Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Luận văn kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở VN và các giải pháp thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.71 KB, 40 trang )

Mở đầu
Xây dựng một các ngành kinh tế hợp lý, hiệu quả cao là vấn đề hết sức quan
trọng để nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù
hợp với yêu cầu và bớc đi trong tiến trình hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế
giới là một trong những nội dung cơ bản của đờng lối đổi mới nền kinh tế đất nớc do
Đai hội lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đề ra. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005 ở
nớc ta có cơ cấu GDP theo ngành là: tỷ trọng nông nghiệp khoảng 20-21%, tỷ trọng
công nghiệp và xây dựng khoảng 40-41%, tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng 4142%. Để đạt đợc mục tiêu đề ra trên đây, góp phần thực hiện chủ trơng lớn của Đảng
và Nhà nớc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mỗi nhóm ngành phải đạt
tốc độ tăng trởng: nông nghiệp khoảng 4,3%, công nghiệp và xây dựng 10,8%, dịch
vụ 6,2%; tăng trởng GDP bình quân 7,5%. Trong những năm qua cơ cấu kinh tế
chuyển dịch chậm, mang tính tự phát, cha thật sự chủ động, còn nhiều bấp bênh, rủi
ro; hiệu quả sản xuất thấp dẫn đến không đạt đợc kế hoạch tăng trởng kinh tế đề ra.
Nó là vấn đề bức xúc nhất hiện nay, đang là vấn đề trung tâm trong các cuộc nghiên
cứu,thảo luận của Quốc hội và Chính phủ.
Ngày nay, thế giới có những biến đổi sâu sắc, ngày càng nhiều những biến
động khó lờng, nhiều yếi tố tác động đến sự phát triển kinh tế. Đề án nghiên cứu
theo phơng hớng chuyển dịch cơ cấu ngành một cách chủ động, linh hoạt phù hợp
với những biến động của trong và ngoài nớc. Đề án nghiên cứu "Kế hoạch hoá
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt Nam và các giải
pháp thực hiện".
Em xin chân thành cảm ơn đã nhiệt tình giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành đề án
này. mặc dù đã hết sức cố gắng trong qúa trình nghiên cứu, nhng do trình độ, kinh
nghiệm còn hạn chế và thời gian ngắn cha nghiên cứu đợc sâu sắc vấn đề nên bài viết
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Mong đợc sự góp ý của các thầy, các cô
và bạn bè để em có thể hiểu sâu sắc hơn vấn đề.

-1-



Chơng I

Một số vấn đề lý luận về
sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

I.

Cơ cấu kinh tế và phân loại cơ cấu kinh tế

1.

Khái niệm cơ cấu kinh tế

Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu
kinh tế. Các cách tiếp cận này thờng bắt đầu từ khái niệm cơ cấu. Là một phạm trù
triết học, khái niệm cơ cấu đợc sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan
hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu đợc biểu hiện nh là những mối
quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là
thuộc tính của một hệ thống. Do đó, khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ
thống.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ
cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc
dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tơng tác qua lại cả về số lợng
và chất lợng, trong những không gian và điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể, chúng vận
động hớng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, cơ cấu kinh tế là
một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là
một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau
trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định, đợc thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lợng, cả về số lợng lẫn chất

lợng, phù hợp với mục tiêu đợc xác định của nền kinh tế.
Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh đợc mặt bản chất chủ yếu của
cơ cấu kinh tế. Đó là các vấn đề:
- Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố câú thành hệ thống kinh tế của một quốc
gia.
- Số lợng và tỷ trọng các nhóm ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế
trong tổng thể nền kinh tế đất nớc.
- Các mối quan hệ tơng tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố...hớng vào
các mục tiêu đã xác định. Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tợng; muốn nắm vững
bản chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân.

2.

Phân loại cơ cấu kinh tế

2.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Trong bàI viết chú trọng nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành lên nền
kinh tế và các mối quan hệ tơng đối ổn định giữa chúng.
Các chỉ tiêu đánh giá:
- Loại chỉ tiêu dịnh lợng thứ nhất:tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành
của nền kinh tế.
- Chỉ tiêu định lợng thứ hai:Có thể mô tả đợc phần nào mối quan hệ tác động
qua lại giữa các ngành kinh tế, đó là các hệ số trong bảng can đối liên ngành (của hệ
MPS) hay bảng Vào- Ra (I/O)(của hệ SNA).
-2-


Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung

của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ
cấu ngành là nét đặc trng của các nớc đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành
của một quốc gia ngời ta thờng phân tích theo 3 nhóm ngành (khu vực):
+ Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm, ng nghiệp.
+ Nhóm ngành công nghiệp:bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
+ Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm các ngành thơng mại, bu điện, du lịch...
Trong công nghiệp cần chú ý đến các hệ số liên hệ phía thợng nguồn và các
hệ số liên hệ phía hạ nguồn.
* Các ngành công nghiệp thợng nguồn:là những ngành công nghiệp tạo
nguyên liệu và sản phẩm trung gian, đòi hỏi vốn đầu t cao và công nghệ cơ bản,
công nghệ cao.
* Các ngành công nghiệp hạ nguồn:là những ngành công nghiệp sản xuất ra
sản phẩm cuối cùng cho tiêu dùng, thờng đòi hỏi vốn đầu t ít, sử dụng nhiều lao
động, có thể có quy mô sản xuất vừa và nhỏ.
Những ngành công nghiệp thợng nguồn và hạ nguồn nêu trên có mối quan hệ
dọc rất chặt chẽ. Trong một chuyên ngành nhất định có thể có một hình thức tổ chức
khép kín từ công nghiệp thợng nguồn đến hạ nguồn của một quốc gia hay theo sự
phân công lao động quốc tế (theo thơng mại hay hợp đồng gia công) giữa các quốc
gia.
2.2. Cơ cấu lãnh thổ
Nếu cơ cấu kinh tế hình thành từ sự phân công lao động xã hội và chuyên môn
hoá sản suất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại đợc hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản
xuất theo không gian địa lý.
Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu địa lý thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và
đều là sự biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành
gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhát trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ,
có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Xu
hớng phát triển kinh tế lãnh thổ thờng là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có u tiên
một vài ngành và gắn liền sự hình thành phân bổ dân c phù hựp với các đIều kiện,
tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải

đảm bảo sự hình thành và phát triể có hiệu quả của các ngành kinh tế, các thành
phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nớc, phù hợp với đặc đIểm tự nhiên
ngành kinh tế xã hội, phong tục tập quángành truyền thống của mỗi vùng, nhằm
khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó.
2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
Nếu nh phân công lao động xã hội đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ
cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một
cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý pháI dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với
chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phats triển của lực lợng sản xuất, thúc đấy
phân công lao động xã hội...Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một
nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một
biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loạI cơ cấu trong nền kinh tế.
Ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ có quan hệ chặt chễ với nhau. Trong đó cơ cấu
ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ
có thể đợc chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi
cả nớc. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa
quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ.

-3-


II.

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.

Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế


Khái niệm: Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái
khác cho phù hợp với môi trờng phát triển đợc coi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế từ
dạng này sang dạng khác phù hợp với trình độ phát triển của phân công lao động xã
hội, sự phát triển của lực lợng sản xuất và các nhu cầu về kinh tế-xã hội của đất nớc.
Chuyển dịch cơ cấu đem tính khách quan thông qua thông qua những nhận
thức chủ quan của con ngời, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đã hình thành các
khái niệm:
- Điều chỉnh cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi một
số mặt, một số yéu tố cơ cấu, làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan từng
thời kỳ không tạo ra sự thay đổi đột biến, tức thời.
- CảI tổ cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu cơ cấu trên cơ sở thay đổi
một số mặt bản chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột
biến.
Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng luôn thay đổi theo
từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số lợng các
ngành hoặc sự thay đổi tỷ lệ giữa các ngành do sự xuất hiện hoặc sự biến mất của
một số ngành và và sự tăng trởng giữa các yếu tố cấu thành là không đồng đều. Đây
không chỉ đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà còn là sự biến đổi cả về lợng và chất
trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu
hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cảI tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc cha phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thhiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm
biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.

2.

Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu ngành kinh tế luôn luôn biến đổi cùng với qúa trình phát triển của nền
kinh tế. Mỗi thời kỳ, với những điều kiện cụ thể các ngành kinh tế tăng trởng với tốc

độ khác nhau dẫn đến cơ cấu ngành thay đổi. Các điều kiện này vừa có những tác
động tích cực vừa có tiêu cực đến tăng trởng kinh tế. Vì vậy, cần chủ động chuyển
dịch cơ cấu ngành phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn do điều
kiện hiện tại đặt ra để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững là vấn đề dặt ra
đối với tất cả các quốc gia ở tất cả các giai đoạn phát triển.

3.
nớc

Những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1. Những yếu tố cơ bản có liên quan đến xu thế phát triển kinh tế của đất
a. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel

Ngay từ đầu thế kỷ 19, nhà kinh tế học ngời Đức E.Engel đã nhận thấy rằng
khi thu nhập của gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lơng thực, thực phẩm
giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lơng thực, thực
phẩm nên có thể suy ra là tỷ tọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi
khi thu nhập tăng lên.
Quy luật của E.Engel đợc phát hiện cho tiêu dùng lơng thực, thực phẩm nhng
nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hớng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các
loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế học gọi lơng thực, thực phẩm là các sản phẩm
thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung cấp dịch vụ
là sự tiêu dùng cao cấp. Qua qúa trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hớng chung là
khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với
tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăngnhanh hơn tốc độ tăng thu
nhập.
-4-


Nh vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hớng của

việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình phát triển.
b. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher
Năm 1935, trong cuốn Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật, A. Fisher đã
giới thiệu kháI niệm việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai, thứ ba. A. Fisher quan sát
thấy rằng, các nớc có thể phân theo tỷ lệ phân phối tổng lao động của từng nớc vào
ba khu vực. Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và theo
một số quan điểm còn bao gồm cả khai thác mỏ. Khu vực thứ hai bao gồm công
nghiệp chế biến và xây dựng. Khu vực thứ ba gồm có vận tải, thông tin, thơng
nghiệp, dịch vụ nhà nớc, dịch vụ t nhân. Theo A.Fisher, tiến bộ kỹ thuật đã có tác
động đến sự phân bố lao động vào ba khu vực này. Trong qúa trình phát triển, việc
tăng cờng sử dụng máy móc và các phơng thức canh tác mới đã tạo điều kiện cho
nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để bảo đảm lợng lơng thực, thực
phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lợng lao động nh cũ và do vậy, tỷ lệ của
lực lợng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa vào số liệu thống kê thu thập đợc, A.
Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể giảm từ 80% đối với các ngành chậm phát
triển nhất xuóng 11-12 % ở các nớc công nghiệp phát triển và trong điều kiện đặc
biệt có thể xuống tới 5%. Ngợc lại, tỷ lệ lao động đợc thu hút vào khu vực thứ hai và
khu vực thứ ba ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực
này và khả năng hạn chế hơn của viẹc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là đối với
khu vực thứ ba.
c. Vai trò của khoa học vai trò nghệ trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
Khoa học và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong qúa trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đang
chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của khoa
học và công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành mà còn làm
phân công lao động xã hội trở nên sâu sắc và đa đến sự phân chia các ngành thành
nhiều ngành nhỏ hơn, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới, từ đó làm
thay đổi cơ cấu, vị trí giữa các ngành, hay thúc đẩy các ngành chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hớng:
+ Các ngành sản xuất vật chất (nông nghiệp, công nghiệp)đều tăng lên về sản

lợng tuyệt đối, nhng về tỷ trọng trong GDP so với các ngành sản xuất phi vật chất
(dịch vụ) lại giảm tơng đối.
+ Cơ cấu kinh tế trong, nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hớng ngày càng
tăng mạnh quy mô sản xuất ở các ngành có hàm lợng kỹ thuật, công nghệ cao.
d. Xu thế kinh tế thế giới
* Xu thế hoà bình hợp tác
Nhìn tổng quát, có thể dự báo xu thế hoà bình hợp tác phát triển trên thế giới
và khu vực tiếp tục gia tăng đi đôi với những cọ sát đấu tranh, cạnh tranh ngày càng
gay gắt, có thể có những bùng nổ khó lờng. Các nớc lớn, các trung tâm phát triển
lớn đang và sẽ giằng co, tranh giành ảnh hởng, lấn át kinh tế đối với các nớc khác.
Bên cạnh đó, trình độ phát triển ngày càng cao của lực lợng sản xuất cũng nh kinh tế
nói chung của thế giới đã tạo ra những cơ hội hợp tác, hội nhập để khai thác các
nguồn lực quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển quốc gia. Mỗi nớc với trình độ
phát triển khác nhau đều tìm thấy lợi thế của mình qua các quan hệ kinh tế quốc tế
và có thể tham gia opj tác phát triển dói nhiều hình thức.
* Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ
Trong thế kỷ XXI, với dự báo cách mạng khoa học và công nghệ sẽ có những
nhảy vọt khó lờng, yêu cầu mới và cũng là khả năng mới trong điều kiện nhân loại
đang bứoc vào nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện đó, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc phải triển khai theo t duy mới, phù hợp với giai đoạn mới. Việt Nam có
những lới thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và dồi dào về nguồn nhân lực, nếu
đợc phát huy sẽ là nhân tố tích cực để tiếp nhận khoa học và công nghệ gây dựng
năng lực nội sinh.
* Toàn cầu hoá và khu vực hoá
-5-


