Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Niên luận Vai trò của phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước Thực tiễn trên địa bàn thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.79 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------

NIÊN LUẬN
VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT
PHỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP CƯỠNG CHẾ
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC. THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HUẾ

HỌ VÀ TÊN: TRẦN THỊ NHẬT THOA

HUẾ, 06/2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------

NIÊN LUẬN
KHÓA 37

VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG PHÁP THUYẾT
PHỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP CƯỠNG CHẾ
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC. THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HUẾ

Giáo viên hướng dẫn:


Sinh viên thực hiện:

Th.S LÝ NAM HẢI

TRẦN THỊ NHẬT THOA
MSSV: 13A50113
Lớp: K37G Luật học
HUẾ, 06/2016


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lí hành chính nhà nước (QLHCNN) là quản lí nhà nước trong lĩnh vực
hành pháp trên cơ sở theo quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh của cơ quan
lập pháp nhằm tổ chức chỉ đạo công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, giáo dục,
an ninh, quốc phòng, hành chính, chính trị. Hoạt động quản lí này được các chủ
thể có thẩm quyền thực hiện thông qua những phương pháp QLHCNNnhằm đạt
được những hành vi xử sự cần thiết. Có bốn phương pháp QLHCNN bao gồm
phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính và
phương pháp kinh tế. Trong đó, hai phương pháp thuyết phục và cưỡng chế có
vai trò quan trọng và được sử dụng phổ biến.
Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, mọi hoạt động của bộ máy nhà nước phục vụ cho lợi ích của nhân
dân, không vì bất kỳ mục đích tự thân nào, do đó, biện pháp thuyết phục là biện
pháp chủ yếu được sử dụng nhằm thực hiện những nhiệm vụ trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước. ở nước ta, pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân,
vì vậy, được tuyệt đại đa số nhân dân tuân thủ một cách tự giác.
Thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý hành chính nhà nước
và xã hội, phát huy tính tích cực chính trị, sự sáng tạo của quần chúng trong
cách mạng là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Sự

quan tâm đó thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong Hiến
pháp 2013 (Điều 28). Kế thừa và phát huy quan điểm của V.I. Lênin: nhà nước
vững mạnh bởi ý thức giác ngộ của quần chúng chứ không phải bởi sự tăng
cường đàn áp của bộ máy chuyên chính như quân đội và cảnh sát của nhà nước
đó, Đảng ta đã khái quát thành quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Do đó, bằng hoạt động tuyên
truyền, giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước và truyền thống cách mạng của nhân


dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã giành được
thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, nhiều chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được nhân dân
tự giác thực hiện.
Như vậy, Thuyết phục có vai trò rất to lớn để nâng cao hiệu quả quản lý hành
chính nhà nước, tăng cường củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành
chính nhà nước. Nhà nước vững mạnh chính bởi ý thức giác ngộ của quần
chúng chứ không chỉ do tăng cường các biện pháp cưỡng chế, bắt buộc.
Chúng ta mới vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh lâu dài, bước vào xây dựng cuộc
sống mới, cơ chế cũ chưa mất, cơ chế mới chưa hình thành ổn định và phát
triển, đời sống xã hội còn nhiều khó khăn, do đó trong xã hội tồn tại những nhân
tố xã hội chủ nghĩa và cả những nhân tố chưa phải là xã hội chủ nghĩa, còn
nhiều nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật, cộng với ý
thức pháp luật chưa cao trong một bộ phận lớn của dân cư; trình độ, ý thức pháp
luật của cán bộ, công chức nhà nước chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày
càng cao trong quản lý hành chính nhà nước, vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng
trong quản lý hành chính nhà nước và xã hội chỉ cần các biện pháp thuyết phục.
Bởi vì, trong xã hội còn tồn tại tội phạm, vi phạm pháp luật, còn sự chống đối,
phá hoại của các thế lực phản động trong và ngoài nước nhằm phá hoại trật tự

quản lý hành chính nhà nước và an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Vì vậy, phải
kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước.
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: "Trước hết phải thuyết phục và sau đó mới cưỡng bức,
dù thế nào đi nữa thì trước hết chúng ta cũng phải thuyết phục rồi mới cưỡng
chế".


Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là cần thiết đối với những cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật, gây rối trật tự trị an, có thái độ chống đối lại chính quyền nhân
dân, không chấp hành đường lối, chủ trương và pháp luật của nhà nước. Trong
các trường hợp đó, việc áp dụng cưỡng chế không trái với nguyên tắc nhân đạo
và dân chủ của Nhà nước ta, trái lại, nó được thực hiện vì lợi ích chung của
nhân dân, xã hội, nhà nước, trong đó có cả lợi ích cá nhân. Không áp dụng
cưỡng chế, hay coi nhẹ nó cũng có nghĩa là buông nhẹ kỷ cương dẫn tới tình
trạng vô Chính phủ, vô kỷ luật trong xã hội và trong bộ máy nhà nước. Ngược
lại, quá nhấn mạnh đến cưỡng chế sẽ dẫn đến độc đoán, chuyên quyền, trái với
bản chất nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân. Kết hợp thuyết phục và
cưỡng chế một cách hợp lý sẽ có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện tốt
nhiệm vụ cụ thể trong quản lý hành chính nhà nước.
Chính vì những lý do trên, em chọn đề tài: “Vai trò của phương pháp thuyết
phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước. Thực tiễn
tại thành phố Huế.” để làm rõ hơn về phương pháp thuyết phục, phương pháp
cưỡng chế cũng như vai trò của các phương pháp này, bên cạnh đó sẽ đánh giá
kết quả đạt được và những hạn chế, tồn tại của việc áp dụng phương pháp
thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về
phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính
nhà nước, thực tiễn trên địa bàn thành phố Huế, qua đó đánh giá những kết quả

đạt được cũng như những hạn chế, tồn tại trong việc áp dụng phương pháp
thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước, từ
đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng hai
phương pháp này.


