Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

NHỮNG vấn đề PHÁP lý về cổ PHẦN hóa DOANH NGHIỆP NHÀ nước QUA THỰC TIỄN cổ PHẦN hóa DOANH NGHIỆP NHÀ nước TRONG QUÂN đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.44 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----o0o-----

HÀN MẠNH THẮNG

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC
(QUA THỰC TIỄN CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
TRONG QUÂN ĐỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2005


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----o0o-----

HÀN MẠNH THẮNG

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC
(QUA THỰC TIỄN CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
TRONG QUÂN ĐỘI)
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 6.01.05


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Phạm Hữu Nghị

HÀ NỘI – NĂM 2005


3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BQP

Bộ Quốc phòng

CPH

Cổ phần hoá

CTCP

Công ty cổ phần

CPH DNNN

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

DN


Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước


4

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

1

Chƣơng 1: Những vấn đề chung về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nƣớc và cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nƣớc trong quân đội
1.1.

Khái
niệm
cổ
hoá.............................................................................

phần

6

1.2


Phân biệt cổ phần hoá và tư nhân hoá.............................................

9

1.3

Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong
quân đội.............................................................................................................

13

1.4
1.5

Đặc điểm, đối tượng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam.....................................................................................................
Khái quát tình hình cổ phần hoá trên thế giới, ở Việt Nam và
trong quân đội............................................................................

27
31

Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp
luật về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc và cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc trong quân đội ở
nƣớc ta hiện nay
2.1.


Thực trạng pháp luật của Nhà nước về cổ phần hoá
doanh
nghiệp
nhà
nước

37

..........................................................................................

2.2
2.3
2.4

Thực trạng những quy định của Bộ Quốc phòng về cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong quân đội....................

50

Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam.....................................................................................................................

64

Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong
quân đội............................................................................................................

70

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện

phápluật về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc và


5

cổ phần hoá cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc
trong quân đội
3.1.

Dự báo tình hình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
nói chung, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong
quân
đội
nói
riêng
trong
thời
gian
tới..........................................................

85

Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nói chung .............

87

3.3

Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về

cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong quân đội......

90

3.4

Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật đối với cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và
nâng cao hiệu quả cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước......

95

Kết luận

104

Tài liệu tham khảo

106

3.2.


6

MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, nhiệm vụ đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN
được Đảng và Nhà nước thực sự quan tâm và đề ra nhiều chủ trương, chính sách

và biện pháp tích cực. Một trong những nhiệm vụ đổi mới và nâng cao hiệu quả
DNNN đó là CPH DNNN.
Có thể thấy, CPH một bộ phận DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước nhằm tăng cường hiệu quả của DN, góp phần thực hiện những mục
tiêu kinh tế-xã hội, đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập với khu vực và thế
giới. CPH một bộ phận DNNN là một chủ trương quan trọng trong cả chương
trình đổi mới DN ở Việt Nam, là một giải pháp mang tính đột phá nhằm chuyển
đổi DNNN từ đơn sở hữu thành đa sở hữu (sở hữu nhà nước, người lao động
trong và ngoài doanh nghiệp). Kết quả hoạt động của các DNNN sau khi chuyển
thành CTCP trong thời gian qua đã khẳng định CPH là khâu quan trọng để tạo
nên bước chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DN.
Thực tế hiện nay, do chưa có nhận thức thống nhất về CPH, cả về khái
niệm, nội dung, phương pháp, trình tự...chưa thấy rõ trách nhiệm của từng cấp,
từng ngành nên công tác CPH DNNN còn nhiều vấn đề phải được bổ sung hoàn
chỉnh. Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật để điều chỉnh lĩnh vực này, nhưng việc hoàn thiện và bổ sung những
quy định mới cho phù hợp hơn với điều kiện kinh tế và cơ chế quản lý doanh
nghiệp ở Việt Nam nói chung và trong quân đội nói riêng vẫn còn nhiều bất cập.
Ngay từ khi mới được thành lập, cùng với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, kết
hợp làm kinh tế luôn là nhiệm vụ cơ bản mà quân đội phải thực hiện. Quán triệt
nhiệm vụ này, các DN trong quân đội luôn tuân thủ và thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về các vấn đề mới trong
phát triển kinh tế, xây dựng đất nước..., trong đó CPH một bộ phận DNNN trong
quân đội là một nhiệm vụ.


7

Thực tế hiện nay, do chưa có nhận thức thống nhất về CPH DNNN trong
quân đội nên các ngành, các cấp trong và ngoài quân đội chưa thấy rõ trách

