Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận hoạt động quan hệ công chúng (PR) trong bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.47 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Nội dung............................................................................................................................4

1


Lời mở đầu
Trên thế giới, ở bất kì quốc gia nào cũng đều có hệ thống bảo hiểm xã
hội (BHXH) nằm trong hệ thống chính sách của quốc gia đó. BHXH đóng vai
trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo đời sống cho người lao động, ốn
định sản xuất kinh doanh. Nhận thức được vai trò đó, ở Việt Nam, BHXH đã
và đang được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm để ngày càng hoàn
thiện. Tuy nhiên, không phải bất cứ người lao động hay chủ sử dụng lao động
nào cũng đều ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình khi tham gia
BHXH.
Tình hình triển khai BHXH ở Việt Nam hiện nay còn rất nhiều bất cập.
Việc trốn đóng phí BHXH còn diễn ra khá phổ biến, dù có hoạt động đầu tư
của quỹ BHXH nhưng hiệu quả lại không cao… Nguyên nhân sâu xa của
những tình trạng đó là do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của BHXH của
người tham gia cũng như chính nhân viên của BHXH. Những bất cập đó chỉ
có thể khắc phục được khi giáo dục đầy đủ nhận thức cho mọi người về trách
nhiệm và nghĩa vụ của họ cũng như tầm quan trọng và sự cần thiết của
BHXH. Để làm được điều đó cần phải một quá trình tuyên truyền vận động
lâu dài cả trong và ngoài cơ quan BHXH, đòi hỏi sự tham gia nhiệt tình của
cả người tham gia và nhân viên BHXH nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau giữa họ.
Bên cạnh đó, BHXH Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức:
số lượng người tham gia BHXH ngày càng đông, cạnh tranh của nhiều các
lĩnh vực bảo hiểm thương mại trong việc cung cấp các sản phẩm có tính chất
giống BHXH,… Những thách thức đó đòi hỏi cần phải cải cách, đổi mới
BHXH để phù hợp với bối cảnh Việt Nam hiện nay.


Và hoạt động quan hệ công chúng ( public relation - PR ) là một hoạt
2


động thiết thực và hiệu quả nhất.
Tuy vậy, hiện nay ở Việt Nam, cơ quan hành chính sự nghiệp nói chung
và cơ quan BHXH nói riêng đều chưa nhận thức được vai trò của hoạt PR.
Một mặt, do tàn dư của cơ chế bao cấp, mặt khác do PR còn là vấn đề khá
mới mẻ ở Việt Nam . Bởi vậy, dù có rất nhiều cải cách hành chính trong
những năm gần đây nhưng hiệu quả hoạt động của những cơ quan này vẫn
chưa cao.
Thông qua đề án “Hoạt động quan hệ công chúng (PR) trong BHXH”,
em hi vọng kết hợp được tình hình thực tế về triền khai BHXH ở Việt Nam và
trên thế giới cũng như những kiến thức, lý luận tiếp thu trên giảng đường để
có thể phân tích và đề ra một vài giải pháp trong hoạt động PR của BHXH.

3


Nội dung
I. Tổng quan về hoạt động quan hệ công chúng
(public relation - PR)
1. Khái quát chung về PR.
Hoạt động quan hệ công chúng là một hoạt động rất mới mẻ trong các
cơ quan, doanh nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là trong các cơ quan hành chính
sự nghiệp. PR liên quan đến tất cả các tổ chức, thương mại hay phi thương
mại. Nó tồn tại cho dù chúng ta có muốn hay không, nói cách khác, nó không
thuộc quyết định của chúng ta. PR bao gồm tất cả hoạt động giao tiếp với mọi
người mà tổ chức liên hệ. Mọi cá nhân trong xa hội đều sử dụng PR, trừ khi
họ bị cách ly hoàn toàn và không có liên hệ với con người.

Mặc dù PR còn khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng trên thực tế, PR đã ra
đời từ rất sớm. Ngay từ thời cổ đại, các nhà truyền đạo đã đi khắp mọi nơi để
tuyên truyền về đạo giáo nhằm thu hút thêm số lượng người tham gia. Đến
năm 1809,việc Bộ Tài chính Anh đã bổ nhiệm một phát ngôn viên báo chí đã
đánh dấu sự ra đời của PR hiện đại.
Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa về PR, trong số đó có 3 định nghĩa
được chấp nhân trên phạm vi quốc tế và quen thuộc với các chuyên giaPR:
- Theo viện Quan hệ công chúng Anh Quốc: “PR là nỗ lực lên kế hoạch
và kéo dài liên tục để thiết lập và duy trì sự tín nhiệm và hiểu biết lẫn nhau
của tổ chức và công chúng.”
- Theo tác giả Frank Jefkins ( tác giả của cuốn Public Relation –
Framework do Financial Times xuất bản): “PR bao gồm tất cả các hinh thức
giao tiếp đã được lên kế hoạch, cả bên trong và ngoài tổ chức, giữa một tổ
chức hay công chúng của nó nhằm đạt được mục tiêu cụ thể liên quan đến sự
hiểu biết lẫn nhau.”
4


- Trong một cuôc họp giữa các viện sĩ thông tấn PR đến từ nhiều nước,
diễn ra ở thành phố Mê-xi-cô tháng 8 năm 1978, mọi người đã tán đồng lời
phát biểu sau: “PR là một môn khoa học xã hội và nghệ thuật phân tích những
xu hướng, dự đoán những kết quả, tư vấn cho các nhà lãnh đạo của tổ chức,
và thực hiện các chương trình hành động đã được lập kế hoạch để phục vụ
quyền lợi của cả tổ chức và công chúng.”
Tuy mỗi định nghĩa được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng
đều hướng đến việc là làm tăng sợ hiểu biết lẫn nhau giữa tổ chức và công
chúng của mình.
Trong bối cảnh của nước ta hiện nay, PR trong BHXH được nhấn mạnh
rõ là mối quan hệ giữa cơ quan BHXH với người tham gia bảo hiểm, người
thụ hưởng quyền lợi BH.