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có những nhiệm vụ căn bản sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò về phương pháp thuyết phục và phương
pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước cũng như mối quan hệ của
hai phương pháp này.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc áp dụng phương pháp thuyết phục và
phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước, khảo sát trên thực
tế những kết quả đạt được và những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại và đưa ra
một số kiến nghị về các hạn chế, vướng mắc còn tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả
việc áp dụng hai phương pháp này trên địa bàn thành phố Huế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về phương pháp thuyết phục
và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước và thực tiễn tại
thành phố Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Bài này được nghiên cứu trong phạm vi nội dung của phương pháp thuyết phục
và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước như khái niệm,
đặc điểm, vai trò, mối quan hệ của hai phương pháp này và thực tiễn tại thành
phố Huế, bên cạnh đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc áp
dụng phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành
chính trên địa bàn thành phố Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài niên luận này, em đã vận dụng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, chủ

trương của Đảng, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ


Chí Minh. Ngoài phương pháp trên em còn sử dụng một số phương pháp khác,
có thể kể đến các phương pháp chính sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn.
5. Kết cấu của niên luận
Đề tài được cấu trúc 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về phương pháp thuyết phục và phương pháp
cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Chương 2. Thực trạng việc áp dụng phương pháp thuyết phục và phương pháp
cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn thành phố Huế.
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng phương pháp
thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính trên địa bàn
thành phố Huế.


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP THUYẾT
PHỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP CƯỠNG CHẾ TRONG QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1.

Khái niệm phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế

trong quản lý hành chính nhà nước

1.1.1. Khái niệm phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính nhà
nước
Hiểu một cách thông thường, thuyết phục là làm cho người khác thấy đúng,
thấy hay mà tin và làm theo.
Theo từ điển tiếng Việt: Thuyết phục trong quản lí hành chính nhà nước là làm
cho đối tượng quản lí hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện những hành vi
nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.
Như vây, thuyết phục là hoạt động do các chủ thể quản lý hành chính nhà nước
(chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước) tiến hành, thông qua tuyên
truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật, nêu gương nhằm tạo
ra ý thức về lối sống cộng đồng, ý thức pháp luật của mỗi công dân, tạo ra thói
quen sống và làm việc theo pháp luật.
Trong xã hội hiện nay (xã hội chủ nghĩa), lợi ích của chủ thể quản lý và đối
tượng quản lý về cơ bản là nhất trí, hoạt động quản lý hành chính nhà nước thể
hiện ý chí và phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Vì vậy, phương pháp quản
lý chủ yếu là phương pháp thuyết phục. Mặt khác, những nhiệm vụ và mục tiêu
của quản lý hành chính nhà nước không thể đạt được nếu thiếu sự ủng hộ rộng
rãi và tích cực của quần chúng. Hoạt động quản lý chỉ có hiệu quả cao trên cơ
sở động viên và tạo điều kiện cho quần chúng tham gia vào giải quyết những
nhiệm vụ đặt ra trước bộ máy hành chính nhà nước. Bộ máy hành chính nhà
nước đảm bảo đưa vào cuộc sống những gì phù hợp với nguyện vọng và đòi hỏi


của nhân dân. Thuyết phục có vai trò rất to lớn để nâng cao hiệu quả quản lý
hành chính nhà nước, tăng cường củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý
hành chính nhà nước, tăng cường củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý
hành chính nhà nước. Nhà nước vững mạnh chính bởi ý thức giác ngộ của quần
chúng chứ không chỉ do tăng cường các biện pháp cưỡng chế, bắt buộc. Trong
quản lý hành chính cần phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, các đoàn thể
quần chúng như Mặt trận tổ quốc, tổ dân phố, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội

cựu chiến binh, hội người cao tuổi...trong việc tuyên truyền vận động, nêu
gương sáng để nâng cao thuyết phục trong quản lý hành chính nhà nước.
1.1.2. Khái niệm phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà

nước
Theo Tiến sĩ Trần Minh Hương thì cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo
lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với những cá nhân hoặc tổ
chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định, về mặt vật chất hay
tinh thần nhằm buộc các cá nhân hoặc tổ chức đó phải thực hiện hoặc không
được thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế
nhất định đối với tài sản của cá nhân hay tổ chức hoặc tự do thân thể của các cá
nhân.
Theo từ điển luật học thì cưỡng chế là những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ
chức phải thực hiện và phục tùng một mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền do pháp luật quy định.
Cưỡng chế hành chính là tổng hợp các biện pháp do luật hành chính quy định được
áp dụng để tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tõm lý, tư tưởng và hành
vi của cá nhân hoặc tổ chức, buộc các chủ thể đó phải thực hiện các nghĩa vụ pháp
lýnhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn hoặc xử lý những hành vi trái pháp luật,
bảo đảm trật tự và kỷ luật trong hoạt động hành chính.