nhiệm của mình, dẫn đến các văn bản quy định về CPH còn gây ra nhiều khó
khăn, vướng mắc khi thực hiện đối với các DNNN trong quân đội. Việc soạn
thảo các văn bản hướng dẫn thực hiện CPH còn nhiều bất cập như không phù
hợp hoặc không khả thi khi thực hiện, có văn bản không thể thực hiện được trong
quân đội; một số văn bản của BQP ban hành để thực hiện không phù hợp với quy
định chung của luật nhưng phù hợp với đặc thù của quân đội...
Những vướng mắc đó không chỉ ở cơ chế quản lý, ở tổ chức nhân sự, tài
chính doanh nghiệp, vốn góp khi tham gia cổ phần, chế độ, chính sách đối với
người lao động, trình tự CPH...mà còn ở cả các quy định của pháp luật khi áp
dụng đối với các DNNN trong quân đội.
Do có nhưng đặc thù trong công tác tổ chức, trong cơ chế quản lý, trong
sử dụng nguồn vốn và đất đai do nhà nước giao...nên khi tiến hành CPH, các DN
trong quân đội gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc và tiến độ cổ phần thường rất
chậm so với các DN bên ngoài quân đội.
Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý về CPH nói chung (thực tiễn
áp dụng trong quân đội nói riêng) để làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực
tiễn khi CPH một bộ phận DNNN trong quân đội là yêu cầu cấp thiết. Công trình
nghiên cứu khoa học này được thực hiện với mong muốn đóng góp một phần
nhỏ trong việc đề xuất những cơ sở lý luận, thực tiễn và kiến nghị những giải
pháp nâng cao hiệu quả việc CPH DNNN trong quân đội trước yêu cầu hiện nay.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề CPH DNNN đang được sự quan tâm đặc biệt trong lý luận và thực
tiễn hiện nay ở nước ta, cho đến nay, vấn đề này đã được đề cập nghiên cứu xem
xét trên những nét chung nhất gắn liền với việc phân tích, luận giải những quan
điểm và nguyên tắc xây dựng. Trong hơn 10 năm qua đã có rất nhiều các văn bản
của Đảng, Nhà nước, cũng như BQP hướng dẫn triển khai thực hiện CPH
DNNN, đã có nhiều đề tài khoa học, luận án tiến sỹ, thạc sỹ, các bài viết đăng


8


trên các tạp chí khoa học đề cập, luận giải và nghiên cứu về CPH DNNN. Các
công trình nghiên cứu đó đều thống nhất ở sự cần thiết phải thực hiện CPH và
hoàn thiện cơ chế chính sách về CPH DNNN. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu như :
- Cuốn sách Bàn về cải cách toàn diện DNNN của Trương Văn Bân, NXB
Chính trị quốc gia, 1996
- Cuốn sách Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động của công ty cổ
phần của Đoàn Văn Trường, NXB Thống kê, Hà Nội 1998.
- Cuốn sách Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật công ty ở Việt Nam
hiện nay của Nguyễn Thị Thu Vân, NXB Chính trị quốc gia, 1998.
- Cuốn sách về Cổ phần hoá DNNN những vấn đề lý luận và thực tiễn, của
PGS,TS Lê Hồng Hạnh, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
- Đề tài “Mô hình tổ chức và phương thực hoạt động của Quân đội tham
gia sản xuất, xây dựng kinh tế do Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu làm chủ nhiệm. Và
một số bài viết gần đây được đăng trong các tạp chí “Nhà nước và pháp luật”,
“Quốc phòng toàn dân”.
Tuy vậy, trong những công trình nghiên cứu đó, vấn đề CPH đối với
DNNN trong quân đội gần như chưa được đề cập, hoặc chủ yếu đươc xem xét từ
góc độ chính trị- xã hội, kinh tế đơn thuần, cũng chưa có tác phẩm riêng biệt
nghiên cứu xem xét một cách toàn diện vấn đề CPH đối với DNNN trong quân
đội, đặc biệt từ góc độ pháp lý, luật kinh tế. Trong lý luận và thực tiễn khái niệm,
nội dung, chủ thể hình thức, phương pháp, vấn đề CPH đối với DNNN trong
quân đội bằng pháp luật...có vấn đề vẫn còn được hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác
nhau và là vấn đề chưa thống nhất, cần được nghiên cứu xem xét.
3- Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a/ Mục đích nghiên cứu:
Góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về CPH đối với DNNN nói chung và
trong quân đội nói riêng. Đồng thời đề xuất một số phương hướng và giải pháp
nhẵm nâng cao hiệu quả công tác CPH đối với DNNN trong quân đội.



9

b/ Nhiệm vụ của luận án :
- Nghiên cứu khái quát thực trạng CPH đối với DNNN nói chung và trong
quân đội góp phần làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, đối tượng CPH đối với
DNNN nói chung và trong quân đội nói riêng. Những đặc điểm và những yếu tố
tác động đến CPH đối với DNNN trong quân đội.
- Nghiên cứu một số quy định của pháp luật về CPH đối với DNNN.
- Nghiên cứu một số quy định của pháp luật về CPH đối với DNNN trong
quân đội. Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này, qua đó tìm ra
được các nhược điểm, vướng mắc cần khắc phục.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số phương hướng,
giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả việc CPH đối với DNNN trong quân đội.
4- Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a/ Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề pháp luật liên quan đến tiến trình CPH DNNN
trong quân đội (cơ sở lý luận, chủ trương, chính sách, tổ chức thực hiện, giải
quyết các vấn đề có liên quan đến người lao động, quyền sử dụng đất).
b/ Phạm vi nghiên cứu:
Hệ thống các vấn đề về CPH đối với DNNN nói chung và trong quân đội
rất rộng và là vấn đề còn chưa được nghiên cứu nhiều. Luận án tập trung thể hiện
và xác định những vấn đề cơ bản nhất của CPH đối với DNNN nói chung và
trong quân đội nói riêng. Đồng thời nghiên cứu những vấn đề cần sửa đổi, bổ
sung khi cổ phần hoá đối với DNNN trong quân đội thông qua việc tìm hiểu các
quy định của pháp luật, các hình thức hoạt động khác của nhà nước và thực tiễn
CPH các DNNN trong quân đội thời gian qua.
5- Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận của

Triết học Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề kinh tế kết hợp với quốc phòng, các nguyên tắc của lý luận pháp luật,
lý luận về luật kinh tế.