2. Phân biệt PR và quảng cáo.
Vì PR là hoạt động rất rộng, liên quan đến tất cả mọi hoạt động của tổ
chức, do đó, mọi người dễ hiểu nhầm PR với một vài hoạt động khác như:
tiếp thị, quảng cáo, truyền thông,… Trong khuôn khổ của bài viết này, em chỉ
xin đưa ra một vài sự phân biệt giữa PR và quảng cáo.
Viện những người hoạt động trong ngành quảng cáo của Anh đưa ra một
định nghĩa như sau về quảng cáo: “ Quảng cáo trình bày thông điệp bán
thuyết phục và hợp lý nhất cho những khách hàng tương lai để có thể bán sản
phẩm hay dịch vụ với mức giá thấp nhất có thể .”
Theo định nghĩa này, “ Quảng cáo trình bày thông điệp bán thuyết phục
và hợp lý nhất ” thông qua những kỹ năng sáng tạo trong việc viết lời quảng
cáo, minh họa, bố trí, trình bày bản in, viết bản thảo và làm video dựa trên
một chủ đề hay việc chọn phương tiện truyền thông để thực hiện. Trọng tâm
được đặt lên việc bán, khác biệt với vai trò của PR là cung cấp thông tin, giáo
dục và tạo sự hiểu biết thông qua kiến thức. Một chương trình quảng cáo sẽ
có nhiều khả năng thành công hơn nếu trước đó có hoạt động PR hỗ trợ cung
cấp kiến thức cho khách hàng tiềm năng về sản phẩm hay dịch vụ đang được
5


quảng cáo. Nó thực tế và đúng đắn hơn việc chỉ đơn thuần chỉ dựa vào quảng
cáo để tiến vào thị trường mới hoặc giới thiệu một sản phẩm hay dịch vụ mới
chưa được biết đến.
PR là một hoạt động có tầm bao quát hơn quảng cáo. PR liên quan đến
toàn bộ việc giao tiếp trong tổ chức, trong khi quảng cáo chủ yếu chỉ giới hạn
trong chức năng tiếp thị ( với một số ngoại lệ nhỏ như: quảng cáo tuyển chọn
nhân vên hay thu hút tài chính ) mặc dù quảng cáo tốn nhiều chi phí hơn PR.
Hơn nữa, một vài tổ chức có thể không dùng đén quảng cáo nhưng ít nhiều
đều liên quan đến PR. Ví dụ, một đội chữa cháy không thể quảng cáo cho các
đám cháy hay thậm chí cho các dịch vụ của họ, nhưng chắc chắn có mối liên

hệ nhiều với công chúng.
Một điểm khác biệt nữa giữa PR và quảng cáo là vấn đề tài chính. Thu
nhập của các công ty quảng cáo chủ yếu từ phí hoa hồng thu được từ các công
ty truyền thông nhận phat sóng quảng cáo. Trong khi đó, các công ty PR chỉ
có thể bán thời gian và chuyên môn, về tiền công được tính theo số lượng
dịch vụ cung cấp.
Mặc dù theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, quảng cáo thoái vị
và PR lên ngôi và dù cho PR có nhiều điểm ưu việt hơn nhưng không có
nghĩa phải dần xoá bỏ quảng cáo, thực hiện PR mà cần phải kết hợp ưu điểm
của hai hoạt động đó để có kết quả tốt nhất.
3. Sự cần thiết của hoạt động PR trong BHXH.
PR trong BHXH là hoạt động nhằm tăng cường mối hiểu biết lẫn nhau
giữa người tham gia, người thị hưởng nói riêng và công chúng nói chung với
cơ quan BHXH. Mặc dù là một cơ quan quan hành chính nhà nước nhưng để
nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thì cơ quan BHXH phải sử dụng PR
nhằm tuyên truyền và giáo dục nhận thức cho mọi người. Bởi vì:
Thứ nhất, do vai trò rất quan trọng của BHXH trong đời sống. BHXH đã
6


được Đảng và nhà nước ta xác định là một trong những chính sách trọng yếu
của quốc gia vì:
• Người lao động nói chung không thể tránh khỏi việc gặp phải những
biến cố làm giảm hoặc mất một phần hay toàn bộ khả năng lao động. Các biến
cố người lao động gặp phải bao gồm ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, sinh đẻ,…hoặc trường hợp giảm khả năng lao động là
chắc chắn xảy ra khi con người hết tuổi lao động. BHXH là sự đảm bảo thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những
biến cố đó, là chỗ dựa tinh thần cho người lao động.
• Khi người lao động gặp phải những biến cố nêu trên, hoạt động của

các cơ quan, doanh nghiệp sẽ bị gián đoạn, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
của đơn vị nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Nếu những biến cố như
thất nghiệp mà kéo dài sẽ gây tâm lý chán nản cho người lao động nên gây
nên những bất ổn trong xã hội như: tệ nạn xã hội gia tăng,… Bởi vậy, BHXH
ra đời góp phần ổn định sản xuất, đảm bảo an toàn cho xã hội.
Thứ hai, do vai trò của việc giáo dục và tuyên truyền nhận thức trong
BHXH:
• Mặc dù, BHXH là một trong những chính sách quan trọng nhất của
quốc gia nhưng nhận thức của người dân còn rất hạn chế. Nhiều người tham
gia BHXH mới chỉ thấy được đó là nghĩa vụ nhưng chưa hiểu rằng đó cũng là
trách nhiệm của mình. Điều đó dễ gây tâm lý hiểu nhầm cũng như ức chế cho
người tham gia. Bởi vậy, việc nâng cao nhận thức cho người dân về BHXH là
điều rất quan trọng để hệ thống BHXH ngày càng hoàn thiện hơn.
• BHXH là một chính sách xã hội của nhà nước. Để quản lý xã hội thực
sự hiệu quả, Nhà nước cần phải thực hiện tốt việc tuyên truyền các chính sách
đến mọi người dân. Do vậy, tuyên truyền có vai trò rất lớn trong việc nâgn
cao hiểu biết của người dân về các đường lối chính sách của nhà nước.
7


• Mỗi người dân trong xã hội đều có quyền tự do dân chủ. Việc tham
gia BHXH là thể hiện một phần quyền lợi đó. Như chúng ta đã biết, để đảm
bảo tính công bằng và dân chủ trong việc thực hiện chính sách BHXH, quỹ
BHXH do cả Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động đóng góp.
Tham gia BHXH, người lao động được hỗ trợ một phần thu nhập chính đáng
của mình khi bị giảm hoặc không còn khả năng lao động.

