Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Luận văn thực trạng và giải pháp về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí tại VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.98 KB, 62 trang )

Chơng I : Lý luận chung về chế độ bảo hiểm hu trí

I - Sự tất yếu khách quan hình thành chế độ bảo hiểm hu trí
1 . Sự phát triển của bảo hiểm xã hội trên thế giới.
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
ngời lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động , mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung
nhằm dảm bảo đời sống cho ngời lao động và gia đình họ , góp phần đảm bảo
an toàn xã hội .
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội đặc biệt là sự phát triển của lực lợng sản
xuất trên thế giới, BHXH ngày càng trở thành nhu cầu thờng xuyên, tự nguyện và
chính đáng của ngời lao động. Ngay từ thế kỷ XVI những ngời nông dân ở vùng
Anper đã nhận thấy để trợ cấp cho trờng hợp một số ngời bị ốm đau hay tai nạn.
Họ đã thành lập hội tơng hỗ với cách thức mỗi ngời đều trích ra một phần thu
nhập để đóng góp chung vào một quỹ, phòng khi có ai bị đau ốm hay tai nạn thì
dùng quỹ đó để giúp đỡ. Hình thức sơ khai này đợc BHXH phát triển dần nên,
phạm vi đợc mở rộng ra để có thêm nhiều ngời tham gia, mở thêm các loại trợ
cấp bổ sung.
Nguyên tắc chung trong hoạt động bảo hiểm này là gắn liền quyền lợi đợc hởng với nghĩa vụ đóng góp. Tuy vậy BHXH chỉ thực sự trở thành một lĩnh vực
hoạt động mang tính chất và ý nghĩa xã hội sâu sắc từ đầu thế kỷ 19. Quá trình
đó gắn liền với sự phát triển sản xuất công nghiệp, của nền kinh tế thị trờng và thị
trờng sức lao động mà trong đó có quan hệ chủ thợ trong lao động đợc trở nên
phổ biến.
Một bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm trong lịch sử đợc hình thành ở nớc
Anh vào năm 1819. Bộ luật này có tên là bộ luật nhà máy. Nội dung cơ bản
trong luật này là bảo hiểm cho lao động trong các xởng thợ. ở một nớc công
nghiệp khác, nớc Đức đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, luật tai
nạn lao động năm 1884 và luật bảo hiểm ngời già và ngời tàn tật do lao động vào
năm 1889. Sự ra đời các bộ luật chính thức đầu tiên đó phản ánh một yêu cầu tất
yếu khách quan của BHXH.
Sang thế kỷ 20, hầu hết các nớc trên thế giới mà trớc hết là các nớc công


nghiệp phát triển ở một trình độ cao đều ban hành và thực hiện điều luật về
BHXH đối với ngời lao động. Với sự phát triển nh vậy, BHXH đã trở thành một
lĩnh vực mang tính quốc tế rộng lớn. Hiện nay có hơn 160 quốc gio trên thế giới
thực hiện BHXH

2 . Cơ sở hình thành chế độ hu trí trong hệ thống các chế độ BHXH :
Để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển, con ngời phải lao động để tạo ra của
cải vật chất. Nhng cùng với thời gian, con ngời sẽ bị già đi, sức khoẻ của họ bị
giảm sút không còn khả năng lao động, không còn khả năng tự đáp ứng nhu cầu
cho cuộc sống.Lúc đó khoản thu nhập mà họ có thể sinh sống hoặc là do tích góp
trong quá trình lao động hoặc do con cháu nuôi dỡng... Những nguồn thu nhập
này không thờng xuyền và phụ thuộc vào điều kiện của từng ngời. Để đảm bảo
lợi ích cho ngời lao động khi họ hết tuổi lao động và giúp họ có nguồn thu nhập
1


thờng xuyên, ổn định, nhà nớc đã thực hiện chế độ BHXH hu trí.
Vậy bảo hiểm hu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho ngời lao động khi
hết tuổi lao động. Ngời lao động tạo ra thu nhập để nuôi sống chính họ trong quá
trình lao động. Quá trình này diễn ra ngay trong các nhà máy, xí nghiệp, đơn vị
kinh tế, hành chính s nghiệp trong lĩnh vực quốc doanh và ngoài quốc doanh.
Trong quá trình đó, họ cống hiến sức lao động để xây dựng đất nớc bằng cách tạo
ra thu nhập cho xã hội và cho cả chính họ nữa. Do đó đến khi họ không còn khả
năng lao động nữa thì họ phải đợc sự quan tâm ngợc lại từ phía xã hội. Đó chính
là khoản tiền trợ cấp hu trí hàng tháng phù hợp với số phí BHXH mà họ đã đóng
góp trong suốt quá trình lao động. Nguồn trợ cấp này tuy ít hơn so với lúc đang
làm việc nhng nó rất quan trọng và cần thiết giúp cho ngời về hu ổn định về mặt
vật chất cũng nh tinh thần trong cuộc sống, tạo cho họ có thêm điều kiện để cống
hiến cho xã hội những kinh nghiệm quý báu trong quá trình lao động sản xuất mà
họ đã tích luỹ đợc nhằm xây dựng đất nớc ngày càng phồn vinh hơn.

Bảo hiểm hu trí bảo đảm quyền lợi cho ngời lao động giúp họ tự bảo vệ mình
khi hết tuổi lao động, tự lo cho chính mình một cách hợp lý nhất nhờ vào việc họ
đã cống hiến sức lao động của mình để tạo ra của cải vật chất cho xã hội trớc đó.
Ngời lao động chỉ cần trích ra một tỷ lệ % tiền lơng tơng đối nhỏ khi còn đang
làm việc trong một thời gian nhất định. Đến khi hết tuổi lao động phải nghỉ việc
họ sẽ có đợc sự bảo đảm của xã hội làm giảm bớt phần nào khó khăn về mặt tài
chính do thu nhập thấp vì không còn lao động đợc nữa.
Nh vậy bảo hiểm hu trí là một chế độ mang tính xã hội hóa cao đợc thực hiện
một cách thờng xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói
cách khác, chế độ bảo hiểm hu trí lấy đóng góp của thế hệ sau chi trả cho các thế
hệ trớc. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi
ngời trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn thể hiện mối quan tâm sâu
sắc giữa ngời với ngời trong xã hội .
3 . Vai trò của chế độ hu trí trong hệ thống các chế độ BHXH
Trong một hệ thống BHXH thờng bao gồm nhiều chế độ khác nhau. Số lợng
các chế độ BHXH đợc xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào trình độ phát triển và
mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH trong từng thời kỳ của mỗi nớc. Tuy nhiên,
trong bất cứ hệ thống BHXH nào cũng có những chế độ chính thể hiện đặc trng
những mục tiêu chủ yếu của hệ thống bảo hiểm xã hội. Một trong những chế độ
đó là chế độ hu trí hay chế độ bảo hiểm tuổi già cho ngời lao động .
2


Có thể khẳng định rằng chế độ hu trí là một trong những chế độ bảo hiểm đợc
thực hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội. Theo quy định
của ILO thì chế độ này là một trong những chế độ bắt buộc, là chế độ chính sách
khi mỗi quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống bảo hiểm xã hội. Theo
thống kê của ILO, trong tổng số 163 nớc trên thế giới có hệ thống BHXH (1993)
thì có tới 155 nớc có thực hiện chế độ hu trí chiếm tỷ lệ 95,1%. Điều đó chứng tỏ
chế độ hu trí rất đợc các nớc cũng nh ngời lao động quan tâm

Trên thực tế, tất cả những ngời tham gia vào BHXH đều có mong muốn tham
gia vào chế độ hu trí. Trong phần đóng góp phí BHXH nói chung thì phần chủ
yếu là đóng cho chế độ này. Đối với hệ thống BHXH thì hoạt động của ngành
này tập trung chủ yếu vào chế độ hu trí cho ngời lao động. Điều này đợc thể hiện
cụ thể trong các hoạt động nghiệp vụ của bảo hiểm xã hội. Chẳng hạn ở Việt
Nam, chế độ hu trí có vị trí đặc biệt quan trọng với ngời tham gia bảo hiểm xã
hội. Chế độ này đợc quy định và đa vào thực hiện ngay từ khi hệ thống BHXH
mới đợc thành lập ( 1947). Theo các quy định hiện hành thì tỷ lệ giành cho bảo
hiểm hu trí và các chế độ khác có liên quan tới ngời về hu là 75% ( phí bảo hiểm
là 20% tổng quỹ tiền lơng thì giành tới 15% đóng cho hu trí ). Do đó thu cho chế
độ hu trí cũng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu của bảo hiểm xã hội,
khoảng từ 60-80%. Tơng tự nh vậy trong tổng chi của BHXH thì việc chi cho chế
độ này cũng rất lớn. Trong những năm gần đây tiền chi cho chế độ hu trí chiếm
khoảng trên 70% tổng chi cho BHXH . Nh vậy, hoạt động thu chi của chế độ hu
trí có ảnh hởng sống còn tới toàn bộ hoạt động của hệ thống bảo hiểm xã hội, ảnh
hởng đến sự ổn định của BHXH nói riêng cũng nh cả xã hội nói chung.
Một vấn đề nữa đặt ra là xu hớng già hoá của dân số thế giới dẫn đến số lợng
ngời nghỉ hu ngày càng tăng. Điều đó cho thấy rõ vai trò ngày càng quan trọng
của chế độ hu trí trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Hơn nữa, chế độ
bảo hiểm hu trí còn thể hiện đợc sự quan tâm chăm sóc của Nhà nớc, ngời sử
dụng lao động đối với ngời lao động, và nó còn thể hiện đạo lý của dân tộc đồng
thời còn phản ánh trình độ văn minh của một chế độ xã hội .
4. Tác dụng và đặc trng của bảo hiểm hu trí :
4.1 Tác dụng của bảo hiểm hu trí :
bảo hiểm hu trí giúp đảm bảo đời sống cho ngời lao động khi họ về hu do đó
giúp cho xã hội ổn định và gắn bó. Ngày nay, tỷ lệ ngời già trong dân số càng
tăng do đó ổn định đời sống cho bộ phận này là rất quan trọng. Mặt khác, khi
3