10

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê để giải quyết nội dung mà đề tài đặt ra.

6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong quân đội
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong quân đội ở
nước ta hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hoá cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
trong quân đội


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

11

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC TRONG QUÂN ĐỘI
1.1 Khái niệm cổ phần hoá
Thế kỷ XX, cùng với thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và xã hội hoá
cao của lực lượng sản xuất, đã xuất hiện DNNN như một công cụ để Nhà nước
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong các nước tư bản phát triển, tỷ trọng sở hữu nhà
nước có khác nhau, có nước ít như Mỹ 2%, Anh 8%, Nhật 11%, có nước cao như
Italy 39-42% [ 13, tr.73 ]. Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau song tất cả
các DNNN đều có điểm chung là hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy, từ đầu thập
niêm 80, nhiều nước có nền kinh tế thị trường thường chọn tư nhân hoá như một
trong những giải pháp để khắc phục tình trạng này.
Hiểu một cách chung nhất, tư nhân hoá là quá trình chuyển sở hữu nhà
nước, chuyển lĩnh vực hoạt động của Nhà nước nắm giữ sang sở hữu tư nhân. Để
thực hiện quá trình này có thể sử dụng nhiều phương pháp như bán cho tư nhân,
cho không công nhân viên chức, sáp nhập, bán đấu giá... hoặc CPH.
Vậy CPH là gì? CPH (theo nghĩa chuyển thành CTCP) là việc chuyển bất
cứ loại hình DN nào thành CTCP, từ DN tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn
đến DNNN hay hợp tác xã, là một hình thức chuyển đổi mô hình doanh nghiệp.
Về bản chất của CPH, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho
rằng CPH là nhằm xác định chủ sở hữu cụ thể đối với DN. Có ý kiến khác cho
rằng, thực chất CPH là quá trình xã hội hoá sản xuất cả về lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, xét ở bản chất pháp lý, CPH là việc biến DN một
chủ thành DN của nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang
sở hữu chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của DN cho những người
khác. Những người này trở thành chủ sở hữu của DN theo tỷ lệ tài sản mà họ sở
hữu trong DN CPH. Xét dưới góc độ này thì CPH dẫn tới sự xuất hiện không chỉ

của công ty cổ phần trên nền tảng của DN được CPH. Bản chất của CPH không


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
12

phải lúc nào cũng được hiểu đúng trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp
luật về CPH.
Có quan điểm đồng nhất CPH với tư nhân hoá hay có quan điểm cho rằng
CPH chỉ liên quan đến DNNN. Với tư cách là sự kiện pháp lý của việc chuyển
đổi hình thức sở hữu của DN, CPH có thể áp dụng đối với bất cứ loại hình DN
nào thuộc sở hữu của một chủ duy nhất. Do đó một DN tư nhân hay DN 100%
vốn của nhà đầu tư nước ngoài đều có thể trở thành đối tượng của CPH. Các DN
này có thể chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn thông qua CPH.
Tuy nhiên hiện nay, nội hàm thông dụng nhất của khái niệm này là chỉ
việc chuyển DN thuộc sở hữu nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần
hay còn gọi là quá trình chuyển đổi mô hình DN từ DNNN thành CTCP. Vì vậy,
trong khuôn khổ Luận văn này CPH sẽ được hiểu theo nội hàm này. Các văn bản
pháp luật hiện hành cũng có cách tiếp cận CPH DNNN theo cách này. Vì vậy,
việc CPH DNNN hiện nay chỉ dừng ở việc chuyển thành CTCP. Nghị định số
187/2004/NĐ-CP ngày l6-11-2004 của Chính phủ tiếp cận theo hướng hình
thành cả công ty trách nhiệm hữu hạn.
Vậy thực chất CPH nhằm giải quyết các vấn đề:
- Về sở hữu: Nhằm đa dạng hoá quyền sở hữu.

- Về hoạt động: Nhằm thương mại hoá hoạt động sản xuất của DN tạo quyền chủ
động sản xuất kinh doanh của DN, xây dựng kế hoạch hoạt động theo nhu cầu thị
trường và đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, cắt bỏ sự quan hệ
theo kiểu mệnh lệnh hành chính cứng nhắc kém hiệu quả.
- Về quản lý: Nhằm thay đổi phương thức tổ chức quản lý trong DN.
- Về hiệu quả: Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN.
- Về hình thức: CPH một số DN chứ không phải tất cả các DNNN. Khi CPH DN
có thể áp dụng phương thức bán tất cả các cổ phần cho các cổ đông là tư nhân và
cá thể hoặc Nhà nước nắm giữ một số cổ phần theo mức độ khác nhau tuỳ thuộc
vào vị trí của từng DN và yêu cầu điều tiết kinh tế của Nhà nước đối với DN đó.
Theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành, khái niệm CPH được