II. Hoạt động “quan hệ công chúng” trong Bảo hiểm xã hội.
1. Các phương tiện để hoạt động PR.
1.1. Thiết kế mẫu đơn, áp phích và tờ rơi.

a. Mẫu đơn.
Ngày nay, trong việc quản lý Bảo hiểm xã hội, nhìn chung có rất nhiều
tình huống liên quan đến số lượng rất lớn người tham gia và người thụ hưởng
bảo hiểm. Thông thường những tình huống này có thể dẫn đến việc tạo rất
nhiều những cách giao tiếp chuẩn mực để tìm hiểu về các nhu cầu của người
tham gia và người thụ hưởng. Những cách thức giao tiếp như vậy được gọi là
“mẫu đơn” và mỗi đơn đều có những mục đích nhất định.Tuỳ vào từng trường
hợp cụ thể mà người ta sẽ sử dụng mẫu đơn nào phù hợp nhất với mục đích
của cơ quan. Các mẫu đơn không chỉ đơn thuần là những mẫu đơn bảo hiểm
liên quan đến người tham gia và người đóng phí mà mỗi cơ quan BHXH còn
thiết kế những mẫu đơn chỉ dùng cho việc quản lý nội bộ như: các đơn dùng
cho hoạt động quản lý nhân sự, hoạt động tài chính,.... Những mẫu đơn này sẽ
chỉ được sử dụng trong pham vi cơ quan đó.
Thiết kế những mẫu đơn bảo hiểm là công việc đầy khó khăn, bởi vì
luôn tồn tại những nhu cầu trái ngược nhau. Đối với người nhận, các mẫu đơn
phải thật sự rõ ràng và dễ hiểu, nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo tính pháp
8


lý và tránh gây thắc mắc, hiểu nhầm. Nói một cách văn hoa hơn, chúng phải
“thân thiện” với khách hàng, không được xa lạ với người đọc nhưng cũng
phải thể hiện phong cách của cơ quan bảo hiểm. Nhưng rất khó khăn để đạt
được sự cân bằng đó.
Và sẽ còn khó khăn hơn nữa khi mà các nhân viên phát hành các mẫu
đơn nhưng lại gặp phải sự thiếu quan tâm của người nhận. Thực tế có những
mẫu đơn được thiết kế đặc biệt chỉ để thu thập thông tin cần thiết. Những mẫu
đơn này thường là tập hợp những câu hỏi in sẵn và người tham gia đóng phí
sẽ trả lời những câu hỏi đó. Nếu như nhân viên của cơ quan BHXH phạm sai
lầm khi xoá đi những câu hỏi đã được trả lời đó, không những sẽ gây ấn
tượng xấu đối với người nhận đơn mà còn khẳng định rõ rằng mẫu đơn này đã

được thiết kế không cẩn thận. Điều đó sẽ làm giảm trầm trọng uy tín của cơ
quan BHXH, tức là sẽ làm giảm niềm tin của người lao động cũng như người
sử dụng lao động đối với BHXH.
Trên thực tế, để phân biệt giữa các mẫu đơn và để làm cho việc giải
quyết, in ấn, lưu giữ,… được dễ dàng hơn, mỗi mẫu đơn nên có những kí hiệu
nhất định. Những kí hiệu này có thể nên được bắt đầu bằng những chữ cái A,
B, C…và sẽ dễ dàng hơn nếu những kí hiệu đó là viết tắt tên của các mẫu
đơn. Ví dụ, đối với những mẫu đơn liên quan đến việc đóng phí thì sẽ kí hiệu
là CF ( viết tắt của Contribution Form ), những đơn liên quan đến việc xét thụ
hưởng thì kí hiệu là BF (viết tắt của Benefit Form ). Hoặc đối với những đơn
được dùng nội bộ như: đơn liên quan đến vấn đề nhân sự sẽ kí hiệu là Per
( viết tắt của Personnel ), những đơn liên quan đến hoạt động tài chính thì kí
hiệu là F ( viết tắt của Finance ).
Hầu hết các yêu cầu quản lý dù là đối nội hay đối ngoại đều cần đến các
mẫu đơn và chúng được ghi lại trên các giấy tờ liên quan, không những để ghi
lại những hoạt động, sự việc đã diễn ra mà còn ghi những sự việc sau đó nữa.
9


Khi thiết kế những mẫu đơn mới thường gặp rất hiều khó khăn. Những
khó khăn này có thể sẽ làm giảm đi sự quan tâm đối với công chúng. Nhưng
không phải vì thế mà hoạt động quan hệ công chúng không được quan tâm.
b. Áp phích.
Theo từ điển chuyên ngành, “Áp phích là tấm biển chứa đựng thông tin
và được trưng bày ở những nơi công cộng”. Và thông tin phải được thể hiện
một cách đơn giản.
Nhiệm vụ đầu tiên của bất kỳ tấm áp phích nào chính là thông báo thông
tin để đảm bảo rằng thông tin đưa ra là thích hợp và được hiểu một cách dễ
dàng và nhanh chóng. Hơn thế nữa, chúng phải được “trưng bày ở những nơi
công cộng”, nhưng những nơi này phải là những nơi tập trung những người

đóng phí và thụ hưởng mục tiêu. Ví dụ, những áp phích nói đến chế độ thai
sản thì đối tượng tiếp cận ở đây là phụ nữ mang thai, nên nếu được trưng bày
ở viện lão khoa thì sẽ không thu hút được nhiều sự chú ý. Tương tự, một áp
phích liên quan đến chế độ hưu, có đối tượng mục tiêu là những người về hưu
thì không thể được trưng bày ở bênh viện nhi. Như vậy, rõ ràng rằng,vị trí
trưng bày của một tấm áp phích cũng quan trọng không kém việc thiết kế, lựa
chọn ngôn từ, cách thức trình bày của nó.
Và một điều cũng thật sự quan trọng đó là một tấm áp phích của cơ quan
BHXH phải được dễ dang nhận ra. Để làm được điều đó, người thiết kế phải
quan tâm đến việc sử dụng logo, cách phối màu và hinh nền làm sao cho công
chúng có thể nhận biết ngay.
Mặc dù tham gia BHXH là nghĩa vụ của bất cứ người lao động nào
nhưng để làm cho họ nhận thức đúng đắn hơn thì áp phích của cơ quan
BHXH cũng phải “cạnh tranh” với hàng loạt các áp phích của rất nhiều những
lĩnh vực khác nữa. Chúng phải thu hút được sự chú ý của người đọc và cũng
10


phải thành công trong việc chuyển tải thông tin.
Thiết kế áp phích có thể là công việc của bộ phận “quan hệ công
chúng”. Đối với một vài cơ quan BHXH lớn sẽ có những người thiết kế
chuyên biệt, còn những cơ quan BHXH nhỏ hơn có thể thuê những công ty tư
vấn thiết kế hoặc các công ty quảng cáo. Dù sắp xếp thế nào, điều quan trọng
là các áp phích phải được thiết kế phù hợp, có sức thuyết phục, thể hiện được
nỗ lực của cơ quan BHXH trong việc truyền tải thông tin đến người đóng góp
và người thụ hưởng.
c. Tờ rơi.
Tờ rơi được hiểu một cách khái quát nhất là những mảnh giấy nhỏ hoặc
những tờ giấy gấp, trong đó có những thông tin in sẵn, được sử dụng trong
trường hợp cơ quan BHXH cung cấp những thông tin liên quan đến các vấn

