Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

skkn phát hiện và bồi dưỡng năng lực tư duy cho học sinh lớp 8 thông qua phần văn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.16 KB, 29 trang )

UBND THỊ XÃ CHÍ LINH
TRƯỜNG THCS CHÍ MINH

BẢN MƠ TẢ SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TẠO LẬP VĂN BẢN CHO
HỌC SINH LỚP 8 THÔNG QUA DẠY HỌC PHẦN TẬP LÀM VĂN
BỘ MÔN: NGỮ VĂN

Năm học 2014- 2015


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực tạo lập văn bản cho học
sinh lớp 8 thông qua dạy học phần tập làm văn.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn Ngữ văn lớp 8 ở trường THCS
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thủy

Nữ

Ngày, tháng, năm sinh: 11 tháng 9 năm 1979
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ, đơn vị cơng tác: Giáo viên trường THCS Chí Minh
Điện thoại: 0984 403 224

0320 3585 548

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THCS Chí Minh- Chí Linh- Hải Dương
Điện thoại: 0320 3585 548
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:
Tên đơn vị: THCS Chí Minh


Địa chỉ: Phường Chí Minh - Thị xã Chí Linh- Tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 0320 3585 548
6. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến: Giáo viên và học sinh cấp THCS.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: áp dụng từ tháng 8 năm 2014 đến nay.

TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Căn cứ vào hướng dẫn của SGD&ĐT Hải Dương, hướng dẫn của PGD thị xã
Chí Linh về việc viết sáng kiến năm học 2014- 2015.
Xuất phát từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn, nhất là dạy phần Tập làm văn
ở trường THCS hiện nay, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến về vấn đề: “Một số biện
pháp bồi dưỡng năng lực tạo lập văn bản cho học sinh lớp 8 thông qua dạy học
phần Tập làm văn”.
Sáng kiến này đã và đang được bản thân tơi vận dụng trong q trình giảng
dạy từ học kì I năm học 2014- 2015 cho đến nay.
Đối tượng: Giáo viên và học sinh lớp 8 cấp THCS.
Điều kiện: Để áp dụng có hiệu quả sáng kiến này, người giáo viên phải thực
sự tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm, dành thời gian nhiều. Do học sinh phải thực
hiện phần bài tập ở nhà nhiều nên giáo viên phải thu vở bài tập về nhà để chấm, sửa
cho các em.
Giáo viên thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi quá trình học sinh làm
bài. Điều quan trọng là giáo viên biết động viên, khuyến khích, tuyên dương học
sinh đúng lúc, kịp thời. Bên cạnh đó, với học sinh điểm số rất quan trọng nên khi
chấm bài tập hoặc khi các em trình bày thì giáo viên nên cho học sinh điểm số và
có điểm cho tinh thần tự giác.

Bên cạnh việc động viên, khuyến khích, giáo viên cũng cần có biện pháp đối
với những học sinh cịn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại như yêu cầu các em ở lại sau
buổi học để làm bài tập, mượn bài của bạn chép lại nhiều lần …
Khi chọn hướng nghiên cứu “Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực tạo lập văn
bản cho học sinh lớp 8 thông qua dạy học phần Tập làm văn” với mục đích cung
cấp cho học sinh một con đường nhanh và dễ để tạo lập văn bản trong khi làm bài
viết. Đồng thời giúp cho bản thân tìm hiểu sâu hơn về các vấn đề: Tìm hiểu đề, viết
đoạn văn trong văn bản tự sự, liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự từ đó hình


thành cho mình kĩ năng để góp phần làm tốt bài văn. Ngồi ra với mục đích để trao
đổi với đồng nghiệp để cùng nhau bổ khuyết, xây dựng cho giải pháp càng hồn
thiện hơn trong q trình áp dụng.
Đối với sáng kiến này tôi nghiên cứu và dừng lại ở các vấn đề:
- Tìm hiểu các năng lực cần phát triển qua môn Ngữ văn như: Năng lực giải
quyết văn đề, năng lực sáng tạo, năng lực quản lý bản thân, năng lực giao tiếp,
năng lực hợp tác, năng lực thưởng thức văn học, đặc biệt là năng lực tạo lập văn
bản…
- Tìm hiểu đề;
- Viết đoạn văn trong văn bản tự sự;
- Liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự.
Qua việc nghiên cứu này cung cấp cho học sinh những giải pháp giúp các em
biết tạo lập một văn bản đúng và hay.
Những biện pháp này chỉ áp dụng trong phạm vi văn bản tự sự trong chương
trình Ngữ văn lớp 8.
Sáng kiến này đã và đang được bản thân tơi vận dụng trong q trình giảng dạy
từ học kì I năm học 2014- 2015 cho đến nay và nhận thấy có nhiều tín hiệu khả
quan. Vì vậy tôi cũng muốn chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp, rất mong được sự
góp ý để sáng kiến hồn thiện có thể ứng dụng để nâng cao chất lượng môn Ngữ
văn.



MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Cơ sở khoa học
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện
giáo dục và đào tạo nêu rõ: “ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung cách dạy học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực….” . Nhận
thức rõ điều đó, giáo dục phổ thơng nước ta hiện nay đang thực hiện bước chuyển
từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học,
nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học
sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải
thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một
chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành
năng lực và phẩm chất nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và
giáo dục.
Bên cạnh đó, người giáo viên bao giờ cũng muốn học trị của mình làm được
những bài văn hay nhưng đó khơng phải là một việc dễ. Bài văn hay trước hết phải
là viết đúng (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường). Hay
và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết theo
đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng
quy cách …
Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này giúp học sinh thể
hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của
đề cũng giúp người viết lập được một dàn ý tốt và do đó cũng tránh được bệnh dài
dòng, lan man “dây cà ra dây muống”, “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” tạo được



sự thống nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết. Bên cạnh đó việc viết đúng kiến
thức cơ bản cũng vô cùng quan trọng, kiến thức cơ bản là “bột”, “có bột mới gột
nên hồ”.
Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy.
Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc đã
thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Muốn thế người viết không chỉ phải
chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế dạy – học tôi thấy bài văn của học sinh của mình chưa đáp ứng
được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn
còn hiện tượng lạc đề, lệch đề do khơng chú ý đến việc tìm hiểu đề. Đoạn văn trong
bài thường sai quy cách. Bên cạnh đó là việc giữa các đoạn văn chưa có sự liên kết.
Do đó tơi thấy cần phải tìm tịi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học sinh
làm tốt bài văn tự sự. Qua thời gian tìm tịi và vận dụng, cho đến nay tơi đã tìm
được cho mình một cách làm mang lại hiệu quả cao. Trong cách làm đó vấn đề tích
hợp có vai trị rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của dạy học Ngữ văn hiện nay.
Cũng chính xuất phát từ đó tôi đã tiến hành tìm tòi nghiên cứu và vận dụng vào
thực tế giảng dạy “Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực tạo lập văn bản cho học
sinh lớp 8 thông qua phần tập làm văn”.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề
Môn Ngữ văn trong chương trình THCS nói riêng và trong nhà trường nói
chung giúp học sinh hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng yêu cầu phát
triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển cho học sinh bốn kĩ năng đó
là: “nghe - nói - đọc - viết”. Với đặc trưng của môn học, môn Ngữ văn triển khai
các mạch nội dung bao gồm các phân môn: Văn, Tiếng Việt, Làm văn nhằm hướng
dẫn học sinh đọc hiểu các văn bản và tạo lập các văn bản theo các kiểu loại khác


nhau. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp xúc, mơn Ngữ văn giúp học sinh

từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập môn học, cụ thể là năng lực
tiếp nhận văn bản ( gồm kỹ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản ( gồm
kỹ năng nói và viết).
Năng lực tạo lập văn bản của học sinh thể hiện ở khả năng vận dụng tổng
hợp kiến thức về các kiểu văn bản, với ý thức và tình yêu tiếng Việt, văn học, văn
hóa cùng kỹ năng thực hành tạo lập văn bản theo các phương thức biểu đạt khác
nhau theo hình thức trình bày miệng hoặc viết. Như vậy, qua tiết Tập làm văn, học
sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những
hình thức giao tiếp rất quan trọng, thơng qua đó con người thực hiện q trình tư
duy - chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người
hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngơn ngữ (dưới dạng nói - ngơn
bản, và dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức
cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy mơn Ngữ
văn nói chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo
viên dạy Tập làm như thế nào để học sinh viết tốt bài văn của mình? Cách thức tổ
chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn?
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân mơn Tập làm văn là phân mơn khó
trong các phân môn của môn Ngữ văn. Do đặc trưng phân mơn Tập làm văn với
mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản
(nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, biểu cảm, nghị
luận,...Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn
kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói, ngại viết.
3. Thực trạng của vấn đề
3.1 Về phía người giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới
chỉ giúp các em nắm bắt được những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong


quá trình dạy chỉ dạy văn tự sự ở những tiết học về văn tự sự, chưa tận dụng được
thời gian ở các phân mơn khác để tích hợp với phần tập làm văn. Đặc biệt chưa chú

trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài.
3.2 Về phía học sinh, do đời sống cịn nhiều khó khăn, đa số các em phải lao
động hàng ngày ở ngoài đồng ruộng nên ít có thời gian để đọc các tài liệu tham
khảo, mở rộng hiểu biết.
Xa trung tâm, nhà trường lại chưa đủ cơ sở vật chất để phục vụ việc dạy học
nên các em khơng có đủ tài liệu để tham khảo. Vì vậy chỉ có thể nắm bắt được
những gì SGK cung cấp.
Học văn địi hỏi viết nhiều (đọc nhiều) nhưng học sinh lại ít có điều kiện cũng
như thời gian để luyện tập. Bên cạnh đó học sinh là con em những gia đình thuần
nơng (vốn từ khơng phong phú do ít giao tiếp với mọi người) kết hợp với những
điều kiện trên làm cho các em nghèo nàn về vốn từ nên khi viết cũng thêm phần
khó khăn.
Thêm vào đó, nhiều học sinh chưa chú ý đến việc học, ý thức chưa cao, về nhà
không làm bài nên khi làm bài thường vụng về, lúng túng … khi viết văn.
3.3. Những thuận lợi và khó khăn
3.3.1. Thuận lợi
Ngữ văn là môn học quan trọng trong chương trình THCS nên rất được sự
quan tâm của ngành. Hàng năm thường có các đợt tập huấn nhằm củng cố cũng
như nâng cao trình độ chun mơn cho giáo viên Ngữ văn. Trước khi bước vào
năm học 2014- 2015, phòng Giáo dục và đào tạo cũng đã tổ chức tập huấn “Dạy
học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học
sinh” cho các giáo viên Ngữ văn.
Ban giám hiệu cũng như tổ chuyên môn thường xuyên quan tâm, tạo điều
kiện cho giáo viên môn Ngữ văn dạy tốt, vận dụng các phương pháp và hình thức
dạy học vào cơng tác giảng dạy để nâng cao hiệu quả dạy dọc.