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
13

hiểu là việc chuyển DN thuộc sở hữu nhà nước thành sở hữu của các cổ đông
thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Quá trình này được tiến hành bằng
nhiều cách như: (1)giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước có tại DN; (2)phát
hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển DN; (3)bán một phần giá tri hiện
có tại DN; (4) bán toàn bộ hoặc một phần giá trị hiện có của DN. Kết quả của
quá trình này luôn tạo ra một CTCP.
Có thể thấy, CPH chỉ là một trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng
cao hiệu quả DN (cải cách DNNN), tuy nhiên qua thực tế có thể thấy đây là giải

pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đọan hiện nay.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, CPH là quá trình chuyển đổi mô hình
DNNN sang CTCP, là việc biến DN một chủ thành DN của nhiều chủ, tức là
chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu chung thông qua việc chuyển
một phần tài sản của DN cho những người khác. Những người này trở hành sở
hữu chủ của DN theo tỷ lệ tài sản mà họ sở hữu trong DNCPH. Một DNNN sau
khi CPH sẽ không còn hoạt động theo luật DNNN mà chuyển sang loại hình
CTCP, chịu sự điều chỉnh của Luật DN.
Địa vị pháp lý của DN lúc này được xác lập theo các quy định của Luật
DN kéo theo toàn bộ các vấn đề có liên quan đến hoạt động của DN từ bản chất
pháp lý, quyền và nghĩa vụ, cơ chế quản lý đến quy chế pháp lý về thành lập, giải
thể, phá sản đều phải chịu sự điều chỉnh của Luật này.
Dưới góc độ sở hữu, CPH là biện pháp chuyển DN từ sở hữu nhà nước
sang hình thức sở hữu nhiều thành phần. Khi tiến hành CPH một DNNN, nghĩa
là nhà nước sẽ định giá lại toàn bộ vốn và tài sản của mình tại DN, rồi chia
chúng ra thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần. Những cổ phần đó sẽ được
bán cho người lao động của DN và các tổ chức cá nhân khác thuộc mọi thành
phần kinh tế. Nhà nước có thể bán toàn bộ hoặc giữ lại một số cổ phần nhất định
tại DN. Kết quả là DN không còn thuộc một chủ sở hữu duy nhất nữa mà thuộc
quyền sở hữu của rất nhiều thành phần kinh tế và hoạt động dưới hình thức
CTCP.


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

14

Những người đã mua cổ phiếu của DN đã CPH sẽ có quyền sở hữu DN
tương
ứng với phần vốn góp kể cả phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công
ty tương ứng với phần vốn góp đó. Điều này giúp xác định rõ ràng tài sản riêng
của công ty với tài sản riêng của chủ sở hữu, khắc phục trạng thái mập mờ trước
đây trong mối quan hệ Nhà nước-DNNN.
Dưới góc độ kỹ thuật thực hiện, CPH là việc nhà nước bán một phần hay
toàn bộ tài sản của mình trong DN cho các đối tượng, tổ chức hoặc cá nhân trong
và ngoài nước hoặc cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp thông qua bán đấu giá
công khai, bán trực tiếp tại DN, bán thông qua các đại lý là tổ chức trung gian tài
chính hoặc qua thị trường chứng khoán từ đó hình thành nên các CTCP. CPH
cũng được thực hiện thông qua việc phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên, nó không
đồng nhất với quá trình này vì phát hành cổ phiếu không chỉ để huy động vốn,
mà nó còn hình thành nên một CTCP mới mà nhà nước là sáng lập viên.
Như vậy có thể thấy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, CPH DNNN
là quá trình chuyển DNNN từ hình thức sở hữu độc nhất của nhà nước sang hình
thức sở hữu đa thành phần thông qua việc thu hút thêm vốn từ các thành phần
kinh tế khác nhau hoặc bán toàn bộ hay một phần tài sản của DN thuộc sở hữu
nhà nước để thành lập công ty cổ phần.
Để làm rõ hơn khái niệm về CPH, ta cần nghiên cứu, phân biệt rõ hơn
CPH và tư nhân hoá. Do CPH với tư cách là một giải pháp sắp xếp đổi mới phát
triển nâng cao hiệu quả DNNN được áp dụng song song với tư nhân hoá nên việc
nghiên cứu để phân biệt chúng là một trong những điều cần quan tâm, làm rõ.
1.2 Phân biệt cổ phần hoá và tƣ nhân hoá
1.2.1 Tư nhân hoá
Tư nhân hoá được sử dụng chủ yếu ở các nước mà kinh tế nhà nước chiếm
tỷ lệ lớn và đi theo xu hướng tư bản chủ nghĩa. Theo định nghĩa về tư nhân hoá
được Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đưa ra, tư nhân



Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
15

hoá là việc chuyển tài sản từ thành phần kinh tế công sang thành phần kinh tế tư
[15, tr.64].
Trong các giải pháp cải cách DNNN thì tư nhân hoá và CPH được áp dụng
phổ biến ở nhiều nước nhất. Giữa tư nhân hoá và CPH có những điểm chung rất
cơ bản. Chính vì vậy, nhiều quan điểm đến nay vẫn cho rằng CPH là một dạng tư
nhân hoá hay CPH là tư nhân hoá từng phần.
Tuy nhiên, chúng tôi nhất trí với quan điểm của PGS.TS Lê Hồng Hạnh
cho rằng "tư nhân hoá là việc chuyển một phần các lực lượng sản xuất từ thành
phần kinh tế công vào tay tư nhân. Tư nhân hoá là đối cực của quốc hữu hoá.
Nếu tư nhân hoá chuyển tư liệu sản xuất từ thành phần kinh tế công vào tay tư
nhân thì quốc hữu hoá chuyển tư liệu sản xuất từ tư nhân vào tay Nhà nước" [
15, tr.46].
Điểm đặc trưng quan trọng của tư nhân hoá chính là việc chuyển hình
thức sở hữu, là chuyển tư liệu sản xuất vốn thuộc sở hữu công vào tay các tư
nhân, kết quả của nó là làm hình thành các DN tư nhân hoặc các CTCP. Các DN
này năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi của công nghệ và thị trường, nên
thuận lợi hơn trong quá trình hiện đại hoá nền kinh tế. Tuy nhiên, các DN này
chỉ quan tâm đến việc tối đa hoá lợi nhuận và vì lý do này, các DN tư nhân sẵn
sàng hy sinh các lợi ích kinh tế chung hoặc các nhu cầu công cộng khác. Dẫn đến