đề BHXH. Những cơ quan BHXH lớn luôn có hàng loạt các loại tờ rơi đề cập
đến hầu hết các vấn đề BHXH.
Như đã trình bày phần trên, việc thiết kế và tạo ra các mẫu đơn là rất
quan trọng. Đó luôn là mối quan tâm lớn của các cơ quan BHXH. Và việc
thiết kế các tờ rơi cũng cần có sự quan tâm lớn như vậy. Tờ rơi phải được chú
trọng và được thiết kế cẩn thận, phải nêu bật được những mục đích cụ thể, rõ
ràng. Một nhân tố hết sức quan trọng của mục đích thiết kế đó là nhận thức về
những nhu cầu của những nhóm người khác nhau khi truyền đạt thông tin. Ví
dụ, người sử dụng lao động khi tiếp nhận cũng một tờ rơi dùng để cung cấp
thông tin về tỉ lệ đóng phí BHXH cho người lao động cũng sẽ hiểu theo
những cách khác nhau.
Nội dung của tờ rơi sẽ dễ hiểu hơn nếu trong mỗi tờ rơi có chứa đựng
những hình ảnh minh hoạ cũng như những lời giải thích rõ ràng. Ngôn ngữ
được sử dụng trong tờ rơi phải “đơn giản và dễ hiểu”, không nên mang tính kĩ
11


thuật, tính pháp lý phức tạp, nên tránh sử dụng những từ ngữ mang tính công
văn. Chúng ta luôn phải nhớ rằng, mục đích ở đây là cung cấp cho người đọc
về những thông tin mà họ cần biết hoặc là những chỉ dẫn mà họ phải làm
theo. Những thông tin hay chỉ dẫn đó phải được hiểu một cách rõ ràng hơn
sau khi chúng được truyền tải đến người đọc, không được gây sự thắc mắc,
bối rối.
Thực tế hiện nay cho thấy, thành phần tham gia BHXH rất đa dạng, đến
từ nhiều dân tộc, vùng miền khác nhau. Bởi vậy, tờ rơi nên được thiết kế bằng
nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ, cơ quan BHXH ở một nước Châu Âu, ngôn
ngữ trong tờ rơi cũng phải rất đa dạng, bên cạnh ngôn ngữ chính là tiếng mẹ
đẻ, còn có tiếng Ả rập, tiếng Trung Quốc, tiếng Hi Lạp, tiếng Rumani, tiếng
Việt Nam…
Nhìn chung ở một mức nào đó, những cơ quan BHXH lớn có thể có

những bộ phận chuyên trách về thiết kế mẫu đơn, áp phích, và tờ rơi. Nếu cơ
quan đó quá nhỏ thì điều đó có thể không cần thiết vì có thể làm lãng phí
nguồn lực tài chính. Tuy nhiên, việc thiết kế là không thể không có, bởi vậy,
tốt hơn hết, những cơ quan này nên thuê các công ty chuyên về quan hệ công
chúng có uy tín hay những chuyên gia trong lĩnh vực này.
Chúng ta không thể thấy hết được giá trị của những mẫu đơn, áp phích
và tờ rơi khi chúng được thiết kế tốt. Chúng có thể làm cho người đóng góp,
người thụ hưởng và công chúng nói chung nhận thức và hiểu rõ hơn về vấn đề
đóng phí. Sự nhận thức đúng của công chúng cũng quan trọng như việc đề
cao hình ảnh của cơ quan BHXH.

12


1.2. Hoạt động truyền thông.
Có thể khẳng định rằng, báo, tạp chí, truyền thanh, truyền hình, các tờ
chuyên đề… theo những cách khác nhau đều đóng một phần quan trọng đối
với toàn bộ hoạt động quan hệ công chúng của cơ quan BHXH.Mỗi phương
tiện đều có những mặt thuận lợi và những mặt hạn chế nhất định và chúng cần
được đành giá một cách cẩn thận. Không có một phương tiện đơn lẻ nào có
thể đáp ứng được tất cả những nhu cầu của cơ quan BHXH về những cố gắng
trong hoạt động quan hệ công chúng. tất cả những nhu cầu đó chỉ có thể đạt
được khi có sự xem xét cẩn thận và sự kết hợp cân bằng giữa các phương tiện
đó để phát huy tối đa mặt mạnh của mỗi phương tiện.
Hầu hết các cơ quan BHXH đều ít nhất một lần gây “ấn tượng không
tốt” đối với công chúng, đây chính là lúc cần phải đưa ra những “câu trả lời”
thích hợp. Những câu trả lời này là những phản ứng cần thiết và là một phần
tất yếu trong mối quan hệ với công chúng của cơ quan BHXH. Tuy nhiên, để
làm được điều đó thì cần phải phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông
với ưu thế vượt trội là sự tiếp cận tiên phong đối với đông đảo các tầng lớp

nhân dân.
Trong thời đại công nghệ thông tin, việc xây dựng phát triển hên thống
cơ quan quan truyền thông từ cấp trung ương đến đại phương là một điều tất
yếu. Nhận thức được vai trò quan trọng của thông tin, vệc xây dựng mối quan
hệ gắn bó khăn khít với các cơ quan truyền thông là một vấn đề không chỉ cơ
quan BHXH mà mọi cơ quan, mọi thành phần kinh tế, mọi ngành nghề đều
quan tâm. Bởi vậy, mỗi cơ quan BH nói chung và cơ quan BHXH nói riêng
cần phải xây dựng cho mình hệ thống chính sách, chiến lược để phát triển mối
quan hệ.