Giáo viên trong tổ thường xuyên dự giờ, rút kinh nghiệm, hỗ trợ nhau trong
q trình cơng tác. Nhờ vậy có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau, phát huy điểm
tích cực, hạn chế những yếu kém trong dạy học.

Bản thân tơi cũng có nhiều năm dạy mơn Ngữ văn, trong q trình giảng dạy
tơi cũng cố gắng tìm hiểu, sáng tạo và vận dụng những biện pháp mới cũng như
hướng dẫn học sinh thực hiện các biện pháp mình đưa ra nhằm nâng cao chất lượng
dạy học và phát triển được năng lực của người học.
Học sinh đa số có cố gắng trong q trình tiếp thu bài cũng như hình thành
và rèn luyện kĩ năng cho mình. Một số học sinh có khả năng tiếp thu nhanh kiến
thức, có ý thức tốt trong việc học mơn Ngữ văn.
3.3.2. Khó khăn:
Nhìn chung cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều hạnh chế nên ảnh hưởng
đến hiêu quả dạy học của các mơn học nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng.
Do đặc điểm lứa tuổi của học sinh giai đoạn này thường tiếp thu tốt nhưng
cũng nhanh quên. Các em cịn ngại khó, hễ gặp vấn đề hơi khó là muốn dừng lại
mà Ngữ văn lại là mơn địi hỏi tính cần cù, nhẫn nại cao.
Trong trường, nhìn chung khả năng tiếp thu của học sinh không đồng đều,
một số học sinh vốn ngôn ngữ tiếng Việt hạn chế nên đã ảnh hưởng nhiều đến khả
năng tạo lập văn bản của các em.
Ý thức học tập của một số em còn hạn chế.
3.4. Số liệu thống kê chất lượng bài làm văn của HS khi chưa áp dụng SKKN
*Đối tượng khảo sát:
- Học sinh: 98 học sinh khối 8
- Thời điểm khảo sát: tháng 8/2014
- Thống kê chất lượng bài kiểm tra khảo sát
Số học Điểm giỏi
sinh
khảo

Điểm khá

Điểm
bình


trung Điểm yếu/ kém


Khối

SL
3

%
3,1

SL
27

%
27.6

SL
52

%
51.0

8: 98
5.1. Khảo sát mức độ hứng thú của học sinh

SL

%


19

18.2

*Đối tượng khảo sát:
- Học sinh: 98 học sinh khối 8
* Thời điểm khảo sát: tháng 8/2014
Câu hỏi 1: “Em có thích học phần Tập làm văn trong mơn Ngữ văn khơng?”
Mức độ khảo sát: Rất thích, thích, khơng thích:
Số học sinh khảo Số rất thích
Số thích
Số khơng thích
SL
%
SL
%
SL
%
sát (em)
Khối 8: 98
15
15.3
45
45.9
38
38.8
Phân tích dữ liệu thu được: Ta thấy, rất ít số học sinh cảm thấy hứng thú với
việc học tập phần Tập làm văn trong môn Ngữ văn. Điều này là một thách thức
không nhỏ đối với người dạy học.

Câu hỏi 2: “ Em có thấy tự tin, hứng thú khi tạo lập văn bản trong môn Ngữ văn
không ?” Nếu em thích vì nhiều lí do, vui lịng điền đủ các thông tin.
Số học sinh khảo Em thấy tự tin,
sát (em)
Khối 8: 98

hứng thú.
SL
%
35
35.7

Em không thấy tự

Ý kiến khác

tin, hứng thú
SL
%
46
46.9

SL %
17 17.4

4. Các biện pháp bồi dưỡng năng lực tạo lập văn bản cho học sinh
4.1. Các năng lực cần phát triển qua môn Ngữ văn
Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức
kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng
hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực



thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố ( phẩm chất của người lao động, kiến
thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động các nhân nhằm thực hiện
một loại cơng việc nào đó.
Trong định hướng phát triển chương trình giáo dục phổ thơng sau 2015, môn
Ngữ văn được coi là môn học công cụ, theo đó các năng lực mà mơn Ngữ văn
hướng đến được thể hiện cụ thể như sau:
4.1.1.Năng lực giải quyết vấn đề
Năng lực giả quyết vấn đề là một năng lực chung, thể hiện khả năng của mỗi
người trong việc nhân thức, khám phá được những tình huống có vấn đề trong học
tập và cuộc sống mà khơng có định hướng trước về kết quả, và tìm các giải pháp để
giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư
duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp tối ưu.
Trong môn Ngữ văn, năng lực này thể hiện ở việc: xây dựng kế hoạch cho
một hoạt động tập thể, tiếp nhận một thể loại văn học mới, viết một kiểu loại văn
bản, lí giải các hiện tượng đời sống được thể hiện qua văn bản, thể hiện các quan
điểm của của cá nhân khi đánh giá các hiện tượng văn học… Quá trình học tập các
nội dung trên là quá trình giải quyết vấn đề theo quy trình đã xác định.
4.1.2. Năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc
suy nghĩ và tìm tịi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc
sống, từ đó đề xuất được giải pháp mới một cách thiết thực hiệu quả để thực hiện ý
tưởng.
Trong môn Ngữ văn năng lực sáng tạo được thể hiện trong việc xác định các
tình huống và những ý tưởng, đặc biệt là những ý tưởng được gửi gắm trong các
văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc
nhìn khác nhau, trong cách trình bày suy nghĩ và cảm xúc của học sinh trước một
vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống.