tình trạng phát triển không đồng đều giữa các ngành, các địa phương là hệ quả
tất yếu của việc chạy theo lợi nhuận.
Các DN tư nhân thường có quy mô nhỏ, nên không có những lợi thế trong
việc tiết kiệm được chi phí, có khả năng thực hiện những dự án lớn và những dự
án ở những lĩnh vực cần cho đời sống kinh tế-xã hội song có nhiều rủi ro, ít lợi
nhuận. Tư nhân hoá, còn dẫn tới việc những kết quả mà các DNNN kinh doanh
tốt đã rơi vào tay những tư nhân mua được DNNN hay tài sản nhà nước bị tư
nhân hoá. Việc định giá tài sản DNNN không được chính thị trường quyết định
mà do sự áp đặt chủ quan của các viên chức nhà nước vốn trước đó chịu trách
nhiệm quản lý DNNN. Người mua toàn bộ hay một phần của DNNN bị tư nhân


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
16

hoá ở trong trường hợp này sẽ có nhiều cơ hội trở nên giàu có nhờ ''đánh cắp"
được tài sản của xã hội một cách hợp pháp. Kinh nghiệm này được thể hiện rõ
nét trong quá trình tư nhân hoá các công ty nhà nước (nhất là các công ty kinh
doanh dầu mỏ) tại Cộng hoà liên bang Nga.
Việc tư nhân hoá còn tạo ra sự xung đột giữa lợi nhuận và nhu cầu bảo
đảm dịch vụ xã hội trong trường hợp các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực
công ích bị tư nhân hoá, như điện lực, viễn thông...
Quá trình tư nhân hoá cũng tác động lớn đến vấn đề việc làm. Tại một số
nước như Ba Lan, Cộng hoà Liên bang Đức (ở các vùng trước đây thuộc Cộng

hoà dân chủ Đức)..., 60% lao động ở đó mất việc trong quá trình thực hiện
chương trình tư nhân hoá [ 15, tr.62 ].
Tư nhân hoá được thực hiện dưới những phương thức chủ yếu sau:
- Chuyển hoàn toàn sở hữu của Nhà nước đối với DNNN vào tay tư nhân.
Thông qua các biện pháp như: Trả lại tài sản cho các chủ cũ hay tái tư nhân hoá;
Bán toàn bộ DNNN cho tư nhân.
- Bán tài sản của nhà nước trong các doanh khác cho tư nhân. Theo
phương thức này, cổ phần hay các khoản đầu tư dài hạn của Nhà nước trong các
DN được chào bán.
Vậy, hiểu một cách chung nhất, tư nhân hoá là quá trình chuyển sở hữu
nhà nước, chuyển lĩnh vực hoạt động của Nhà nước nắm giữ sang sở hữu tư
nhân.
1.2.2 Cổ phần hoá
Như đã phân tích trong phần khái niệm, CPH trong cải cách DNNN ở một
số nước trên thế giới vẫn được coi là một trong những phương thức của tư nhân
hoá. Quan điểm này được chấp nhận khá phổ biến. Nếu xét đơn thuần ở khía
cạnh hình thức sở hữu và dựa vào thực tế cải cách DNNN ở nước có quan điểm
này.
CPH được thực hiện thông qua việc chia vốn của một số DNNN nhất định
ra thành các cổ phần. Một phần cổ phần phát hành được bán cho tư nhân hoặc


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
17


cho người lao động, một phần Nhà nước sở hữu. Như vậy, với CPH thì một số
DNNN được biến thành sở hữu chung của người lao động, của tư nhân và của
Nhà nước. Điều đó có thể hiểu DNNN bị tư nhân hoá một phần, tức là phần
giành cho tư nhân và người lao động theo nghĩa là một phần tài sản của thành
phần kinh tế công đã chuyển sang thành phần kinh tế tư. Thực tế này cho thấy
CPH là tư nhân hoá từng phần các DNNN. Cũng chính vì lý do này nên nhiều
quốc gia khi tiến hành cải cách thành phần kinh tế công đều coi CPH chỉ là một
trong những phương thức thực hiện tư nhân hoá [ 1, tr.243 ].
Dĩ nhiên, như bất cứ hiện tượng kinh tế - xã hội khác, CPH cũng chứa
đựng những hạn chế của nó mà hạn chế cơ bản nhất của CPH xét ở yêu cầu phát
triển kinh tế thị trường 1à khó có thể nhanh chóng tạo ra nền tảng thích hợp cho
nền kinh tế thị trường mà theo quan điểm phổ biến ở phương Tây là chủ yếu dựa
vào thành phần kinh tế tư nhân.
1.2.3 Khác nhau giữa cổ phần hoá và tư nhân hoá
CPH và tư nhân hoá có những điểm khác nhau cơ bản sau đây:
Tư nhân hoá

Cổ phần hoá

Được coi là một chính sách và Được coi là một giải pháp thực
mục tiêu của nó là hạn chế đến hiện.
mức tối đa thành phần kinh tế
công.
Được thực hiện với nhiều phương Chỉ được thực hiện thông qua việc
thức khác nhau, trong đó có cả DNNN tiến hành phát hành cổ
phương thức phi quốc hữu hoá, phần ra công chúng lần đầu.
tức lại trả lại cho chủ cũ những tài
sản đã bị quốc hữu hoá, kể cả toàn
bộ DN đang hoạt động.