Như vậy, Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền đối với những cá nhân, tổ chức nhất định trong những
trường hợp pháp luật quy định buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện hay
không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế về
mặt tài sản hoặc tự do thân thể.
Phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong việc
áp dụng những quyết định bắt buộc đơn phương đối với đối tượng quản lý.
Phương pháp cưỡng chế thường được sử dụng trong những trường hợp quyết

định đơn phương không được thực hiện một cách tự giác. Nếu không có cưỡng
chế thì kỉ luật nhà nước không được bảo đảm, pháp chế không được tôn trọng,
tạo điều kiện thuận lợi cho các tệ nạn xã hội phát triển, cho kẻ thù giai cấp, kẻ
thù dân tộc hoạt động chống phá nhà nước. Cưỡng chế nhà nước xã hội chủ
nghĩa là cưỡng chế của đa số đối với thiểu số và được áp dụng trong giới hạn do
pháp luật quy định một cách chặt chẽ. Đó là bạo lực dựa trên cơ sở pháp luật,
vừa bảo đảm việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, kỉ luật nhà nước đồng thời
vừa bảo đảm quyền lợi chính đáng của công dân, cơ quan tổ chức có liên quan.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông phát hiện anh A tham gia điều khiển phương tiện
giao thông có hành vi vi phạm an toàn giao thông (vượt đèn đỏ). Chiến sĩ cảnh
sát giao thông sẽ thực hiện việc đình chỉnh hành vi vi phạm của anh A. Đây
được xem là biểu hiện của phương pháp cưỡng chế.
1.2.

Đặc điểm của phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế

trong quản lý hành chính nhà nước
1.2.1. Đặc điểm của phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính nhà
-

nước
Phương pháp thuyết phục được sử dụng phổ biến. Vì đây là phương pháp
ít tốn kém, phương pháp ít tổn hại hoặc không gây tổn hại đến đối tượng
quản lý, là phương pháp làm đối tượng quản lý nhận ra được những sai
lầm của hành vi mà mình thực hiện và tự giác chấp hành nghiêm chỉnh


pháp luật, làm cho chủ thể và đối tượng gần nhau, tạo sự đồng thuận và
-


cộng tác.
Do chủ thể quản lý hành chính sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý

-

nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình.
Phương pháp thuyết phục được thể hiện bằng những hoạt động như: giải
thích, động viên, hướng dẫn, chứng minh...làm cho đối tượng hiểu rõ và

-

chấp hành các yêu cầu của chủ thể quản lý.
Trong quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể quản lý được sử dụng
quyền lực nhà nước, được sử dụng các biện pháp cưỡng chế bắt buộc đối
tượng quản lý phải tuân thủ những yêu cầu của mình. Vậy tại sao cần sử

-

dụng phương pháp thuyết phục?
Vì phương pháp thuyết phục rất cần thiết và trong thực tế đó là phương
pháp chủ yếu để các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của mình.
+ Do bản chất của nước ta:
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoạt động của các cơ
quan nhà nước, trong đó có các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm bảo sự phát
triển mọi mặt của các tầng lớp nhân dân. Do đó lợi ích của chủ thể quản
lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính nhà nước không
mâu thuẩn, đối lập nhau mà thống nhất với nhau. Chính vì thế mà phương
pháp thuyết phục có cơ sở xã hội vững chắc và không riêng gì trong quản

lý hành chính nhà nước, mà trong tất cả hoạt động của mình, phương
pháp chủ yếu được các chủ thể quản lý nhà nước sử dụng là phương pháp
thuyết phục.
+ Do những hiệu quả chủa phương pháp thuyết phục mang lại trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước:
Qua thực tiễn của quản lý hành chính nhà nước, chúng ta thấy những
nhiệm vụ và mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước chỉ có thể thực
hiện được thông qua ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người dân.


Bởi vì sự tự giác thực hiện bao giờ cũng mang lại hiệu quả tốt hơn so với
sự cưỡng chế, bắt buộc phải thực hiện.
1.2.2. Đặc điểm của phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà
nước
- Cưỡng chế hành chính là một dạng của cưỡng chế nhà nước
Cưỡng chế nhà nước bao gồm 4 loại: cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự,
cưỡng chế hành chính, cưỡng chế kỷ luật. Giữa chúng có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau nhưng cũng có sự khác nhau về cơ sở áp dụng, bản chất pháp
lý, chủ thể có thẩm quyền áp dụng, trình tự- thủ tục áp dụng, mức độ nguy
hiểm của hành vi, hậu quả pháp lý... Để bảo vệ trật tự, kỷ cương trong quản
lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cần phải nhận thức rõ
mối quan hệ của cưỡng chế hành chính với các loại cưỡng chế nhà nước
khác.
- Cưỡng chế hành chính chủ yếu do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền áp dụng theo quy định của pháp luật.
Không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào cũng có thẩm quyền áp
dụng cưỡng chế hành chính. Chỉ những cơ quan quản lý nhà nước được văn
bản pháp luật quy định có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế hành chính mới
được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính.
Ví dụ: Thanh tra Chính Phủ, Thanh tra nhà nước theo cấp hành chính, hải

quan, kiểm lâm, thuế vụ, quản lý thị trường, giám đốc cảng vụ hàng không,
giám đốc cảng vụ hàng hải, giám đốc cảng vụ thuỷ nội địa, cảnh sát biển, cơ
quan quản lý xuất - nhập cảnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp...
Thẩm quyền cưỡng chế của mỗi loại cơ quan nhà nước được quy định rất
chặt chẽ trong các văn bản pháp luật nhằm tránh tình trạng độc quyền, lạm
quyền, đảm bảo trật tự và pháp chế. Việc quy định cho nhiều cơ quan có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cần thiết vì vi phạm hành
chính xảy ra nhiều, đa dạng trong tất cả mọi ngành, lĩnh vực, mọi cấp quản
lý. Nhưng trong thực tế thực hiện vẫn còn sự chồng chéo, mâu thuẫn, chưa
phân định rõ ràng thẩm quyền của mỗi cơ quan và người có thẩm quyền nên
hiệu lực, hiệu quả của quản lý chưa cao.