4.1.3 Năng lực hợp tác
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân
và tập thể trong học tập và cuộc sống.
Trong môn Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc học sinh cùng nhau
chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các
nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, cặp, học
sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra đồng
thời lắng nghe những ý kiến trao dổi, thảo luận của nhóm đê tự điều chỉnh cá nhân
mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của người
học sinh trong bối cảnh mới.
4.1.4. Năng lực tự quản bản thân
Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi người trong việc kiểm sốt cảm
xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết lập kế
hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh hành vi của
cá nhân trong các bối cảnh khác nhau.
Cũng như các môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng đến việc rèn
luyện và phát triển ở học sinh năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, học
sinh cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh
kế hoạch để đạt được mục tiêu đề ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến
việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng của các nhân để khai thác, phát huy
những tích cực, hạn chế tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần
thiết trong những tình huống của cuộc sống.
4.1.5. Năng lực giao tiếp tiếng Việt
Năng lực giao tiếp là khả năng sử dụng những quy tắc cảu hệ thống ngôn
ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời sống xã hội…,
nhăm đạt đến một mục đích nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những
côn người với nhau trong xã hội.



Trong môn Ngữ văn, thông qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, học
sinh được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp,
hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể, học sinh được luyện tập các tình
huống hội thoại theo nghi thức và không nghi thức, các phương châm hội thoại,
từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt động giao tiếp… các bài đọc hiểu văn
bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để học sinh được giao tiếp cùng tác giả và môi
trường sống xung quanh, được hiểu và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt, văn
hóa, văn học.
4.1.6. Năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mĩ
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc
nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống,
thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp, cái thiện.
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ được thể hiện ở một số nội dung:
- Nhận thức được các cảm xúc của bản thân.
- Làm chủ các cảm xúc của bản thân.
- Nhận biết các cảm xúc của người khác và những biểu hiện của cuộc sống
từ phương diện thẩm mĩ.
- Làm chủ những liên hệ, những giá trị của con người và cuộc sống.
Đây là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn với tư duy hình tượng
trong việc tiếp nhận văn bản văn học…Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học,
học sinh sẽ biết rung động trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra
cái xấu và phê phán những hình tượng, biểu hiện khơng đẹp trong cuộc sống, biết
đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Như vậy, dạy học Ngữ văn đồng thời giúp học sinh hình thành và phát triển
các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và
phát triển các kỹ năng nghe, nói đọc viết. Với đực trưng của mơn học, môn Ngữ
văn triển khai các mạch nội dungbao gồm ba phân môn Văn, Tiếng Việt, làm văn


nhằm hướng đãn học sinh đọc hiểu các văn bản và tạo lập được các văn bản theo

các kiểu loại khác nhau. Khi dạy học sinh tiếp cận với văn bản, mơn Ngữ văn học
sinh từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là
năng lực tiếp cận văn bản và năng lực tạo lập văn bản. Năng lực đọc hiểu văn bản
của học sinh thẻ hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức về tiếng Việt, về
các loại hình văn bản và ký năng, phương pháp đọc, khả năng thu thập các thông
tin, cảm thụ cái đẹp và giá trị của các tác phẩm văn chương nghệ thuật. Năng lực
tạo lập văn bản của học sinh thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức về
các kiểu văn bản, với ý thức và tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa cùng kỹ năng
thực hành tạo lập văn bản theo các phương thức biểu đạt khác nhau theo hình thức
trình bày miệng hoặc viết. Thơng qua các năng lực học tập của bộ môn để hướng
tới các năng lực chung và những năng lực đặc thù của các môn học.
4.2.1. Các biện pháp bồi dưỡng năng lực tạo lập văn bản cho học sinh
4.2.1.1 Tìm hiểu đề (hay cịn gọi là phân tích đề):
Để có một bài văn hoàn chỉnh người viết phải trải qua năm bước (Tìm hiểu đề,
tìm ý, lập dàn ý, viết bài văn, đọc và sửa bài), trong đó tìm hiểu đề là bước thứ nhất.
Kĩ năng tìm hiểu đề là kĩ năng định hướng cho tồn bộ q trình thực hiện một bài
tập làm văn. Tuy vậy đa số học sinh thường khơng chú ý đến bước này. Vì vậy
trong q trình làm bài các em thường lạc đề hoặc lệnh đề nên bài văn thường
khơng có điểm cao.
Cũng chính vì lẽ đó hướng dẫn các em làm tốt bước này sẽ giúp học sinh tránh
được việc lạc đề, lệch đề. Từ đó bào văn sẽ tốt hơn.
Nắm được hạn chế đó của học sinh nên tơi ln hướng dẫn học sinh thực hiện
thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi bài viết cũng như trước các đề trong bài
học. Trên cơ sở đó các em sẽ biến nó thành một kĩ năng cần thiết trước khi viết bài.