13


a. Truyền thông qua phương tiện báo chí.
Mỗi tờ báo và tạp chí đều có những mục như: Ý kiến bạn đọc, đường
dây nóng,…dành riêng cho độc giả. Tại đây ghi nhận những ý kiến phản hồi
của độc giả về các vấn đề BHXH. Việc xây dựng mối quan hệ tốt với các cơ
quan báo chí có thể giúp cơ quan BHXH hạn chế những luồng thông tin
không có lợi và không đúng sự thật.
Không chỉ là kênh ghi nhận những ý kiến phản hồi của độc giả, báo chí
còn là nơi để truyền tải nhưng thông tin quan trọng liên quan đến sự thay đổi
trong chính sách, hoạt động của cơ quan BHXH cũng như quyền lợi và nghĩa
vụ của các bên tham gia. Các thông tin này nên được đăng tải thường xuyên
thành một chuyên mục riêng trên các tờ báo. Hàng tuần hoặc hàng tháng sẽ có
những bài báo bàn về một vấn đề nhất định một cách chi tiết, cụ thể. Ví dụ,
khi truyền tải thông tin về mức hưởng trợ cấp BHXH, cần phải nêu rõ: chi trả
bằng cách nào? phải có những điều kiện gì? Chi trả bao nhiêu?…
b. Truyền thông qua truyền hình.
Hiện nay, ở rất nhiều nước, ti vi đã trở thành một phương tiện truyền
thông phổ biến. Phần lớn các hộ gia đình đều có ti vi, và nó đã trở thành một

phương tiện hữu ích trong việc truyền tải thông tin và giáo dục nhận thức của
người xem về các vấn đề BHXH. Thông qua các chương trình quảng cáo, các
bản tin và các chương trình chuyên đề, thông tin có thể được truyên tải một
cách nhanh chóng và hiệu quả của việc giáo dục nhận thức cũng cao hơn.
Hiệu quả sẽ càng cao hơn nếu những thông tin này được phát ngay trước hoặc
sau một chương trình quan trọng, khi đó sẽ thu hút được một số lượng người
xem lớn nhất có thể. Tuy vậy, vẫn còn một vài quốc gia và vùng lãnh thổ đời
sống của người dân còn gặp nhiều khó nhăn. Nhìn chung, chỉ có những gia
đình giàu có điều kiện để mua máy thu sóng truyền hình, như vậy truyền hình
14


sẽ trở nên ít hữu ích vì chỉ có một số lượng người xem rất ít tiếp cận được với
truyền hình, và những người này có thể sẽ ít quan tâm và ít có nhu cầu về
BHXH.
c. Truyền thông qua truyền thanh.
Ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới, cũng như truyền hình và báo
chí, truyền thanh là một trong những phương tiện truyền thông hữu ích, thậm
chí số người nghe đài còn nhiều hơn số người xem truyền hình và đọc báo.
Ngay cả ở những nước phát triển, truyền thanh cũng đóng vai trò rất quan
trọng. Bởi vì, báo chí và truyền hình chỉ phát triển ở những vùng có trình độ
dân trí cao như thủ đô hay các đô thị lớn nhưng truyền thanh có thể xuất hiện
ở nhiều nơi hơn, thậm chí là cả những vùng xa xôi hẻo lánh. Không những
thế, ở những nước nghèo nhất trên thế giới, truyền thanh còn lại tài sản công
cộng, là phương tiện truyền tải thông tin có tính kinh tế nhất. Ngày nay, khoa
học đã rất phát triển, xuất hiện những máy truyền thanh hiện đại hơn, thay thế
cho máy chạy bằng điện hoặc bằng pin cổ điển. Nhờ đó mà phương tiện
truyền thanh càng phổ biến hơn. Thực tế cho thấy rằng, ngay cả những người
không biết đọc, biết viết cũng có thể nắm bắt được thông tin thông qua nghe
đài. Với những công dụng đó, truyền thanh đã trở thành một phương tiện

truyền thông vô cùng hữu hiệu trong việc truyền tải thông tin nói chung, các
vấn đề BHXH nói riêng, tới phần đông dân cư.
Để ngày càng thu hút nhiều người nghe hơn nữa, các chương trình
truyền thanh cung như truyền hình nên được phát sóng theo những giờ cố
định, tạo điều kiện cho họ dễ dàng nắm bắt thông tin.
d. Mối quan hệ với các cơ quan truyền thông.
Qua nhưng phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rõ rằng, các phương
tiện truyền thông đóng một vao trò vô cùng quan trọng. Bởi vậy, các cơ quan
15


BHXH các cấp phải coi trọng việc tạo lập mối quan hệ cộng tác với các cơ
quan truyền thông để nhận được sự ủng hộ tối đa của họ. Các cơ quan BHXH
nên duy trì mối quan hệ này ở một mức độ cao nhưng không phải sử dụng
mọi cách thức. Tuy nhiên, mỗi bên cần tôn trọng những vấn đề cá nhân của
nhau. Cơ quan BHXH phải tránh tiết lộ những thông tin bí mật của người
tham gia, đồng thời các cơ quan truyền thông cũng phải xem xét nguồn gốc
của mọi thông tin được tiếp nhận, chỉ đăng tải thông tin khi được sự đồng ý
của cơ quan BHXH.
Tất cả những nỗ lực đó đều nhằm mục đích cuối cùng là nhân được sự
ủng hộ của người lao động, người sử dụng lao động để họ có nhân thức sâu
sắc hơn về trách nhiệm và quyền lựi của họ khi tham gia BHXH.
2. Các phương thức trong hoạt động PR.
2.1. Hoạt động quảng cáo.
Ngày nay, không chỉ có các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mới có
hoạt động quảng cáo mà các cơ quan, tổ chức trong và ngoài quốc doanh nói
chung, cơ quan BHXH nói riêng đều đem quảng cáo vào trong hoạt động của
mình. Sự khác nhau duy nhất giữa hoạt động quảng cáo của cơ quan BHXH
so với các doanh nghiệp sản xuất khác chính là họ không quảng cáo cho sản
phẩm để bán cho khách hàng mà họ quảng cáo để giáo dục nhận thức và

truyền tải thông tin cho người tham gia.
Nhìn chung, quảng cáo là một hoạt động thường xuyên và liên tục,
nhưng những chiến dịch quảng cáo lớn lại là hình thức vô cùng hữu hiệu đối
với những hoạt động quan hệ công chúng. Những chiến dịch này nếu được tổ
chức tốt thì sẽ đạt đượ hiệu quả rất cao trong việc giới thiệu những vấn đề
BHXH mới, những thay đổi lớn liên quan đến tỉ lệ đóng phí và tỉ lệ thụ hưởng
hay đơn giản là chỉ để giới thiệu những vấn đề đã có.
16


