằng việc dạy học là một công việc vừa mang tính
khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Vậy nên với việc dạy học đòi hỏi người
giáo viên cần có năng lực sư phạm vững vàng, phương pháp giảng dạy phù hợp
theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc chiếm lĩnh kiến thức.
Chính vì lẽ đó việc tạo cho học sinh niềm hứng thú trong học tập phân môn
Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên. Ngoài việc
lên lớp người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tìm tòi tài liệu có liên quan


để làm sao có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dể hiểu, phù
hợp với khả năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh.
Sáng kiến nhằm khắc phục những khó khăn của học sinh về kĩ năng giải
toán môn hình học, năng lực suy luận logic, cách suy luận, lập luận đúng để tìm
tòi, dự đoán và phát hiện vấn đề còn thực sự chưa được tốt. Được thể hiện qua
sáu giải pháp cụ thể như sau:
Giải pháp 1: Khi vẽ hình hãy tạo “động lực và sự hứng thú” cho học
sinh.
Giải pháp 2: Khi giải bài tập hãy tạo “không khí nhẹ nhàng, sôi nổi” cho
học sinh.
Giải pháp 3: Trong những tiết ôn tập tạo không khí “học mà vui, vui để
học” cho học sinh.
Giải pháp 4: Tạo hứng thú cho học sinh khi áp dụng kiến thức vào thực
tiễn.
Giải pháp 5: Hướng dẫn học sinh “lập sổ tay toán học”.

Giải pháp 6: Khi tìm hiểu về kiến thức mới tạo “sự hứng thú” cho học
sinh.
- Tính khả thi
Sáng kiến kinh nghiệm mang tính khả thi cao do những giải pháp người
viết đưa ra hoàn toàn phù hợp với thực tế năng lực, trình độ, tâm lí và nét đặc
thù của học sinh lớp 8.
- Hiệu quả mang lại
Qua quá trình chỉ đạo thực hiện, chất lượng phân môn hình học lớp 8
được nâng lên rõ nét, số học sinh yếu môn Hình học giảm dần theo từng giai
đoạn tại trường THCS.
- Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
Đề nghị ban giám hiệu trường cùng các cấp lãnh đạo tạo điều kiện giúp
đỡ để tôi tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và mở rộng sáng kiến “Một số kinh
nghiệm rèn kỹ năng giải toán hình học 8” .


MÔ TẢ SÁNG KIẾN: “MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KỸ
NĂNG GIẢI TOÁN HÌNH HỌC 8”
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Tình trạng học sinh học yếu môn toán trong những năm học vừa qua và
hiện nay, nhất là môn hình học còn khá phổ biến, kĩ năng giải toán môn hình
học còn yếu, năng lực suy luận logic, cách suy luận, lập luận đúng để tìm tòi,
dự đoán và phát hiện vấn đề còn thực sự chưa được tốt. Trong khi đó phân môn
hình học là một trong những phân môn giúp học sinh có phương pháp tốt để
rèn khả năng tư duy, kĩ năng vẽ hình, kĩ năng suy luận, khả năng diễn đạt chính
xác ý tưởng của mình, tăng tính thực tiễn, tính sư phạm và tính thẩm mỹ, tạo
điều kiện để học sinh tăng cường học tập thực hành, rèn khả năng tính toán.
Hơn nữa theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là giáo viên
chúng ta cần phải học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp
dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng

kiểu bài làm cho giờ học đạt hiệu quả cao nhất.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tại trường THCS và qua tìm hiểu
thực tiễn tại trường, tôi thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức
cơ bản của phân môn Hình học, chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm
tra, bài thi còn chưa đạt yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã
có những ý kiến như: phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong
giờ học còn nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn… Điều đó nảy sinh trong tôi
những trăn trở: Làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để
học sinh hứng thú, say mê trong khi học? Có biện pháp gì để tạo hứng thú say
mê tìm tòi sáng tạo, vận dụng những gì đã học vào thực tiễn?… Với mong
muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến
“Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng giải toán hình học 8”.


2. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, môn Hình học nói
riêng đạt kết quả cao không phải là chuyện nói đến đâu làm ngay được đến đó.
Muốn đạt hiệu quả giảng dạy đòi hỏi một mặt kiến thức của thầy phải vững,
phải sâu, phải có phương pháp phù hợp; mặt khác đòi hỏi người thầy có kỹ
năng, nghiệp vụ sư phạm thật khéo léo. Với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã
bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “tập làm người lớn” nên lời khen, lời động
viên đối với các em phát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi nó đã tác động vào thế
giới tâm lí, tình cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được
đặt ra hướng các em đến với những hành vi tự giác, chủ động và tích cực trong
việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt với học sinh có biểu hiện chán học, khó tiếp
thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào tình
trạng học sa sút. Bởi vậy người giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp
các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong học tập. Và khi ấy người giáo viên
thực sự dành cho các em một sự động viên, khích lệ kịp thời để tạo ra một bước
đột phá trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề

này mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy biện pháp
tạo hứng thú cho học sinh học môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất
quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng.
Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm
triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua các năm làm công
tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS.
3. Thực trạng vấn đề.
Có thể khẳng định rằng việc dạy học là một công việc vừa mang tính
khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Vậy nên với việc dạy học đòi hỏi người
giáo viên cần có năng lực sư phạm vững vàng, phương pháp giảng dạy phù hợp
theo hướng tích cực giúp học sinh chủ động trong việc chiếm lĩnh kiến thức.
Chính vì lẽ đó việc tạo cho học sinh niềm hứng thú trong học tập phân môn
Hình học hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên. Ngoài việc


lên lớp người giáo viên phải không ngừng học hỏi, tìm tòi tài liệu có liên quan
để làm sao có thể truyền thụ cho học sinh một cách nhẹ nhàng, dể hiểu, phù
hợp với khả năng tiếp thu của từng đối tượng học sinh.
Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp
dạy học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh,
khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy
tích cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm say mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt những năm học gần đây
toàn ngành đang thực hiện phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho
các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy trong các em ý thức “mỗi ngày đến
trường là một ngày vui”. Đó chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học
sinh học tập nói chung, phân môn Hình học nói riêng trở thành một đòi hỏi đối
với người làm công tác giảng dạy.

Qua khảo sát chất lượng bộ môn toán đầu năm của học sinh lớp 8A, 8B tại
trường tôi thu được kết quả sau.
Tổng số
Giỏi
Khá
TB
79
9
25
16
+ Về hứng thú học tập bộ môn Hình học:

Yếu
24

Kém
5

Số học sinh thích học: 14%; Bình thường: 36%; Số học sinh sợ phải học môn
Hình học: 50%.
Bản thân tôi là một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy môn Toán tôi thấy
rằng:
- Trong trường THCS môn Toán là môn khoa học luôn được chú trọng
cao và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng. Nhất là phân môn Hình học
có nhiều khái niệm trừu tượng nhất, bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình
vẽ lại phải “mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh,
điểm, đường thẳng hay suy luận.... Kiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều


so với nội dung lí thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy

diễn chặt chẽ, lôgic.
- Nếu phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng,
chẳng hạn như: Khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa
ẩn ở mẫu thức, giải bài toán bằng cách lập phương trình thì SGK đưa ra các
bước giải rất cụ thể; thì phân môn Hình học lí thuyết vừa ít lại trừu tượng, các
hướng đi cụ thể ít nên học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh
lệch giữa kiến thức lí thuyết với lượng bài tập và thời gian luyện tập lại quá
lớn. Do đó rất khó khăn trong việc chữa bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn
bài để hướng dẫn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà SGK yêu cầu.
- Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ
miễn cưỡng, chán nản ở các em. Từ đó nhiều em không nắm được kiến thức cơ
bản, làm bài tập ở nhà cũng chỉ đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng
dụng cụ để vẽ hình..... Điều này cho thấy giáo viên phải bỏ nhiều công sức để
nghiên cứu, chọn lọc cho mình một cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú
cho học sinh trong bài giảng.
- Trong quá trình dạy học cần rèn luyện cho học sinh tính linh hoạt, độc
lập, sáng tạo đó là kỹ năng thay đổi phương pháp giải quyết vấn đề phù hợp với
sự thay đổi của các điều kiện, biết tìm ra phương pháp mới để giải quyết vấn
đề, kỹ năng xác lập sự phụ thuộc giữa các kiến thức theo trật tự ngược lại với
các kiến thức đã học, kỹ năng nhìn một vấn đề theo nhiều quan điểm khác
nhau, kỹ năng tự mình nhìn thấy vấn đề để giải quyết.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
Giải pháp 1: Khi vẽ hình hãy tạo “động lực và sự hứng thú” cho học
sinh.
- Học phân môn Hình học thì một yếu tố rất quan trọng là học sinh phải
biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? Yếu tố nào trước? Yếu tố nào sau? Ký hiệu
như thế nào? Khi vẽ thì cần dụng cụ gì?... Điều này học sinh cần có một quá
trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm
quen kiến thức mới.