Để học sinh xem tìm hiểu đề là một bước khơng thể thiếu khi làm bài thì giáo
viên phải giúp các em thành thạo bước này trong quá trình dạy học. Người giáo
viên nên tận dụng thời gian để cho các em luyện tập.
Ví dụ: Như ra đề rồi yêu cầu HS về nhà thực hiện, trước các bài viết số 1, số 2,

trong các đề có trong SGK, …
Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tơi thường u cầu học sinh đọc
nhiều lần (thậm chí yêu cầu học sinh đọc thuộc đề); lấy bút chì gạch chân những từ
cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dịng để làm cho nổi bật các yêu cầu
của đề; xác định ba yêu cầu của đề.
Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các yêu
cầu của đề bài:
- Kiểu bài: tự sự hay miêu tả, tường thuật hay giải thích, …
Lời yêu cầu về kiểu bài: theo lối trực tiếp – nói thẳng (như hãy kể … ) hay lời
u cầu gián tiếp – nói vịng (như Em thấy mình đã khơn lớn … )
- Đề bài và giới hạn: học sinh cần tìm hiểu rõ qua từng từ ngữ để xác định giới
hạn của đề bài. Chỉ một sơ suất nhỏ trong việc xác định giới hạn của đề bài cũng có
thể dẫn các em từ tản mạn, xa đề đến lạc đề…
Ví dụ : Cho đề bài: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc thời thơ ấu.
Trước đề này có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm, khơng có kỉ niệm nào
được kể một cách đầy đủ (nhưng đề yêu cầu kể một kỉ niệm).
Tìm hiểu đề là bước quan trọng, tuy nhiên trong chương trình học các em lại chỉ
được học không đến một tiết (ở lớp 6). Thêm vào đó ở chương trình Ngữ văn 8 các
em học văn tự sự chỉ trong 13 tiết nên thời gian khơng nhiều.
Để khắc phục được khó khăn đó và cho học sinh thực hiện tốt bước này tôi đã
kết hợp thời gian trên lớp, thời gian ở nhà của các em để hướng dẫn và cho các em
thực hành


Ví dụ 1: Khi dạy xong tiết 8 – Bố cục của văn bản, trước khi đi vào làm bài tập
trong SGK giáo viên có thể cho học sinh thực hiện bước này. Giáo viên treo bảng
phụ có chép sẵn đề bài:
Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc của em trong thời thơ ấu.
Yêu cầu trả lời :
- Kiểu bài của mỗi đề là gì?

- Lời yêu cầu ở mỗi đề là trực tiếp hay giàn tiếp?
- Nội dung của đề bài nằm trong giới hạn nào (kể về một hay nhiều
kỉ niệm)?
- Lưu ý: Đọc thật kĩ đề bài, lấy bút chì gạch dưới những từ ngữ quan
trọng.
Ở đây do là tiết đầu hướng dẫn học sinh làm nên có thể cho các em tự tìm hiểu
nhanh sau đó giáo viên hướng dẫn các em làm:
* Kiểu bài:
- Đề có kiểu bài tự sự.
- Đề có yêu cầu trực tiếp.
* Giới hạn của đề bài: kể duy nhất một kỉ niệm, đó là kỉ niệm đáng nhớ nhất ở
thời thơ ấu.
Từ nội dung đó giáo viên nhắc nhở học sinh: từ bây giờ, trước khi viết một bài
văn các em nên tìm hiểu đề bài trước để viết bài văn cho tốt bằng cách thực hiện
các yêu cầu như bài tập các em vừa làm. Có thể khái quát thành hai nội dung cơ
bản (ta gọi là Tìm hiểu đề):
- Xác định kiểu bài;
- Xác định nội dung của đề bài;
- Xác định giới hạn của đề bài.


Sau khi hướng dẫn các em thực hiện xong giáo viên có thể ra đề yêu cầu các
em về nhà làm. Ở tiết học tiếp theo giáo viên xem bài các em là và cho điểm (nếu
làm tốt).
Ví dụ 2. Khi dạy xong bài Xây dựng đoạn văn trong văn bản (tiết 10 – bài 3),
giáo viên yêu cầu học sinh: Ngoài việc chuẩn bị để làm bài các em thực hiện trước
bước tìm hiểu đề cho các đề có trong phần Viết bài tập làm văn số 1 – văn tự sự.
Tới tiết 11 -12, trước khi viết bài giáo viên yêu cầu 1 hoặc 2 học sinh trình bày
kết quả việc tìm hiểu đề rồi mới đi vào viết bài.
Học sinh trả lời :

Đề 1: Kể lại những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học.
- Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu trực tiếp.
- Giới hạn: những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học (chỉ trong ngày
đầu tiên mà thôi).
Đề 2. Người ấy (bạn, thầy, người thân, …)sống mãi trong lịng tơi.
- Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu gián tiếp.
- Giới hạn: chỉ kể về một người thân (có thể là một kỉ niệm khó qn
với người đó).
Ví dụ 3: Tương tự như ví dụ 2, trước khi Viết bài viết số 2, giáo viên cũng yêu
cầu học sinh thực hiện bước tìm hiểu đề.
Trong quá trình dạy – học (nhất là ở tiết trả bài) tôi đã cho học sinh thấy một
cách nghiêm túc rằng lạc đề là lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài tập
làm văn. Một bài văn lạc đề dù có những đoạn văn hay đến đâu cũng khơng thể đạt
được điểm số cần thiết.
Đối với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản
nhưng với học sinh bước này rất quan trọng. Vì vậy, trước bất cứ một đề văn nào
giáo viên luôn yêu cầu học sinh thực hiện bước này.