Để đạt được hiệu quả cao nhất trong quảng cáo, việc đầu tiên là phải
chọn lựa những phương tiện truyền thông thích hợp, như: báo, tạp chí, truyền
thanh, truyền hình…và cuối cùng là lựa chọn địa điểm để đặt các tấm biển
quảng cáo, đăng tải thông tin nhằm đạt được mục đích của quảng cáo là thu
hút được lượng người xem nhiều nhất có thể.
Có rất nhiều địa điểm thuận lợi để đặt biển quảng cáo, đăng tải thông tin
như: panô quảng cáo, các kênh trưng bày quảng cáo công cộng, các bảng
thông báo…hay báo chí, truyền thanh, truyền hình…Mặc dù những địa điểm
như thế là không nhiều, nhưng BHXH lại có thuận lợi là một chính sách xã
hội quốc gia nên nhận được sự hỗ trợ rất lớn của các cơ quan, ban nghành. Và
càng tìm kiếm được nhiều địa điểm thì hiệu quả sẽ càng cao.
Trong hoạt động quảng cáo nói chung đều cần phải có sự sáng tạo để tạo
nên những ấn tượng có sức thu hút. Quảng cáo trong BHXH cũng vậy. Tuy
nhiên, hoạt động quan hệ công chúng nói chung và quảng cáo nói riêng đều
không được tách rời mục đích truyền tải thông tin và giáo dục nhận thức cho
người tham gia BHXH.
2.2. Chiến dịch quảng bá thông tin.
Đối với cơ quan BHXH, việc lựa chọn các phương tiện truyền thông là
một phần quan trọng của hoạt động quan hệ công chúng. Nhưng đây không
phải là cách duy nhất để phổ biến kiến thức BHXH đến mọi người. Việc thực

hiện một chiến dịch thông tin cũng là một là một cách thức không kém phần
quan trọng.
Do các vấn đề liên quan đến BHXH luôn luôn biến động để phù hợp với
tình hình trong từng thời kì nên luôn xuất hiện những sự thay đổi về các vấn
đề đóng phí, thụ hưởng, các hình thức tham gia mới. Truyền thông đã là một
kênh rất tốt để truyền tải những thông tin. Bên cạnh đó, cần phải có một chiến
17


dịch thông tin đễ hỗ trợ cho việc truyền thông. Tuy vậy, hiệu quả của việc
truyền tải thông nói riêng, hiệu quả của hoạt động BHXH nói chung sẽ được
tăng lên khi có sự tham gia của các cá nhân, các cơ quan từ cấp trung ương
đến địa phương, như: công đoàn, người sử dụng lao động, các hiệp hội và
những cơ quan khác.
Các chiến dịch thông tin phải được tổ chức chặt chẽ, thiết kế phù hợp và
phải được quan tâm một cách xứng đáng. Thông tin phải được truyền tải đầy
đủ, chính xác, công tác đào tạo nhân viên trong chiến dịch phải được thực
hiện nghiêm túc để phát huy tối đa năng lực và vai trò của họ. Song song với
đó, đội ngũ nhân viên của BHXH cũng phải nhân thức đầy đủ trách nhiêm và
nghĩa vụ của mình để có thể giải đáp được mọi thắc mắc của người tham gia
và của phần đa công chúng.
Một chiến dịch thông tin hiệu quả không chỉ thành công trong việc
truyền tải thông tin và giáo dục nhận thức cho mà còn tạo ấn tượng rất tốt cho
người đóng phí và người thụ hưởng. Từ đó tạo sự tin tưởng vào cơ quan
BHXH cho người tham gia nói riêng và cho công chúng nói chung.
2.3. Bàn tư vấn.
“Bàn tư vấn” là một cách tiếp cận khác với công chúng, là nơi mà nhân
viên của cơ quan BHXH có thể tiếp cận trực tiếp với công chúng, hình thức
này đặc biệt rất phổ biến ở cấp địa phương. “Bàn tư vấn” có thể đặt ở bất cứ
nơi đâu miễn là ở đó có rất nhiều người qua lại và thường là những nơi công

cộng. Những nơi đó có thể là chợ, siêu thị, thư viện, trường học, lễ tân của
bệnh viện địa phương, hay trung tâm triển lãm, thậm chí là ở ga tàu, bến đỗ
xe, phòng đợi máy bay…
Nhìn chung, trong thực tế , “bàn tư vấn” thường chỉ mang tính tạm thời,
với cơ sở vật chất và con người hết sức đơn giản. Chỉ cần một đến hai nhân
18


viên hiểu biết, có kinh nghiệm, nhiệt tình, cùng với một bộ bàn ghế đơn giản
kèm theo một bảng thông tin và tờ rơi với những thông tin cần thiết có thể
hình thành nên một bàn tư vấn ở mọi lúc, mọi nơi. Đây là một cách thức đơn
giản, dễ thực hiện trong việc truyền tải thông tin đến đại đa số dân chúng,
những người đại diện cho người tham gia và người thụ hưởng. Đặc biệt cách
thức này hết sức hữu ích trong việc phục vụ công chúng của cơ quan BHXH.
Ngay cả với những người không tự nguyện đến các cơ quan BHXH địa
phương để tìm hiểu thông tin thì “bàn tư vấn” đóng vai trò hết sức quan trọng.
Để nâng cao hơn nữa nhận thức của công chúng, một vài cơ quan
BHXH còn phát triển hơn hình thức này bằng cách trang bị thêm các phương
tiện cung cấp thông tin di động. Người ta có thể trang bị thêm những bức hình
minh hoạ hay sử dụng xe ô tô để phân phát tờ rơi qua nơi này đến nơi khác, từ
ngày này đến ngày khác vào một giờ cố định. Điều này đặc biệt rất có ích đối
cới những người không có điều kiện đi ra ngoài nhiều hoặc ít có cơ hội để liên
hệ với cơ quan BHXH. Tuy nhiên, trên thực tế, không nhiều cơ quan có thể
đáp ứng được như vậy nhưng họ vẫn có thể tận dụng được của những cơ quan
khác như: thư viện, phòng khám,…
Đôi khi, việc truyền tải thông tin của cơ quan BHXH đến công chúng
gặp phải những khó khăn, vướng mắc mà qua các phương tiện truyền thông
hay quảng cáo đôi khi không hoặc khó giải quyết.“Bàn tư vấn” là một cách
thức đầy tính sáng tạo nhưng đơn giản, dễ thực hiện và rất hiệu quả.
2.4. Phát hành nội bộ.