- Khi vẽ hình cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung các
yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang ký hiệu hình học.
- Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hướng
dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể:
+ Rèn cho học sinh có thói quen ký hiệu trên hình vẽ các trường hợp:
Điểm, các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông
góc, bổ sung các yếu tố phụ trên hình…
+ Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ:
Êke: Vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song…
Compa: Vẽ đường tròn, hình tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau, …
Thước thẳng: Vẽ đường thẳng…
- Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học hình học đó là sử dụng
phấn màu khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp
lý ở các điểm đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ
hình vẽ.
- Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm PowerPoint trình chiếu
các bước vẽ hình cho học sinh quan sát.
(Phụ lục 1. Minh họa cách hướng dẫn học sinh vẽ hình – Trang 16)
Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải
đọc kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó
học sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen
phân tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không
nên vẽ hình đặc biệt, điểm đặc biệt.
Chẳng hạn:
+ Cho tam giác ABC thì vẽ không nên vẽ cân, vuông hay đều.
+ Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB.
Giải pháp 2: Khi giải bài tập hãy tạo “không khí nhẹ nhàng, sôi nổi”
cho học sinh.
- Học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn khi giải bài tập hình học vì nó

có tính chặt chẽ, lôgic và trừu tượng nên giáo viên cần cho học sinh phân tích


kỹ bài toán theo hướng đi lên hoặc đi xuống và cho các em nhắc lại kiến thức
cũ có liên quan đến bài toán.
(Phụ lục 2: Hướng dẫn học sinh giải bài tập - Trang 17)
- Đối với phân môn hình học việc chọn lọc và phân loại bài tập là rất
quan trọng, vì vậy giáo viên có thể chia bài tập ra làm nhiều dạng: bài tập cơ
bản áp dụng ngay công thức, định nghĩa, định lý vừa học giúp học sinh có niềm
tin và khắc sâu kiến thức; dạng bài tập thực tế cho thấy tính thực tiễn của toán
học; dạng bài tập suy luận tổng hợp đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ,
hứng thú khám phá… nhằm củng cố lại kiến thức của phần học hay chương đó.
- Khi làm được điều này nó thuận lợi rất nhiều khi giao và hướng dẫn bài
tậo về nhà cho các em, từ đó các em có thể làm những bài tập tương tự.
Giải pháp 3: Trong những tiết ôn tập tạo không khí “học mà vui, vui
để học” cho học sinh.
- Môn Hình học sau mỗi phần hoặc chương giáo viên phải hệ thống hoá
kiến thức trọng tâm, để tạo hứng thú cho học sinh bằng cách tạo ra những cách
chơi: Hệ thống kiến thức bằng sơ đồ hoặc bảng rồi yêu cầu học sinh điền vào
những chỗ trống. Việc làm này giúp học sinh nhận thấy sự liên quan giữa các
phần đã học. Từ đó các em khắc sâu kiến thức và nhớ lâu hơn.
(Phụ lục 3: Hệ thống kiến thức bằng sơ đồ - Tramg 18)
- Tuy nhiên, sự hứng thú học phân môn hình học không chỉ được tạo ra
trong tiết học mà còn phải kích thích cho học sinh trong thời gian học ở nhà.
Chính vì vậy, đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy có thể phối hợp với những
giáo viên dạy trong cùng phân môn ở các khối lớp tổ chức những chuyên đề
tìm ra những cách giải nhanh, ngắn gọn cho một bài toán hoặc sáng tạo ra
những thiết bị, mô hình ứng dụng của hình học… Những tình huống phát huy
được khả năng tư duy, sáng tạo, giúp các em tin tưởng và yêu thích môn học.
Giải pháp 4: Tạo hứng thú cho học sinh khi áp dụng kiến thức vào