Tư nhân hoá dẫn đến sự thay đổi CPH có tác dụng làm giảm sở hữu
hình thức sở hữu của các DNNN.

của nhà nước trong DNNN.


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
18

Với tư cách là một chính sách, tư Với tư cách là một giải pháp thực
nhân hoá tác động đến toàn bộ nền hiện chính sách này, CPH tác động
kinh tế.

chủ yếu đến các DNNN bị CPH.

Tư nhân hoá thường được tiến CPH được thực hiện trên cơ sở của
hành trên cơ sở của luật về tư nhân luật công ty hiện hành.
hoá do Chính phủ đề ra.
CPH, như đã phân tích, là một phương thức có điểm gần giống như của tư
nhân hoá. Tuy nhiên, khác với tư nhân hoá, CPH được coi là quá trình tư nhân
một phần. CPH không xoá bỏ hoàn toàn sở hữu nhà nước trong các cơ sở kinh tế
công mà chỉ giảm mức độ sở hữu. Là sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay
đổi về chất của các cơ sở kinh tế này. CPH được thực hiện ở một số nước thay
cho việc tư nhân hoá; CPH cũng được coi là giải pháp cải cách đổi mới DNNN,

được sử dụng như chương trình quốc gia không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước
trên thế giới cũng áp dụng như Trung Quốc, Nhật Bản...
Qua sự so sánh trên có thể thấy, tuy CPH là việc biến DNNN thành sở hữu
chung của người lao động, của tư nhân và của Nhà nước, có thể hiểu DNNN bị
tư nhân hoá một phần, theo nghĩa là một phần tài sản của thành phần kinh tế
công đã chuyển sang thành phần kinh tế tư, nhưng nó vẫn khác nhiều so với tư
nhân hoá.
CPH DNNN, theo Nghị quyết T.W 3, là tạo ra loại hình DN vốn chỉ có
một chủ sở hữu là Nhà nước thành ra loại hình DN có nhiều chủ sở hữu, trong đó
có đông đảo người lao động và tư nhân tham gia.
Còn tư nhân hóa DNNN có nghĩa là biến DN do Nhà nước chủ sở hữu
thành DN do tư nhân chủ sở hữu, cũng tức là biến DNNN thành DN tư nhân.
Trong DN CPH, có cổ phần của Nhà nước (cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt, hoặc cổ phần ở mức thấp), đồng thời có CP của tư nhân và CP của kinh tế
tập thể. Như vậy, không thể gọi đó là tư nhân hóa DNNN được. Nhưng nếu tính
chung loại cổ phần do tư nhân mua của Nhà nước và do tư nhân góp vốn thêm


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
19

vào trong DN cổ phần là bộ phận được tư nhân hóa hay là của tư nhân thì cách
hiểu đó cũng không sai.
Do vậy cần nắm vững mục tiêu của cổ phần hóa DNNN. Mục tiêu đó như

Nghị quyết T.W 3 chỉ rõ, không phải là để tư nhân hóa DNNN - tức là xóa bỏ
DNNN, mà là để tạo ra một loại hình DN có nhiều chủ sở hữu nhằm vừa sử dụng
có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước vừa huy động thêm vốn của xã hội vào
phát triển sản xuất, kinh doanh; vừa tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý
năng động, có hiệu quả cho DNNN vừa phát huy vai trò làm chủ thật sự của
người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với DN,
bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, DN và người lao động.
1.3 Sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam
và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc trong quân đội
1.3.1 Thực trạng doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Ta đều biết, DNNN có vai trò to lớn trong việc điều tiết nền kinh tế, với
tiềm lực to lớn của nó, DNNN có thể tác động tới sự phát triển của nền kinh tế
theo những chiều hướng hoặc theo những chính sách thích hợp với lợi ích quốc
gia trong từng giai đoạn cụ thể. Thúc đẩy và bảo đảm việc làm cũng là một trong
những vai trò quan trọng của DNNN, do nó có quy mô lớn nên số lượng lao
động làm việc trong đó thường đông hơn so với các DN khác; nó thường đảm
nhiệm những dự án lớn, có sự tham gia của lực lương lao động đông đảo vì
DNNN thường được thành lập để kinh doanh trong các lĩnh vực như xử lý dùng
hạ tầng, khai thác khoáng sản, vận chuyển hàng hoá và hành khách nên khả năng
thu hút lao động của chúng là rất lớn. DNNN được giao sứ mệnh trở thành hình
mẫu về hiệu quả sản xuất, kinh doanh, mô hình giải quyết các vấn đề về an sinh
xã hội cho người lao động. Vai trò này của DNNN ở các nước xã hội chủ nghĩa
bắt nguồn từ quan niệm về tính chủ đạo của kinh tế nhà nước, theo đó DNNN
phải là hình mẫu của các DN khác xét ở nhiều tiêu chí: đóng góp cho ngân sách,
đóng góp cho GDP, công nghệ tiến tiến, quản lý hiện đại hiệu quả sản xuất kinh
doanh và lợi nhuận cao.