nghỉ hu ngời lao động đợc sống thoải mái hơn và an nhàn hơn. Đối với ngời có
trình độ có khả năng họ lại tiếp tục cống hiến, truyền đạt kinh nghiệm cho thế hệ
sau.
Ngời lao động trong quá trình lao động họ có đợc sự bảo đảm chắc chắn về
phần thu nhập khi họ nghỉ hu, làm cho họ yên tâm chú ý, không lo nghĩ về điều
kiện sống khi nghỉ hu do đó có thể làm việc với năng suất và chất lợng cao hơn.
Giúp ngời lao động tiết kiệm cho bản thân mình ngay trong quá trình lao động
để bảo đảm đời sống khi nghỉ hu, giảm bớt phần nào gánh nặng cho ngời thân,
gia đình và xã hội .
4.2 Đặc trng của chế độ bảo hiểm hu trí :
bảo hiểm hu trí là một chế độ BHXH dài hạn nằm ngoài qúa trình lao động.
Đặc trng này thể hiện cả trong quá trình đóng và hởng bảo hiểm hu trí. Ngời lao
động tham gia đóng phí BHXH trong một thời gian khá dài. Thời gian đó liên tục
đủ lớn theo quy định thì sẽ đủ một trong những điều kiện để đợc hởng bảo hiểm
hu trí. Khi đã đủ các điều kiện thì ngời lao động sẽ đợc hởng trợ cấp hu trí trong
khoảng thời gian tính từ lúc về hu cho đến khi ngời lao động chết. Quá trình hởng
này dài ngắn bao nhiêu tuỳ thuộc vào tuổi thọ của từng ngời và những ngời hởng
bảo hiểm hu trí là những ngời đã kết thúc quá trình làm việc của mình mà theo
quy định đợc nghỉ ở nhà và hởng lơng hu.
Trong chế độ hu trí có sự tách biệt giữa đóng và hởng. Vì đây là một chế độ
nằm ngoài quá trình lao động, cho nên để đợc hởng chế độ hu trí khi về hu thì
ngời lao động phải tham gia đóng phí ngày trong quá trình lao động. Trong suốt
quá trình lao động, số tiền ngời lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm hu trí dùng
để chi trả lơng hu ( trợ cấp tuổi già ) cho thế hệ trớc. Nh vậy có sự kế thừa giữa
các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ bảo hiểm hu trí, qua đó thể hiện
nguyên tắc lấy số đông bù số ít của bảo hiểm .
Phụ thuộc chặt chẽ vào quan hệ sử dụng lao động. Ngời lao động và ngời sử
dụng lao động có mối quan hệ với nhau. Ngời sử dụng lao động muốn ổn định và
phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc đầu t cho thiết bị máy móc hiện đại
,còn phải chăm lo tới đời sống ngời lao động mà mình đang sử dụng, tạo cho họ

việc làm, đảm bảo cuộc sống cho họ khi hết tuổi lao động bằng việc đóng BHXH
cho ngời lao động. Từ những tác dụng và đặc trng trên, quỹ bảo hiểm hu trí
chiếm tỷ trọng tơng đối lớn trong quỹ bảo hiểm hu trí. Do đó bộ phận quản lý
quỹ có thể sử dụng phần quỹ bảo hiểm hu trí nhàn rỗi để đầu t sinh lời nhằm ổn
4


định, bảo đảm cân bằng và tăng trởng quỹ. Từ đó góp phần thúc đẩy đầu t tăng trởng vào nền kinh tế quốc dân, tạo ra nhiều việc làm cho ngời lao động, góp phần
hạn chế nạn thất nghiệp hiện nay.

II. Nội dung cơ bản của chế độ hu trí
Hu trí là một chế độ nhằm bảo đảm thực hiện quyền lợi hợp pháp của công
dân sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Chế độ này nhằm
bảo đảm ổn định cuộc sống cho ngời lao động khi họ đã hết tuổi lao động( không
còn khả năng lao động ) về nghỉ hu an dỡng lúc tuổi già. Nh vậy, chế độ hu trí là
một chế độ có liên quan đến rất nhiều mặt trong quá trình tổ chức thực hiện. Do
vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hởng đến quá trình nghiên cứu để đi đến xác lập một
chế độ bảo hiểm hu trí. Sau đây là một số nội dung cơ bản:
1 . Điều kiện để hởng bảo hiểm hu trí.
Độ tuổi hởng chế độ BHXH dài hạn nói chung và chế độ hu trí nói riên đóng
một vai trò quan trọng trong việc xác định chi phí của hệ thống chế độ. Tuổi hởng chế độ hu trí có thể đợc ấn định theo một loạt các cân nhắc nh:
- Khả năng làm việc tổng thể của ngời cao tuổi
- Vị thế của ngời cao tuổi trong thị trờng lao động
- Khả năng kinh tế của chế độ hu trí
Điều quan trọng là phải cân đối từ giác độ mức hởng thoả mãn đóng và chi phí
liên quan đến tuổi thọ bình quân của ngời cao tuổi. Mặc khác, khi quy định tuổi
về hu còn phải dựa vào quy luật sinh -lão - tử và điều kiện kinh tế xã hội của mỗi
nớc.
Ngoài ra, tuổi nghỉ hu còn đợc quy định hạ thấp so với độ tuổi bình quân đối
với những ngời làm những công việc trong điều kiện lao động và môi trờng nặng

nhọc, nguy hiểm đã có ảnh hởng nhất định làm suy giảm một phần khả năng lao
động so với bình thờng hay những ngời có thể chất yếu không đủ sức đảm đơng
công việc .
2 .Thời gian đóng bảo hiểm để đợc hởng chế độ hu trí
Thời gian đóng bảo hiểm hu trí là tổng số đơn vị thời gian có đóng phí bảo
hiểm để đợc hởng chế độ này. Việc quy định thời gian đóng phí BHXH nhằm xác
định sự cống hiến về mặt lao động của mỗi ngời với xã hội nói chung và phần
đóng góp và BHXH nói riêng. Thời gian đóng BHXH là một trong những căn cứ
5


để đãi ngộ ( chi trả ) đối với ngời lao động nh theo luật định nhằm bảo đảm sự
công bằng, bình đẳng giữa những ngời tham gia bảo hiểm xã hội, thực hiện một
trong những nguyên tắc cơ bản của BHXH .
Việc xác định thời gian đóng phí BHXH đợc dựa trên căn cứ: độ tuổi về hu, tỷ
lệ đóng góp , tuổi thọ của những ngời về hu, mức đợc hởng... tóm lại tuỳ thuộc
vào khả năng tài chính về chế độ hu trí nói riêng và BHXH nói chung... Về
nguyên tắc nếu xuất phát từ việc đóng BHXH để hình thành quỹ sử dụng cho chế
độ hu trí thì phải tính đến tổng số thời gian đóng phí BHXH thực tế. Còn trong trờng hợp ngời lao động làm việc trong những trờng hợp đặc biệt nh ngời lao động
làm việc ở nơi độc hại, vùng sâu, vùng xa... đợc pháp luật BHXH quy định số
thời gian này đợc làm căn cứ để giảm tuổi đời khi nghỉ hu.
Trong các chế độ BHXH bắt buộc, đối với chế độ hu trí hầu hết các nớc đều
quy định điều kiện để đợc hởng chế độ phụ thuộc hai yếu tố đó là độ tuổi xác
định và số năm đóng BHXH .
3 . Phí bảo hiểm hu trí
Cũng nh tất cả các chế độ bảo hiểm khác, chế độ hu trí liên quan đến mức phí
thu cho chế độ này. Trong thực tế có mức thu cho chế độ này đợc xác định riêng
theo một tỷ lệ nào đó so với thu nhập hay tiền lơng dùng để tính BHXH và bảo
hiểm hu trí. Đối với ngời lao động làm công ăn lơng thì thu nhập này thờng là
tiền lơng. Trong một số trờng hợp mức thu cho chế độ hu trí không xác định

riêng mà đợc gộp chung vào một mức thu gọi là thu BHXH nói chung. ở Việt
Nam hiện nay thực hiện thu chung một mức phí BHXH cho tất cả các chế độ
BHXH đang đợc thực hiện mặc dù trong đó có định lợng phần giành cho các chế
độ bảo hiểm dài hạn bảo hiểm hu trí.
Trong trờng hợp nh vậy phí hu trí đợc xác lập riêng thì phí đợc xác định theo
công thức sau đây:
P = T * TBH * L
Trong đó : P
: Mức phí đóng cho chế độ hu trí
TBH : Tỷ lệ thu BHXH tính theo thu nhập hay tiền lơng
L
: Tiền lơng hay thu nhập dùng để tính phí BHXH và chế độ
hu trí
T
: Tỷ lệ % đóng BHXH hu trí nói chung
Việc xác định phí nộp cho chế độ hu trí riêng ra hay gộp chung nh nói ở trên
tuỳ thuộc điều kiện và mô hình hay phơng thức tổ chức hoạt động ở từng nớc.
6