Là xu thế khác quan ngày càng tác động mạnh, thậm chí chi phối phát triển
kinh tế của các nớc. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần thấy hết mặt tích cực, thuận
lợi, cả mặt tiêu cực, khó khăngành thách thức và có chiến lợc thích ứng và lợi dụng

qúa trình này có hiệu quả nhất.
Dòng vốn Đầu t trực tiếp nớc ngoài(FDI) đến các nớc đang phát triển: Từ
những năm đầu của thạp kỷ 90, toàn cầu hoá và khu vực hoá đã tạo điều kiện cho
các dòng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Nguồn vốn này tăng liên
tục qua các năm, tuy có suy giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế năm 97.
Dòng vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện u đãi (ODA) đến các nớc đang
phát triển có xu hớng giảm dần.
Quốc tế hoá thơng mại, vốn và sản xuất. Bốn mơi năm qua kim ngạch thơng
mại hàng hoá của toàn thế giới đã tăng 6%/năm trong khi đó sản xuất hàng hoá chỉ
tăng 3,7%. Mức độ mở cửa của các nớc tăng. Sau thơng mại vốn đầu t cũng đã
nhanh chóng đợc quốc tế hoá. Cạnh tranh thơng mại và thu hút đầu t trên thế giới
diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
3.2. Các lý thuyết phát triển
Với t các là loạI lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đờng hay các mô hình
phát triển kinh tế của các nớc chạm phát triển hiện đang nỗ lực tiến hành công
nghiệp hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một trong
những nội dung cơ bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành.
Song, do bản thân thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với các đặc đIểm
đặc thù khác nhau, do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác
nhau nên cách giảI quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong qúa trình công
nghiệp hoá của các loạI lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể thấy đIều
này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau.
a. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế
T tởng cơ bản của ngời chủ xởng lý thuyết này Walt Rostow cho rằng, qúa
trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trảI qua 5 giai đoạn tuần tự
nh sau:
1/ Xã hội truyền thống: Với đặc trng là nông nghiệp giữ vai trò thống trị trong
đời sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém linh hoạt.
2/ Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Với những thay đổi quan trọng là trong xã hội
đã xuất hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới, kết cấu hạ tầng sản xuất,

nhất là giao thông đã phát triển. Bắt đầu hình thành những khu vực đầu tầu có tác
động lôI kéo nền kinh tế phát triển.
3/ Giai đoạn cất cánh: với những dấu hiệu quan trọng nh tỷ lệ đầu t so với thu
nhập quốc dân đạt mức 10%, xuất hiện những ngành công nghiệp chế biến có tốc độ
tăng trởng cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã hoọi, thuận lợi cho
sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đai và kinh tế đối ngoại.
4/ Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế là giai đoạn mà tỷ lệ đầu t trên
thu nhập quốc dân đạt mức cao(từ 10-20%) và xuất hiện nhiều cực tăng trởng mới.
5/ Kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt:là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất
đa dạng hoá, thị trờng linh hoạt và có hiện tợng suy giảm nhịp độ tăng trởng.
Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này hầu hết các nớc đang phát triển đang tiến
hànhcông nghiệp hoá hiện nay nằm ở giai đoạn 2và 3, tuỳ theo mức độ phát triển
của từng nớc. NgoàI những dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu,phải bắt
đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ nền
kinh tế tăng trởng. Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang 3 là sự
thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò đầu tàu. Nghĩa là trong chính sách cơ cấu
cần xét đến trật tự u tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua
mỗi giai đoạn phát triển cụ thể.
Do tiếp cận vấn đề góc độ khái quát lịch sử của nhiều nớc, lý thuyết phân kỳ
phát triển kinh tế không mô tả sâu những khía cạnh đặc thù của từng nớc hay từng
nhóm nớc, song những nhận xét khái quát chung ấy có thể xem nh những gợi ý rất
-6-


có ý nghĩa đối vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong qúa trình công nghiệp hoá của từng
nớc đang phát triển hiện nay.
b. Lý thuyết nhị nguyên
Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis (giải thởng Nobel năm 1979) khởi xớng,
tiếp cận vấn đề từ đời sống kinh tế của các nớc đang phát triển. Ông đã có những
kiến giải khá cụ thể về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công

nghiệp háo hiện nay. Lý thuyết nhị nguyên cho rằng ở các nền kinh tế này có hai
khu vực kinh tế song song tồn tại: khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp và khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại, du nhập từ bên ngoài. Khu
vực truyền thống có đặc đIểm là trì trệ, năng suất lao động thấp và d thừa lao động.
Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này sang khu vực công nghiệp
hiện đạI mà không ảnh hởng đến sản lợng nông nghiệp. Do có năng suất cao nên
khu vực công nghiệp hiện đạI có thể tự tích luỹ để mở rộng sản xuất một cách độc
lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện chung của toàn bộ nền kinh tế.
Kết luận đơng nhiên rút ra từ những nhận định này là để thúc đẩy phát triển
kinh tế của những nớc chậm phát triển, cần phải bằng mọi cách mở rộng khu vực
sản xuất công nghiệp hiện đại càng nhanh càng tốt mà không cần quan tâm tới khu
vực nông nghiệp truyền thống. Sự gia tăng của khu vực công nghiệp hiện đại tự nó
sẽ rút dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản xuất nông nghiệp
xã hội từ trạng thaí nhị nguyên thành một nền kinh tế công nghiệp phát triển.
PhảI nói răng những kết luận của lý thuyết nhị nguyên đã gây đợc ấn tợng
mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển đang mong muốn đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hoá. Trên thực tế, chính sách công nghiệp hoá và cơ cấu kinh tế ở nhiều
quốc gia chậm phát triển từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II đến thời gian gần đây
đã ít nhiều chịu ảnh hởng của lý thuyết này.
Lý thuyết kinh tế nhị nguyên còn đợc nhiều nhà kinh tế(J. Fei, G.Raní, Haris,
Todaro,...)tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận đIểm phát triển của họ là khả năng
phát triểnvà thu nạp lao động của khu vực công nghiệp hiẹen đại. Khu vực này có
nhiều khả năng lựa chọn kỹ thuật, trong đó có những loạI kỹ thuật có hệ số sử dụng
lao động cao, nên về nguyên tắc, có thể thu hút đợc lao động d thừa từ khu vực nông
nghiệp truyền thống. Nhng việc di chuyển lao động đợc giả định là do sự chênh lẹch
về mức thu nhập của lao động từ hai khu vực kinh tế trên quyết định. Có nghĩa là,
khu vực công nghiệp hiện đại chỉ có thể thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp
trong trờng hợp đang có nạn nhân mãn khi nó có mức lơng cao hơn mức thu nhập
khi họ còn ở nông thôn. Nhng khả năng duy trì sự chênh lệch này sẽ cạn dần cho
đến khi nguồn lao động d thừa ở nông thôn không còn nữa. Đến lúc đó, việc tiếp tục

di chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm cho sản lợng nông
nghiệp giảm đi, khiến cho giá cả hành hoá nông phẩm tiêu dùng tăng lên, kéo theo
mức tăng lơng tơng ứng trong khu vực sản xuát công nghiệp. Chính sự tăng lơng của
khu vực sản xuất công nghiệp sẽđặt ra giới hạn về mức cầu tăng thêm về lao động
của bản thân nó. Nh vậy mặc dù về mặt kỹ thuật- công nghệ khu vực công nghiệp
hiện đại có thể có khả năng thu dụng không hạn chế nhân lực, nhng về mặt thu nhập
và độ co dãn cung cầu nhân lực của hai khu vực thì sức thu nạp lao động từ khu vực
nông nghiệp của công nghiệp là có hạn.
Một hớng phát triển khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả năng
di chuyển lao động từ nông thôn ra khu vực công nghiệp- thành thị. Quá trình dịch
chuyển lao động chỉ trôi chảy khi tổng cung về lao động từ nông nghiệp phù hợp
với tổng cầu ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển này không chỉ phụ thuộc vào sự
chênh lệch thu nhập mà còn phụ thuộc vào sác xuất tìm đợc việc làm đối với những
ngời lao động nông nghiệp. Khi đa thêm yếu tố sác xuất tìm đợc việc làm vào
phân tích, ngời ta thấy xuất hiện các tình huống làm yếu đi khả năng di chuyển lao
động giữa hai khu vực nh sau:
- Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp:Về mặt này, so với nền công
nghiệp ở các nớc phát triển, khu vực gọi là công nghiệp hiện đạ ở các nớc chậm
phát triển yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, để vừa có khả năng cạnh tranh với nền
công nghiệp nớc ngoài khác, vừa làm đầu tàu lôi kéo sự tăng trởng của toàn bộ nền
kinh tế thì khu vực công nghiệp phảI hớng tới những ngành kỹ thuật cao. Nhng
-7-


những ngành này cần tăng hàm lợng vốn đầu t hơn là tăng hàm lợng lao động. Vì
thế, khu vực công nghiệp hiện đạI ở các nớc chậm phát triển cũng có nguy cơ gặp
phải vấn đề d thừa lao động chứ không riêng gì khu vực nông nghiệp.
- Khả năng đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật của ngời lao động nông nghiệp khi
chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là lao động nông thôn có
trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị, thậm chí cha quen với

môi trờng lao động công nghiệp. Việc đào tạo lao động công nghiệp kỹ năng cao
chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà phải có đầu t lớn, đến mức ngời ta xem nh
một trong những lĩnh vực đầu t quan trọng nhất đối với một nền kinh tế. Với những
phân tích trên, ngời ta thấy rằng xác suất tìm đợc việc làm mới ở khu vực công
nghiệp đối với ngời nông dân rời bỏ ruộng đồng là có giới hạn.
Tóm lại, khi phân tích sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai lĩnh vực sản xuất
vật chất quan trọng nhất của các nền kinh tế chậm phát triển trong thời kỳ công
nghiệp hoá, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ chỗ cho rằng chỉ cần tập trung vào
phát triển công nghiệp mà không chú ý tới nông nghiệp đến chỗ chỉ ra những giới
hạn của chúng và vì thế, cần quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong qúa trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế này
c. Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành
Những ngời ủng hộ quan điểm này nh R. Nurkse, P.Rosenstein-Rodan..., cho
rằng để nhanh chóng công nghiệp hoá, cần thúc đẩy phát triển đồng đều ở tất cả mọi
ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên những luận cứ sau:
- Trong qúa trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết với
nhau trong chhu trình đầu ra của ngành này là đầu vào của ngành kia. Vì thế sự
phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giữa các ngành nh vạy giúp tránh đợc ảnh hởng tiêu cực
của những biến động của thị trờng thế giới và hạn chế mức độ phụ thuộc vào các nền
kinh tế khác, tiết kiệm nguồn ngoại tệ vốn rất khan hiếm và thiếu hụt.
- Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối hoàn chỉnh nh vậy chính là nền
tảng vững chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nớc thuộc thế giới thứ ba chống
lại chủ nghĩa thực dân.
Lý cuốicùng tỏ ra rất hấp dẫn đối với nhiều quốc gia chậm phát triển mới
giành đợc độc lập về chính trị những năm sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Vì thế,
mô hình phát triển theo cơ cấu cân đối khép kín-mô hình công nghiệp hoá hớng
nội hay thay thế nhập khẩu đã trở thành trào lu phổ biến thời kỳ đó.
Tuy nhiên, thực tế đã dần dần cho thấy những yếu đIểm rất lớn của mô hình lý
thuyết này. ở đây có hai vấn đề cần đặc biệt cần đợc xem xét là:

- Thứ nhất, việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối, hoàn chỉnh đã đa nền
kinh tế đến chỗ khép kín và khu biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những
ngợc với xu hớng chung của tất thảy mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại là khu
vực háo và toàn cầu hoá, mà trong lúc ngăn ngừa những ứac động tieu cực cua thị trờng thế giới, đã bỏ qua những ảnh hởng tích cực do bên ngoài đem lại.
- Thứ hai, các nền kinh tế chậm phát triển không đủ khả năng về nhân tài, vật
lực để có thể thực hiện đợc những mục tiêu cơ cấu đặt ra ban đầu.
Cả hai yếu tố này đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hớng công nghiệp hoá gặp khó khăn, bởi lẽ cách tiếp cận trên đã làm phân tán các
nguồn lực phát triển rất có hạn của các quốc gia, khiến cho ngay cả việc sửa chữa
lại di sản cơ cấu kinh tế què quặt của thời kỳ thuộc địa cũ cũng bị trở ngại. Chính vì
thế, chỉ sau một thời kỳ tăng trởng, các nền kinh tế theo đuổi mô hình cơ cấu cân
đối này đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiểu năng.
d. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành cân đối hay các cực tăng trởng
Ngợc lại với quan điểm phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu cân đối khép kín
nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối (A.Hirschman, F.Perrons,
G.Destanne de Bernis...)cho rằng không thể và không nhất thiết phải đảm bảo tăng
-8-


trởng bền vững cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia, với
những luận cứ chủ yếu sau:
- Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây lên áp lực, tạo ra sự kích thích đầu
t. Trong mối tơng quan giữa các ngành, nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt tiêu động lực
khuyến khích đầu t nâng cao năng lực sản xuất. Do đó, nếu có những dự án đầu t lớn
hơn vào một số lĩnh vực thì thì áp lực đầu t sẽ xuất hiện bởi cầu lớn hơn cung lúc
đầu và sau đó thì cung lớn hơn cầu ở một số lĩnh vực. Chính những dự án đó có tác
dụng lôi kéo đầu t theo kiểu lý thuyết số nhân.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vai trò cực tăng
trởng của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế, cần tập trung
những nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong một thời điểm nhất định.
- Do trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, các nớc đang phát triển rất

thiếu vốn, lao động kỹ thuật, công nghệ và thị trờng nên không đủ điều kiện để cùng
một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, việc phát triển cơ cấu
không cân đối là một sự lựa chộn bắt buộc.
Lúc đầu lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì dờng nh nó bỏ qua những lỗ
lực xây dựng một nền kinh tế độc lập có cơ cấu ngành cân đối để chống lạI chỉ
nghĩa thực dân. Mặt khác, đằng sau cách dặt vấn đề xây dựng một cơ cấu không cân
đối và mở cửa ra bên ngoài là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tếmà thờng thì các nền kinh tế chậm phát triển gặp phải nhiều bất lợi hơn. Song, do
những hạn chế ngày càng trở nên rõ ràng của ý tởng thực hiện mô hình công nghiệp
hoá hớng nội có cơ cấu ngành cân đối hoàn chỉnh và những thành công thần kỳ
của một số nớc đi tiên phong, điển hình là nhóm NICs Đông á,lý thuyết phát triển cơ
cấu ngành không cân đối hay các cực tăng trởng ngày càng đợc thừa nhận rộng rãi.
Trên thực tế, mô hình công nghiệp mở cửa, hớng ngoại đã trở thành một xu hớng
chính yếu ở các nớc chậm phát triển từ thập niên 1980 trở lại đây.
e. Lý thuyết phát triển theo mô hình đàn nhạn bay
Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa trên lý
thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, ngời khởi xớng lý thuyết này,
giáo s Kaname Akamatsu đã đa ra những kiến giảivề quá trình đuổi kịp các nớc
tiên tiến nhất của các nớc kém phát triển hơn. Trong những ý tởng về sự đuổi kịp
này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xét trên góc độ phát triển
của toàn bộ nền công nghiệp, từng phân ngành hay thậm chí từng lọai sản phẩm
riêng biệt, qúa trình đuổi kịpvề mặt kinh tế và kỹ thuật của chúng đợc chia thành
4 giai đoạn sau:
Giai đoạn1:Các nớc kém phát triển nhập hàng công nghiệp chế biến từ các nớc
phát triển hơn và xuất khẩu một số sản phẩm thủ công đặc biệt.Giai doạn này xảy ra
sự phân biệt hay phân công lao động quốc tế ngay trong lòng các nớc kém phát
triển-chuyên sản xuất một số sản phẩm thủ công đặc biệt để bán và nhập khẩu hàng
tiêu dùng công nghiệp khác từ các nớc công nghiệp phát triển.
Giai đoạn 2:Các nớc chậm phát triển nhập sản phẩm đầu t từ các nớc công
nghiệp phát triển để tự chế tạo lấy hàng hoá công nghiệp tiêu dùng trớc đây vẫn phảI
nhập. Đây là giai đoạn các nớc kém phát triển bắt đầu tích luỹ t bản (vốn) và phỏng

theo (bắt chớc) công nghệ chế tạo từ các nớc công nghiệp phát triển. Ngoài việc
nâng cấp và mở rộng một số ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, nhìn toàn
cục giai đoạn 2 mang dáng dấp của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
đối với nhiều ngành sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng.Vì thế, những ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu phát triển mạnh trong giai đoạn
này. Song, những điều chỉnh cơ cấu kinh tế vĩ mô lại đợc giành u tiên cho các ngành
công nghiệp trợ giúp (kết cấu hạ tầng kinh tế)cho những công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng phát triển nh điện, nớc và giao thông vận tải.
Giai đoạn 3:là giai đoạn mà những sản phẩm công nghiệp thay thế nhập ở giai
đoạn 2 đã có thể trở thành sản phẩm xuất khẩu. Những sản phẩm đầu t trớc đây phải
nhập giờ đây đã có thể dần dần thay thế bằng nguồn khai thác và sản xuất ở trong n ớc. Nh vậy, khoảng cách kỹ thuật giữa các nớc đi sau các nớc công nghiệp phát triển
(trớc hết là trong lĩnh vực chế tạo hàng tiêu dùng) không còn xa cách bao nhiêu. Vì
-9-


vậy mà số lợng và quy mô mặt hàng xuất khẩu ngày càng mở rộng. Cơ cấu công
nghiệp đã trở nên đa dạng hơn cho chỗ có nhiều khả năng hơn về kỹ thuật đế lựa
chọn và lợi dụng các lợi thế so sánh so với trớc đây.
Giai đoạn 4: Là giai đoạn việc xuất khẩu hàng công nghiệp tiêu dùng bắt đầu
giảm xuống, nhờng chỗ cho việc xuất khẩu các loại hàng hoá đầu t vốn đã bắt đầu
phát triển ở giai đoạn 3. Về mặt kỹ thuật, nền công nghiệp đã đạt mức ngang bằng
với các nớc kém phát triển hơn.
Mô hình đàn nhạn bay vẫn tiếp tục diễn ra theo phơng thức này, mặc dù có
sử dụng sự thay đổi vị trí một số quốc gia nhất định.
Nh vậy với việc phân chia qúa trình công nghiệp hoá của các nớc đi
sauthành 4 giai đoạn trong mối liên quan với nền kinh tế khác theo mô hình đàn
nhạn bay, quan điểm chuyển dịch cơ cấu ngành của lý thuyết phát triển này có
nhiều điểm tơng đồng với lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay các
cực tăng trởng. Cũng giống nh trong lý thuyết phát triển không cân đối, các
cực tăng trởng ở đây cũng thay đổi theo từng giai đoạn và nhân tố có ý nghĩa

quyết định sự thay đổi này là lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thơng. Ngoài ra,
điều cần lu ý nữa là việc đuổi kịp các nớc công nghiệp phát triển diễn ra nhanh
hay chậm một phần rất lớn phụ thuộc vào việc lựa chọn các cực tăng tr ởng trong
mỗi giai đoạn nhất định.
Mỗi loại lý thuyết trên đây đều có những mặt mạnh không thể chối cãi, song
cũng luôn tỏ ra không phải có thể áp dụng thành công ở mọi nơi mọi lúc. Tuy nhiên,
có thể tổng hợp lại thành những điều mà đã đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu
ngành trong qúa trình phát triển (hay công nghiệp hoá) nh sau:
1-Các lý thuyết phát triển đều quan tâm việc xác định các tiền đề cần thiết của
qúa trình công nghiệp hoá.
2-Chúng không những chỉ coi chuyển dịch cơ cấu cơ cấu là một trong những
chỉ tiêu quan trọng của sự phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá mà còn chỉ ra
nội dung cụ thể của nó là tăng tỷ trọng của công nghiệp giảm tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP, dân số thành thị lớn hơn dân số nông thôn. Cách xác định nội dung
chuyển dịch cơ cấu nh vậy cho phép một mặt đánh giá mức độ thành công của công
nghiệp hoá của một quốc gia; mặt khác, tìm hiểu những nguyen nhân quy định tình
trạng thoáI triển hay không sao bắt kịp đợc vào qúa trình công nghiệp hoá đã xảy ra
ở một số nớc trên thế giới.
3-Đánh giá sự thành bại của các nớc đang công nghiệp hoá, lý thuyết phát triển
đã khẳng định rằng có những nguyên nhân thuộc về cơ cấu. Ngời ta nhận thấy rằng
trong những nớc không thành công, cơ cấu có tình trạng không liên kết bên trong.
G.Grellet nhận xét Tình trạng không liên kết bên trong ấy thê hiện một ma trận về
giao lu liên ngành công nghiệp và một ma trận về giao lu liên vùng hầu nh hoàn toàn
trống rỗng.
Nh vậy, kinh tế học của sự phát triểnđã đặt vấn đề cơ cấu và một trong
những vị trí cơ bản trong lý thuyết của mình để xem xét, đánh giá và phân loại các
dạng thức phát triển và thoái triển ở các nớc thuộc thế giới thứ ba. Việc đề cao vấn
đề cơ cấu đợc xem là một trong những thành công trong lý thuyết phát triển kinh tế
hiện đại. Bởi nó khắc phục đợc sự phiến diện trong nhìn nhận vấn đề kinh tế của các
nớc chậm phát triển khi chỉ xoay quanh chỉ tiêu tăng trởng kinh tế -tức là mức độ

tăng lên củ GNP và GNP đầu ngời.
Việc quan tâm đến vấn đề cơ cấu kinh tế thông qua việc chỉ ra tính chất
không liên kết bên trong ở một số nền kinh tế chậm phát triển nào đó mang hàm ý
về một giải pháp mang tính nguyên tắc:phải xây dựng một cơ cấu kinh tế có sự liên
kết, thúc đẩy, lôi kéo lẫn nhau trong qúa trình phát triển. Một cơ cấu nh vậy vừ là
điều kiện cho sự phát triển hay công nghiệp hoá, đồng thời lại vừa là kết quả, là một
chỉ số để xem xét mức độ thành công của công nghiệp hoá và phát triển.
4- Kinh tế học phát triển cho rằng hình thức chuyển dịch cơ cấu ngành của các
nớc chậm phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá diễn ra rất đa dạng. Việc nghiên
cứu trắc nghiệm kết hợp với so sánh lý thuyết đã cho phép mô tả một bức tranh
nhiều mầu sắc về về qúa trình chuyển dịch cơ cấu của các n ớc chậm phát triển
- 10 -


thuộc các khu vực khác nhau. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều ngời cho rằng không
có một khuôn mẫu chung duy nhất nào có thể áp dụng thành công cho mọ quốc gia.
Việc công nghiệp hoá bắt đầu từ đâu:công nghiệp, nông nghiệp hay dịch vụ vẫn
đang còn là vấn đề tranh cãi.
5- Việc thừa nhận tính đa dạng của các hình thức chuyển dịch cơ cấu trong qúa
trình công nghiệp hoá của các nớc đang phát triển hiện đang để lại một khoảng
trống mà ngời ta cho rằng sứ mệnh đặc biệt trong việc giải quyết vấn đề đó trao vào
tay các chính phủ. Trong các lý thuyết kinh tế, vai trò can thiệp của nhà nớc đợc
xem là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế.
Khái niệm về mức độ hợp lýtrong cơ cấu ngành kinh tế giữa các quốc gia là
một kháI niệm có tính co giãn lớn, phụ thuộc trớc hết vào những đặc đIểm đặc thù
của mỗi quốc gia nh c dân, cơ cấu và trình độ kinh tế kỹ thuật hiện có, tài nguyên
thiên nhiên, văn hoá và các mối quan hệ kinh tế quốc tế v.v...Rõ ràng là cần có sự
giải thích cụ thể hơn trong mỗi trờng hợp cụ thể cũng nh những ngành cụ thể.
6- Để có cơ cấu ngành hợp lý, các chính phủ phải đánh giá đợc các nguồn lực
bên trong, đồng thời phải đợc với các nguồn lực bên ngoàI trong điều kiện quốc tế