Có thể nói rằng đây là một bước mất ít thời gian của tiết học nhưng nó mang
lại hiểu quả rất tốt cho học sinh.
4.2.1.2 Viết đoạn văn trong văn bản tự sự :
Thế nào là đoạn văn? Đoạn văn là đơn vị cấu tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ
viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một
ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường
có câu chủ đề hoặc từ ngữ chủ đề. Ta thường có đoạn văn diễn dịch, quy nạp, song
hành, …
Đoạn văn là đơn vị cấu tạo nên văn bản. Vì vậy viết tốt đoạn văn là một trong
những điều kiện để có một bài văn hay.
Trong chương trình Ngữ văn 8, học sinh được học cách xây dựng đoạn văn ở

tiết

10 – Xây dựng đoạn văn trong văn bản, trong đó học sinh đã nắm được kiến

thức về hình thức và nội dung của đoạn văn. Trên cơ sở bài này, các em đã có kiến
thức về cách xây dựng đoạn văn. Từ đó tơi thường xun cho học sinh luyện tập
luyện tập nhận diện đoạn văn cũng như viết đoạn văn ở trên lớp và ở nhà.
Trước hết, sau khi học xong tiết 10 – Xây dựng đoạn văn trong văn bản giáo
viên cho học sinh làm bài tập nhận điện đoạn văn. Đây là bước giúp học sinh nhận
biết cũng như khắc sâu kiến thức về đoạn văn. Trong SGK Ngữ văn 8 có rất nhiều
đoạn văn chuẩn, dựa vào ưu điểm này giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện.
Ví dụ 1: Sau khi dạy xong tiết 10 - Xây dựng đoạn văn trong văn bản, ở
bước củng cố nêu yêu cầu: các em xem đoạn văn b trong bài tập 1, phần luyện tập
ở trang 26 và đoạn văn giới thiệu về Nam Cao trong phần chú thích ở trang 45 rồi
xác định các đoạn văn đó được viết theo cách nào?
Học sinh trả lời:
- Đoạn văn ở trang 26 là đoạn văn viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở
đầu đoạn), chủ đề là nói về vẻ đẹp huyền ảo trong ngày của Ba Vì.


- Đoạn giới thiệu về Nam Cao ở trang 45 được viết theo lối song hành (từ
ngữ chủ đề là Nam Cao, ông), đối tượng là Nam Cao.
Học sinh trả lời được như vậy là đã nắm được “Thế nào là đoạn văn”. Trên cơ
sở đó tơi cho học sinh đi vào thực hành kĩ năng viết đoạn văn.
Ví dụ 2: Tiếp tục bài tập nhận diện đoạn văn, giáo viên có thể yêu cầu các em
về nhà đọc các văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục, Huế rồi yêu cầu các em xác
định: văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục được viết theo kiểu nào: Trong văn
bản Huế đoạn văn nào được viết theo kiểu diễn dịch? …
Học sinh trả lời:
Văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục là đoạn văn quy nạp (câu chủ đề

nằm ở cuối đoạn – Văn bản này chỉ có một đoạn văn). Trong văn bản Huế có đoạn
văn thứ hai và đoạn văn thứ ba được viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu
đoạn).
Khi học sinh nhận diện đúng đoạn văn tức là các em đã nắm được kiến thức
về đoạn văn. Từ đây giáo viên bắt đầu cho các em thực hành viết đoạn văn.
Trong quá trình học, học sinh được học rất nhiều văn bản tự sự. Đó là điều
kiện giúp các em viết tốt đoạn văn tự sự.
Khi cho học sinh thực hành viết đoạn văn giáo viên cũng cần chia làm hai giai
đoạn: trước hết cho học sinh viết đoạn văn với câu chủ đề cho trước, tiếp theo mới
là viết theo u cầu mà khơng có câu chủ đề (học sinh tự đặt câu).
Ví dụ 1: Khi học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4) tôi
cho học sinh bài tập về nhà: Về nhà mỗi em viết một đoạn văn nói về lão Hạc –
người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám (cho HS câu chủ đề: Lão
Hạc là con người nghèo khổ nhưng lão có nhiều phẩm chất đáng quý.)
Tới tiết 16 – Liên kết đoạn văn trong văn bản, khi kiểm tra bài cũ xong, GV
mời một HS trình bày đoạn văn của mình cho thầy cùng cả lớp nghe rồi GV nhận
xét. Cuối tiết học GV thu bài lại để về nhà chấm, nhận xét và sửa cho HS.


Ví dụ 2: Khi dạy xong tiết 21 – 22, văn bản Cô bé bán diêm, GV ra bài tập
cho HS về nhà làm:
Em thử tưởng tượng mình là người chứng kiến cái chết của cô bé trong truyện
Cô bé bán diêm của An – đéc – xen, bây giờ các bạn muốn nghe em kể lại cái
chết của cô bé. Vậy em hãy viết một đoạn văn kể lại cho các bạn cùng nghe.
Tới tiết học tiếp theo giáo viên thu bài của các em về nhà chấm, sửa và nhận
xét trong bài viết cho các em.
Khi trả lại bài cho học sinh, giáo viên cho đọc một số bài viết tốt để các em rút
kinh nghiệm cho bài của mình.
Ví dụ 3: Bài Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội (tiết 17 – bài 5) có nội
dung tương đối ngắn, bài tập dễ nên giáo viên cho học sinh làm bài tập ở nhà. Thời

gian trên lớp giáo viên cho học sinh làm bài tập: Em hãy viết một đoạn văn ngắn kể
về người mẹ (hoặc cha) của mình trong đó có sử dụng từ ngữ địa phương.
Khi học sinh viết xong, giáo viên mời 2 học sinh đọc bài rồi mời những học
sinh khác nhận xét. Sau đó giáo viên kết luận về nội dung, chủ đề và hình thức
trình bày.
Bài của những học sinh còn lại giáo viên thu để về nhà xem (học sinh chưa
viết xong thì thu lại ở tiết sau).
Ví dụ 4: Khi dạy xong tiết 25 – 26, Đánh nhau với cối xay gió, giáo viên yêu
cầu học sinh về nhà viết đoạn văn với gợi ý: Sự tương phản giữa Đôn – ki – hô – tê
và Xan – chô Pan – xa.
Đến tiết 28, bài 7 – Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và
biểu cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày đoạn văn.
Trên cơ sở đó ở tiết 28 này học sinh viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và
biểu cảm là rất dễ.
Khi học sinh luyện viết đoạn văn có thể có lỗi về câu và chính tả do học sinh
tự sắp xếp vì vậy giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh sửa lỗi về câu và chính tả.