Nếu phí cho chế độ hu trí đợc xác định riêng thì sẽ tạo thuận lợi cho việc tính
toán và quản lý cho chế độ này, nhất là khi nó đợc mở rộng ra những khu vực
khác nhau mà ngời lao động ở đó có hình thức thu nhập không đồng nhất nh thu
nhập bằng tiền. Tách riêng nh vậy cũng tạo ra sự linh hoạt hơn cho ngời tham gia
chế độ này.
Tuy nhiên, nếu tách riêng nh vậy cũng có nghĩa là các chế độ khác cũng đợc
tách riêng ra điều này làm cho hoạt động quản lý BHXH nói chung phải phức
tạp hơn. Còn trong trờng hợp không xác định riêng mức thu phí cho từng chế độ
thì có thể công việc quản lý ít phức tạp hơn nhng lại phức tạp khi phải xác định
phí đóng cho bảo hiểm khi áp dụng cho ngời lao động có các hình thức thu nhập

khác nhau.
4 . Mức hởng hay tiền lơng hu
Mức hởng là số tiền mà một ngời về hu nhận đợc hàng tháng kể từ khi nghỉ hu. Hiện nay đang có những quan điểm khác nhau về mức hởng. Về cơ bản có hai
quan điểmm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng tiền lơng hu là để bảo đảm
mức sống tối thiểu của ngời nghỉ hu theo tiêu chuẩn sống của quốc gia. Còn theo
quan điểm thứ hai thì lại là tiền lơng hu phải có giá trị bảo đảm cho ngời về hu có
mức sống cao, thậm chí trên mức trung bình của xã hội. Sự khác nhau này tất
nhiên sẽ dẫn đến mức đóng tơng ứng trớc khi đợc hởng cũng khác nhau.
Trong thực tế, khuynh hớng nào cũng có lý khi giải thích những nếu xét về
mức sống của ngời về hu và đặt trong quan hệ với sự phát triển và ý nghĩa về sự
hấp dẫn của BHXH đối với ngời lao động thì khuynh hớng thứ hai có sức thuyết
phục hơn. Những dù là mức hởng đợc xác định theo quan điểm nào thì vẫn phải
đảm bảo yêu cầu có tính nguyên tắc là tiền lơng hu phải thấp hơn tiền lơng khi
làm việc.
Tiền lơng đợc tính theo công thức sau:
LH = T * L
Trong đó: LH : Tiền lơng hu đợc hởng
T : Tỷ lệ % dùng để tính lơng hu
L : Tiền lơng hay thu nhập dùng để tính lơng hu
Ngoài ra, tuỳ theo luật pháp của từng nớc về chế độ này mà ngời nghỉ hu đợc
hởng thêm các quyền lợi nh trợ cấp một lần khi nghỉ hu, hay đối với những ngời
lao động nghỉ việc cha đủ tuổi để hởng chế độ hu hàng tháng cũng nhận đợc trợ
cấp một lần và ngoài lơng hu hàng tháng, ngời nghỉ hu còn đợc bảo hiểm y tế do
quỹ BHXH đài thọ , khi chết gia đình đợc hởng chế độ tử tuất.
7


5 . Thời gian hởng chế độ hu trí
Thời gian hởng chế độ hu trí đợc hiểu là thời gian kể từ khi nghỉ hu cho đến
khi qua đời. Với mỗi ngời thì thời gian hởng lơng hu thông thờng là có khác nhau

vì tuổi nghỉ hu và tuổi thọ không giống nhau. Và do một trong những vấn đề có
tính xã hội, tính bù trừ ... trong BHXH nên trong quản lý thờng lấy số bình quân
chung thời gian hởng tiền lơng hu của ngời nghỉ hu trong cùng một hệ thống
BHXH để tính toán cho các chỉ tiêu khác.
Thời gian hởng tiền hu phải ngắn hơn thời gian đóng BHXH cho chế độ hu trí.
Tuy vậy, thời gian nghỉ hu để hởng tiền lơng hu có thể khác nhau trong khi thực
hiện chế độ bảo hiểm này.Điều đó phụ thuộc vào các yếu tố nh tuổi đời khi nghỉ
hu theo quy định của pháp luật, tuổi thọ bình quân của ngời nghỉ hu. Những yếu
tố này lại phụ thuộc vào chính sách lao động và BHXH trong từng giai đoạn, vào
mức sống và điều kiện sống của dân c.
Trong thực tế, tuổi nghỉ hu theo quy định của pháp luật thờng ổn định trong
một thời gian dài và nếu có thay đổi thì cũng ở trong khoảng từ 55 đến 60 tuổi
đối với ngời lao động bình thờng trong xã hội. Trong trờng hợp đặc biệt có thể có
những điều chỉnh nhng cũng dựa trên những độ tuổi đó. Khi tuổi thọ bình quân
ngày càng tăng lên thì thời gian hởng chế độ hu trí cũng có xu hớng tăng lên.
Vấn đề có tính quy luật này buộc các nhà nghiên cứu các chế độ chính sách về
lao động và BHXH phải tính đến để điều chỉnh tuổi về hu cho phù hợp.
6 . Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của chế độ hu trí .
BHXH nói chung cũng nh chế độ hu trí nói riêng là những phạm trù kinh tế
tổng hợp, phản ánh rất nhiều mặt trong đời sống xã hội. Do vậy, việc hình thanh
hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả là hoàn toàn không đơn giản vì khó có
thể có đợc một hệ thống chỉ tiêu phản ánh đầy đủ tất cả các khía cạnh của lĩnh
vực này.
Tuy nhiên việc xây dựng các chỉ tiêu này thực sự cần thiết và đó là cơ sở cho
việc đánh giá trình độ phát triển và kết quả của BHXH trong đời sống xã hội.
Thông thờng việc đánh giá kết quả hay hiệu quả của mỗi hoạt động nào đó chúng
ta phải so sánh với định hớng, mục tiêu đề ra. Tính hiệu quả do vậy phản ánh
trong mức độ đạt đợc so với các mục tiêu đặt ra đó
Trong BHXH nói chung và chế độ hu trí nói riêng , mục tiêu cao nhất là đạt đợc sự phát triển của ngành BHXH và bảo đảm đời sống ngời về hi trên cơ sở của
8



tiền lơng hu trí ( còn gọi là thu nhập thay thế ) mà ngời lao động nhận đợc từ quỹ
bảo hiểm xã hội. Góp phần bảo đảm an sinh và ổn định xã hội. Các chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả cũng phải xoay quanh mục tiêu này. Trong chế độ hu trí, do tính
phức tạp của chế độ này mà hệ thống các chỉ tiêu phải bao gồmất cả các chỉ tiêu
định tính và các chỉ tiêu định lợng
Theo quan điểm về hiệu quả nh trên ta thấy có thể có ba nhóm chỉ tiêu hiệu
quả của hoạt động BHXH đó là :
Nhóm 1: Các chỉ tiêu hiệu quả của hoạt động bảo hiểm hu trí
Nhóm 2 : Các chỉ tiêu đánh giá về sự phát triển của bảo hiểm hu trí
Nhóm 3 : Các chỉ tiêu đảm bảo lợi ích về kinh tế xã hội của ngời về hu
Sau đây là sự xác định cụ thể trong từng nhóm chỉ tiêu

6.1. Các chỉ tiêu hiệu quả trong hoạt động của bảo hiểm hu trí
BHXH tập trung vào ba hoạt động chính đó là thu BHXH, quản lý quỹ BHXH
và chi trả BHXH. Trong mỗi hoạt động đó có các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá mức
độ hiệu quả cụ thể:
Thu bảo hiểm hu trí
Thu bảo hiểm hu trí là một chỉ tiêu tổng hợp và hiệu quả của nó đợc đánh giá
trên các mặt chủ yếu sau:
- Tỉ lệ về số ngời đóng BHXH
Số ngời đóng
Tỉ lệ % ngời đóng =
* 100
Số ngời phải đóng.
Thực chất là thực hiện thu đúng và đủ số ngời đóng bảo hiểm hu trí. Thu đúng
ở đây chủ yếu là thu đúng đối tợng phải thu. Số đối tợng phải thu hiện nay là số
ngời lao động thuộc diện đóng BHXH bắt buộc, đăng kí tham gia đóng bảo hiểm
hu trí. Họ phải đóng BHXH trong đó có chế độ hu trí. Số ngời này thờng thay đổi

do có sự thay đổi của các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanhà nớc, nhất là
9


số ngời lao động làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh. Việc thu đúng thu đủ là
rất cần thiết để BHXH vừa đảm bảo lợi ích cho ngời lao động, vừa đảm bảo có
những tác dụng tích cực với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
cũng nh với nền kinh tế nói chung. Mục tiêu thu ở đây là đảm bảo thu 100% đối
tợng thuộc diện phải đóng BHXH và hu trí.
Chỉ tiêu này có thể áp dụng mở rộng ra cho tất cả số ngời lao động có nhu cầu
tham gia bảo hiểm hu trí, và rộng hơn nữa là toàn bộ số ngời lao động trong xã
hội.
- Thu đủ số tiền theo quy định cho chế độ hu trí.
Số tiền thu đợc
Tỷ lệ % tiền thu đợc =
* 100
Số tiền phải thu
Số tiền thu đợc này phụ thuộc vào mức thu theo luật định và số lợng ngời mà
các cơ quan BHXH đã thu đợc, hay số ngời trực tiếp đóng bảo hiểm xã hội. Thu
đủ là rất quan trọng không chỉ vì nh đã đề cập ở trên mà đó còn là bảo đảm một
sự chủ động về nguồn tài chính, làm cho nguồn quỹ BHXH đợc ổn định, giúp
duy trì các hoạt động bình thờng và ngày cáng phát triển của chế độ hu trí
- Thu đúng thời gian :
Đó là thời gian mà các đơn vị và cá nhân phải đóng BHXH theo quy định của
pháp luật hiện hành. Nếu không thu đúng thời gian sẽ ảnh hởng đến kế hoạch tài
chính trực tiếp của chế độ hu trí. Nhất là trong điều kiện chế độ hu trí áp dụng
theo cơ chế thu của ngời đóng trả cho ngời hởng. Còn trong chế độ hu trí theo cơ
chế của đầu t ứng trớc thì thu kịp thời là một điều kiện quan trọng để ổn định và
phát triển quỹ hu trí trong tơng lai trên cơ sở các kế hoạch sử dụng quỹ để đầu t
sinh lời