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho

Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
20

Trong thực tế, ở những thời điểm nhất định, DNNN ở các nước xã hội chủ
nghĩa nói chung, ở Việt Nam nói riêng đã thực hiện tốt được vai trò này. Tuy
nhiên, cũng như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nền kinh tế nước ta trong
một thời gian dài duy trì cơ chế kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát
triển khu vực kinh tế quốc doanh làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy các DNNN đã phát triển một cách nhanh chóng,
rộng khắp trong các lĩnh vực bất kể hiệu quả hoạt động của nó như thế nào.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN đã nhận
định về thực trạng DNNN ở Việt nam hiện nay như sau: DNNN đã chi phối được
các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần
chủ yếu để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế- xã
hội, tăng thế và lực của đất nước. DNNN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm
trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác
đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã
hội, khắc phục hậu qủa thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích
thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. DNNN ngày càng thích ứng với cơ
chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn;
trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng
bước được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, DNNN cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt rất
nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa thật tập
trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; nhìn chung trình độ công nghệ còn

lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
hoạt động sản xuất kinh doanh; kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với
các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; hiệu quả và sức cạnh
tranh còn thấp, nợ không có khả năng thanh toán tăng lên, lao động thiếu việc
làm và dôi dư còn lớn. Hiện nay, DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt của
yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
21

Những hạn chế yếu kém của DNNN có nguyên nhân khách quan, nhưng
chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan: chưa có sự thống nhất cao trong
nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế Nhà nước và DNNN, về yêu cầu và giải
pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; nhiều vấn đề
chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận.
Quản lý nhà nước đối với DNNN còn nhiều yếu kém, vướng mắc; cải cách hành
chính chậm. Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm
chưa phù hợp với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong DN nâng cao năng
xuất lao động và hiệu quả kinh doanh; một bộ phận cán bộ DNNN chưa đáp ứng
yêu cầu về năng lực và phẩm chất. Sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo của Chính
phủ đối với việc đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN chưa tương xứng với
nhiệm vụ quan trọng và phức tạp này. Tổ chức và phương thức hoạt động của

Đảng tại DNNN chậm được đổi mới.
Theo số liệu của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, trong cả
nước, DNNN nắm giữ 85% tổng số vốn các DN trong nền kinh tế. Nhưng nhìn
chung hiệu quả kinh doanh vẫn còn thấp, trong số đó chỉ chưa đầy 50% DNNN
làm ăn có lãi, số DN làm ăn có lãi lâu chỉ chiếm gần 30%. Hàng năm, DNNN
nộp ngân sách chiếm 80%-85% tổng số thu, nhưng nếu trừ đi khấu hao cơ bản và
thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà nước. Đặc
biệt nếu tính đủ chi phí và tài sản cố định, quyền sử dụng đất theo giá thị trường
thì các DNNN hầu như không tạo ra được tài sản tích luỹ [ 8, tr.4 ].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên của DNNN mà chủ yếu là
do những hạn chế của nó trong nền kinh tế thị trường. Có thể nêu ra một vài hạn
chế sau:
Thứ nhất: Do ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
cao độ trong điều kiện chiến tranh kéo dài, của tư duy không đúng về mô hình xã
hội chủ nghĩa trước đây. Tư tưởng muốn xoá bỏ nền kinh tế tư nhân và kinh tế cá
thể, đồng nhất mục tiêu với phương tiện của công cuộc xây dựng CNXH, coi


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
22

kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân là mục tiêu CNXH, xem nhẹ
các quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường, coi kinh tế thị trường là
riêng của chủ nghĩa tư bản trong tư duy cũng như thực tiễn xây dựng cơ sở vật

chất kỹ thuật của CNXH trước đây đã dẫn đến hậu quả việc hạch toán kinh tế của
DN mang tính hình thức, các DN thực chất chỉ là người làm theo đơn đặt hàng,
theo chỉ thị, mệnh lệnh của Nhà nước chứ không phải là một cơ sở sản xuất kinh
doanh, không có quyền tự chủ kinh doanh. Trong điều kiện như vậy rõ ràng
DNNN rất xa lạ với mô hình DN theo cơ chế thị trường.
Thứ hai: DNNN nhiều về số lượng nhưng phân bố không hợp lý về ngành
và về vùng. Có nơi, có ngành còn thiếu các DNNN thực hiện vai trò của mình.
Có nơi, có ngành các DNNN lại quá nhiều dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp về
ngành nghề và sản phẩm trong một thị trường, do vậy dẫn đến tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, đầu tư dàn trải khi nguồn vốn rất hạn hẹp.
Thứ ba: Trừ một số rất ít (18%) DNNN được đầu tư mới đây (sau 1986),
phần lớn các DNNN đã được thành lập khá lâu, có trình độ khoa học kỹ thuật
thấp. Theo báo cáo điều tra của Bộ Khoa học, Công Nghệ và môi trường thì trình
độ công nghệ trong các DNNN Việt Nam kém các nước từ 3 - 4 thế hệ. Nhiều
DN còn sử dụng trang bị kỹ thuật từ 1939 và trước đó. Mặt khác đại bộ phận
DNNN được xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nước khác nhau nên tính đồng bộ
của DN thấp. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế thị trường các DN khó cạnh tranh
cả trong nước và quốc tế.
Hơn nữa, để đổi mới trang thiết bị kỹ thuật lại cần một nguồn vốn lớn
trong khi đó các DNNN ở Việt Nam lại đa phần là nhỏ. Theo thống kê năm 1998
vẫn còn 72,5% số DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng (khoảng 370 ngàn USD)
trong đó chỉ có gần 20% DN có số vốn DN trên 10 tỷ đồng (chưa được 1 triệu
USD) [ 5, tr.4 ]. Với quy mô nhỏ như vậy khả năng tích tụ vốn của DNNN nhìn
chung không cao, để tích luỹ được lượng vốn cần thiết là rất khó khăn và phải
mất một thời gian dài.