Phát hành nội bộ là việc phát hành những ấn phẩm nội bộ nhằm mục
đích cung cấp một cách đầy đủ nhất thông tin cho nhân viên về hoạt động của
cơ quan, doanh nghiệp nói chung hay cơ quan BHXH nói riêng. Đôi khi
chúng được hiểu đơn giản là một tờ tạp chí hay chuyên đề nội bộ. Những ấn
phẩm đó đóng vai trò rất quan trọng trong việc cập nhật cho nhân viên về
19


những sự phát triển, thay đổi đang diễn ra trong cơ quan mình.
Ở những cơ quan BHXH lớn thường có các bộ phận chuyên sâu về từng
lĩnh vực như: quá trình thụ hưởng, quá trình kiểm tra và ghi nhận việc chuyển
tiền đóng phí của người tham gia, liên hệ thường xuyên với khách hang,…sẽ
có từng bộ phận phụ trách. Bởi vậy, nhân viên của bộ phận này có thể sẽ
không biết rõ về hoạt động của bộ phận khác. Điếu đó sẽ gây rất nhiều khó
khăn cho hoạt động của cơ quan vì sẽ không quản lý được thống nhất, nếu
người tham gia BHXH có thắc mắc có thể sẽ nhận được những lời giải thích
khác nhau từ các bộ phận khác nhau, gây tâm lý thiều tin tưởng vào hoạ động
của cơ quan. Do đó, tổ chức cần có những nỗ lực đẻ giúp nhân viên của mình
thường xuyen có những hiểu biết về những hoạt động đang diễn ra ngay trong
cơ quan mình, trong đó bao gồm cả việc nâng cao hiểu biết của họ trong quan
hệ công chúng. Đặc biệt, những nhân viên thường xuyên phải tiếp xúc trực
tiếp với khách hang càng phải được nằm rõ và chính xác về hoạt động của cơ
quan mình. Những ấn phẩm nội bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn đề
này , ngay cả khi nguồn lực của cơ quan có hạn.
Hơn nữa, mục tiêu trước mắt của tổ chức đó là giúp nhân viên cập nhật
và hiểu biét về tổ chức. phát hành nội bộ càng có ý nghĩa quan trọng trong
việc duy trì và nâng cao lòng nhiệt tình của nhân viên, và kiền thức về hoạt
động của cơ quan tổ chức ngày càng được củng cố.
Hiện nay, việc phát hành nội bộ mới chỉ dùng lại ở những hình thức đơn
giản và chỉ lưu hành nội bộ, nếu tổ chức muốn phát hành ra bên ngoài sẽ phải

tốn rất nhiều chi phí hơn. Tuy nhiên, đấy không phải là trở ngại quá lớn nếu
trong mỗi ấn phẩm đó có đăng tải quảng cáo cho chính mình và của cả tổ
chức khác. Bởi vì, cơ quan BHXH sẽ tiết kiệm được chi phí quảng cáo cho
chính mình và còn thu được một khoản chi phí khác nữa từ viêc nhận đăng tải
quảng cáo.
20


2.5. Vai trò của việc đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động PR.
Đào tạo nhân viên của cơ quan BHXH có tác động trực tiếp và gián tiếp
đến hoạt động quan hệ công chúng. một bộ phận nhân viên chủ chốt sẽ đựơc
sắp xếp vào những vị trí liên quan trực tiếp tới người tham gia bảo hiểm,
người thụ hưởng và công chúng nói chung. Việc liwn hệ này có thể được thực
hiện bằng nhiều cách khác nhau, như: gặp mặt trực tiếp, nói chuyện qua điện
thoại hoặc thong qua văn bản,…Tuy đây là những công việc đơn giản, nhưng
lại là những công việc quan trọng, cần phải được giải quyết hằng ngày và cả
về sau này.
Dù là đào tạo nghề cơ bản, đào tạo kĩ thuật hay đào tạo chuyên sâu cũng
đều phải liên quan đến công việc trong tương lai của họ là quan hệ công
chúng, giúp họ có thể thực hiện tốt công việc của mình.
Trong thực tế, có rất nhiều cách thức đào tạo nhân viên có ảnh hưởng
chắc chắn và trực tiếp đến hoạt động quan hệ công chúng của cơ quan. Cơ
quan BHXH cần phải tổ chức tốt các chương trình đào tạo nội bộ, bao gồm:
các khoà đào tạo ngắn hạn thường xuyên cho nhân viên, đào tạo về “giao tiếp
khách hang” cho những nhân viên thường xuyên tiếp xúc với khách hang. Các
khoá học này thường chuyên sâu về kĩ năng phỏng vấn, viết thư, cách giao
tiếp qua điện thoai hay những kĩ năng rất đặc biệt là thăm hỏi, an ủi khách
hang khi họ gặp phải những chuyện không may. Những kĩ năng này đội khi
được tách thành một khoá đào tạo riêng biệt, nhưng cũng có thể được lồng
ghép vào những khoá đào tạo chung.

Bên cạnh đó, cơ quan BHXH cần phải chú trọng đén một kĩ năng rất
quan trọng chính là việc đào tạo cho nhân viên cách thức giao tiếp và tư vấn
cho khác hang. kỹ năng giao tiếp ở mỗi người là khác nhau, đôi khi là điểm
yếu của một số người. Nhưng khả năng đó có thể được cải thiện nếu như họ
được đào tạo một cách bài bản. Thông qua các khoá đào tạo này, hiêu quả của
21


việc tơ vấn cho khách hang sẽ được nâng lên đáng kể.
Ở những cơ quan BHXH lớn, để đào tạo nhân viên cho bộ phận PR,
người ta có thể sẽ sử dụng chính nhân viên của cơ quan mình. Còn những cơ
quan nhỏ thì có thể phải cần đến sự hỗ trợ từ bên ngoài. Tuy nhiên, trong quá
trình tổ chức đào tạo, các cơ BHXH cần phải quan tâm đặc biệt đến một sai
lầm thường hay mắc phải đó là: không biết được đào tạo cái gì là cần thiết vì
hoạt động quan hệ công chúng thường là quá rộng.

III. Hoạt động PR trong BHXH ở Việt Nam .
1. Thành tựu.
Thực tế cho thấy rằng, BHXH Việt Nam từ trước đến nay chưa có một
chiến dịch PR thực sự nào và cũng không có hoạt động nào được gọi là “hoạt
động PR ”. Tuy vậy, đã xuất hiện một vài hoạt động mang bản chất là hoạt
động PR. Những hoạt động đó đã có những đóng góp đáng kể trong việc ngày
càng hoàn thiện hệ thống BHXH ở Việt Nam và có thể được xem như là
những thành tựu trong hoạt động của BHXH trong những năm vừa qua.
- Về cơ quan cấu tổ chức: Nhận thức ngày càng cao về sự cần thiết của
hoạt động PR trong BHXH, trong cơ quan cấu tổ chức bộ máy của BHXH đã
có nhiều thay đối để nhằm nâng cao nhận théc cho người dân mà cụ thể là
người lao động và chủ sử dụng lao động. Theo quyết định số 606/1995/QĐTTg về việc ban hành quy chế tổ chức hoạt động của BHXH Việt Nam, có thể
thấy ranừg, không có phòng ban nào chuyên về hoạt động PR. Nhưng đến
năm 2002, đã có một vài thay đổi. Theo nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày

6 tháng 12 năm qui định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ quan cấu tổ
chức của BHXH Việt Nam đã nêu rõ, trong cơ cấu tổ chức có:
+ Ban tuyên truyền BHXH: chuyên về công tác tuyên truyền, giáo dục