Chi trả BHXH
Trong hoạt động chi trả, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng tập trung vào các
nội dung chủ yếu sau đây:
- Chi trả đúng đối tợng
Đảm bảo tiền hu phải đến đúng ngời đợc hởng.Đó phải là những ngời hội đủ
đợc điều kiện ràng buộc để đợc hởng chế độ hu trí. Điều này có liên quan đến
công tác quản lý đối tợng hởng chế độ hu trí. Khác với ngời lao động khi tham
gia đóng bảo hiểm xã hội, sự di chuyển hay thay đổi nơi ở của từng ngời về hu
phụ thuộc vào khả năng và điều kiện sống mà họ lựa chọn. Khi đó công tác quản
10


lý phải có sự linh hoạt tốt để không chỉ quản lý tốt mà còn đợc thực hiện chi trả
thuận lợi đúng đối tợng đợc hởng chế độ này.
- Chi trả đủ về số lợng
Chỉ tiêu chi trả đủ về số lợng phản ánh về số tiền chi trả đủ cho mọi đối tợng
đợc hởng hu trí theo quy định. Đây là yêu cầu pháp lý, đợc luật định thành các
mức tiền hu đợc hởng. Chi trả đủ cho ngời về hu phải đợc đảm bảo trên cơ sở số
tiền mà quỹ hu trí có đợc dùn để thanh toán và sự an toàn của số tiền này trong
quá trình chi trả cho các đối tợng đợc hởng chế độ hu trí
- Chi trả kịp thời gian
Chi trả kịp thời gian chính là việc bảo đảm ngời về hu phải đợc nhận lơng hu
đúng theo thời gian quy định. Đây là điều rất quan trọng vì tiền hu là một loại thu
nhập thờng xuyên của ngời về hu. Đối với các đối tợng này việc nhận lơng hu
đúng hạn sẽ giúp cho họ có thể ổn định đợc đời sống. Đối với các cơ quan bảo
hiểm điều này có ý nghĩa rất lớn trong quản lý nói chung và thanh quyết toán cho
chế độ hu trí nói riêng.
Các chỉ tiêu rất quan trọng trong quản lý quá trình thực hiện BHXH ở Việt
Nam trong điều kiện hiện nay khi mà BHXH đang còn có nhiều thay đổi cho phù
hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế xã hội ở nớc ta.

Quản lý quỹ hu trí
Chỉ tiêu của hoạt động này phản ánh qua quản lý số lợng tiền hay quy mô quỹ
bảo hiểm hu trí nhằm bảo toàn giá trị của quỹ hu trí cả về giá trị danh nghĩa và
giá trị thực tế. Đồng thời đó còn là việc sử dụng quỹ này vào các hoạt động khác
nhau, làm phát triển không ngừng và nâng cao khả năng thanh toán của quỹ hu
trí. Đó chính là sự tăng cờng nguồn lực tài chính của chế độ hu trí. ở đây có
nhiều chỉ tiêu cụ thể:
- Bảo toàn giá trị của quỹ bảo hiểm hu trí
Chỉ tiêu về bảo toàn giá trị của quỹ bảo hiểm hu trí là bảo toàn giá trị thực tế
của quỹ hu trí trong các thời kỳ quyết toán tránh đợc những tác động làm cho giá
trị của quỹ này giảm đi. Trong quá trình quản lý quỹ, có thể có các trờng hợp làm
cho quỹ hu trí giảm đi nh:
+ Tiền quỹ bị tổn thất, mất mát
+ Tiền quỹ bị mất giá do lạm phát
+ Tiền quỹ đầu t không thu hồi đợc
+ Tiền quỹ không thu hồi đợc ( nợ, nộp chậm... )
+ Các thất thoát khác...
11


- Mức và tỷ lệ tăng của quỹ hu trí qua các thời kỳ
Mức và tỷ lệ tăng của quỹ hu trí qua các thời ký là một trong những chỉ tiêu
quan trọng nhất trong quản lý quỹ bảo hiểm hu trí hiện nay. Để bảo đảm cho một
tiềm lực tài chính ổn định và vững mạnh, quỹ hu trí phải tăng lên không ngừng.
Sự tăng lên này chủ yếu từ hai nguồn là :
+ Tăng thêm số ngời tham gia vào chế độ hu trí
+ Sử dụng quỹ hu trí đầu t vào các hoạt động mang lại lợi nhuận một cách
an toàn
Tốc độ tăng thực tế của quỹ hu trí nh vậy phải cao hơn tốc độ tăng của số ngời
tham gia vào chế độ hu trí và tất nhiên phải tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng

của chi trả cho chế độ này. Có nh vậy mới tạo đợc sự vững chắc, ổn định và phát
triển không ngừng của chế độ hu trí
- Khả năng cân đối thu chi của quỹ BHXH
Chỉ tiêu khả năng cân đối thu chi quỹ bảo hiểm hu trí phản ánh độ an toàn của
quỹ hu trí nói riêng và sự tồn tại chế độ hu trí nói chung. Để bảo đảm tránh
những rủi ro, thì quỹ tiền hu phải đủ đảm bảo chi trả các khoản chi của chế độ
này chủ yếu bao gồm chi tiền lơng hu cho ngời nghỉ hu và chi cho hoạt động
quản lý. Đây là điều kiện cần thiết bất kể áp dụng phơng pháp cụ thể nào để tạo
lập quỹ
Tổng thu thực tế > Tổng chi
Tổng thu và tổng chi trong biểu thức điều kiện trên đợc xác định và so sánh
tại một thời điểm tính toán. Tổng thu và tổng chi có thể đợc xác định khác nhau
tuỳ theo phơng pháp tạo quỹ đợc áp dụng trong hệ thống hu trí. Vì theo các phơng pháp khác nhau có thể cơ cấu thu và chi cũng sẽ khác nhau
6.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của chế độ hu trí
Mở rộng phạm vi đối tợng tham gia chế độ bảo hiểm hu trí
Chỉ tiêu mở rộng phạm vi đối tợng tham gia chế độ bảo hiểm hu trí đợc tính
qua tỷ lệ ngời lao động trong xã hội thực hiện vào chế độ hu trí trong tổng số lao
động nói chung. Đây là chi tiêu phản ánh kết quả thực hiện mục tiêu mở rộng
phạm vi hoạt động của chế độ hu trí. Trong điều kiện ở các nớc có nền kinh tế
kém phát triển, số ngời tham gia vào chế độ hu trí không nhiều thì chỉ tiêu này đợc sử dụng để đánh giá quy mô và sự phát triển của chế độ hu trí qua các thời kỳ.
Theo đuổi mục tiêu mọi ngời đều có quyền và đợc tham gia vào BHXH để h12


ởng chế độ hu trí nên trong quá trình phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động số
ngời tham gia vào chế độ này phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng nguồn lao động xã
hội. Tỷ lệ tăng số lợng ngời tham gia chế độ hu trí đợc xác định trên cơ sở mục
tiêu mở rộng của chế độ này. ở đây có thể lợng hoá chỉ tiêu này qua tỷ lệ phần
trăm số ngời tham gia vào chế độ bảo hiểm hu trí và tốc độ tăng của tỷ lệ này qua
các năm. Ngoài ra, cũng có thể tính thêm chỉ tiêu tỷ lệ tăng tơng đối so với tỷ lệ
tăng lao động xã hội .

Mở rộng các hình thức tham gia chế độ hu trí
Mở rộng các hình thức tham gia chế độ hu trí là chỉ tiêu chủ yếu phản ánh sự
tăng thêm các hình thức mới trong việc đóng phí bảo hiểm và hởng chế độ hu.
Chỉ tiêu này phản ánh sự phát triển về tổ chức hệ thống và các hoạt động của chế
độ hu trí, qua đó tăng cơ hội và khả năng để mọi ngời có thể tham gia vào chế độ
này. Hiện nay ở Việt Nam chúng ta mới áp dụng một hình thức đóng để hởng chế
độ hu trí trong đó dựa chủ yếu vào thời gian đóng và tuổi đời khi nghỉ hu.
Tuy nhiên sự khống chế về số năm đóng tối thiểu nh luật định hiện nay là 15
năm kèm với điều kiện tuổi đời chỉ thích hợp với ngời có công việc làm và thu
nhập ổn định để đóng bảo hiểm xã hội, nhất là lao động làm việc trong các doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nớc Việc linh hoạt về thời gian đóng BHXH làm cho
nhiều ngời có nhu cầu có thêm cơ hội để tham gia vào chế độ này .
Xét trên một góc độ khác, mức đóng cố định chỉ phụ thuộc vào mức thu nhập
hay tiền lơng để tính BHXH cũng sẽ làm giảm sức hấp dẫn của chế độ này khi
nhiều ngời muốn đóng thêm trên mức bình thờng để sau đó đợc hởng mức tiền
cao hơn .
6.3. Các chỉ tiêu bảo đảm quyền lợi kinh tế và xã hội của ngời về hu
Quyền lợi về kinh tế xã hội cho ngời về hu phải đợc phản ánh trong thực tế
đời sống kinh tế xã hội . Có thể dùng các chỉ tiêu sau đây để đánh giá :
Mức bảo đảm các tiêu chuẩn sống của ngời về hu
Chỉ tiêu này phản ánh qua mức lơng của ngời về hu nhận đợc và mức bảo đảm
thực tế cho cuộc sống của ngời về hu qua tiền hu. Khi tính toán cụ thể , mức bảo
đảm của tiền lơng hu phải đợc tính đến các mặt nh :
- Mức tiền lơng : mức tiền lơng phải bảo đảm đầy đủ duy trì cuộc sống của ngời hởng lơng hu. ở đây vừa phải bảo đảm giá trị tiền lơng danh nghĩa vừa bảo
13


đảm cả giá trị thực tế là sức mua của tiền lơng. Nghĩa là khi có những tác động
làm mất giá trị của tiền lơng hu nh tác động của lạm phát thì cần phải đợc điều
chỉnh kịp thời .