thực tiễn.
Hôn Hình học là phân môn gắn liền với thực tế cuộc sống, vì vậy trong
quá trình dạy học giáo viên cần cho học sinh liên hệ kiến thức đã học vào thực


tế, sử dụng các kiến thức hình học vào các công việc thường ngày. Điều này
làm cho học sinh khỏi phải trừu tượng khi học lý thuyết và các em có thể nhớ
kiến thức lâu hơn.
(Phụ lục 4: Liên hệ kiến thức vào thực tế - Trang 18)
Giải pháp 5: Hướng dẫn học sinh “lập sổ tay toán học”.
- Trong quá trình giải toán, đặc biệt là ở phân môn hình học thì việc ghi
nhớ các khái niệm, định nghĩa, định lí, tính chất và dấu hiệu nhận biết là rất
quan trọng. Trong khi đó đa số học sinh lại học vẹt dẫn đến hay quên. Chính vì
vậy mội học sinh cần có một cuốn sổ tay để ghi lại những khái niệm, định
nghĩa, tính chất và dấu hiệu nhận biết hoặc ghi lại những điều mới học đó ra
giấy rồi gián vào góc học tập của mình. Mỗi khi ngồi vào bàn học các em sẽ
một lần nữa được đọc lại các khái niệm, định nghĩa, tính chất và dấu hiệu nhận
biết lâu dần sẽ thuộc và vận dụng vào bài tập. Khi học sinh biết giải bài tập thì
các em sẽ say mê môn học hơn.
Giải pháp 6: Khi tìm hiểu về kiến thức mới tạo “sự hứng thú” cho
học sinh.
- Với học sinh THCS ở lứa tuổi các em rất hiếu động, thích tò mò, khám
phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của mình, không thích bị áp
đặt, phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức cho học sinh giáo
viên phải lựa chọn những phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, kích thích được
tính tò mò của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lý
để chinh phục kiến thức.
- Như vậy, phải làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học?
Rõ ràng để làm được điều này, giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của
mình. Riêng tôi, khi dạy tiết hình, thường chọn cho mình một phương pháp tạo

tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: Đưa ra một hình huống trong thực tế
hoặc kể một câu chuyện… có liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó, học sinh
tham gia tiết học tích cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép,
căng thẳng và chán nản nữa, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn
của bộ môn.


(Phụ lục 5: Tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn – Trang 19)
- Mỗi kiểu bài đều có một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh
trực quan rất thích hợp đối với hình học: mô hình, vật thật, tranh vẽ… là yếu tố
không thể thiếu khi vào tiết dạy. Ngoài ra giáo viên nên tìm tòi những vật thật
trong thực tế để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, như dạy bài đường thẳng
song song cách đều tôi chỉ cho học sinh hình ảnh các song cửa sổ, các thanh rui
mèn ở mái nhà, dạy bài diện tích đa giác tôi yêu cầu học sinh về nhà xem diện
tích mảnh vườn nhà mình bao nhiêu m2 …
Vận dụng cách làm đó lớp học rất vui vẻ, học sinh tham gia xây dựng bài
tích cực, đồng thời các em sẽ nhớ và vận dụng làm bài tập nhanh hơn và lâu
hơn.
- Trong mỗi tiết dạy tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3
cấp: khá giỏi, trung bình, yếu kém để giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối
tượng từ đó lôi cuốn tất cả các em cùng tham gia vào xây dựng bài học. Câu
hỏi của giáo viên cũng cần phải gợi mở, dể hiểu để kích thích sự suy nghĩ của
các em.
(Phụ lục 6: Chủ động phân định đối tượng học sinh thạm gia xây dựng bài –
Trang 20)
Làm như vậy trong một tiết học tôi huy động hết đối tượng học sinh vào
xây dựng bài học.
5. Kết quả đạt được
Trong quá trình giảng dạy học kỳ I vừa qua khi áp dụng kinh nghiệp của
mình để soạn giảng và vận dụng vào thực tế thì tôi thấy có sự thay đổi:

- Học sinh đã có những thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết
học, chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các
em hưởng ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó những bài tập giao về nhà đã được
các em làm một cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được các kiến thức cơ
bản sau khi học xong mỗi bài.