22


nhận thức cho ngươi tham gia và người thụ hưởng để họ hiểu rõ trách nhiệm
và nghĩa vụ của mình cũng như tuyền truyền, giải thích những thay đổi mới
trong chính sách BHXH .
+ Báo bảo hiểm xã hội.
+ Tạp chí Bảo hiểm.
-

Về phương tiện truyền tải thông tin: Internet là công cụ hữu ích và

hiên đại nhất hiện nay trong việc cập nhật thông tin. Mọi cơ quan, tổ chức đều
cố gắng khai thác tối đa hiệu quả của Internet thông qua viêc lập các Webside
riêng, hoặc đăng tải thông tin trên các báo điện tử… Hiện nay đã có một vài
trang Web dành riêng cho BHXH như:
+http:// www.bhxhhcm.org.vn: đây là trang web của BHXH thành phố
Hồ Chí Minh. Trong đó, cung cấp đầy đủ các thông tin hoạt động, các văn
bản pháp luật liên quan của BHXH thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của
BHXH Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, còn có mục riêng dành cho việc
giải đáp thắc mắc cho người lao động. Ở mục này, người lao động có thể gửi
mọi thắc mắc liên quan đến mọi vấn đề BHXH và được giải đáp một cách
công khai, rõ ràng và đầy đủ. Đây có thể xem là bước đi tiến bộ nhất trong
việc nâng cao nhận thức của mọi người về BHXH cũng như tăng cường được
sự hiểu biết lẫn nhau giữa BHXH và công chúng.
+http:// www.baohiem.pro.vn.: là diễn đàn của bộ môn Bảo hiểm

thuộc trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Trên diễn đàn này, các
sinh viên cũng như giảng viên bảo hiểm có thể trao đổi mọi vấn đề liên quan
đến BH nói chung và BHXH nói riêng. Mặc dù đây chỉ là diễn đàn dành riêng
cho việc nghiên cứu và học tập bảo hiểm nhưng cũng đóng góp một phần
trong việc đào tạo những cán bộ bảo hiểm tương lai. Bên cạnh đó có một vài
tỉnh thành cũng có trang web dành riêng cho BHXH.
23


Bên cạnh những tạp chí của chính cơ quan BHXH, còn có một vài tạp
chí, chuyên đề khác cũng đề cập rất nhiều đến BHXH mà nổi bật là Tạp chí
Lao động và Xã hội.
-

Về các chương trình truyền thông: Đã có một vài chương trình

truyền thanh, truyền hình đi sâu vào các vấn đề BHXH. Các chương trình đó
đã đi sâu vào các vấn đề nổi cộm, liên quan đến phần đông người tham gia
BHXH, đặc biệt là người lao động phổ thông.
3. Những mặt hạn chế.
Do các cơ quan BHXH chưa nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt
động PR đối với việc nâng cao nhận thức cho người dân cũng như việc xây
dựng nội bộ cơ quan vững mạnh nên hoạt động PR còn rất nhiều hạn chế.
Thứ nhất, hạn chế lớn nhất đó là các cơ quan BHXH từ trung ương đến
địa phương chưa có một chương trình PR thực sự cụ thể trong hoạt động của
mình. Những thành tựu nêu trên mặc dù mang bản chất là hoạt động PR
nhưng chưa diễn ra phổ biến. Các chương trình truyền thanh, truyền hình nói
về BHXH chỉ được phát sóng riêng lẻ , chưa có một chương trình chuyên đề
riêng cho BHXH.
Thứ hai, mặc dù đã có Ban tuyên truyền trong cơ cấu tổ chức của

BHXH nhưng ở các cơ quan BHXH địa phương, Ban này chưa phát huy được
vai trò của nó. Chưa có một hoạt động nào nổi bật của các cơ quan BHXH địa
phương trong việc tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho người tham gia.
Thậm chí những chỉ thị của cơ quan BHXH cấp trên đôi khi còn bị cơ quan
BHXH cấp dưới hiểu không chính xác, dẫn đến người lao động ở mỗi nơi
cũng hiểu theo những cách khác nhau. Điều đó càng gây khó khăn trong việc
nâng cao nhận thức cho người lao động về các vấn đề BHXH.

24


Thứ ba, bên cạnh vấn đề nâng cao nhận thức cho người lao động, việc
nâng cao, bồi dưỡng thường xuyên cho nhân viên BHXH còn mang nặng
hình thức. Vì cơ quan BHXH là tổ chức phi lợi nhuận, mang nặng tính hành
chính nên không có động lực nhiều cho nhân viên BHXH, đặc biệt là đội ngũ
nhân viên trẻ trong nền kinh tế thị trường đầy sôi động như hiện nay. Trong
khi đó, hoạt động PR của bất kì tổ chức nào cũng cần đến một đội ngũ nhân
viên trẻ, năng động, sáng tạo, hiểu biết và nhiệt tình.
Thứ tư, cũng do tính hành chính nặng nề mà nhìn chung các cơ quan
BHXH đều chưa thực sự tiếp xúc gần với quần chúng. Các hình thức tiếp xúc
trực tiếp với người tham gia ( như: bàn tư vấn, các buổi nói chuyện…) mới
chỉ có ở BHTM. Nhưng trên thực tế, người lao động lại rất cần những hoạt
động đó, vì họ có rất ít thời gian và điều kiện để theo dõi những thay đổi của
các chính sách. Hơn nữa, người tham gia BHXH có rất nhiều các thành phần
khác nhau với trình độ và nhận thức cũng khác nhau.
Thứ năm, cơ quan BHXH chưa tận dụng được lợi thế của các phương
tiện truyền thông để giáo dục nhận thức cũng như truyền tải các thay đổi
trong chính sách BHXH cho người tham gia. Bên cạnh các chương trình
truyền thanh, truyền hình diễn ra riêng lẻ, các trang web về BHXH còn chưa
cập nhật thông tin, chưa thoả mãn được nhu cầu tìm hiểu của công chúng.

Thêm vào đó, các tạp chí BHXH , báo BHXH mới chỉ lưu hành nội bộ, chưa
đến tận tay đông đảo người tham gia.
Thứ sáu, chương có chiến dịch quảng cáo cụ thể cho hoạt động BHXH.
Mặc dù đã có panô, áp phích về BHXH nhưng hình thức chưa thu hút được
người xem và ít tính sáng tạo. Các tấm panô, áp phích đó dường như ít thay
đổi qua các năm. Hơn nữa, chưa xuất hiện các tờ rơi liên quan đến BHXH để
có thể cập nhật thông tin đến người tham gia một cách ngắn gọn và hiệu quả.
3. Giải pháp.
25


×