- Tiền lơng hu hợp lý:
Tiền lơng hu hợp lý muốn nói đến tơng quan so sánh giữa lơng ha với các loại
lơng khác trong xã hội. Về nguyên tắc thì tiền lơng hu không thể cao hơn tiền
của ngời về hu khi đang còn làm việc, trừ trờng hợp ngời về hu tham gia thêm
hình thức bảo hiểm tuổi già khác ngoài các hình thức và chế độ hu trí thông thờng. Nhng tiền lơng hu không thể thấp hơn tiên lơng tối thiểu. Sự so sánh đó
nhằm đánh giá tơng quan về mức sống giữa những ngời về hu với các tầng lớp
khác trong xã hội .

Đảm bảo sự công bằng xã hội giữa những ngời nghỉ hu
Đảm bảo sự công bằng xã hội giữa những ngời nghỉ hu phải đợc so sánh đánh
giá giữa đóng góp và hởng thụ, theo nguyên tắc đóng nhiều hởng nhiều, đóng ít
hởng ít. Khác với các chế độ bảo hiểm ngắn hạn, điều này rất cần đối với chế độ
hu trí vì việc đóng phí và hởng trong chế độ hu trí liên quan đến những khoản
tiền rất lớn trong thu và chi trả. Và có ảnh hởng rất lớn đến cuộc sống của các đối
tợng tham gia cả trong khi đóng và hởng theo chế độ này. Sự công bằng cũng có
nghĩa tham gia chế độ hu trí nh nhau thì quyền lợi đợc hởng cũng phải nh nhau .
Tăng sự tác động tích cực của chế độ hu trí đến phát triển kinh tế và sử
dụng có hiệu quả lực lợng lao động xã hội
Sự tác động tích cực của chế độ bảo hiểm hu trí đến sự phát triển kinh tế và ổn
định xã hội là một chỉ tiêu mang tính định tính khó lợng hoá. Nhng đây là một
chỉ tiêu rất quan trọng vì có tác dụng trực tiếp đến không chỉ ngời về hu mà bản
thân ngời lao động đang làm việc đã và có thể sẽ tham gia vào chế độ hu trí. Chế
độ hu trí phải góp phần ổn định kinh tế xã hội thông qua việc sử dụng có hiệu
quả lực lợng lao động đang làm việc trong xã hội. Chẳng hạn một chế độ hu trí
tốt làm cho lao động trong xã hội đợc điều hoà hợp lý, cân đối hơn giữa các khu
vực và thành phần kinh tế, qua đó nguồn lực lao động đợc khai thác và huy động
đúng mục đích. Việc sử dụng lực lợng lao động sẽ hiệu quả hơn. Đảm bảo tái sản
14



xuất sức lao động xã hội, an toàn xã hội ...

III - Kinh nghiệm xây dựng các chế độ BHXH đối với ngời
nghỉ hu.
1. Về điều kiện tuổi đời
ở các nớc khác nhau, tuỳ theo các nhân tố dân số và kinh tế xã hội mà có sự
quy định tuỏi đời khác nhau giữa các nhóm nớc và khác nhau giữa nam và nữ
trong cùng một nớc. Có thể có một số nớc quy định độ tuổi nam và nữ nh nhâu
nhng có một số nớc khác lại quy định tuổi nghỉ hu của nữ thấp hơn nam. Xác
định tuổi nghỉ hu phụ thuộc rất nhiều yếu tố kể cả phụ thuộc vào nớc có dân số
già hay trẻ. Đối với nớc có dân dố già, số ngời nghỉ hu lớn, vì vậy họ phai nâng
tuổi nghỉ hu thờng cao hơn so với các nớc đang phát triển. Theo số liệu của văn
phòng lao động quốc tế trong 24 nớc thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
và trong 40 nớc đang phát triển thì tuổi nghỉ hu đối với nam nữ nh sau :
Bảng 1: Cơ cấu tuổi nghỉ hu ở một số nớc
Độ tuổi
nghỉ hu
50
55
57
60
65
67
Tổng

Nớc dang phát triển
Số nớc
%
0
1

25
1
417
13
325
0
1
25
3
125
18
45
16
6667
7
175
4
166
0
24
100
40
100
( Nguồn: BHXH Việt Nam )
Ngoài ra các nớc còn quy định hạ tuổi nghỉ hu so với tuỏi nghỉ hu bình thờng
đối những ngời làm những ngành nghề công việc trong điều kiện lao động nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm...
Số nớc

OCDE


%

Điều kiện về tuổi đời ở một số nớc đợc thể hiện :
- Nhóm Tây Âu và Bắc Mỹ.
+ Mỹ, Canada : 65 tuổi ( chung cho cả hai giới ).
+ Anh : 65 tuổi (nam) và 60 tuổi (nữ).
+ Pháp : 60 tuổi ( tối đa là 65 tuổi).
+ Đức : 65 tuổi (nam) và 63 tuổi (nữ).
- Nhóm các nớc Châu á ( Ngoài ASEAN ).
+ Trung Quốc : 60 tuổi (nam) và 55 tuổi (nữ).
+ Nhật Bản
: 60 tuổi(nam) và 55 tuổi (nữ)
+ ấn độ
: 55 tuổi(chung cho cả hai giới).
- Nhóm các nớc ASEAN.
+ Indonesia: 55 tuổi (cho cả hai giới).
+ Malaysia : 55 tuổi(cho cả hai giới).
+ Xingapo : 55 tuổi (cho cả hai giới).
+ Philipin : 60 tuổi (cho cả hai giới).
Nh vậy có thể thấy tuổi nghỉ hu của các nớc giao động trong khoảng từ 55 đến
65 tuổi và có phân biệt giới tính. Qua thống kê cho thấy chỉ có 34.62% số nớc có
quy định tuổi nghỉ hu ở cả nam và nữ là nh nhau. Đa số các nớc ASEAN quy
15


định tuổi nghỉ hu chung cả nam và nữ là 55 tuổi.

2 . Về việc xác định số năm đóng góp BHXH
Số năm dóng góp BHXH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công việc xác

lập chế độ hu trí. Vì vậy số thời gian đóng BHXH là một trong các điều kiện để
đợc hởng trợ cấp hu. ở nhiều nớc có quy định phải có một số năm đóng tối thiểu.
Qua thống kê cho thấy số năm đóng BHXH dao động từ 15 đến 45 năm. Một
nguyên tắc đặt ra trong chế độ hu là độ tuổi đợc hởng chế độ hu xác định cao thì
đòi hỏi số năm bắt buộc phải đóng BHXH phải cao. Số năm đóng BHXH thấp
(nhng không đợc thấp hơn số năm tối thiểu) thì mức trợ cấp thấp hơn.
Quy định thời gian đóng BHXH (tối thiểu) của một số nớc nh sau :
- Mỹ, Anh : Đóng góp 52 tuần liên tục cộng với 9/10 tổng số năm làm việc.
- Pháp
: ngời tham gia BHXH phải đóng góp 150 quỹ.
- Đức
: 15 năm đến 35 năm.
- Liên Xô : Nam(20 năm), Nữ(20 năm).
- Ba Lan : Nam(20 năm), Nữ(15 năm).
- Hungari : 20 năm(cho cả hai giới)
- ấn độ
: 15 năm.
- Trung quốc : 10 năm liên tục.
- Nhật
: 20 năm.
- Philipin : 120 tháng liên tục.
ở một số nớc ở Đông Nam á không quy định cụ thể thời gian đóng phí
BHXH.
3 . Về mức trợ cấp hu trí.
Có rất nhiều cách xác định mức trợ cấp hu trí. Một số nớc xác định mức đồng
đều, coi là mức tối thiểu thích hợp với mặt bằng chung của quốc gia. Nhiều nớc
xác định mức trợ cấp theo thu nhập đã từng có của ngoiừ lao động khi nghỉ hu.
Một số nhóm nớc khác kết hợp cả hai cách.
Trong phần trợ cấp có phần nền(cơ bản) là một mức đồng nhất cộng thêm
phần tỷ lệ thu nhập. Tuy nhiên xu hớng chung là trợ cấp theo mức thu nhập đã

từng có của ngời lao động trớc khi nghỉ hu, phù hợp với đa ssố trờng hợp là đóng
góp BHXH theo thu nhập.
Mức trợ cấp hu của một số nớc:
Mỹ : Mức trợ cấp hu đồng nhất, tối đa là 11280USD/tháng, tính
trên thu nhập đợc bảo hiểm cho tới khi nghỉ hu.
- Anh : 32.85 Bảng/tuần cộng 12% thu nhập đợc bảo hiểm trong nớc.
- Pháp : 50% thu nhập bình quân trong vòng 10 năm cao nhất. Lơng đợc
tính theo các lần thay đổi lơng.
- Đức : 1,5% lơng ớc tính là tỷ lệ giữa thu nhập của ngời lao động so với
múc lơng trung bình của cả nớc nhân với cơ sở tính toán chung
hiện thời.
- Ba lan : 100% thu nhập bình quân của mức dới 3000 ZLOTY một tháng
16


-

-

của 12 tháng gần nhất cộng với 55% của phần còn lại và tăng 4%
trợ cấp tính theo trợ cấp cơ bản cho mỗi năm công tác trên 20 năm.
Trung quốc : 60 đến 90% thu nhập trong tháng cuối, phụ thuộc vào thời
gian công tác.
ấn độ: Trả một lần tơng ứng với số đóng góp của chủ và thợ đã trả cộng với
7.58& lãi.
Indonexia : Ngời nghỉ hu đợc nhận một khoản trợ cấp một lần tơng đơng
với mức mà ngời sử dụng lao động và ngời lao động đã đóng
góp trong suốt quá trình tham gia BHXH, cộng với khoản tiền
lãi tăng thêm.
Malaysia : Tơng tự nh INDONEXIA.