Trong một số trường hợp, cưỡng chế hành chính còn được thực hiện bởi các
cơ quan khác của nhà nước, ví dụ: xử phạt hành chính do Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa thực hiện; người chỉ huy tàu bay, trong thời gian tàu bay đang
bay, được áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với những người thực hiện
các hành vi như: Không tuân theo sự hướng dẫn của người chỉ huy tàu bay
hoặc của thành viên tổ bay thay mặt người chỉ huy tàu bay về việc bảo đảm
an toàn cho tàu bay, duy trì trật tự, kỷ luật trong tàu bay; các hành vi vi
phạm thuần phong, mỹ tục của dân tộc, vi phạm trật tự công cộng khác...
- Cưỡng chế hành chính khác với cưỡng chế kỷ luật
Tính đặc thù của cưỡng chế kỷ luật thể hiện ở chỗ, người bị kỷ luật có sự lệ
thuộc về mặt công vụ trong quan hệ với người có thẩm quyền ra quyết định
kỷ luật. Việc ban hành cưỡng chế kỷ luật là sự thực hiện thẩm quyền mang
tính nội bộ trong mỗi cơ quan, tổ chức của nhà nước. Ví dụ: Thủ trưởng cơ
quan nhà nước ra quyết định kỷ luật đối với nhân viên của mình khi họ có
hành vi vi phạm kỷ luật.
Còn trong cưỡng chế hành chính, người có thẩm quyền áp dụng cưỡng chế
và người bị áp dụng cưỡng chế không có quan hệ trực thuộc trên dưới mà

chỉ có quan hệ kiểm tra, giám sát. Ví dụ: Công dân Nguyễn Văn A đi vào
đường ngược chiều bị cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ xử phạt
tiền 200.000 đồng.
Mặt khác, cưỡng chế hành chính và cưỡng chế kỷ luật còn khác nhau ở
phạm vi áp dụng, mục đích áp dụng, biện pháp áp dụng, thủ tục áp dụng...
- Mục đích của cưỡng chế hành chính là để phòng ngừa, ngăn ngừa vi phạm
pháp luật hành chính; trừng phạt người vi phạm theo trình tự xử lý hành
chính; đảm bảo trật tự trong các trường hợp khẩn cấp khi chưa xảy ra vi
phạm; những trường hợp cần thiết vì lợi ích quốc gia, an ninh, quốc phòng.
Cưỡng chế hành chính không chỉ nhằm đảm bảo thực hiện, bảo vệ các quy
phạm vật chất hành chính mà còn đảm bảo thực hiện và bảo vệ các quy
phạm vật chất của ngành luật khác như luật đất đai, luật dân sự...


- Cưỡng chế hành chính được áp dụng theo thủ tục hành chính, do Luật
hành chính quy định. Vì vậy, thủ tục này đơn giản hơn so với thủ tục áp
dụng cưỡng chế hình sự và cưỡng chế dân sự. Tuy nhiên, với sự thành lập
và đi vào hoạt động của Toà hành chính thì trong nhiều trường hợp Toà án
cũng được áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính.
1.3. Vai trò của phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế
trong quản lý hành chính nhà nước
1.3.1. Vai trò của phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính nhà
nước
Phương pháp thuyết phục do chủ thể quản lí hành chính nhà nước sử dụng để
tác động lên đối tượng quản lí nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
Phương phát thuyết phục giáo dục cảm hoá là một trong những phương pháp
quản lý quan trọng nhất đem lại hiệu quả cao nhất. Phương phát này thể hiện
tính ưu việt của chế độ Xã hội chủ nghĩa, thể hiện truyền thống nhân đạo của
dân tộc ta. Bản chất của phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lí
hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất

định. Thông qua thuyết phục, các chủ thể của quản lí hành chính nhà nước ( chủ
yếu là các cơ quan hành chính nhà nước ) giáo dục cho mọi công dân nhận thức
đúng đắn về kỉ cương xã hội, kỉ luật nhà nước, động viên họ tự giác thực hiện
nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. Các tổ chức xã hội là chỗ dựa vững chắc
của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc nâng cao ý thức pháp luật của
công dân, trong việc đảm bảo và mở rộng dân chủ. Trong quản lí hành chính
nhà nước, các chủ thể quản lí được sử dụng quyền lực của nhà nước, được sử
dụng các biện pháp cưỡng chế bắt buộc, tuy nhiên không phải lúc nào cũng áp
dụng biện pháp cưỡng chế, theo đó, phương pháp quản lí chủ yếu là phương
pháp thuyết phục. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoạt động
của các cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan quản lí hành chính nói riêng
là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm bảo sự phát triển
mọi mặt của các tầng lớp nhân dân. Do đó, lợi ích của chủ thể quản lí hành