hoá đời sống kinh tế thế giới. Về điểm này, Kinh tế học phát triển cho rằng đối với
một số quốc gia dân số ít, nhỏ bé, chính điều kiện bên ngoài mới là yếu tố quyết
định cơ cấu ngành của họ.
3.3. Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm
Lý thuyết chu kỳ sống sản phẩm, xét trong khuôn khổ một hệ thống kinh tế
mở, (tức là trong đó, ngoại thơng là một yếu tố đợc giả định), cho rằng sự tồn tại về
mặt kinh tế của một sản phẩm (hay một ngành, cũng nh vạy) trải qua 5 thời kỳ. Thời
kỳ thứ nhất là du nhập sản phẩm.Đây là giai đoạn sản phẩm mới sản xuất trên thị trờng nội địa. Sự xuất hịên này có thể du nhập sản phẩm mới từ nớc ngoàI, có thể là
phát minh nhng điều quan trọng là sự xuất hiện này một mật giả định có tồn tại sẵn
công nghệ và kỹ thuật chế tạo nó, mặt khác tạo ra nhu cầu về nó.
Thời kỳ thứ hai, thay thế nhập khẩu là giai đoạn tiếp theo, khi nhu cầu về sản
phẩm mới đã tăng mạnh trên thị trờng trong nớc. Bắt đầu qúa trình triển khai công
nghệ và kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong nớc để thay thế hàng nhập khẩu.
Thời kỳ thứ ba, bành trớng xuất khẩu, trong thời kỳ này, nhu cầu nội địa với
sản phẩm đợc đáp ứng về căn bản, đồng thời, kỹ thuật-công nghệ sản xuất sản phẩm
đợc cải tiến và hoàn thiện. Sản phẩm đợc xuất khẩu ra nớc ngoài, cạnh tranh trên thị
trờng quốc tế với khôí lợng ngày càng tăng.
Thời kỳ thứ t là thời kỳ mà cả nhu cầu nội địa lẫn nhu cầu xuất khẩu đối với
sản phẩm dều giảm xuống chậm. Điều đó cản trở việc mở rộng sản xuất hơn nữa.
Bắt đầu xuất hiện dấu hiệu giảm sút năng lực cạnh tranh so với những nớc xuất phát
muộn hơn.
Thời kỳ thứ năm, nhập khẩu đảo đây là thời kỳ cuối cùng trong chu kỳ sản
phẩm nội dung của thời kỳ này là sản xuất trong nớc bắt đầu đối mặt với cạnh tranh
từ nớc ngoài nh là hệ quả tất nhiên của qúa trình bành trớng xuất khẩu sản phẩm
(đối với nớc ngoài là du nhập sản phẩm, sản xuất thay thế nhập khẩu và bắt dầu
xuất khẩu). Cuộc cạnh tranh này tạo ra một số bất lợi thế cho qúa trình sản xuất
trong nớc.Đó là bất lợi thế về thị trờng về chi phí sản xuất. Việc tiếp tục sản xuất sản
phẩm (mở rộng công suất hay duy trì mức cũ, thậm chí thu hẹp) trở nên kém hiệu
quả. Trong một quãng thời gian dài, sự lựa chọn không thể tránh khỏi là chuyển
sang một loại sản phẩm mới khác. Để bảo đảm hiệu qua và u thế cạnh tranh, đất nớc

phảI thực hiện bớc chuyển đó và vì thế không thể không nhập khẩu trở lại loại sản
phẩm trớc đây nó đã từng xuất khẩu.
Năm giai đoạn trên hình thành nên chu kỳ sống của sản phẩm. Nó xác định
tính chất yếu về kinh tế và kỹ thuật cho sự tồn tại của một ngành, một sản phẩm.
Đây chính là khuôn khổ lý thuyết tổng quát về qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên phạm vi thế giới. Trong phạm vi một nớc đIều này cũng đúng khi xét trong
quan hệ giữa các ngành và công ty. Khi quan sát qúa trình này, ngời ta thấy qúa trình
di chuyển cơ cấu là liên tục và mang tính khách quan. Khái niệm liên tục ở đây hàm
nghĩa một sự dợt đuổi thật sự về sản phẩm và công nghệ-kỹ thuật giữa các nớc.
- 11 -


Trong cuộc dợt đuổi này xuất hiện hai khả năng cho những nớc đi sau. Đó là:Thứ
nhất, rút ngắn khoảng thời gian của mỗi thời kỳ trong toàn bộ chu kỳ. Thứ hai, có
thể bỏ qua nhiều loại sản phẩm để chuyển nhanh sang loại sản phẩm mới.
3.4. Các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới
a. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hớng nội
Với mục tiêu là phát huy tính chủ động của chính phủ trong quản lý kinh tế,
bảo đảm và duy trì sự phát triển của các ngành sản xuất truyền thống của dân tộc,
nhiều nớc trên thế giới đã thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu cơ cấu kinh tế
theo mô hình hớng nội.
Mô hình hớng nội là chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế có xu hớng hớng
nội, có chiến lợc đóng cửa nhiều hơn. Nó khuyến khích theo hớng sản xuất cho thị
trờng trong nớc, nhấn mạnh việc thay thế nhập khẩu, tự túc về lơng thực, có thể cả
các mặt hàng phi mậu dịch.
Ban đầu chính phủ các nớc đang phát triển nhiều khi cũng lựa chọn các chính
sách chuyển dịch cơ cấu nhằm thúc đảy tự lực quốc gia, đặc biệt là tăng cờng sản
xuất lơng thực, các nông sản và khoáng sản mà chúng không đợc nhập khẩu. Các
biểu thuế nhập khẩu hoặc quota nhập khẩu lơng thực đợc thực hiện, đồng thời chính
phủ cũng đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu nhằm nâng cao nguồn thu, và làm giảm

sức thu hút của nền nm định hớng xuất khẩu tơng đối so với nền nông nghiệp hớng
nội.
Các chính sách trên sẽ đem tới sự mở rộng cho các ngành công nghiệp nhỏ với
sự trợ cấp thích hợp và dần dần khuyến khích nền công nghiệp hoá thay thế nhập
khẩu. Bên cạnh chính sách bảo hộ chhung, họ còn có thể thực hiện sự hỗ trợ có lựa
chọn cho nền công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu có tên là nền công nghiệp non
trẻ.
Chiến lợc đóng cửa là thực hiện công nghiệp hoá theo hớng thay thế nhập khẩu
núp đằng sau bức tờng bảo hộ mậu dịch. Do vậy ít tạo ra sức ép về cạnh tranh hơn,
làm cho cơ cấu ít nhạy bén hơn, đông cứng hơn Ngoài ra chiến lợc dựa trên cơ sở
bảo hộ mậu dịch và thay thế nhập khẩu có xu hớng kèm theo sự hối lộ và độc đoán,
gây trì trệ cho quá trình phát triển, ảnh hởng không nhỏ đến tăng trởng.
b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mô hình hớng ngoại
Mô hình hớng ngoại là mô hình với chính sách chuyển dịch cơ cấu đa nền
kinh tế phát triển theo hớng mở cửa nhiều hơn, có thể thúc đẩy thơng mại và các
luồng t bản đổ vào, khuyến khích lợi nhuận giữa việc sản xuất cho thị trờng trong nớc hay thị trờng ngoài nớc, tạo ra khả năng sinh lãi cao hơn trong việc sản xuất hàng
hoá xuất khẩu.
Có hai loại hình chiến lợc kinh tế mở cửa đó là:
Thứ nhất, tạo các khuyến khích về giá cả một cách tực theo hớng có lợi cho
xuất khẩu (chẳng hạn thông qua trợ cấp xuất khẩu).
Thứ hai, tạo ra sự trung lập thích hợp về giá cả giữa sản xuất trong nớc và thị
trờng nớc ngoài. Tức là chuyển các khuyến khích theo hớng có lợi cho sự mở cửa.
Đặc đIểm của các chính sách hớng ngoại ban đầu ở nhiều nớc đang phát triển
là hớng vào xuất khẩu vừa phải để tăng nguồn thu cho chính phủ, nhằm nâng cao cơ
sở hạ tầng để hàng hoá hỗ trợ cho xuất khẩu. Mô hìn này đợc thực hiện với các
chính sách thơng mại thiên về ủng hộ sự thay thế nhập khẩu, tạo ra một biểu thuế
nhập khẩu đem lại nguồn thu thích hợp mà không cần tới sự bảo hộ mạnh mẽ.
Sau khi hoàn thành những giai đoạn ban đầu của việc thay thế nhập khẩu, các
nớc đang phát triển thờng chuyển sang các chính sách hớng ngoại đối với các ngành
chế tạo máy. Cách tốt nhất là quan tâm đến việc cung cấp các đầu vào cho nhà xuất

khẩu trong khi cơ sở hạ tầng cha đáp ứng đầy đủ. Tài quản lý của chính phủ ở đây là
sự lựa chọn sáng suốt sự thay thế nhập khẩu có hiệu quả và đẩy mạnh xuất khẩu.
Xây dựng một chính sách thơng mại quốc tế cho phù hợp với nền kinh tế đang phát
triển, nhằm phục vụ tốt nhất các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội củ mỗi quốc gia.
- 12 -


Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hớng ngoại rất có ý nghĩa đối với thuế quan
và các hình thức khác của chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối đoái và
quản lý vĩ mô trong nớc. Vấn đề mở cửa có liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu
hoặc tài khoản vãng lai trong cán cân thanh toán. Việc quyết định hớng ngoại cho
dù ở mức độ nào thì cũng có nhiều tác động quan trọng đến các mặt của đời sống
kinh tế. Nó sẽ ảnh hởng tới việc phân bố sản xuất giữa các mặt hàng trao đổi đợc
xuất hoặc nhập khẩu; tăng cờng sử dụng nguồn lực và tới sự phân phối thu nhập
thông qua những tác động đối với thị trờng nhân tố sản xuất và thị trờng sản phẩm;
tới cơ cấu và tốc độ công nghiệp hoá; tới việc phân bổ đất đai và các nguồn lực khác
giữa cây lơng thực và cây phục vụ xuất khẩu, v.v...
Ưu đIểm của sự mở cửa là nó thúc đẩy qúa trình đổi mới và tăng năng suất lao
động nhanh, tạo ra khả năng thích nghi của nền kinh tế; tác động tốt đến qúa trình
phát triển dài hạn, có tác dụng tốt đối với sự tăng trởng của GDP.
Tuy nhiên, chiến lợc kinh tế mở của sẽ mang lại cho chính phủ nớc đó ít có
khả năng hành động theo ý mình hơn; có tác dụng xấu tới công nghệ trong nớc do
dựa vào t liệu sản xuất và công nghệ nhập khẩu, đặc biệt đối với các nớc nhỏ có thu
nhập thấp mà nền kinh tế của họ ở vào vị thế không thuận lợi. Việc thực hiện chính
sách thuế nhập khẩu thấp ở giai đoạn đầu có thể đem lại ảnh hởng xấu là tăng giá cả
tiêu dùng và một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu. Ngoài ra, khi các điều kiện
quốc tế trở nên không thuận lợi thì rủi ro có thể xảy ra, đem lại không ít hậu quả xấu
cho nền kinh tế-xã hội trong nớc.
c. Chuyển dịch cơ cấu theo mô hình hỗn hợp
Mô hình hớng về xuất khẩu lấy thị trờng nớc ngoài làm trọng tâm phát triển

công nghiệp. Điều đó mang lại những lợi ích thiết thực, song cũng đòi hỏi những
điều kiện rất khắt khe, mà trớc hết là các sản phẩm xuất khẩu phảI có khả năng cạnh
tranh trên thị trờng quốc tế. Đó là điều các nớc đang phát triển không dễ thực hiện
trong giai đoạn đầu của qúa trình công nghiệp hoá. Mặt khác, việc thiên về thị trờng
quốc tế đôi khi đẫn tới bỏ trống thị trờng nội địa cho hàng hoá nớc ngoài thâm
nhập.
Để khắc phục những tình trạng trên đây, ngời ta chuyển sang thực hiện mô
hình hỗn hợp. Mô hình này đợc xây dựng trên cơ sở kết hợp các yếu tố của mô hình
hớng nội (coi trọng thị trờng trong nớc, phát triển sản xuất các sản phẩm trong nớc
sản xuất có hiệu quả thay thế nhập khẩu) và các yếu tố của mô hình hớng ngoại
(phát huy lợi thế so sánh để đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, lấy yêu cầu
của thị trờng quốc tế làm hớng phấn đấu phát triển sản xuất trong nớc). Sự hình
thành mô hình này là sự điều chỉnh trọng tâm thị trờng phát triển sản xuất của mô
hình hớng nội và mô hình hớng ngoại. Trong sự kết hợp ấy,ngời ta vẫn u tiên nhiều
hơn cho hớng ngoại.
Trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay, Đảng ta đã
định rõ quan điểm xây dựng nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hớng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nớc
sản xuất có hiệu quả .
3.5. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một số nớc
*Malaxia
Là một nớc dành độc lập từ năm 1957, Malaixia bắt đầu bằng một nền kinh tế
(từ chỗ phụ thuộc Anh quốc)trong đó có 2 mặt hàng chiếm u thế là thiếc và cao su.
Liên tiếp từ đó, nền kinh tế của Malaixia liên tục thực hiện chính sách đa dạng hoá
rộng rãI các hàng sản xuất và đã đạt đợc tốc độ tăng trởng nhanh, trung bình từ
7%đến 8%hàng năm. Sản lợng GNP bình quân theo đầu ngời là 2000USD năm
1984. Danh mục các mặt hàng xuất khẩu có thêm dầu cọ, gỗ,ca cao và hạt tiêu.
Không những thế Malaixia còn là nớc sản xuất đứng đầu thế giới về cao su,thiếc,
dầu cọ và gỗ nhiệt đới và là nớc có khối lợng xuất khẩu lớn về dầu mỏ và khí tự
nhiên hoá lỏng.