Philipines : 1.5% lơng bình quân của 120 tháng cuối cộng với từ 42 đến
102% của tiền lơng bình quân của 10 tháng lơng.

4 . Về mức đóng góp
Mức đóng góp cho chế độ hu cũng có sự khác nhau giữa các nhóm nớc. Tuy
nhiên ở hầu hết các nớc đều có sự phân chia đóng góp giữa giới chủ và giới thợ
và đóng riêng cho chế độ hu chứ không gộp vào các chế độ khác chẳng hạn:
- Mỹ: Ngời lao động đóng 6.2% tiền lơng ( nếu là lao động độc lập phải
đóng 12.4% ), ngời sử dụng lao động đóng 6.2 % tổng quỹ lơng.
Tiền lơng cao nhất đợc dùng làm căn cứ để đóng BHXH là 57000
USD/ năm .
- Anh : Ngời lao động đóng 2 % của 54 Bảng / tuần đầu tiên cộng thêm 9%
lơng tuần của tiền lơng từ 54 đến 405 Bảng. Ngời sử dụng lao động
đóng từ 4.6 % đến 10.4 % .
- pháp : Ngời lao động đóng 6.54 % trong thu nhập đợc tính BHXH của
mình, ngời sử dụng lao động đóng 8.2 % tiền lơng tối đa để đóng
BHXH là 12360 FRANCS một tháng .
- Đức : Ngời lao động đóng 8.75 % tiền lơng, nếu ngời lao động có thu nhập
dới 610 DM / tháng thì không phải đóng BHXH. Ngời lao động độc
lập phải đóng 15.7%. Ngời sử dụng lao động đóng 8.75 % quỹ lơng
và đóng 7.5% nếu trong doanh nghiệp có ngời lao động có thu nhập
thấp hơn 610 DM / tháng .

5. Một số kinh nghiệm rút ra từ việc thực hiện chế độ hu trí ở một số nớc
trên thế giới.
Qua nghiên cứu về quá trình tổ chức và thực hiện hệ thống hu trí của một số nớc trên thế giới có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Trong tất cả nớc, vai trò của nhà nớc của chính phủ trong hệ thống hu trí là rất
quan trọng. Nhà nớc với t cách là ngời đề ra định hớng cho sự hoạt động hu trí và
là một sự bảo trợ rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống này. Đặc
biệt là bảo trợ về tài chính ở các mức độ và hình thức khác nhau .

- Xu hớng đa dạng hoá về tổ chức thực hiện, về nội dung và phơng thức tiến
hành trong chế độ hu trí là phổ biến. Mặc dù vai trò của nhà nớc là rất quan trọng
nh đã nêu ở trên nhng tham gia hoạt động trong hệ thống hu trí không chỉ có các
tổ chức của nhà nớc, các tổ chức khác ngoài khu vực nhà nớc cũng có thể tham
17


gia với điều kiện tuân thủ đúng những quy định trong luật BHXH và hu trí. Đây
là một trong những điều kiện quan trọng nhất để mọi thành viên trong xã hội có
nhu cầu đều có thể tham gia vào chế độ hu trí .
- BHXH cũng nh bảo hiểm hu trí là vấn đề của con ngời nói chung và đều tuân
thủ những nguyên tắc phổ biến của lĩnh vực này. Tuy nhiên mỗi nớc có những
đặc trng riêng về tình hình phát triển kinh tế xã hội, tình hình dân số và lao động
mà có những vận dụng cụ thể vào xây dựng cho mình một hệ thống hu trí phù
hợp về nội dung và hình thức thực hiện. Các yếu tố quan trọng để xác lập chế độ
hu trí ở các nớc khác nhau cũng khác nhau chẳng hạn tuổi đời, mức sống, mức
đóng góp... Trong đó phải đảm bảo đợc lợi ích chính đáng của ngời tham gia chế
độ hu trí và duy trì sự ổn định, đảm bảo cho hệ thống hu trí phát triển .
- Trong tất cả các nớc, hệ thống hu trí là cốt lõi của hệ thống BHXH nói chung.
Trong khi các hệ thống BHXH khác có thể thực hiện bởi các tổ chức bảo hiểm
khác nhau, (nh bảo hiểm thơng mại về con ngời ) thì bảo hiểm hu trí chỉ có thể đợc thực hiện trong hệ thống BHXH. Cải cách hệ thống BHXH chủ yếu và thực
chất là cải cách chế độ hu trí.
- Hệ thống hu trí theo phơng pháp PAYGO đã từng đợc thực hiện trên hầu hết
các nớc có hệ thông BHXH nhng đến nay hệ thóng này bộc lộ nhiều nhợc điểm
và cần phải đợc thay thế bằng hệ thống khác. Hệ thóng mới nà các nớc thực hiện
nay đang chuyển sang thực hiện là hệ thống hu trí thực hiện theo phơng pháp đầu
t ứng trớc. Nhng đó là quá trình chuyển đổi trong một thời gian dài.
- Trớc khi hệ thống cũ đợc thay thế hoàn toàn bằng hệ thống mới thì có tồn tại
sự song song hoạt động của hai hệ thống trong thời kỳ quá độ.
Nh vậy có thể nói BHXH và chế độ hu trí đang là một trong những vấn đề xã

hội quan tâm rất lớn, có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất quan trọng. Nhận thức
đúng về bản chất chức năng của BHXH và chế độ hu trí đang còn là một quá
trình. Chế độ hu trí đã đợc thực hiện từ rất lâu và có vai trò ngày càng quan trọng
trong xã hội nhng quá trình phát triển cũng là quá trình tiếp tục nghiên cứu và đổi
mới, hoàn thiện không ngừng .
Để có đợc một chế độ hu trí thì nhận thức đúng bản chất của chế dộ này là
điều rất quan trọng . Cùng với đó phải hiểu và vận dụng đúng những nguyên tắc
của chế độ này trong quá trình thiết kế những nội dung của chế độ và tổ chức hệ
thống hoạt động . Trong đó có các yếu tố cơ bản nh mức phí đóng bảo hiểm, thời
gian đóng cần thiết, tuổi đời khi nghỉ hu, các mức lơng... phải đợc nghiên cứu có
căn cứ khoa học mới có thể đảm bảo cho chế độ này phát triển đợc. Một hệ thống
hu trí phát triển phải đảm bảo lợi ích của các bên tham gia trớc hết là ngời lao
động với t cách là đối tợng tham gia và hởng bảo hiểm hu trí, sau đó là các tổ
chức, các doanh nghiệp và toàn xã hội trong đó có Nhà nớc.

18


Chơng II : Thực trạng chế độ bảo hiểm hu trí tại
BHXH Việt Nam
I . Thực trạng về chế độ chính sách bảo hiểm hu trí

Chế độ hu trí là một chế đọ có vai trò to lớn trong hệ thống BHXH của mỗi
quốc gia , bởi lẽ chế độ hu trí có ảnh hởng lớn nhất đến cuộc đời những ngời
tham gia BHXH . Chế độ hu trí cũng là một phơng tiện có thể ổn định đợc phần
nào đời sống ngời về hu , đặc biệt trong số đó là hu cô đơn không nơi lơng tựa
hoặc những ngời đã có những đóng góp đặc biệt cho xã hội. Thực hiện tốt chế độ
hu trí trong hệ thống BHXH sẽ góp phần nâng cao đời sống xã hội giảm bớt khó
khăn cho ngời về hu cũng nh khó khăn chung cho bộ phận dân c khác, nâng cao
uy tín của BHXH và các chế độ khác. Có thể nói trong hệ thống các chế độ

BHXH, chế độ hu trí là chế độ quan trọng hàng đầu. Nó đã, đang và sẽ là một
chế độ BHXH có quy mô hoạt động to lớn về cả số lợng và chất lợng.
Chính sách BHXH nói chung và chế độ hu trí nói riêng khi áp dụng ở nớc ta
đã có vai trò rất to lớn nhng cũng bộc lộ một số nhợc điểm qua các thời kỳ.
1. Giai đoạn trớc năm 1995.
Điều lệ tạm thời về BHXH năm 1961
Ngay sau cách mạng tháng tám năm 1945 , nhà nớc Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, lúc đó là nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thực hiện các
chế độ BHXH cho công nhân viên chức. Điều đó đợc thể hiện qua việc ban hành
sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tai nạn
lao động và bảo hiểm hu trí .Cùng với sắc lệnh 29/SL, một số sắc lệnh khác nh
sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 cũng đợc ban
hành sau đó, nhằm thực hiện tốt hơn các chế độ cho ngời tham gia bảo hiểm xã
hội.
Các chế độ này đợc thực hiện đối với những ngời làm việc trong các cơ quan
của chính phủ và chính quyền các cấp trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân
19