chính nhà nước và đối tượng quản lí hành chính nhà nước không mâu thuẫn, đối
lập nhau mà thống nhất với nhau. Chính vì vậy phương pháp thuyết phục có cơ
sở xã hội vững chắc và không riêng gì trong quản lí hành chính nhà nước, mà
trong tất cả hoạt động của mình, phương pháp chủ yếu được các chủ thể quản lí
nhà nước sử dụng là phương pháp thuyết phục. Qua thực tiễn cho thấy, những
nhiệm vụ và mục tiêu của quản lí hành chính nhà nước chỉ có thể được thực
hiện thông qua sự tự giác ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Hiệu quả
của sự tự giác bao giờ cũng tốt hơn sự cưỡng chế, ép buộc phải thực hiện.
1.3.2. Vai trò của phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà

nước
Trong giai đoạn hiện nay, cưỡng chế có vai trò rất quan trọng trong việc đảm
bảo pháp chế và kỉ luật nhà nước. Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay vẫn còn
nhiều tội phạm và vi phạm pháp luật, các thế lực thù địch luôn tìm cách chống
phá trật tự quản lí hành chính nhà nước của nước ta, bên cạnh đó vẫn còn một

số người dân vẫn còn một số bộ phận người dân có ý thức chấp hành pháp luật
kém, vẫn không tự giác chấp hành các quy định của pháp luật. Nếu không có
cưỡng chế thì kỉ luật nhà nước không được bảo đảm, pháp chế không được tôn
trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tệ nạn xã hội phát triển, cho kẻ thù giai
cấp, kẻ thù dân tộc hoạt động chống phá nhà nước. Cưỡng chế là bạo lực dựa
trên cơ sở pháp luật, được bảo đảm việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, kỉ luật
nhà nước, đồng thời ừa đảm bảo quyền lợi chính đáng của công dân, cơ quan, tổ
chức có liên quan. Biện pháp cưỡng chế được sử dụng ở những trường hợp cần
thiết, khi phương pháp thuyết phục không đạt lại hiệu quả như mong đợi.
Cưỡng chế có một phần vai trò trong việc răn đe các đối tượng quản lí khác, để
họ thấy được sự nghiêm minh của pháp luật. Các loại cưỡng chế nhà nước đều
nhằm tới các đội tượng có hành vi vi phạm pháp luật, như cưỡng chế hình sự
đối với người có hành vi phạm tội hoặc bị tình nghi phạm tội; cưỡng chế dân sự
đối với người có hành vi vi phạm dân sự, gây thiệt hại cho nhà nước, công


dân…; cưỡng chế kỉ luật có đối tượng là những cá nhân, tổ chức có hành vi vi
phạm kỉ luật nhà nước; và cưỡng chế hành chính áo dụng cho các đối tượng cá
nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính.
Cưỡng chế hành chính là phương pháp được pháp luật quy định rất chặt chẽ về
thẩm quyền áp dụng, về cấc trường hợp được phép áp dụng, về các biện pháp cụ
thể để cưỡng chế trong từng trường hợp cụ thể, về thủ tục cưỡng chế trong từng
trường hợp. Nguyên nhân của việc quy định rất chặt chẽ là do: thứ nhất, đây là
phương pháp sử dụng quyền lực nhà nước rõ nét cho nên cần thiết phải có quy
định chặt chẽ để tránh tình trạng lạm quyền; thứ hai, phương pháp này có thể
dẫn đến oan sai cho nên cần có quy định chặt chẽ để tránh tình trạng oan sai.
1.4.

Mối quan hệ giữa phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng
chế trong quản lý hành chính nhà nước


Ở nước ta, xuất phát từ tính nhân dân của nhà nước ta, từ vấn đề cốt lõi của việc
nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước, từ yếu tố truyền thống lịch sử dân tộc mà
biện pháp thuyết phục được lấy làm biện pháp chủ yếu được áp dụng trong hoạt
động quản lí hành chính nhà nước. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng trong quản
lí hành chính nhà nước chúng ta chỉ cần áp dụng các biện pháp thuyết phục mà
thôi. Bởi lẽ trong xã hội, do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn còn tồn tại nhiều
vi phạm pháp luật trong một bộ phận công dân, những nhân viên nhà nước…
Hơn nữa cần phải tính đến những hoạt động phá hoại, thù địch của thế lực phản
động đang tìm mọi cách phá hoại trật tự quản lí nhà nước, xâm hại an ninh quốc
gia. Vì vậy, phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, có nghĩa là trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta cần
thiết phải có sự kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế. Trong sự kết hợp này
cần phải tuân theo tư tưởng chỉ đạo trước hết phải thuyết phục và luôn luôn lấy
thuyết phục làm chính, còn biện pháp cưỡng chế chỉ được áp dụng khi thuyết
phục không có hiệu quả.