Bằng những chính sách thiết thực nhằm thu hút vốn đầu t nớc ngoàI và ngành
công nghiệp, số lợng hàng xuất khẩu tăng nhanh, nhất là các linh kiện đIện tử, hàng

- 13 -


tiêu dùng đồ đIện,sản phẩm dệt và các hàng công nghiệp khác, góp phần đáng kể
tăng trởng kinh tế.
Sau những năm 1981-1982 (suy thoáI kinh tế trên khắp thế giới), các mặt hàng
xuất khẩu truyền thống của Malaixia bị giảm giá, làm giảm thu nhập và đầu t. Nhà
nớc Malaixia đã tìm cách kích thích nền kinh tế và đẩy nhanh tăng trởng công
nghiệp bằng việc đầu t vào một số cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng. Chi tiêu
Chính phủ tăng bằng cách đI vay nợ nớc ngoàI để mua cổ phàn của các công ty nớc
ngoàI với mụch đích có đIều kiện kiểm soát các công ty lớn của nớc ngoàI. Do vậy
mà nợ nớc ngoài của Malaixia tính đến năm 1984 đã tăng tới 15 tỷ USD. Năm 19851986, do ảnh hởng có giá dầu mỏ và dầu cọ trên thế giới giảm nhanh, sản lợng GNP
theo đầu ngời giảm xuống còn 1600 USD bình quân đầu ngời, thâm hụt lớn trong
ngân sách nhà nớc. Chính phủ đã phảI thy đổi một số chính sách nh bãI bỏ một vàI
mục tiêu và chi tiêu và tăng trởng trong kế hoạch lần thứ 5 (1986-1990), chú trọng
hơn về khu vực t nhân, t nhân hoá một số công ty quốc doanh và của chính phủ;
Công ty vận tảI biển quốc gia và hàng không quốc gia đợc bấn một phần cho các
nhà đầu t thông qua thị trờng chứng khoán.
Nền kinh tế Malaixia bắt đầu phục hồi từ năm 1987 liên tục đến năm 1989 nhờ
sự cảI thiện về giá cả hàng hoá và tăng trởng trong sản xuất công nghiệp. GDP thực
tế tăng 4,7%năm 1987, 9,5%năm 1988 và 7,7 %năm 1989.Hàng xuất khẩu chiếm
hơn 3//4 tăng trởng, dẫn tới cán cân thanh toán d thừa, đầu t nớc ngoài tăng lên, nợ
nớc ngoài giảm. Vốn là nớc có nguồn lực đất đai dồi dào, lực lợng lao động có học
vấn tốt và môI trờng chính trị ổn định, tiết kiệm trong nớc mạnh tạo đủ vốn cho đầu
t, ngoai ra với chính sách thu hút đầu t nớc ngoài, khả năng tăng trởng của Malaixia
là có triển vọng tiếp tục và thịnh vợng. Tuy nhiên, chính phủ Malaixia vẫn luôn phảI
có những chính sách phù hợp để đề phòng những tổn thơng do biến động từ bên

ngoàI.
* ĐàI Loan
Giai đoạn thứ nhất (1953-1964). Giai đoạn này tơng ứng với 3 kế hoạch 4 năm
phát triển kinh tế của Đài Loan:1953-1956, 1957-1960, 1961-1964.
Mục tiêu chiến lợc của Đài Loan giai đoạn này là phát triển công nghiệp nhằm
đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân nh ăn, mặc,ở đI lạI, học tập, giảI trí...Do vậy
đối với CNH ở giai đoạn này, thay thế nhập khẩu đợc coi là nhiệm vụ trọng tâm.
Trong giai đoạn này,Đài Loan một mặt chủ trơng phát triển các ngành sản xuất
trong nớc nhằm thay thế những sản phẩm phảI nhập khẩu trớc đây; mặt khác, đa ra
một loạt các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tự sản xuất đợc.
Chính quyền Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ công nghiệp nộ địa nh
miễn giảm thuế kinh doanh, cho vay với lãI suất thấp và các khoản trợ cấp khác.
Chiến lợc CNH thay thế nhập khẩu vớ các biện pháp tích cực đã đem lạI cho
Đài Loan một số kết quả nhất định. Giá trị sản lợng công nghiệp từ năm 1953-1962
tăng trung bình 11,7%/năm. Công nghiệp đợc mở rộng đã thu hút thêm một lợng lớn
lao động, từ 17%trong toàn bộ lao động đang làm việc năm 1951 tăng lên 25%năm
1964. Bớc ngoạt đánh dấu sự phát triển của công nghiệp Đài Loan là giá trị sản xuất
công nghiệp từ năm 1956 đã bắt đầu vợt giá trị sản xuất nông nghiệp.trong GDP.
Tuy nhiên, chiến lợc CNH thay thế nhập khẩu kể từ đầu thập niên 60 cũng đã
bộc lộ những mặt hạn chế của nó. Sản phẩm công nghiệp của Đài Loan không có
khả năng cạnh tranh trên thị trờng thế giới, còn tạI thị trờng trong nớc sức mua của
ngời dân rát hạn chế do thu nhập còn thấp. Trong khi đó, việc nhập khẩu các nguyên
liệu, thiết bị cần thiết cho công nghiệp hoá vẫn tiếp tục tăng lên khiến thâm hụt mậu
dịch, thâm hụt ngoạI tệ vẫn tiếp tục tăng. Tốc độ tăng trởng của công nghiệp bắt đầu
giảm vào đầu thập kỷ 60, từ 20%năm 1955 xuống chỉ còn 9,8% năm 1961. Riêng
tốc độ tăng trởng của công nghiệp chế biến- một thế mạnh của dự kiến trong thập kỷ
50 cũng giảm từ 14,4%năm 1960 xuống còn 8,1% năm 1962. Để thoát khỏi tình thế
bất lợi này và tìm kiếm con đờng phát triển cho Đài Loan, chính phủ và các nhà kinh
tế, giới kinh doanh của hòn đảo này đã chuyển chiến lợc CNH thay thế nhập khẩu
sang CNH theo hớng xuất khẩu.

Giai đoạn thứ 2(1964-1973). Triển khai CNH hớng về xuất khẩu Đài Loan đã
thực hiện một bớc thay đổi căn bản về chiến lợc phát triển, về quy chế và quản lý
- 14 -


kinh tế, thông qua một loạt cảI cách quan trọng nh áp dụng một chế độ một tỷ giá
hối đoáI. Thứ hai, chính phủ ĐàI Loan áp dụng nhiều biện pháp u đãI đối với các
doanh nghiệp sản xuất theo hớng xuất khẩu. Thứ ba, ngoàI các lỗ lực huy động
nguồn lực bên trong, ĐàI Loan còn ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút vốn và
công nghệ từ bên ngoàI.
Với phơng châm đề ra trong giai đoạn này là xuất khẩu để nhập khẩu, nhập
khẩu để thúc đẩy xuất khẩu, cả công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng của ĐàI
Loan ở giai đoạn này đã có bớc phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trởng bình quân
hàng năm là 18,5%. ĐIều quan trọng hơn là tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng
lên đáng kể, đạt 41,3% trong khi nông nghiệp đã giảm tơng đối, chỉ còn 15,5%. Sự
phát triển nhanh chóng của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế
nhanh của ĐàI Loan. GDP của ĐàI Loan giai đoạn này luôn luôn tăng trung bình là
10,1%/năm.
- Giai đoạn thứ 3(1974-1990). Giai đoạn này ĐàI loan tiếp tục công cuộc CNH
song có bớc đIều chỉnh quan trọng về cơ cấu ngành nghề, trong đó u tiên hàng đầu
là tập trung phát triển các ngành công nghiệp có hàm lợng vốn và kỹ thuật cao, tuy
vẫn duy trì chính sách phát triển các ngành công nghiệp nhẹ hớng ra xuất khẩu.

- 15 -


Chơng II

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế


I.

Những phơng hớng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ 19962000
Nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu
Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng trởng kinh tế bình quân
hàng năm 9-10%; dến năm 2000, GDP bình quân đầu ngời gấp đôI năm 1990.
Phát triển toàn diện nông, lâm, ng nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông,
lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hớng công nghiệp hoá, hiện
đạI hoá. Tốc độ tăng gía trị sản xuất nông, lâm, ng nghiệp bình quân hàng năm 44,5%. Phát triển các ngành công nghiệp chú trọng trớc hết công nghiệp chế biến,
công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở
công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, đIện tử, thép, phân bón, hoá
chất, một số cơ sở công nghiệp quốc phòng. Tốc độ tăng gía trị sản xuất công
nghiệp bình quân hàng năm 14-15%.
Phát triển các ngành dịch vụ, tập trung vào các lĩnh vực vận tảI, thông tin liên
lạc, thơng mại, du lịch, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, công nghệ, pháp lý...Tốc
độ tăng gía trị dịch vụ bình quân hằng năm 12-13 %.
Đến năm 2000 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 34-35% trong
GDP; nông, lâm, ng nghiệp chiếm khoảng 19-20%; dịch vụ chiếm khoảng 45-46%.

1.

Nông nghiệp

* Mục tiêu:
Phát triển nông nghiệp toàn diện hớng và bảo đảm an toàn lơng thực quốc gia
trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả, cảI thiện chất lợng
bữa ăn, giảm suy dinh dỡng.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở
bảo đảm vững chắc nhu cầu lơng thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây
công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển,

đảo, kinh tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh tháI,
tăng nhanh sản lợng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
* Nhiệm vụ:
Tăng nhanh sản lợng lơng thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có năng
suất và hiệu quả cao. Bố trí lạI mùa vụ để né tránh thien tai, chuỷên sang các vụ có
năng suất cao hoặc sang các cây có hiệu quả hơn. Dự kiến năm 2000, sản lợng lơng
thực đạt khoảng 30 triệu tấn bình quân đầu ngời 360-370 kg.
Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có hiệu quả
kinh tế cao; Trồng cây công nghiệp kết hợp với chơng trình phủ xanh đất trống, đòi
trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Đến năm 2000 đa tỷ trọng cây công nghiệp
chiếm khoảng 45% gía trị sản phẩm ngành trồng trọt.
Hình thành và phát triển các vùng chăn nuôI tập trung gắn với công nghiệp chế
biến thực phẩm. Đổi mới hệ thống giống có năng suất cao, chất lợng tốt. Thực hiện
chơng trình lạc hoá đàn lợn, cảI tạo đàn bò, phát triển bò sữa, bò thịt và thanh toán
một số bệnh nhiệt đới. Phấn đấu đến năm 2000, đa ty trọng ngành chăn nuôI trong
gía trị sản phẩm nông nghiệp lên khoảng 30-35%.
- 16 -


Phát triển nghề nuôI trồng thuỷ hảI sản ở cả nớc ngọt, nớc lợ và nớc mặn. Bảo
vệ và khôI phục rừng ngập mặn. Chuyển một số ruộng trũng, thờng bị úng lụt hoặc
bị nhiễm mặn, năng suất thấp sang nuôI trồng thuỷ sản. Đến năm 2000 diện tích
nuôI trồng thuỷ sản đạt trên 60 vạn ha.
Phát triển mạnh nghề đánh bắt xa bờ thông qua việc hỗ trợ cho ng dân vay vốn
và phát triển lực lợng quốc doanh Sản lợng thuỷ hảI sản năm 2000 khoảng 1,6-1,7
triệu tấn, trong đó sản lợng nuôI trồng khoảng 50-55 vạn tấn; xuất khẩu thuỷ hảI sản
1-1,1tỷ USD.
Trong 5 năm 1996-2000 phảI bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có và tạo thêm 2,5
triệu ha rừng trong đó có 1 triệu ha rừng trồng mới,đa diện tích đất đai đợc che phủ
bằng rừng và cây lâu năm khác lên 40%.


2.