Có thể nói việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt đoạn
văn tự sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn. Trên cơ
sở đó khi học văn bản thuyết minh và văn nghị luận học sinh sẽ viết tốt đoạn văn –
đó là một trong những tiền đề để học sinh làm tốt các kiểu văn bản khác.
4.2.1.3. Liên kết đoạn văn trong văn bản
Một bài văn được tạo thành bởi nhiều đoạn văn liên kết lại với nhau. Bài văn
là một chỉnh thể hoàn chỉnh nên giữa các đoạn văn cần có sự liên kết với nhau.
Liên kết đoạn văn nhằm mục đích làm cho ý của cả đoạn vừa phân biệt nhau vừa
liền mạch với nhau một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản. Muốn vậy, phải
tạo mối quan hệ ngữ nghĩa chặt chẽ, hợp lí giữa các đoạn văn với nhau và sử dụng
các phương tiện liên kết phù hợp.
Trong chương trình Ngữ văn 8 học sinh đã được học “Liên kết các đoạn văn

trong văn bản” ở tiết 16, bài 4.
Trên cơ sơ bài học này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành việc liên kết
đoạn văn do các em tạo ra.
Trước hết giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện các phương tiện liên
kết đoạn văn.
Ví dụ 1: Khi dạy xong bài Liên kết các đoạn văn trong văn bản – tiết 16, bài
4, giáo viên yêu cầu: Về nhà các em đọc văn bản Cô bé bán diêm (An – đéc – xen)
ở trang 64 sau đó xác định các từ ngữ và câu có tác dụng nối giữa các đoạn văn
trong văn bản đó.
Tới tiết 18, bài 5 – Tóm tắt văn bản tự sự, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo
viên mời học sinh trình bày (giáo viên kết luận) những từ ngữ, câu có tác dụng nối
như:
- Em quẹt que diêm thứ hai,…
- Em quẹt que diêm thứ ba.
- Em quẹt que diêm nữa vào tường, …


- Thế là …
- Sáng hôm sau,
- Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy …
Ví dụ 2: Cũng như ở ví dụ 1, nhưng có thể cho học sinh tìm phương tiện liên
kết trong văn bản “ Đánh nhau với cối xay gió”( Xéc – van – téc), ở văn bản này
thì dễ nhận biết hơn.
Học sinh có thể tìm được các phương tiện liên kết:
Vừa bàn tán về cuộc phiêu lưu mới xảy ra, …
Đêm hôm ấy, …
Trên cơ sở bài tập này, giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu kiến thức phần lí
thuyết, từ đây có thể cho học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn.
Việc viết các đoạn văn có sự liên kết với nhau đối với học sinh trung bình và
yếu là tương đối khó. Cho nên trong q trình dạy tơi ln có những đoạn văn mẫu

cho các em. Bên cạnh đó là bài của các em học sinh khá giỏi. Đồng thời luôn khích
lệ tinh thần cho các em.
Ở dạng bài này, giáo viên vừa cho học sinh luyện tập ở trên lớp vừa cho các
em về nhà làm (giáo viên phải thu vở bài tập rồi chấm và sửa cho học sinh).
Ví dụ 1: Ở bài Miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sư (tiết 24, bài 6), khi
dạy đến phần luyện tập, giáo viện cho học sinh làm bài tập 1 và đọc phần đọc thêm
ở trên lớp. Còn bài tập 2 – “viết một đoạn văn kể về những giây phút đầu tiên khi
em gặp lại một người thân” thì giáo viên cho học sinh về nhà làm. Giáo viên yêu
cầu học sinh viết thành 2 đoạn văn đoạn trong đó có các phương tiện liên kết.
Đến tiết 28, bài 7 – Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu
cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày bài của mình rồi giáo viên nhận xét. Sau đó
thu bài về nhà chấm và sửa cho học sinh.
Ví dụ 2: Văn bản Đánh nhau với cối xay gió (Xéc – van – téc) có hai nhâ vật
Đơn – ki – hơ – tê và Xan – chô Pan – xa tương phản nhau về mọi mặt. Vậy sau bài


học đó giáo viên yêu cấu học sinh viết 2 đoạn văn nói về hai nhân vật (hai đoạn có
quên hệ đối lập).
Ví dụ 3: Học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4), học sinh
biết rằng chị Dậu và lão Hạc là những con người tiêu biểu cho tầng lớp nông dân
Việt Nam trước cách mạng tháng 8. Giáo viên có thể cho học sinh viết hai đoạn văn
nói về số phận và tính cách của người nông dân (thông qua lão hạc và chị Dậu).
Có thể nói rằng để viết được một bài văn đúng và hay là rất khó, bởi ngồi
việc có kiến thức vũng vàng nó cịn địi hỏi người viết phải vận dụng nhiều kĩ năng
khác nhau. Nhìn chung các kĩ năng đó các em đã được học nhưng do đặc điểm lứa
tuổi, cũng như thời gian thực hành còn hạn chế nên người giáo viên phải có biện
pháp giúp các em thành thạo những kĩ năng đó mới mong các em vận dụng tốt
được.
5. Kết quả đạt được
5.1. Kết quả