Pháp (1945-1954). Song các chế độ này vãn còn nhiều hạn chế , một phần do
thực hiện trong thời kỳ kháng chiến , điều kiện kinh tế còn khó khăn thiếu thốn ,
tất cả mọi ngời cha quan tam đến việc hởng chế độ , ttất cả phải lo cho tình hình
kháng chiến .
Sau này khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, các chế độ đó mới chỉ đáp ứng cục
bộ những đòi hỏi trong từng giai đoạn và từng ngành hoạt động , chỉ nhằm giải
quyết các nhu cầu trớc mắt nên cha đồng bộ , toàn diện và lâu dài .
Trớc tình hình kinh tế , chính trị có những bớc phát triển nhất định cùng với
việc thay đổi lại chế độ tiền lơng . Quán triệt dần nguyên tắc phân phối theo lao
động Thủ tớng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961
về Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH thống nhất trong cả nớc . Các

chế độ này đợc chính thức thi hành từ ngày 1/1/1962 trên cơ sở hình thành và sử
dụng quỹ BHXH tập trung, do sự đóng góp của các nhà máy, xí nghiệp và các cơ
quan Nhà nớc. Quỹ BHXH đợc quản lý và sử dụng vì lợi ích của công nhân viên
chức làm việc trong khu vực Nhà nớc. Việc quản lý BHXH do hai cơ quan quản
lý đó là: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý 3 chế độ ngắn hạn là: ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, còn Bộ Lao động - Thơng
binh - Xã hội quản lý 3 chế độ dài hạn là hu trí, tử tuất, mất sức lao động. Điều lệ
này thực hiện 6 chế độ BHXH cho ngời lao động trong đó có quy định cụ thể về
chế độ hu trí .
Trong điều lệ, từ điều 42 đến điều 53 có quy định cụ thể về chế độ hu trí nh
quy định về thời gian công tác, tuổi đời và điều kiện lao động của công nhân viên
chức Nhà nớc. Cụ thể :
- Quy định tuổi nghỉ hu đối với nam là 60 tuổi và nữ là 55 tuổi. Số năm công
tác quy định chung là 25 năm, đối với những ngời lao động làm việc ở
những ngành nghề độc hại nguy hiểm thì giảm 5 năm so với quy định .
- Những ngời làm việc trong điều kiện làm việc đặc biệt, hoặc ở trong quân
ngũ thì thời gian công tác của họ đợc quy đổi theo hệ số.
Chế độ hu trí trong giai đoạn này chỉ đợc thực hiện cho cán bộ công nhân viên
chức làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nớc và quân nhân trong lực lợng vũ
trang.
Qua đó ta có thể thấy : việc ban hành nghị định 218/CP kèm theo điều lệ tạm
thời về BHXH là một bớc ngoặc lớn trong sự nghiệp BHXH ở nớc ta. Lần đầu
tiên quyền lợi và nghĩa vụ của ngời lao động đợc quy định cụ thể trong chế độ hu trí. Từ đây, bảo hiểm hu trí đợc thống nhất và có đầy đủ tính pháp lý. Điều lệ đã
20


giải quyết đợc vấn đề tính toán thời gian của ngời lao động cho phù hợp với tình
hình thực tế. Từ đó đánh giá đúng mức đóng góp của ngời lao động cho xã hội và
đa ra các mức lơng tơng ứng.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số điểm tồn tại:

- Thời gian công tác nói chung là tất cả thời gian mà ngời công nhân viên
chức làm việc lấy lơng hay sinh hoạt phí. Nếu thời gian công tác nói chung
đối với nam là 25 năm và với nữ là 20 năm mà không có thời gian công tác
liên tục trong 5 năm thì họ không đợc hu trí trợ cấp hu trí. Nh vậy thì rất
thiệt thòi cho ngời lao động. Đối với lao động nữ khi đủ 5 năm công tác
liên tục và có thời gian công tác nói chung nhiều hơn 25 năm nhng họ
cũng chỉ đợc hởng 45% lơng chính. Ngoài ra, do việc quy đổi hệ số thời
gian công tác lên đã dẫn đến tình trạng số ngời về hu có độ tuổi về hu thực
tế thấp hơn nhiều so với quy định. Thậm chí có ngời số năm công tác quy
đổi gần bằng tuổi đời.
- Điều lệ này vẫn còn nhiều hạn chế trong chính sách BHXH nói chung và
chế độ hu trí nói riêng. Nh trong quy định về thu chi thì điều lệ không gắn
thu với chi. Thu chi đều do quy ớc không có quỹ BHXH riêng mà chỉ có
quỹ BHXH độc lập trong ngân sách. Trên thực tế khi bắt đầu thực hiện
điều lệ này, cơ quan chủ quản về BHXH đã phải tiến hành chi ngay cho
chế độ hu trí đối với nhiều ngời từ trớc năm 1962. Do đó ngân sách dành
cho chi lại càng cao. Chính vì vậy, điều lệ năm 1961 cần đợc sửa đổi, bổ
sung nhiều .

Nghị định 236/HĐBT và chế độ hu trí đối với ngời lao động.
Sau nhiều năm thực hiện chính sách BHXH trên cơ sở điều lệ tạm thời về
BHXH , Đảng và Nhà nớc đã nhận thấy rõ những điểm tồn tại và hạn chế của
điều lệ . Đồng thời trong hoàn cảnh đó tình hình kinh tế xã hội nớc ta có nhiều
thay đỏi quan trọng , đất nớc đã thống nhất , nền kinh tế chuyển sang giai đoạn
mới theo xu hớng nhieeuf thành phần giảm bớt tập trung và bao cấp . Cuộc sống
của ngời la động có nhiều biến đổi đặc biệt là cải cách tiền lơng kéo theo đó là
đời sống của ngời nông dân và dân c nói chung đặc biệt là đời sống của ngời lao
động ngày càng caovà các nhu cầu về đảm bảo xã hội cũng tăng lên .
Trớc tình hình thực tế đó , trên cơ sở kế thừa các u việt trong điều lệ tạm thời
về BHXH ban hành kèm theo NĐ 218/CP , Nhà nớc đã ban hành NĐ 236/HĐBT

ngày 18/9/1985 với nội dung nh sau :
- Về tuổi đời: Nghị định quy định nam công nhân viên chức đủ 60 tuổi( nếu
là quân nhân thì đủ 55 tuổi ) và có đủ 30 năm quy đổi, nữ công nhân viên
chức có đủ 55 tuổi ( nếu là quân nhân thì đủ 50 tuổi ) và có đủ 25 năm
công tác quy đổi thì đợc hởng chế độ hu trí. Tuỳ theo điều kiện lao động,
21


chiến đấu, thời gian công tác mà có hệ số quy đổi khác nhau, ngời về hu đợc hai khoản là: trợ cấp một lần đầu tiền và tiền lơng hàng tháng.
- Cơ sở để tính lơng hu hàng tháng là lơng chính và phụ cấp thâm niên( nếu
có ) ở tháng cuối cùng trớc khi nghỉ hu. Trong trờng hợp sức khoẻ giảm sút
hoặc do yêu cầu công tác phải chuyển sang công tác khác hoặc hởng lơng
thấp hơn mức cũ thì lấy mức lơng cao nhất trong 10 năm trớc khi nghỉ hu.
- Về mức trợ cấp một lần trớc khi nghỉ hu tính trên tiền lơng chính cộng với
tất cả các khoản trợ cấp đang hởng của công nhân viên chức và quân nhân
sau thời gian nghỉ nguyên lơng. Cụ thể là :
+ Có đủ 25 năm công tác đợc hởng trợ cấp 2 tháng lơng
+ Có đủ 30 năm công tác đợc hởng trợ cấp 3 tháng lơng
+ Có đủ 35 năm công tác đợc hởng trợ cấp 4 tháng lơng
Lơng hu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm công tác, nữ có đủ 25 năm
công tác thì đợc tính bằng 75% lơng chính và phụ cấp thâm niên ( nếu có ) ngoài
ta cứ thêm 1 năm công tác đợc tính thêm 1% nhng tối đa không quá 95% lơng
chính và phụ cấp thâm niên.
Nh vậy, việc thực hiện chế độ hu trí theo nghị định này về cơ bản cũng giống
nh giai đoạn trớc đó là còn nhiều hạn chế về tuổi đời, hệ số, phạm vi thực hiện.
Cụ thể là :
- Phơng pháp tính thời gian quy đổi tuy có nhiều điểm chặt chẽ song đã gây
ra một số vớng mắc cho ngời lao động trong việc dò tìm hồ sơ khi về nghỉ
hu. Việc tính thời gian quy đổi đôi khi gây ra sự mất cân đối.
- Trong thực tế, tuổi nghỉ hu trung bình vẫn còn thấp do đợc cộng cả hệ số u

đãi xã hội về thời gian và năm làm việc thực tế thành số năm đợc nhận lơng hu. Mặt khác lại còn chế độ u đãi với những đối tợng có sức khoẻ
giảm sút từ 18% trở lên.
- Phạm vi thực hiện chế độ vẫn còn hạn hẹp, chỉ áp dụng đối vói công nhân
viên chức Nhà nớc, chiếm xấp xỉ 12% tổng số lao động của cả nớc nhng
lại rất tràn lan. Chế độ bị lẫn lộn giữa bảo hiểm và u đãi. Cơ quan quản lý
không thống nhất bao gồm cả Bộ Lao động Thơng binh và Xã hội, tổng
liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ y tế phụ trách việc giám định khả
năng lao động. Còn xét một cách tổng hợp để cho công nhân viên chức về
nghỉ mất sức lao động hoặc về hu, do các cơ quan xí nghiệp, các bộ ngành,
các đoàn thể các cơ quan đảng đoàn thể chính quyền và các cấp ra quyết
định cơ quan phụ trách theo dõi lại không ký quyết định cho nghỉ hu là
22