Giữa phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành
chính có mối quan hệ sau:
-

Thứ nhất: Để đạt được mục đích cuối cùng là bảo đảm thực hiện những
nhiệm vụ quản lí thì phải sử dụng các phương pháp quản lí tương ứng.
Những nhiệm vụ quản lí được thực hiện bằng cách ban hành những quyết
định ở các cấp khác nhau. Những quyết định này được thực hiện hoặc
trên cơ sở khuyến khích hoặc trên cơ sở những chỉ thị có tính chất bắt

-


buộc.
Thứ hai: Để thi hành quyết định quản lí nào đó có thể sử dụng những
phương tiện cưỡng chế nhưng trên thực tế, không phải lúc nào người ta
cũng sử dụng những phương tiện cưỡng chế để thi hành một quyết định
hành chính tương ứng nào đó. Việc sử dụng phương tiện cưỡng chế
không có ý nghĩa khi có khả năng đảm bảo thực hiện quyết định thông
qua thuyết phục. Do đó, không thể chỉ áp dụng riêng mỗi biện pháp

-

cưỡng chế trong việc thi hành một quyết định quản lí hành chính được.
Thứ ba: Trong thực tế, chúng ta cũng thấy rằng, phương pháp thuyết phục
và cưỡng chế không thể hiện một cách độc lập mà bổ sung cho nhau.
Việc đưa ra những quyết định bắt buộc thường đi liền với công tác giải
thích, hướng dẫn, vận động; nếu công tác vận đông, giải thích, hướng dẫn
không đạt được kết quả thì lúc đó mới cần đến các biện pháp mang tính
bắt buộc, cưỡng chế; do đó cũng không thể chỉ áp dụng mỗi phương pháp
thuyết phục khi đối tượng quản lí không có ý thức tự giác thực hiện hay

-

không thể thuyết phục được nữa.
Thứ tư: Trong trường hợp những đối tượng có liên quan tự giác thực hiện
quyết định đơn phương của chủ thể quản lí hành chính nhà nước thì lúc
đó việc bắt buộc thực hiện quyết định này hay quyết định khác cũng
không có ý nghĩa khi không có đối tượng để cưỡng chế. Nghĩa là quyết
định hành chính nhà nước trong trường hợp này không còn phải đảm bảo
bằng cưỡng chế. Cho nên, cả hai biện pháp thuyết phục và cưỡng chế có



thể xem như thay thế nhau một cách linh động, tùy vào từng trường hợp,
-

tình huống cụ thể.
Thứ năm: Biện pháp thuyết phục và biện pháp cưỡng chế không chỉ khác
nhau về bản chất mà còn khác nhau ở cách thức qui định chúng. Việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến sự cần thiết phải hành động
bất chấp nguyện vọng của người thực hiện nên pháp luật cố gắng xác
định giới hạn của nó. Còn các biện pháp thuyết phục được qui định một
cách chung nhất trong thẩm quyền của cơ quan này hay cơ quan khác mà
không giới hạn phạm vi sử dụng. Có những trường hợp biện pháp cưỡng
chế được pháp luật qui định một cách cụ thể biện pháp nào có thể áp
dụng trong trường hợp nào, nhưng đối với biện pháp thuyết phục, do việc
sử dụng biện pháp này không hạn chế quyền của các đối tượng quản lí,
hơn nữa những biện pháp thuyết phục rất đa dạng nên khó có thể qui định
được một cách cụ thể. Điều này cho thấy, biện pháp thuyết phục có thể
được áp dụng một cách không hạn chế, không thể nhất nhất chỉ áp dụng
các biện pháp cưỡng chế qui định trong luật một cách cứng nhắc mà loại
bỏ đi khả năng thuyết phục trong khi biện pháp thuyết phục có thể áp
dụng một cách dễ dàng, đỡ tốn kém…
Thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lí hành chính nhà
nước và xã hội, phát huy tính tích cực chính trị có thể sẽ buông nhẹ kỷ
cương dẫn tới tình trạng vô chính phủ, vô kỷ luật trong xã hội và bộ máy
nhà nước. Ngược lại, nếu quá nhấn mạnh đến cưỡng chế sẽ dẫn đến độc
đoán, chuyên quyền trái với bản chất nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Do mối liên hệ giữa phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế
biểu hiện rõ qua năm nội dung đề cập trên, cho thấy việc kết hợp chúng
một cách hợp lí sẽ có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện tốt những
nhiệm vụ cụ thể trong quản lí hành chính nhà nước, đây cũng là yêu cầu
đối với khoa học pháp lí. Kinh nghiệm quản lí hành chính nhà nước trong

những năm qua đã chỉ rõ những sai lầm duy ý chí trong lĩnh vực quản lí


king tế, tư tưởng nóng vội trong việc xóa bỏ các thành phần kinh tế bằng
các biện pháp hành chính, cũng như quá chú ý đến phương thức quản lí
nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính; không đánh giá đầy đủ, khách
quan, coi nhẹ các biện pháp khuyến khích kinh tế và sử dụng các đòn bẩy
kinh tế đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, xáo trộn nền kinh tế Quốc
dân, làm suy yếu sức sản xuất, gây ra những tiêu cực trong xã hội, dẫn tới
khủng hoảng kinh tế. Trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước, việc áp
dụng cưỡng chế cũng chưa đủ đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công
dân trước pháp luật. Một số cán bộ công chức nhà nước vi phạm pháp
luật, thoái hóa, biến chất, tham nhũng vẫn chưa được xử lý nghiêm minh
đúng pháp luật. Điều đó gây ảnh hưởng xấu đến kỷ cương xã hội nói
chung, pháp chế kỷ luật trong quản lí hành chính nhà nước nói riêng. Tuy
nhiên, sự kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế trong quản lí hành chính
nhà nước theo phương châm lấy thuyết phục là chính thì cũng không loại
trừ khả năng tăng mức xử phạt hành chính, mức hình phạt đối với một số
vi phạm pháp luật cụ thể trong một giai đoạn nhất định. Tùy theo hoàn
cảnh kinh tế - xã hội mà nhà nước xét thấy cần tăng nặng mức độ cưỡng
chế nhằm thiết lập lại kỷ cương chung. Việc kết hợp giữa thuyết phục và
cưỡng chế phải được dựa trên những hoàn cảnh xã hội cụ thể. Tách rời
khỏi những điều kiện xã hội, điều kiện kinh tế, phong tục, tập quán,…sẽ
không bỏa đảm tính hợp lí của sự kết hợp đó, sẽ không mang lại kết quả
theo mong muốn.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng phương pháp thuyết phục và
phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Thuyết phục có vai trò rất to lớn để nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà
nước, tăng cường củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà
nước. Nhà nước vững mạnh chính bởi ý thức giác ngộ của quần chúng chứ

không chỉ do tăng cường các biện pháp cưỡng chế, bắt buộc.