Công nghiệp

* Mục tiêu:
Đổi mới công nghệ của phần lớn doanh nghiệp. Phát triển nhanh một số ngành
có lợi thế, hình thành một số ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực chế biến lơng thựcthực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp đIện tử và công nghệ thông
tin, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu.
Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế suất và khu
công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới.
Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. ở các thành phố, thị xã, nâng
cấp cảI tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, da các cơ sở không có khả năng sử lý ô
nhiễm ra ngoàI thành phố, hạn chế xây dựng cơ sở công nghiệp xen lẫn dân c.
* Nhiệm vụ:
Phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm và công nghiệp hàng tiêu dùng
nhằm đáp ứng nhu cầu trong nớc, đồng thời hớng mạnh về xuất khẩu, u tiên phát
triển những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và có hiệu quả cao.
Kết hợp nhiều loạI quy mô, nhiều trình độ công nghệ thích hợp, bảo đảm chế
biến phần lớn nông lâm, thuỷ sản của các vùng. Đầu t chiều sâu mở rộng công suất
và đổi mới công nghệ các cơ sở hiện có, đồng thời xây dựng với một số cơ sở sản
xuất với công nghệ hiện đạI.
Đa công suất xay xát lên khoảng 15 triệu tấn thóc vào năm 2000.
Đầu t chiều sâu, mở rộng các nhà máy đờng hiện có. Xây dựng mới một số nhà
máy có quy mô vừa và nhỏ ở những vùng nguyên liệu nhỏ, xây dựng các nhà máy
có thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đạI kể cả liên doạnh với nớc ngoàI. Sản lợng dờng năm 2000 khỏng 1 triệu tấn.
Cho dân vay vốn đầu t để phát triển mạnh cà phê. Tăng công suất chế biến,
nâng cao chất lợng và đa dạng hoá sản phẩm cà phê.
Nâng công suất chế biến mủ cao su từ 20 nghìn tấn hiện nay lên 70 nghìn
tấn/năm. Phát triển các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm từ cao su.

Phát triển chế biến thịt, sữa, thuỷ hảI sản ngành rau, quả theo nhiều quy mô.
CảI tạo các cơ sở hiện có và xây dựng các cơ sở mới hiện đạI, nhất là để phục vụ cho
xuất khẩu.
Phát triển mạnh công nghiệp nhẹ, nhất là dệt, may, da giày, giấy, các mặt hàng
thủ công mỹ nghệ. Đầu t hiện đạI hoá dây chuyền công nghệ, nâng chất lợng và sức
cạnh tranh của sản phẩm. Chuyển dần việc nhận gia công dệt may, đồ da sang mua
nguyên liệu, vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Khắc phục sự lạc hậu của ngành
sợ, dệt; phấn đấu đến năm 2000 sản xuất 800 triệu mét vảI, lụa gắn với việc phát
triển bông và tơ tằm. Đầu t chiều sâu các nhà máy hiện có và xây dựng mới một số
nhà máy gắn với phát triển vùng nguyên liệu để đa sản lợng giấy năm 2000 lên 30
vạn tấn.Sản xuất đồ dùng kim khí, đồ dùng bằng nhựa, chất tẩu rửa, mỹ phẩm đủ
cho nhu cầu trong nớc và cố phần xuất khẩu.
Tiếp tục đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu và khí năm 2000 đạt
khoảng 20 triệu tấn dầu quy đổi, trong dố khoảng 16 triệu tấn dầu thô và 4 tỷ mết
- 17 -


khối khí. Xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng khí thiên nhiên khí đồng hành.
Hoàn thành hai công trình đờng ống dẫn khí để sử dụng 4,5-5 tỷ m/ năm. Xây dựng
nhà máy lọc dầu số 1 (6,5 triệu tấn/ năm) Chuẩn bị xây dựng nhà máy lọc dầu số 2
hoặc mở rộng nhà máy lọc dầu số 1) và xây dựng ngành công nghiệp hoá dầu.
Tăng nhanh nguồn đIện; hoàn thành xây dựng và xây dựng gối đầu một số cơ
sở phát đIện lớn để tăng thêm khoảng 3000 MW công suất huy động trong 5 năm tới
và gối đầu khoảng1000MW công suất cho sau năm 2000. Sản lợng đIện vào năm
2000 khoảng 30 tỉ KWh. Xây dựng, cảI tạo hệ thống các trạm biến áp và đờng dây
tảI đIện đồng bộ với nguồn. Cố chính sách và biện pháp tích cực, hữu hiệu để sử
dụng đIện hợp lý, tiết kiệm.
Phát triển ngành than hớng vào tăng công suất hiện có bằng phục hồi, cảI tạo,
mở rộng một số mỏ. Duy trì công suất các mỏ đang khai thác.Năm 2000 đạt khoảng
10 triệu tấn than sạch.

Tăng thêm công suất phân lân đạt sản lợng1,2 triệu tấn vào năm 2000. Xây
dựng nhà máy phân đạm số 1từ khí có công suất 60- 80 vạn tấn/ năm. Xây dựng gối
đầu nhà máy phân đạm số 2 có công suất tơng tự đa vào vận hành trong kế hoạch 5
năm sau.
Đa vào sản xuất các nhà máy xi măng đang xây dựng; huy động và vay vốn để
mở rộng, xây dựng mới một số nhà máy xi măng, kể cả lò đứng; liên doanh với n ớc
ngoàI xây thêm một số nhà máy. Sản lợng xi măng năm2000 đạt khoảng 18-20 triệu
tấn.
Đầu t hoàn chỉnh các day chuyền sản xuất thép hiện có, khởi công xây dựng
mới một số nhà máy thép, chú trọng khâu tạo phôi. Năm 2000 sản xuất 2 triệu tấn
thép. Kết hợp chế tạo trong nớc với nhập khẩu đế trang bị một phần máy móc các
dây truyền thiết bị cho nền kinh tế và có sản phẩm xuất khẩu. Trớc mắt, hớng vào
sản xuất thiết bị toàn bộ cho công nghiệp chế biến nông sản, các loạI phơng tiện vận
tảI...phát triển mạnh công nghiệp đóng tầu, lắp ráp và chế tạo ô tô xe máy.
Xây dựng và phát triển nhanh công nghiệp đIện tử và công nghệ thông tin,
chọn một số hớng đI sớm vào hiện đạI phục vụ ché tạo máy và tự động hoá một số
khâu có sản phẩm xuất khẩu. Phát triển dịch vụ tin học, nhất là phần mềm nghiên
cứu khoa học.

3.

Chơng trình phát triển kinh tế dịch vụ

* Mục tiêu:
Phát triển mạnh các loạI dịch vụ, mở thêm những loạ hình mới đáp ứng nhu
cầu đa dạng của sản xuất kinh doanh và đời sống.
Tạo môI trờng cạnh tranh lành mạnh trong dịch vụ. Giữ ổn định giá cả, nhất là
đối với các mặ hàng và dịch vụ thiết yếu.
* Nhiệm vụ
Phát triển thơng nghiệp, bảo đảm lu thông hàng hoá thông suốt, dễ dàng trong

cả nớc, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu và miền núi, chú trọng công tác tiếp thị
trong và ngoàI nớc. Thơng nghiệp quốc doanh đợc củng cố và phát triển trong những
ngành hàng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống, nắm bán buôn, chi phối bán lẻ.
Tăng cờng quản lý thị trờng, hớng dẫn các thành phần kinh tế trong thơng
nghiệp phát triển đúng hớng, đúng chính sách, pháp luật,cạnh tranh lành mạnh;
chống trốn thuế, lậu thuế, lu thông hàng giả.
Tăng cờng vai trò đIều tiết vĩ mô của nhà nớc, xử lý kịp thời mọi diễn biến bất
lợi của thị trờng. Hoàn thiện hệ thống dự trữ quốc gia, dự trữ lu thông.
Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trờng đến năm 2000 gấp 2,5 lần năm 1995,
tăng bình quân hàng năm 20% (tính theo giá năm 1995).
Tăng nhanh khối lợng, nâng cao chất lợng và độ an toàn vận tảI hành khách,
hàng hoá, trên tất cả các loạI hình vận tảI. Nâng cao năng lực đủ sức đảm nhận tỷ lệ
thị phần theo luật pháp quốc tế trong vận tảI hàng không, viễn dơng.
- 18 -


Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tơng xứng với tiềm
năng du lịch to lớn của đát nớc theo hớng du lịch văn hoá, sinh tháI, môI trờng. Xây
dựng các chơng trình và các đIểm du lịc hấp dẫn về văn hoá, di tích ịch sử và khu
danh lam thắng cảnh.
II.

Thực trạng qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 1996-2000

1.

Thực trạng qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 19962000

Cơ cấu kinh tế đã có bớc chuyển dịch tích cực
Cơ cấu các ngành kinh tế đã có bớc chuyển dịch theo hớng công nghiệp hoá,

hiện đạI hoá. Tỷ trọng nông, lâm, ng nghiệp trong GDP đã giảm từ 27,2%năm 1995
xuống còn 24,3% năm 2000; công nghiệp và xây dựng từ 28,7% tăng lên 36,6% và
dịch vụ từ 44,1%năm 1995 còn 39,1%. Mặc dù vây vẫn cha đạt đợc mục tiêu đề ra
trong Nghị quyết ĐạI hội VIII (cơ cấu vào năm 2000 tơng ứng là 19-20%, 34-35%
và 45-46%).

Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Ước2001

Tốc độ tăng trởng so với năm trớc(%)
Nông lâm Công nghiệp Dịch
Tổng nghiệp
và và xây dựng
số
vụ
thuỷ sản
9,34
4,40
14,46
8,80
8,15
4,33
12,62
7,14
5,76

3,53
8,33
5,08
4,77
5,23
7,76
2,25
6,75
4,04
10,07
5,07
7,10
4,10
14,50

Nông lâm
nghiệp và
thuỷ sản
27,76
25,77
25,78
25,43
24,30

Cơ cấu
Công nghiệp
và xây dựng
29,73
32,08
32,49

35,50
36,61

Dịch
vụ
42,51
42,15
41,73
40,67
39,09

1.1. Cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch tích cực góp phần quan trọng vào
tăng trởng kinh tế
Giá trị sản xuất nông, lâm, ng nghiệp tăng bình quân hàng năm 5,7% so với
mục tiêu đề ra 4,5-5%, trong đó nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4%, ng
nghiệp 8,4%.
Cơ cấu mùa vụ đã chuyển dịch theo hớng tăng diện tích lúa đông xuân và lúa
hè thu có năng suất cao, ổn định. Các loạI giống lúa mới đã đợc sử dụng trên 87%
diện tích gieo trồng. Sản lợng lơng thực có hạt tăng bình quân hàng năm trên 1,6
triệu tấn; lơng thực bình quân đầu ngời tăng từ 360 kg năm 1995 lên 444 kg năm
2000.
Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với công nghiệp chế
biến bớc đầu đợc hình thành; sản phẩm nông nghiệp đa dạng hơn. So với năm 1995,
diện tích một số cây công nghiệp tăng khá:cà phê gấp 2,7 lần, cao su tăng 46%, mía
tăng khoảng 35%, bông tăng 8%, thuốc lá tăng trên 18%, rừng nguyên liệu giấy
tăng 66%,...Một số loạI giống cây công nghiệp có năng suất cao đã đợc đa vào sản
xuất đạI trà.
Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng từ
13,5%triệu đồng/ha năm 1995 lên 17,5 triệu đông/ha năm 2000.
Chăn nuôI tiếp tục phát triển. Sản lợng thịt lợn hơI năm 2000 ớc trên 1,4 triệu

tấn,băng 1,4 lần so với năm 1995.
Nghề nuôi, trồng và dánh bắt thuỷ sản phát triển khá. Sản lợng thuỷ sản đánh
bắt năm 2000 đạt trên 2 triệu tấn so với mục tiêu kế hoạch 1,6-1,7 triệu tấn; xuất
khẩu đạt 1.475 triệu USD.
Công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng có tiến bộ. Trong 5 năm đã trồng
1,1 triệu ha rừng tập trung, bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có, khoanh nuuoi táI sinh
700 nghìn ha. Độ che phủ rừng tăng từ 28,2% năm 1995 lên 33% năm 2000.
Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2000 đạt 4,3 tỷ USD, gấp hơn 1,7 lần so
với năm 1995, bình quân hàng năm chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu của cả
- 19 -


nớc; đã tạo đợc ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo (đứng thứ hai thế giới), cà phê
(đứng thứ ba)và hàng thuỷ sản chiếm 34%giá trị xuất khẩu toàn ngành.
1.2. Cơ cấu công nghiệp
Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm 13,5.
Một số ngàng công nghiệp tiếp tục tổ chức và sắp xếp lạI sản xuất, lựa chọn
các sản phẩm u tiên và có lợi thế, có nhu cầu của thị trờng để đầu t chiều sâu, đổi
mới công nghệ đạt chất lợng cao hơn, đáp ứng nhu cầu trong nớc và xuất khẩu.
Năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá:năm 2000 so
với năm 1995, công suất đện gấp 1,5 lần (tăng 2.715 MW); xi măng gấp 2,1 lần
(tăng 8,7 triệu tấn); phân bón gấp trên 3 lần (tăng 1,5 triệu tấn); thép gấp 1,7 lần
(tăng 1,0 triệu tấn); mía đờng gấp hơn 5 lần (tăng hơn 60.000 tấn mía / ngày).
Sản lợng một số sản phẩm quan trọng tăng nhanh. Năm 2000 so với năm 1995,
sản lợng dầu thô gấp 2,1 lần; đIện gấp 1,8 lần; than sạch vợt ngỡng 10 triệu tấn,
trong đó xuất khẩu 3,0 triệu tấn; thép cán gấp hơn 3 lần; xi măng gấp hơn 2 lần; vảI
các loạI gáp 1,5 lần; giấy các loạI gấp 1,7 lần,...
Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp (kể cả tiểu thủ công nghiệp) tăng nhanh,
năm 2000 đạt 10 tỷ USD, gấp 3,4 lần năm 1995, chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nớc.

Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành một số
sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất
có công nghệ hiện đạI. Đến năm 2000, công nghiệp khai thác dầu thô, khí tự nhiên
và dịch vụ khai thác dầu khí chiếm khoảng 11,2% tổng giá trị sản xuất toàn ngành,
công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uóng chiếm khoảng 20%, công nghiệp sản
xuất và phân phối đIện, khí đốt, hơI nớc chiếm khoảng 5,4%.
Ngành xây dựng đã tiếp nhận công nghệ xây dựng mới, trang bị thêm nhiều
thiết bị hiện đạI, đáp ứng nhhu cầu phát triển trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và
công nghiệp, có thể đảm đơng việc thi công những công trình quy mô lớn, hện đạI
về công nghệ; năng lực đấu thầu các công trình xây dựng cả trong và ngoàI nớc đợc
tăng cờng.
Đáp ứng đủ nhu cầu xi măng, tấm lợp;cơ bản đáp ứng nhu cầu về thép xây dng
thông thờng.Một số vật liệu xây dựng chất lợng cao (gạch lát nền, gạch ốp lát)sản
xuất trong nớc đạt tiêu chuẩn châu Âu và khu vực.
1.3. Cơ cấu dịch vụ đã phát triển đa dạng
Giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm.Thơng mạI phát triển khá, bảo đảm lu chuyển, cung ứng vật t, hàng hoá trong cả nớc và trên từng vùng. Thơng mạI quốc
doanh đợc sắp xếp lạI theo hớng nắm bán buôn, tham gia kinh doanh bán lẻ đối với
một số mặt hàng thiết yếu; mạng lới trao đổi hàng hoá với nông thôn, miền núi bớc
đầu đợc tổ chức lạI. Tổng mức hàng hoá bán lẻ tăng bình quân 6,2%/năm (đã loạI
trừ yếu tố biến động giá).
Du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lợng dịch vụ đợc nâng lên. Tổng
doanh thu du lịch tăng 9,7%/năm.
Dịch vụ vận tải về cơ bản đáp ứng dợc nhu cầu giao lu hàng hoá và đi lại của
nhan dân. Khối lợng luân chuyển hàng hoá tăng 2%/năm và luân chuyển hành
khách tăng 5,5%/năm.
Dịch vụ bu chính- viễn thông có bớc phát triển và hiện đạI hoá nhanh. Giá trị
doanh thu bu đIện tăng bình quân hàng năm 11,3%/năm.
Các dịch vụ tàI chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm,... đợc mở rộng.Thị trờng dịch vụ bảo hiểm đã đợc hình thành với sự tham gia của các thành phần kinh tế
trong và ngoàI nớc; dịch vụ tà chính, ngân hàng đã có những đổi mới quan trọng,
tăng bình quân hàng năm 7,0%.

Các loạI dịch vụ khác nh t vấn pháp luật, khoa học và công nghệ,...bắt đầu phát
triển.

- 20 -


2.

Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế năm 2001

Để có đIều chỉnh cho kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với
những điều kiện mới nảy sinh và những kết quả thực tế chúng ta đã đạt đợc ở năm
đầu của kế hoạch 5 năm 2001-2005 cần đánh giá thực trạng cơ cấu ngành đạt đợc
trong năm qua.
(1) Trong nông, lâm, ng nghiệp, đã có những chuyển động mạnh hơn trong
chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng,vật nuôI theo hớng hiệu quả; phát triển trồng
cây nguyên liệu để phục vụ cho các cơ sở chế biến để thay thế hàng nhập khẩu đã có
bớc khởi động, rõ nét là cây bông, cây thuốc lá...Dự kiến giá trị sản xuất ngành
nông, lâm, ng nghiệp năm 2001 tăng 4,1% (kế koạch 4,3%), trong đó nông nghiệp
tăng 2,2%, thuỷ sản có bớc phát triển khá, đã chiếm trên 16% giá trị toàn ngành và
tăng 15,5% so với năm 2000. Một lý do quan trọng nông nghiệp không đạt kế
hoạch là do giá các hàng hoá nông sản xuống thấp.
Đến nay đã có hơn 200 ngàn ha đất trồng lúa, năng suất thấp chuyển sang nuôI
tôm và một số cây trồng khác có hiệu quả hơn. Sản lợng lơng thực có hạt năm 2001
ớc khoảng 34 triệu tấn, giảm gần 1 triệu tấn so với năm 2000.
Các loạI cây công nghiệp có thị trờng tiêu thụ nh cao su, chè...đợc phát triển
theo hớng, tăng năng suất; đối với một số cây công nghiệp có thị trờng tiêu thụ khó
khăn, giá xuống thấp nh cà phê, hạt đIều, nhân đIều,...đã có sự chọn lọc, cơ cấu lạI.
Chăn nuôI phát triển khá, đàn trâu bò, lợn, gia cầm đều tăng; sản lợng thịt tăng
6%; sản lợng sữa tăng gần 25%.

Trồng mới trên 230 ngàn ha rừng, khoanh nuôI táI sinh 157 ngàn ha rừng, tỷ lệ
che phủ rừng cả nớc ớc đạt gần 34%.
NuôI trồng thuỷ sản có bớc phát triển mạnh, sản lợng thuỷ sản cả nớc ớc đạt
khoảng 2,3 triệu tấn.
Chơng trình phát triển về giống đã đợc chú trộng đầu t, hệ thống các trung tâm
giống, các trạm, trạI giống cây trồng vật nuôI...đợc đầu t nâng cấp.
Mặc dù nhiều vùng đã có sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cây trồng và vật
nuôI theo hớng phát huy lợi thế và hiệu quả hơn, nhng cũng chỉ là bớc đầu.
Công tác quy hoạch phát triển các vùng cha thật sự gắn kết với việc xây dựng
các cơ sở chế biến, giữa sản xuất và nhu cầu thị trờng tiêu thụ sản phẩm, nên hiệu
quả không cao.
(2) Sản xuất công nghiệp tăng trởng khá cao và đồng đều trong các khu vực
kinh tế và các trung tâm công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp ngoàI quốc doanh
tăng rất cao. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 14,5%(kế koạch 13%).
Nhiều sản phẩm quan trọng có mức tăng khá cả về sản xuất và tiêu thụ nh
khai thác khí, sản xuất đIện, than sạch, thép, xi măng, xe đạp,cơ khí, chế biến sữa,
chế biến thuỷ sản...
Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp vẫn còn nhiều tồn tại, một số ngành sản xuất
còn khó khăn, cha tập trung đầu t đúng mức cho các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh;
một số sản phẩm sản xuất trong nớc giá thành còn cao, khả năng cạnh tranh các sản
phẩm thấp. Nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nớc nh cấp vốn,
hạ lãI suất vốn vay, bù lỗ, miễn, giảm thuế...tính năng động trong sản xuất kinh
doanh kém.
Một vấn đề bức súc nhất hiện nay là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam không chỉ trên thị trờng quốc tế, mà ngay cả trên sân nhà. Nhiều sản phẩm của
Việt Nam hiện nay tồn tạI đợc là nhờ sự bảo hộ của Nhà nớc nh đồ nhựa, xe máy,
xe đạp, đồ dùng gia đình, đồ hộp, gạch ốp lát, may mặc, chất tẩy rửa. Đó là cha kể
các biện pháp bảo hộ phi thuế quan nh hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu...Trong khi
đó, thời hạn cam kết cắt giảm thuế quan theo CEPT/AFTA đã đến gần kề.
Để tăng tính cạnh tranh, trong đó một nhân tố quan trọng là phảI giảm đợc chi

phí đầu vào. Muốn giảm chi phí "đầu vào" có những vấn đề phụ thuộc vào khả
năng của doanh nghiệp nh đổi mới quản lý, cảI tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ,
- 21 -


đào tạo đội ngũ quản lý...nhng còn nhiều vấn đề nằm ngoàI khả năng của doanh
nghiệp thuộc về cơ chế, chính sách, hiệu quả quản lý của Nhà nớc.
Theo số liệu của Ban Vật giá Chính phủ, đIện dùng cho sản xuất công nghiệp ở
Việt Nam lên tới 6,30 Cent/kWh, trong khi đó tạI Trung Quốc chỉ là 4,50
Cent/kWh, Malaixa là 5,7 Cent/kWh và Inđônêxia là 4,50 Cent/kWh. Cớc đIện thoạI
đI quốc tế bình quân của Việt Nam là 1,97 USD/phút, trong khi đó ở Trung Quốc là
6,3 USD/phút, THáI Lan là 1,55 USD/phút, Singapore 0,88 USD/phút, Malaixia 1,03
USD/phút, Inđônêxia là 1,38 USD/phút. Xi măng đóng bao của Việt Nam là 51,5
USD/tấn, trong khi tai Singapore là 47,7 USD/tấn, Inđônêxia là 46,7 USD/tấn. Còn
nhiều chi phí khác lớn hơn các nớc nh chi phí vận chuyển, nớc,bảo hiểm, lơng tối
thiểu...nhiều chi phí "đầu vào" đã không hợp lý, nhng vẫn đang có xu hớng tăng lên.
NgoàI chi phí "đầu vào" cao doanh nghiệp còn đối mặt với các loạI phí và lệ
phí. Hiện nay, bên cạnh những loạI phí và lệ phí chính thức thành văn bản, doanh
nghiệp còn dối mặt với các loạI phí và lệ phí không chính thức khác (?).Đối với các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, bên cạnh phí hảI quan hay chi phí cho các loạI thuế
đã quy định còn phảI đóng rất nhiều loạI phí dơí các hình thức khác nhau, mà nếu
không nộp đủ thì hàng hoá sẽ bị ách tắc, doanh nghiệp phảI chịu chi phí lu kho, mất
cơ hội kinh doanh, làm tăng chi phí sản xuất và tăng giá thành sản phẩm.
Chi phí để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trờng quốc tế thờng là rất lớn.
Nhà nớc cha có cơ chế quản lý, hỗ trợ đủ mạnh để cung cấp thông tin và các phơng
tiện giao dịch công cộng. Một trong những đIểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam
tạI thị trờng thế giới là khả năng tiếp hỗ trợ xuất khẩu.
Thêm vào đó là các thủ tục hành chính quá rờm rà, mất nhiều thời gian, việc
cấp giấy phép kinh doanh, quyết định cho thuê đất, vấn đề giảI phóng mặt bằng thờng kéo dài, quy chế đấu thầu còn nhiều bất cập, tình trạng hình sự hoá các giao
dịch kinh tế còn nhiều phức tạp, phiền nhiễu...