-

-

-

-

điều bất hợp lý. Mặt khác giữa thu với chi không gắn liền với nhau, phân
tán, nhiều chỗ gây ra tình trạng thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết cho
ngời lao động về hu đúng chế độ chính sách hiện hành.
Tỷ lệ trợ cấp hu so với lơng cơ sở có mức cao nhất là 95% là một mức quá
cao, không thực tế. Trên cơ sở cân bằng thu chi, ở cùng một thời điểm, tiền
thu BHXH là từ những ngời đang đóng BHXH phải đáp ứng đợc việc chi
trả cho những ngời đang hởng trợ cấp hu trí trong cùng thời gian đó . Song
số ngời lao động chỉ bằng hơn 4 lần số ngời đang hởng trợ cấp trong cùng

thời gian. Tỷ lệ nộp BHXH của ngời lao động và ngời sử dụng lao động là
20% vậy nếu xét về tổng số, số tiền thu BHXH không đủ để chi cho tỷ lệ
trợ cấp 95% lơng của chế độ hu trí không kể còn phải chi trả một số chế độ
khác nh: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... Do vậy,
ngân sách nhà nớc luôn phải bù thiếu, chính vì lẽ đó mà cần phải hạ thấp
tỷ lệ trợ cấp đối với những ngời về hu .
Điều kiện hởng chế độ hu trí còn lệ thuộc quá nhiều vào yêu cầu chính trị
của từng thời kỳ, còn bị chi phối bởi chủ trơng tinh giảm biên chế... Cho
nên số ngời về hu trớc tuổi còn rất cao ( trên 80% ) thậm chí có ngời về hu
ở độ tuổi 40, khi về hu có thời gian hởng lơng hu rất dài, có thể có thời
gian hởng nhiều hơn cả thời gian công tác. Trong khi đó tiền đóng BHXH
là 5% chỉ bằng một phần nhỏ trong tỷ lệ trợ cấp hu trí không kể trong quá
trình công tác đợc hởng các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp... và sau này còn chế độ tử tuất. Trong khi đó những ngời về hu đủ tuổi, có thời gian công tác lâu dài lại đợc hởng hu ngắn hơn do
có thể họ chết sớm. Tất cả những điều đó làm giảm ý nghĩa kinh tế cũng
nh xã hội chế độ hu trí. Do vậy làm cho thiếu công bằng giữa đóng góp và
hởng thụ
Mức chi trả trợ cấp hu trí nói chung là thấp, bình quân là 52.600đ /tháng/
ngời, tiền lơng hu thấp nhất là 52.000 đ/tháng / ngời ( cha kể bù giá). Nếu
so với năm 1985 tiền lơng hu danh nghĩa cuối năm 1991 tăng 209,75 lần
trong khi chỉ số giá cả tăng 536,8 lần cho nên tiên lơng hu thực tế chỉ còn
dới 38% so với tháng 9/1985.
Ngoài ra đối tợng tham gia đóng BHXH theo NĐ 236/HĐBT vẫn chỉ bao
gồm công nhân viên chức Nhà nớc mà không có một phần đông đảo ngời
lao động ở các đơn vị kinh tế khác. Trong khi các đơn vị kinh tế phi Nhà nớc đang ngày càng phát triển nh: Công ty liên doanh, công ty TNHH, t
23


nhân... Đây là đối tợng rất lớn mà BHXH cần phải khai thác.
Nh vậy, trong thời gian từ năm 1962 đến năm 1993 chính sách và hệ thống

BHXH đợc tổ chức thực hiện dựa trên các quy định trong nghị định 218/CP và
NĐ 236/HĐBT và một số quyết định khác của Nhà nớc.Thời gian này do ảnh hởng của hệ thống chính sách bao cấp cũ nên đã bộc lộ những mặt hạn chế nh:
phạm vi đối tợng hẹp, sử dụng thời gian quy đổi quá lạm dụng, quỹ BHXH
không phát huy đợc vai trò là xơng sống của cả hệ thống, mức trợ cấp hu trí
không bảo đảm ổn định cuộc sống cho các đối tợng, cha có quan hệ đóng BHXH
với hởng BHXH mà chỉ có quan hệ hởng BHXH với tiền lơng. Chế độ hu trí bị
chi phối bởi nhiều chính sách xã hội khác và tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH
phân tán, hành chính quan liêu...
Nh vậy, các chính sách chế độ BHXH hiện tại không còn phù hợp nữa, nó
mang trong mình rất nhiều nhợc điểm, gây ra nhiều khó khăn phức tạp trong
công tác quản lý và sử dụng lao động, đặc biệt không đáp ứng đợc yêu cầu của cơ
chế kinh tế nhiều thành phần và không bảo đảm đợc quyền lợi của ngời lao động,
sức lao động trong cơ chế thị trờng đã trở thành hàng hoá. Vì vậy đổi mới và
hoàn thiện hệ thống BHXH nói chung và chế độ hu trí nói riêng là một đòi hỏi tất
yếu khách quan và cần phải làm ngay cho phù hợp với tình hình thực tế hiện tại.
Nghị định 43/CP và chế độ hu trí
Khi nền kinh tế nớc ta chuyển sang cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc, cơ chế hoạt động của BHXH cũ không còn phù hợp nữa , đòi hỏi phải có sự
đổi mới . trong bối cảnh xĩ nghiệp quốc doanh gắn với thị trờng hoạt động theo
nguyên tắc bảo toàn vốn đọc giao , đồng thời tự trang trải tự phát triển và nộp
nghĩa vụ với NSNN thì bảo hiểm hu trí cũng phải tự tách khỏi sự bao cấp của
Nhà nớc , hoạt dộng độc lập , tự hạch toán lấy thu bù chi , sự hỗ trợ của NSNN
chỉ là một phần nhỏ . Với việc phát triển nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần
, các loại hình doanh nghiệp ngày càng đợc mở rộng ; sự chuyển dịch lao động và
quan hệ lao động cũng có những thay đổi . Chính vì vậy , cùng với đội ngũ
CNVC Nhà nớc còn có hàng chục triệu ngời lao động làm việc trong các thành
phần kinh tế ngoài quốc danh . Vì vậy , bảo hiểm cho mọi ngời lao động cần đợc
mở rộng , thống nhất bình đẳng , đảm bảo nguyên tắc có đóng có hởng , đóng ở
mức nào hởng ở mức đó , gảim bớt gánh nặng cho NSNN .
Trớc những vấn đề bức thiết đặt ra trong công cuộc đổi mới này để BHXH trở
thành một chính sách rộng rãi thì cần phải có những đổi mới và hoàn thiện là việc

làm hết sức cấp thiết , theo các phơng hớng sau:
- Đổi mới phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng đối với mọi ngời lao động
tham gia đóng BHXH có ý nghĩa là đối tợng tham gia đáng BHXH phải đợc mở rộng, không có sự phân biệt theo khu vực và thành phần kinh tế giữa
trong và ngoài quốc doanh. Tức là không thể có BHXH trong quốc doanh
khác BHXH ngoài quốc doanh. Sự bình đẳng này phải đợc quy định và bảo
đảm bởi chế tài trong các văn bản pháp quy về bảo hiểm xã hội. Theo đó
24


ngời lao động đợc hởng chi trả BHXH trên cơ sở mức đóng góp và thời
gian đóng BHXH .
- Đổi mới để bảo đảm công bằng trong quan hệ về bảo hiểm xã hội. Vậy
BHXH phải đợc tổ chức và hoạt động tập trung độc lập và thống nhất trong
phạm vi toàn quốc, phải đổi mới về tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, hình
thành ngành BHXH tập trung. Thành lập cơ quan quản lý BHXH độc lập
riêng biệt và thống nhất từ trên xuống đồng thời tách chính sách BHXH ra
khỏi các chính sách xã hội khác để bảo đảm mỗi chính sách thực hiện
đúng chức năng của nó .
- Quỹ BHXH phải độc lập với ngân sách Nhà nớc đồng thời thực hiện
nguyên tắc hạch toán độc lập
Với các phơng hớng đổi mới nh trên thì ngày 22/06/1993, Chính phủ đã ban
hành nghị định 43/CP. Nghị định này đổi mới về cơ bản hệ thống BHXH nói
chung và hu trí nói riêng cho phù hợp với điều kiện thực tế ở nớc ta. Từ khi nghị
định ra đời đã có những thay đổi rõ rệt, thể hiện:
- Nghị định 43/CP ra đời đã xoá bỏ việc tính thời gian theo hệ số quy đổi
cho ngời lao động khi về nghỉ hu, ngời lao động khi đã đóng BHXH đủ 20
năm trở lên và tuổi đời đủ 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ thì đợc
nghỉ hu và hởng lơng hu hàng tháng . Ngoài ra nếu khi đơn vị có nhu cầu
và ngời lao động tự nguyện tiếp tục làm việc thì tuổi đời không quá 65 tuổi
đối với nam và 55 tuổi đối với nữ .

- Đã thay đổi điều kiện thời gian công tác bằng thời gian đóng BHXH để
tính lơng hu, tránh đợc tình trạng ngời lao động về hu sớm do việc quy đổi
thời gian công tác. Điều này làm cho ngời lao động có trách nhiệm hơn đối
với chính bản thân họ.
- Về mức hởng, ngời lao động đợc hởng một khoản trợ cấp trớc khi nghỉ hu
tuỳ theo thời gian và mức đóng bảo hiểm xã hội, khoản trợ cấp một lần này
áp dụng với :
+ Ngời có từ 20 năm đến dới 30 năm đóng b đợc trợ cấp 1 tháng
lơng .
+ Ngời có từ 30 năm đến dới 35 năm đóng BHXH đợc trợ cấp 2
tháng lơng .
+ Ngời có trên 35 năm đóng BHXH đợc trợ cấp bằng 3 thàng lơng
Đối với ngời làm việc trong khu vực Nhà nớc thì tiền lơng tính trợ cấp một
lần là tiền lơng của tháng trớc khi nghỉ hu bao gồm lơng theo cấp bậc, chức vụ,
25


×