Ở nước ta hiện nay, phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính nhà
nước được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau như thông qua thông tin đại
chúng, qua các đoàn thể, các tổ chức, qua các hoạt động điều hành của cán bộ,
công chức trong bộ máy hành chính nhà nước, từ cơ sở đến địa phương, các cấp
các ngành luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho
mọi tầng lớp nhân dân, các đài phát thanh, truyền hình luôn đống góp tích cực
vào công tác tuyên truyền giáo dục cho người dân.
Bên cạnh những tích cực đạt được phương pháp thuyết phục và phương pháp
cưỡng chế còn một số hạn chế nhất định như: phương pháp thuyết phục thực
hiện ở địa phương chỉ mang tính hình thức, hô hoà nhưng không đạt được hiệu
quả. Nhiều nơi, nhất là vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo do những nguyên
nhân khách quan lẩn chủ quan công tác tuyên truyền giáo dục, chủ trương,
chính sách, pháp luật chưa đến được với người dân hoặc trình độ dân tí của họ
vẫn còn thấp, do đó một số họ bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo chống tại chính quyền,
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.5.1. Về yếu tố khách quan
Việc sử dụng phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế còn phụ
thuộc vào các yếu tố sau:
Do điều kiện phân bố dân cư không đồng đều, phức tạp, nhiều dân tộc thiểu số
sống ở miền núi, cao nguyên, dân cư phân bố không tập trung
Cơ sở vật chất, hạ tầng, giao thông đi lại khó khăn. Chính vì vậy đã gây khó
khăn trong công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật đến người dân.
1.5.2. Về yếu tố chủ quan
Một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu về trình độ cũng như kinh nghiệm trong
công tác tuyên truyền, giáo dục cho người dân. Một số cán bộ chưa gương mẫu,
chưa thực hiện đúng chủ trương của đảng và chính sách pháp luật của nhà nước



làm ảnh hưởng đến nhận thức, chưa thuyết phục với người dân. Khi áp dụn
phương pháp thuyết phục nhiều lúc còn mang tính cửa quyền, áp đặt. Phương
pháp thuyết phục là phương pháp được ưu tiên áp dụng nhưng khi áp dụng vẫn
còn một số điểm hạn chế. Hiệu quả của thuyết phục chưa cao dẫn đến việc áp
dụng phương pháp cưỡng chế là điều không tránh khỏi.
Việc áp dụng cưỡng chế chưa được đảm bảo được nguyên tắc bình đẳng của
công dân trước pháp luật. Một số cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp
luật. Một số cán bộ công chức nhà nước vi phạm pháp luật, thoái hóa, biến chất,
tham nhũng vẫn chưa được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.
Các chế tài được ban hành để áp dụng vẫn còn mang tính chung chung, không
rõ ràng.
Khi áp dụng cưỡng chế thì lại không thông báo cho đối tượng bị cưỡng chế
được rõ, dẫn đến lạm quyền gây bức xúc cho họ.
Quản lý hành chính nhà nước là quản lý theo chiều dọc, tức là cấp trên quản lý
cấp dưới. Việc phổ biến để cấp dưới phục tùng và nghe theo những mệnh lệnh
cấp trên phải trải qua nhiều giai đoạn. Nhiều khi mệnh lệnh đó một thời gian dài
mới đến được các cấp.


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP VÀ
PHƯƠNG PHÁP CƯỠNG CHẾ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ
Trong quản lý hành chính chúng ta thường bắt gặp và dễ dàng nhận thấy việc áp
dụng phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế là hết sức phổ biến.
Đặc biệt trong đời sống xã hội nước ta hiện nay, loại vi phạm pháp luật hành
chính xảy ra khá phổ biến. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành
chính thấp hơn so với vi phạm pháp luật dạng tội phạm, nhưng hành vi gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân cũng
như lợi ích chung cuat toàn xã hội đang diễn biến hết sức phức tạp. Vì vậy công

tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật hành chính luôn là vấn đề được


nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Trong thời gian gần đây chính phủ đã ban
hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật, điển hình và gần đây nhất là ngày
12/11/2013, chính phủ ban hành nghị định số 166/2012/NĐ-CP quy định về
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành
từ ngày 28/12/2013. Nghị định này quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính,
quyết định áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính
gây ra trong trường hợp không áp dụng xử phạt, trách nhiệm thi hành và bảo
đảm thi hành quyết định cưỡng chế, quy định về nguyên tắc cưỡng chế, các hình
thức cưỡng chế.
Phương pháp thuyết phục và phương pháp cưỡng chế là những phương pháp
được sử dụng phổ biến trong quản lý hành chính nhà nước vì nó có những đặc
tính ưu việt mà các phương pháp khác không có được. Để xem xét những đặc
tính ưu việt đó thì phải kể đến những thành quả mà nó mang lại trong quản lý
hành chính nhà nước.
Qua thực tiễn của quản lý hành chính nhà nước, chúng ta thấy những nhiệm vụ
và mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước chỉ có thể thực hiện được thông
qua ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người dân. Bởi vì sự tự giác thực
hiện bao giờ cũng mang lại những hiệu quả tốt hơn sự cưỡng chế, bắt buộc phải
thực hiện.
Việc đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe máy trong mấy năm trở về trước là điều
mà người dân khi tham gia giao thông ít quan tâm. Nhưng trong những năm trở
lại đây đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông là việc rất đáng quan tâm. Vì
tai nạn giao thông hằng năm không hề giảm, Việt Nam là một trong những nước
đứng đầu về tai nạn giao thông. Nhận thức được điều đó Quốc Hội đã ban hành
Luật giao thông đường bộ năm 2008, trong đó có quy định bắt buộc đội mũ bảo
hiểm khi đi mô tô, xe máy. Cho đến nay nhờ sự tuyên truyền, phổ biến, thuyết



phục của cơ quan các cấp, đội mũ bảo hiểm không còn là vấn đề xa lạ của
người tham gia giao thông và chấp hành một cách nghiêm túc.
Ngoài ra hiệu quả do phương pháp thuyết phục mang lại còn được thể hiện ở
chỗ, khi người dân đã nhận thức được sự cần thiết phải thực hiện các quy định
của pháp luật thì họ không chỉ tự giác chấp hành mà còn tham gia tích cực vào
các công tác của quản lý hành chính nhà nước, sáng tạo ra những cách làm hay,
mang lại nhiều hiệu quả thiết thực.
Chúng ta thấy rằng cưỡng chế nhà nước có vai trò rất quan trọng để đảm bảo
pháp chế và kỷ luật nhà nước. Bởi vì đất nước ta trong giai đoạn hiện nay vẫn
còn tội phạm và vi phạm pháp luật, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách
chống phá trật tự quản lý hành chính nhà nước của nước ta . Bên cạnh đó vẫn
còn bộ phận người dân chấp hành pháp luật kém, vẫn không tự giác chấp hành
các quy định của pháp luật. Chính vì vậy, trong hoạt động quản lý hành chính,
phương pháp cưỡng chế đã hạn chế trường hợp trên góp phần đảm bảo trật tự xã
hội. Sự tồn tại khách quan của cưỡng chế nhà nước đòi hỏi phải có một hệ thống
các cơ quan chức năng để thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Đó là các cơ quan
xét xử, các viện kiểm sát.
Trong thực tiễn quản lý, đôi khi phát sinh những sự kiện pháp lý hoặc những
tình huống bất ngờ đòi hỏi các cơ quan quản lý hành chính nhà nước cần có
những biện pháp khẩn cấp để khắc phục hậu quả, ngăn chặn những khả năng vi
phạm pháp luật, hoặc khôi phục lại những thiệt hại xảy ra. Vì mục đích đó, các
cơ quan hành chính nhà nước được quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để
đảm bảo thiết lập lại trật tự và xử lý các tình huống bất ngờ đã xảy ra. Theo quy
định của pháp Luật hành chính chúng được coi là những biện pháp cưỡng chế
hành chính. Ví dụ, khi có thiên tai, bão lụt, hoả hoạn, dịch bệnh, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (công an, Uỷ ban nhân dân) có quyền yêu cầu công



dân, các tổ chức xã hội phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định, hoặc phải rời
khỏi nơi đang xảy ra nguy hiểm.
2.1. Thực trạng áp dụng phương pháp thuyết phục trong quản lý hành chính
nhà nước trên địa bàn thành phố Huế.
Theo báo cáo của Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt Công an tỉnh
Thừa Thiên Huế, trong năm 2015, trên địa bàn tỉnh xảy ra 316 vụ Tai nạn giao
thông, làm chết 207 người, bị thương 240 người. So với cùng kỳ năm 2014,
giảm 3 vụ, 8 người chết. Trong đó, tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 295 vụ,
làm chết 194 người, bị thương 230 người (giảm 5 vụ, 5 người chết, 22 người bị
thương). Tai nạn giao thông đường sắt xảy ra 21 vụ, làm chết 13 người, bị
thương 10 người.
Tai nạn giao thông giảm là kết quả của việc thực hiện quyết liệt, đồng bộ các
giải pháp trọng tâm theo chủ đề. Trong đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông đến với người dân được đặc biệt chú
trọng.
Ngay từ đầu năm, Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt Công an tỉnh
và các địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền Luật Giao
thông đường bộ dưới nhiều hình thức. Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ,
đường sắt phối hợp với Uỷ ban nhân dân các xã, phường, thị trấn và các tổ
chức, trường học, doanh nghiệp tổ chức tuyên truyền rộng rãi Luật Giao thông
đường bộ; tổ chức cuộc thi tìm hiểu về Luật Giao thông đường bộ.
Ngoài ra, phối hợp với các cơ quan truyền thông xây dựng 68 phóng sự, 220
bản tin có liên quan đến tình hình trật tự an toan giao thông. Phối hợp với Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các cấp và các ban, ngành liên quan tổ chức
tuyên truyền pháp luật về trật tự an toàn giao thông tại các địa phương bằng các
hình thức như: panô, áp phích, tờ rơi, tờ gấp, cung cấp thông tin hoặc trực tiếp
viết tin bài về tình hình trật tự an toàn giao thông, tai nạn giao thông…



×