Hàng hoá Việt Nam cạnh tranh kém còn do trình độ thiết bị công nghệ lạc
hậu. Ví dụ, trong ngành cơ khí, thiết bị cơ khí lạc hậu đến 4-5 thập kỷ so với mặt
bằng thế giới. Hiện nay toàn bộ hệ thống công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam sử
dụng để sản xuất công cụ, hàng tiêu dùng, máy động lực...hầu hết đều ra đời từ trớc
thập kỷ 80 và có tới 30 %có tuổi thọ hơn nửa thế kỷ. Trong nông nghiệp, thiếu công
nghệ bảo quản và chế biến. Đến nay, khoảng 70 % lợng hàng nông sản xuất khẩu
chủ yếu dới dạng thô, làm cho giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu thấp. Và ngợc lạI
các mặt hàng gạo cao cấp, cà phê, hạt đIều đã qua chế biến của nớc ngoài vẫn
chiếm lĩnh thị trờng Việt Nam.
Tỷ lệ nội địa hoá của hàng Việt Nam thấp. Để sản xuất, các ngành hàng phụ
thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Ví dụ để sản xuất giấy, các công ty phảI
nhập khẩu bột giấy, loạI nguyên liệu này chiếm tới 70%giá thành sản phẩm. Đối với
ngành dệt may 90% nguyên liệu là nhập khẩu và theo đó nguyên liệu này chiếm tới
60% giá thành sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hoá ở các ngành xe máy, ô tô còn rất thấp.
Đó là kết quả của việc tổ chức cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ cha đợc làm tốt.
Cụ thể là ở lĩnh vực công nghiệp nhẹ còn cha đa dạng về ngành hàng và tập trung
khá nhiều vào một số lĩnh vực dẫn đến sự trùng lắp. Trong hơn 740 dự án còn hiệu
lực có đến 300 dự án đầu t vào ngành sợi, dệt, may, trên 60 dự án về sản xuất giầy
dép và nguyên phụ liệu, 60 dự án về bao bì các loạI và hơn 30 dự án về sản xuất
kinh doanh túi xách...ứơc tính chỉ 3 nhóm ngành hàng trên đã chiếm hơn 3/4 tổng số
vốn đầu t nớc ngoài vào ngành công nghiệp nhẹ. Do đó đã dẫn đến cạnh tranh gay
gắt về đầu ra còn đầu vào thì phần lớn phảI nhập khẩu.
(3) Các hoạt động dịch vụ, du lịch, vận tải, bu chính viễn thông và các loạI
hình dịch vụ khác nh tài chính ngân hàng, chuyển giao công nghệ...đều có bớc phát
triển. Đặc biệt ngành du lịch có bớc phát triển mới, tiềm năng du lịch ở nhiều địa
phơng đã đợc khai thác có hiệu quả. Lợng hàng hoá trong lu thông ở hầu hết các địa
phơng tăng khá, kể cả các tỉnh miền núi; giá cả thị trờng ổn định.
Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ hàng hoá xã hội tăng 8,7%; khối lợng
hàng hoá luân chuyển tăng 9,6%, khối lợng hành khách luân chuyển tăng 6,7%.
Tổng doanh thu bu chính viễn thông tăng khoảng 14%; mật độ đIện thoạI đạt 5,3

- 22 -


máy trên 100 dân; khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng 7,5%. Công suất sử
dụng phòng, buồng ở các khách sạn đạt trên 60%.
Tuy nhiên, chất lợng dịch vụ cha đợc cảI thiện rõ rệt; dịch vụ vận chuyển chất
lợng cao còn nhiều bất cập, tình trạng chậm giờ, bỏ chuyến trong vận chuyển hàng
không cha đợc khắc phục; tai nạn giao thông tiếp tục gia tăng, vận chuyển hành
khách bằng phơng tiện giao thông công cộng tạI các thành phố lớn tăng chậm; dịch
vụ ngân hàng, dịch vụ cá nhân và cộng đồng, dịch vụ khoa học và công nghệ, t vấn;
kinh doanh bất động sản...chậm phát triển.
Một tình trạng bức súc nhất là ngân hàng có tiền nhng không cho vay đợc còn
ngời kinh doanh muốn vay tiền nhng không vay đợc.
Đánh giá tổng quát:
Năm 2001 nền kinh tế nớc ta tiếp tục phát triển khá và ổn định; cơ cấu kinh tế
công nghiệp, nông nghiệp có bớc chuyển dịch tích cực, thuỷ sản phát triển khá, sản
xuất công nghiệp và các hoạt động dịch vụ tăng khá cao.
Chất lợng tăng trởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Cơ
cấu sản xuất chuyển dịch cha kịp với yêu cầu của thị trờng nhất là việc khắc phục
kém về chất lợng và giá cả cao; chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp còn
mang tính tự phát, cha thật sự chủ động, còn nhiều bấp bênh, rủi ro; việc quy hoạch,
xác định từng sản phẩm để đầu t, kể cả đầu t chiều sâu nhẳm thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu sản xuất trong công nghiệp tiến hành còn chậm; chi phí sản xuất cao và có xu
hớng tăng lên; thiếu thông tin thị trờng; đóng góp của khoa học công nghệ và tăng
năng suất, chất lợng, giá trị sản phẩm còn ít.

3.

Những thuận lợi và khó khăn cho những năm tiếp theo


1. Những thuận lợi
Những thành tựu về kinh tế, xã hội đạt đợc trong những năm đổi mới đã tạo
nhiều thuận lợi cơ bản cho các năm tiếp theo; nguồn lực vật chất, trí tuệ và tinh thần
của đất nớc, nhân dân ta còn nhiều tiềm năng; năng lực sản xuất và trình độ sản xuất
của nhiều ngành kinh tế tăng lên đáng kể; nền kinh tế nớc ta đang chuyển dịch cơ
cấu sản xuất, bớc đầu thích nghi hơn với những biến động của thị trờng trong nớc và
quốc tế.
Việc triển khai các chơng trình hành động thực hiện nghị quyết ĐạI hội IX,
cũng nh việc sửa đổi, bổ sung một số đIều của Hiến pháp năm 1992 mở ra bớc tiến
mới trong cảI cách hành chính, nâng cao hiệu lc quản lý của Nhà nớc, cảI thiện
mạnh mẽ quan hệ giữa các cơ quan nhà nớc, doanh nghiệp và ngời dân sẽ là nhân tố
quan trọng đẩy nhanh tiến trình đổi mới kinh tế, xã hội; tạo ra những động lực mới
để huy động mọi nguồn lực đầu t phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Tiến độ sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh
nghiệp nhà nớc theo nghị quyết Trung ơng 3 (khoá IX) sẽ đợc đẩy mạnh thực hiện,
cùng với việc tiếp tục thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển
mạnh các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế sẽ phát huy nội lực nhiều hơn
cho phát triển kinh tế-xã hội.
Trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, sự ổn định
chính trị-xã hội của nớc ta và sự cảI thiện đáng kể môI trờng đầu t, kinh doanh trong
những năm qua là một lợi thế lớn, cần tận dụng, sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
hợp tác kinh tế, thơng mại với nớc ngoàI, đẩy nhanh thu hút đầu t và du lịch quốc tế.
Mặt khác, việc thực hiện theo một tiến trình chủ động và hợp lý các cam kết
đối với các cơ chế hợp tác song phơng và đa phơng mà nớc ta đã tham gia, trớc hết
là các cam kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM,...sẽ tạo ra những khả năng
mới để mở rộng và đa dạng hoá mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế quốc tế và khu
vực. Hiệp định thơng mại Việt- Mỹ đợc thông qua sẽ cho phép tăng dung lợng của
hàng hoá nớc ta trên thị trờng Mỹ, nhất là hàng nông, thuỷ sản, dệt may, da giày...


- 23 -


2. Những khó khăn
ở trong nớc, cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực cha chuyển dịch
kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trờng trong và ngoàI nớc. Hiệu quả
sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của toàn nền kinh tế cũng nh của từng
ngành, từng sản phẩm cha đợc cảI thiện đáng kể, chuyển dịch cơ cấu lao động chậm.
Khả năng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh nghiệp Việt Nam còn
thấp khá xa so với nhu cầu.
Bên cạnh đó, kinh tế thế giới còn diễn biến không thuận lợi và phức tạp; những
khó khăn lớn có thể vẫn kéo dàI và ảnh hởng không nhỏ đến kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội nớc ta:
Các nền kinh tế lớn trên thế giới và trong khu vực đều giảm mạnh tốc độ phát
triển. Sau sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ, sẽ càng khó khăn hơn, khả năng hồi phục sẽ bị
chậm lạI, ảnh hởng đến khả năng tăng trởng kinh tế nớc ta, nhất là trên các lĩnh vực
xuất khẩu, thu hút vốn bên ngoàI và du lịch quốc tế.
Việc thực hiện các cam kết quốc tế trong tiến trình hội nhập kinh tế, bên cạnh
việc mang lạI nhiều thuận lợi quan trọng, cũng sẽ đặt các doanh nghiệp nớc ta trớc
sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nớc ngoài ngay trên thị trờng nội địa.
Dự báo thị trờng thế giới về nông sản và hàng công nghiệp tiêu dùng chủ yếu
cho thấy sẽ không có những thay đổi cơ bản trong hai năm tới, giá cả trên thị trờng
thế giới cha tăng lên đáng kể. Do đó, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cả nớc ta nh
gạo, cà phê, cao su, chè, dệt may, giày dép...sẽ tiếp tục phảI đối mặt với tình trạng
giá xuất khẩu thấp; thu nhập của nền kinh tế nớc ta nói chung và nông dân nói riêng
sẽ tăng chậm.
NgoàI ra, việc Trung quốc một đất nớc có 1,2 tỷ dân (dân số lớn nhất thế giới),
một đất nớc đang trên đà phát triển cao,ổn định nhất thế giới và biên giới giáp với
chúng ta vừa ra nhập tổ chức thơng mại thế giới WTO cũng tạo cho chúng ta những
cơ hội và thách thức rất lớn. Một thị trờng đợc đánh giá là thợng vàng hạ cám đòi

hỏi chúng ta phảI nghiên cứu đa ra đợc cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm phát huy
những đIểm mạnh và hạn chế những đIểm yếu của để nền kinh tế có thể hoạt động
hiệu quả

4.

Nguồn lực chủ yếu cho qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong
thời kỳ 2001-2005

1. Vốn đầu t cho phát triển
Theo tính toán ban đầu khả, năng huy động nguồn vốn cho đầu t phát triển
trong 5 năm tới vào khoảng 830-850 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2000), tơng đơng
59-61 tỷUSD tăng khoảng 11-12%/năm, trong đó nguồn vốn trong nớc chiếm
khoảng 2/3. Tỷ lệ đầu t so với GDP chiếm khoảng 31-32% bảo đảm tốc độ tăng trởng kinh tế 7,5%/năm và có công trình gối đầu cho kế hoạch 5 năm tiếp theo.
Trong tổng vốn đầu t xã hội, đầu t phát triển từ ngân sách nhà nớc chiếm 2021%; đầu t bằng tín dụng nhà nớc chiếm 17-18%; khu vực doanh nghiệp nhà nớc
đầu t chiếm 19-20%; khu vực dân c, doanh nghiệp t nhân đầu t trực tiếp 24-25%;
đầu t trực tiếp nớc ngoài theo dự báo và tính toán ban đầu dự kiến đa và thực hiện
chiếm 16-17%.
Toàn bộ nguồn vốn bên ngoài có thể thu hút cho đầu t phát triển là 18-20 tỷ
USD trong đó:
Khả năng thu hút nguồn ODA trong 5 năm tới ODA khoảng 10-11 ty USD,
FDI khoảng 9-10 tỷ USD.Ngoài ra còn khả năng thu hút các nguồn khác khoảng 1-2
tỷ USD.
2. Thực trạng lao động
Tại thời điểm 1-7-2001, dân số nớc ta là 78,7 triệu ngời,tăng 1 triệu so với năm
2000, trong đó dân số khu vực thành thị là 19,2 triệu ngời (24,4%); dân số khu vực
nông thôn là 59,5 triệu ngời (75,6%). Hộ thuần nông ở khu vực nông thôn vẫn cao
(68,26%).
- 24 -



Về độ tuổi lao động, tính chung trong toàn quốc,số ngời dới tuổi lao động là
30,35%, trong độ tuổi lao động là 59,25% và trên độ tuổi lao động là 10,40 %, các
nhóm tuổi có tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế cao nhất là từ 35-39 tuổi, tiếp đến là
nhóm 25-29 tuổi; 40-44và 45-49...Cơ cấu lao động năm 2001 so với năm 2000 vẫn
chuyển dịch theo hớng tích cực, tỷ lệ lao động trong nhóm ngành nông, lâm, ng
nghiệp tiếp tục giảm; công nghiệp, xây dựng, dịch vụ tăng nhanh. Trình độ học vấn
của lao động tơng đối cao: 78% tốt nghiệp tiểu học trở lên; 36,5% lao động thờng
xuyên ở thành thị đã tốt nghiệp từ phổ thông trung học trở lên. Tuy nhiên, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của lao động còn rất thấp, 83% không có chuyên môn kỹ
thuật. Cơ cấu trình độ của lao động rất bất hợp lý. Tỷ lệ lao động có trình độ đại
học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật hiện nay ở Việt Nam là 1-1,63,6 so với mức bình quân của thế giới là 1-4-20.
Tỷ lệ thất nghiệp giảm chậm 6,4% năm 2000 xuống còn 6,28% năm 2001. Tỷ
lệ sử dụng thời gian lao động còn thấp. Số tỉnh có tỷ lệ sử dụng thời gian lao động
dói 75% vẫn còn tới 67,21% trong tổng 61 tỉnh thành phố.

- 25 -


×