- Phần lớn chất lượng các bài kiểm tra đã được nâng lên, các em đều vẽ
hình đúng, xác định hướng đi bài toán, số học sinh minh chứng lôgic và chặt
chẽ được tăng.
- Từ những bài học đa số các em đều vận dụng vào thực tiễn từ những
kiến thức đã học: Đo đạc, cắt hình, xác định tính đối xứng của vật thể, …
Cuối học kỳ I điều tra mức độ hứng thú học môn Hình học lớp 8A, 8B kết
quả là:
Tổng số
79

Giỏi
15

Khá
30

TB
21

Yếu
11

Kém

2

+ Về hứng thú học tập bộ môn Hình học:
Số học sinh thích học: 30%; Bình thường: 45%; Số học sinh sợ phải học môn
Hình học: 25%.
So với đầu học kỳ I số học sinh hứng thú học phân môn Hình học tăng
25%.
Kết quả khảo sát học kỳ I chất lượng phân môn Hình học chưa thật sự
như mong muốn tuy nhiên các em đã biết cách để làm một bài toán chứng minh
hình học.
6. Khả năng ứng dụng của sáng kiến.
Từ kết quả áp dụng trong thực tế giảng dạy Toán học của bản thân, tôi
nhận thấy sáng kiến “Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng giải toán hình học 8”
có thể áp dụng với tất cả các đối tượng học sinh khối 8 trong các nhà trường
phổ thông, với tất cả những người làm công tác giảng dạy Toán.


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và việc áp dụng các giải pháp trên
vào quá trình dạy học môn Toán nói chung và môn Hình học nói riêng tôi đã
rút ra một số bài học cơ bản.
- Mỗi giáo viên cần phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện
để không ngừng trau dồi về kiến thức kỹ năng dạy học môn Hình học.
- Thường xuyên đổi mới về cách soạn, cách giảng, đưa các ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học, đa dạng hoá các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học để lôi cuốn được học sinh vào quá trình học tập.
- Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh
yếu kém, giúp đỡ ân cần, nhẹ nhàng tạo niềm tin, hứng thú cho các em vào
môn học.

- Trong quá trình dạy giáo viên phải hướng dẫn học sinh vào việc phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo ra những tình huống có vấn đề để học
sinh thảo luận. Trong mỗi tiết phải tạo ra được quan hệ giao lưu đa chiều giữa
giáo viên – học sinh, giữa cá nhân, tổ chức nhóm.
- Giáo viên cần mạnh dạn đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy
học như các phần mềm vẽ hình, các loại máy chiếu đa năng, các hiệu ứng hình
ảnh để tiết học thêm sinh động.
Sau nghiên cứu và triển khai vấn đề này bản thân tôi nhận thấy: Để giúp
cho học sinh học tốt phân môn Hình học 8 thì giáo viên phải tạo hứng thú cho
học sinh thông qua tìm hiểu kiến thức mới, thông qua các buổi thực hành,
thông qua việc phân loại bài tập, hướng dẫn học sinh giải bài tập, qua việc vẽ
hình… Đồng thời phải luôn gần gũi, tìm hiểu những khó khăn, sở thích của học
sinh để từ đó có những biện pháp phù hợp hơn. Bên cạnh đó cần có những thời
lượng phù hợp áp dụng kiến thức hình học vào thực tiễn đời sống và để học
sinh thấy được tính khoa học và giá trị thực tiễn của bộ môn.
Trên đây là một số kinh nghiệm rèn kĩ năng giải toán cho học sinh học
phân môn Hình học 8 mà bản thân tôi đã nghiên cứu, thực hiện và đã có nhiều


thay đổi trong quá trình học tập của học sinh. Xin mạnh dạn đưa ra trao đổi với
đồng nghiệp để cùng áp dụng nhằm đưa kết quả dạy học môn Toán nói chung,
phân môn Hình học nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện. Rất
mong được sự góp ý từ đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để thực sự đề tài này là
một sáng kiến phổ biến sâu rộng.
Do điều kiện và năng lực của bản thân tôi còn hạn chế, các tài liệu tham
khảo chưa thật đầy đủ nên chắc chắn khi thực hiện đề tài còn những điều chưa
hoàn thiện. Nhưng tôi mong rằng đề tài này ít nhiều cũng giúp học sinh có
thêm động lực, sự say mê và nhất là thay đổi được thói quen học thụ động trong
học phân môn hình học nói riêng và môn Toán nói chung.
Bằng những kinh nghiệm rút ra qua một số năm giảng dạy ở trường