Thống kê chất lượng bài kiểm tra ( Bài tập làm văn số 2)
Số học Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm

SL
47

bình
SL
36

sinh
SL
11

khảo
Khối
8: 98

%
11.2

%
48

trung Điểm yếu/ kém
%

36.7

SL

%

4
4.1
Tuy vẫn cịn có học sinh bị điểm yếu, kém, số học sinh bị điểm trung bình

cịn chiếm 36.7% nhưng tỷ lệ học sinh đạt điểm giỏi, điểm khá đã tăng cao, đạt 58
em. Điều này khẳng định rõ tính ưu việt trong đổi mới phương pháp dạy học. Đặc
biệt là đổi mới trong phát huy năng lực tạo lập văn bản của học sinh ở các tiết Tập
làm văn.
5.2. Khảo sát mức độ hứng thú của học sinh


Sau khi áp dụng một số giải pháp trên vào dạy học trong các tiết Tập làm văn
trong học học kì I, tơi đã tiến hành khảo sát lại mức độ hứng thú của học sinh để
đánh giá hiệu quả mà sáng kiến đem lại.
*Đối tượng khảo sát:
- Học sinh: 98 học sinh khối 8
* Thời điểm khảo sát: tháng 1/2015
Câu hỏi 1: “Em có thích học phần Tập làm văn trong môn Ngữ văn không?”
Mức độ khảo sát: Rất thích, thích, khơng thích:
Số học sinh khảo Số rất thích
Số thích
Số khơng thích
SL
%

SL
%
SL
%
sát (em)
Khối 8: 98
38
38.8
43
43.9
17
17.3
So với phần khảo sát khi chưa áp dụng các biện pháp nhằm bồi dưỡng năng
lực tạo lập văn bản cho học sinh đã có bước biến chuyển tích cực. Cụ thể số em
thích học ngữ văn đã tiến bộ rõ rệt ( số rất thích và thích đạt 81/ 98 em). Tuy nhiên
cịn 17 em khơng thích. Điều này địi hỏi phải có có sự nghiên cứu tìm tịi thêm để
có phương pháp điều chỉnh trong quá trình giảng dạy.
Câu hỏi 2: “Vì sao em thích học phần Tập làm văn trong mơn Ngữ văn?” Nếu em
thích vì nhiều lí do, vui lịng điền đủ các thông tin.
Em hứng thú
Số học sinh khảo
sát (em)

Em thấy có Ý kiến khác

vì em có thể thể vận dụng
nói và tạo lập tổng hợp nhiều
văn bản một kiến thức

cách mạch lạc.

SL
%
SL
%
SL
%
Khối 8: 98
45
45.9
40
40.8
13
13.3
Như vậy việc các em hứng thú với tiết học Tập làm văn trên lớp là do các em
đã cảm thấy tự tin vì có thể hình thành kĩ năng phát triển tư duy l«gic, sáng to và
kĩ năng nói, viết mạch lạc, thuyết phục. Cỏc em khơng cịn lo sợ, lúng túng khi


phải trình bày một vấn đề trước tập thể hay tạo lập một văn bản, đặc biệt là văn bản
tự sự.
5.3. Đánh giá sau khi áp dụng:
Sau khi vận dụng một số biện pháp bồi dưỡng năng lực tạo lập văn bản cho học
sinh lớp 8 thông qua dạy học phần tập làm văn kết quả thu được của tôi như sau:
Về phía giáo viên: Khi vận dụng những biện pháp này đã giúp học sinh nắm bài
chắc hơn, sâu hơn phương pháp viết kiểu văn tự sự ở lớp 8. Qua đó, hướng dẫn học
sinh phương pháp tìm hiểu, phân tích đề, viết đoạn văn, liên kết các đoạn văn trong
văn bản tự sự, bồi đắp lịng u thích mơn văn học, biết nhìn nhận, đánh giá, đúng
một vấn đề và giải quyết hợp lý. Bản thân giáo viên khi chuyên tâm nghiên cứu
cũng cứng cáp, vững vàng hơn về chun mơn nghiệp vụ, xóa bỏ được hẳn tâm lí
sợ dạy các tiết làm văn. Khơng những vậy, giáo viên cịn cịn có những cơ sở, định

hướng về việc lựa chọn sử dụng, kết hợp các phương pháp dạy học vào từng bài
học cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn bậc THCS
hiện nay.
Về phía học sinh: Các em có những kiến thức, kĩ năng cơ bản về tạo lập văn
bản, đặc biệt là văn bản tự sự. Các em tự tích lũy cho mình phương pháp tìm hiểu
đề, viết đoạn văn và liên kết đoạn văn trong văn bản và quan trọng hơn là khơng
cịn tâm lí “ngại học, chán hc, li vit, m thy rừ văn học tht s là một bộ
môn khoa học dễ tác động nhất đến thế giới nội tâm con người, bồi đắp cả kiến
thưc, kỹ năng lẫn tâm hồn cho con người làm cho cuộc sống ngày một tươi đẹp
hơn.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
6.1 Về nhân lực:
Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người thợ cũng
phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để viết tốt một bài văn cũng


×