THCS, nhất là những bài học rút ra sau nhiều năm dự giờ thăm lớp của các
đồng chí cùng trường cũng như cùng với sự giúp đỡ tận tình của ban giám hiệu
nhà trường, của tổ chuyên môn trường, Tôi đã hoàn thành sáng kiến “Một số
kinh nghiệm rèn kỹ năng giải toán hình học 8” .
2. Khuyến nghị.
Để làm tốt và hiệu quả hơn công tác giáo dục, giảng dạy Toán học nói
chung, Hình học nói riêng trong nhà trường THCS, tôi xin mạnh dạn đề xuất
một vài ý kiến nhỏ sau:
- Các cấp lãnh đạo có thể tổ chức thường xuyên các cuộc hội thảo,
chuyên đề bàn về phương pháp dạy học Toán theo hai phân môn: đại số và hình
học để cán bộ giáo viên được trao đổi nhiều hơn nữa nhằm học hỏi, nâng cao
chuyên môn nghiệp vụ.
- Tạo điều kiện hơn về đồ dùng dạy học nhằm phát huy hiệu quả dạy
học.
Tôi xin chân thành cảm ơn !


PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Minh họa cách hướng dẫn học sinh vẽ hình
Vẽ hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Do vậy khi tôi yêu cầu
nêu cách vẽ hình thoi thì học sinh đã phát hiện có thể dùng compa để vẽ bốn
cung tròn có bán kính bằng nhau, giao điểm của bốn cung tròn đó chính là bốn
đỉnh của hình thoi. Tôi đã chuẩn bị các bước dựng hình thoi và đặt toàn bộ
phần dựng hình ở chế độ tự động (Automatic) cứ 1 giây thì hiện 1 đối tượng:
B

R
C

A


D

- Lấy hai điểm A, C bất kỳ
- Vẽ cung tròn tâm A bán kính R và cung tròn tâm C có cùng bán kính.
- Hai cung tròn trên cắt nhau tại hai điểm B và D.
- Kẻ các đoạn thẳng AB, BC, CD, DA ta được hình thoi ABCD.
Học sinh vừa quan sát vừa lắng nghe giáo viên giới thiệu lần lượt từng
bước dựng hình thoi, từ đó có thể vẽ lại dựa vào vở của mình không mấy khó
khăn.


Phụ lục 2: Hướng dẫn học sinh giải bài tập
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh giải bài tập 54 trang 96 SGK tôi phân tích
theo sơ đồ:

y

B, C đối xứng nhau qua O


C

E

A

B, O, C thẳng hàng và OB = OC



4

O

3

2
1

K

µ +O
¶ +O
¶ +O
¶ = 180° và OB = OC = OA
O
1
2
3
4



B

¶ +O
¶ = 90° , OAB cân, OAC cân.
O
2
3


- Khi giải bài tập giáo viên cho học sinh hoạt động theo nhóm từ 4 đến 6
người, tuỳ yêu cầu của bài toán, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc chủ
định, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự
bầu nhón trưởng nếu thấy cần, trong nhóm phân công mỗi người một việc, mỗi
thành viên đều phải làm việc tích cực, giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề trong
không khí thi đua với các nhóm khác. Nhóm cử ra một người đại diện trình bày
trước lớp.
- Trong giờ luyện tập cuối chương “Tứ giác” giáo viên đưa ra bài tập 89,
trang 111 SGK. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm theo 4 trình độ yếu kém,
trung bình, khá, giỏi. Phân công nhiệm vụ nhóm yếu kém làm câu a, nhóm
trung bình làm câu b, nhóm khá làm câu c, nhóm giỏi làm câu d. Sau đó giáo
viên gọi bất kỳ một đại diện nào của nhóm báo cáo kết quả.

x


Phụ lục 3: Hệ thống kiến thức bằng sơ đồ
Phần “Tứ giác” giáo viên chuẩn bị sơ đồ về mối liên hệ của các tứ giác
trên bảng phụ kết hợp với các hiệu ứng trình chiếu trên giáo án điện tử thay đổi
theo từng hình cho các em trả lời định nghĩa, tính chất, dấu hiệu nhận biết:

Tứ giác

Hình thang

Thang cân

Thang vuông


Hình
bình hành

Chữ nhật

H thoi

H vuông

Phụ lục 4: Liên hệ kiến thức vào thực tế
Khi học chương Tứ giác giáo viên hướng dẫn cho học sinh cắt thế nào để
được chính xác các hình: hình thang cân thì phải gấp một lần tờ giấy cắt hai
đáy song song trước rồi cắt hai cạnh hai bên bằng nhau; cắt hình thoi thì phải
gấp hai lần tờ giấy rồi cắt cạnh của nó vì hình thoi có hai đường chéo là trục
đối xứng và bốn cạnh bằng nhau.
- Học xong chương II “Đa giác. Diện tích đa giác” giáo viên tổ chức một
buổi thực hành chia lớp thành 4 tổ mỗi tổ đo một khu vực của khuôn viên
trường sau đó tổng hợp lại để biết được diện tích của khuôn viên trường.


Phụ lục 5: Tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn
+ Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” tôi đưa ra vấn để làm thế
nào để gián tiếp đo khoảng cách giữa hai điểm B, C ở hai bên bờ ao.
B

.C

.

Khi dạy bài “Đối xứng trục” vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt

được một chữ H nhanh như tờ giấy hình chữ nhật.

H

Khi dạy bài “Hình thoi” tôi hỏi vì sao các thanh sắt ở cửa xếp lại dễ dàng
đầy vào, kéo ra được.
Với bài “ Diện tích hình thang” để học sinh nhớ công thức tôi cho các
em ghi nhớ theo câu nói vần:
“Muốn tính diện tích hình thang , đáy lớn đáy bé ta mang cộng vào, rồi
đem nhân với chiều cao, chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra”.
SABCD =

AB + CD
AH
2

A

D

B

H

C


Phụ lục 6: Chủ động phân định đối tượng học sinh thạm gia xây dựng bài
Khi xây dựng Đinh lý Ta-lét trong bài “Định lý Ta-lét trong tam giác”.
Giáo viên treo bảng phụ ?3

A
B’
B

C’
C

Gợi ý: Vì các đường kẻ ngang là các đường thẳng song song cách đều
nên các đoạn liên tiếp trên AB bằng nhau, các đoạn liên tiếp trên AC cũng bằng
nhau.
Giả sử lấy m làm đơn vị một đoạn chắn trên AB, n làm đơn vị một đoạn
chắn trên AC.
Hỏi học sinh kém đoạn AB’ mấy đơn vị?
Hỏi học sinh yếu tỉ số

AB'
AC'
AB' AC'
= ?;
= ? ; từ đó so sánh hai tỉ số
;
AB
AC
AB AC

Gọi học sinh trung bình so sánh hai trường hợp còn lại.
Yêu cầu học sinh khá phát biểu thành định lý từ bài toán trên.
Gọi học sinh giỏi nêu GT, KT.



TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Nghiệp vụ sư phạm: 4 kĩ năng cơ bản - Bộ GD – ĐT.
2. Sách giáo khoa Toán 6, 7, 8, 9 (2 tập) - Nhà xuất bản giáo dục.
3. Sách giáo viên Toán 6, 7, 8, 9 (2 tập) - Nhà xuất bản giáo dục.
4. Phương pháp dạy học môn Toán - Nhà xuất bản giáo dục.
5. Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS- Viện khoa học giáo
dục.
6. Sách giáo viên lớp 8 (của nhà xuất bản giáo dục)
7. Sách giáo khoa lớp 8 (của nhà xuất bản giáo dục)
8. Sách bài tập lớp 8 (của nhà xuất bản giáo dục)


MỤC LỤC

Trang
Thông tin chung về sáng kiến

2

Tóm tắt sáng kiến

3

MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

5

2. Cơ sở lí luận của vấn đề


6

3. Thực trạng vấn đề

6

4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện

8

5. Kết quả đạt được

12

6. Khả năng ứng dụng của sáng kiến

13

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận

14

2. Khuyến nghị

15

PHỤ LỤC

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

21

MỤC LỤC

22



×