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai

tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
23

Ngoài ra, do không có quyền sở hữu tài sản mà Nhà nước giao cho DN
quản lý nên trong nhiều trường hợp các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản DNNN bị hạn chế. Cụ thể như trong vấn đề bán, thanh lý tài sản của
DN. Trong cơ chế thị trường, yêu cầu đổi mới trang thiết bị là thường xuyên, cho
nên đòi hỏi DN phải được chủ động trong việc thanh lý trang thiết bị được coi là
không phù hợp để đầu tư mua sắm trang thiết bị mới nhằm sản xuất ra sản phẩm
hoặc dịch vụ với chất lượng cao hơn, chi phí cho sản phẩm giảm và năng suất
cao.
Thứ tư: Thực trạng làm ăn kém hiệu quả của DNNN xuất phát từ yếu tố
sở hữu và quản lý. Từ lâu nay DNNN có chủ nhưng rất khó nói là đã có chủ đích
thực. Định nghĩa về DNNN trước đây theo Sắc lệnh số 104/SL ngày 1/1/1948,
DN quốc gia (nay là DNNN) là “một DN thuộc sở hữu Quốc gia và do Quốc gia
thành lập”. Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 ban hành Quy chế về thành
lập và giải thể DNNN tại Điều 1 cũng định nghĩa “DNNN là một tổ chức kinh
doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn với tư cách chủ sở hữu”. Hiện nay theo
quy định tại Điều 1 Luật DNNN (văn bản có hiệu lực cao nhất) thì “DNNN là tổ
chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động
kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội do
Nhà nước giao”. Như vậy, kể từ khi ra đời cho đến nay DNNN luôn được khẳng
định là DN của Nhà nước. Nhà nước đại diện cho toàn dân là chủ sở hữu đích
thực và duy nhất của DNNN. Nhưng trên thực tế, tính chất toàn dân của sở hữu
trong DNNN không thể hiện được nhiều. Do các hình thức cụ thể của sở hữu
toàn dân về mặt kinh tế không được xác định, nên hầu hết những người lao động
trong DNNN thờ ơ và xa cách đối với sở hữu toàn dân.

Điều này dẫn đến tình trạng người lao động thì lãnh đạm, thiếu trách
nhiệm, thiếu kỷ cương, kỷ luật; một số kẻ có chức có quyền thì thừa cơ đục
khoét. Mặt khác, người quản lý trong DNNN là những quan chức hành chính
Nhà nước được bổ nhiệm hơn là một nhà kinh doanh, bởi vậy khả năng điều
hành DN của họ cũng bị hạn chế.


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
24

Bởi vậy, do quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường, phần
lớn các DNNN không khắc phục được tình trạng này bị rơi vào tình trạng “thua
lỗ” kéo dài không thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Nhưng dù bị “thua
lỗ” đến đâu, DNNN lại vẫn có chỗ dựa là Nhà nước (cho đến nay, sự phá sản cuả
DNNN ở nước ta vẫn dừng ở mức chủ trương “cho phá sản” [ 5, tr.5 ]. Do vậy
rất nhiều DNNN kinh doanh không có hiệu quả nhưng vẫn được duy trì. Điều
này gây khó khăn cho Nhà nước và cản trở quá trình đi lên của nền kinh tế đất
nước.
1.3.2 Thực trạng doanh nghiệp nhà nước trong quân đội
Có thể nói, DNNN trong quân đội là một bộ phận của thành phần kinh tế
nhà nước nằm trong tổ chức biên chế của quân đội, do quân đội tổ chức, quản lý,
điều hành hoạt động theo pháp luật của Nhà nước và quy định của BQP. Nhiệm
vụ chủ yếu, thường xuyên của DNNN trong quân đội là phục vụ nhiệm vụ quốc
phòng an ninh đồng thời đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân,

củng cố vị trí vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN.
Từ khi Đảng và Nhà nước chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, Hội đồng Bộ trưởng đã
có Quyết định 217/HĐ-BT ngày 14/11/1987 về ban hành chính sách đổi mới kế
hoạch hoá và hoạch toán kinh doanh XHCN đối với xí nghiệp quốc doanh. Trên
cơ sở Quyết định 217/HĐ-BT, Bộ trưởng BQP đã có thông tư hướng dẫn về
quyền tự chủ sản xuất đối với các đơn vị làm kinh tế và các xí nghiệp quốc
phòng.
Ngày 3 tháng 3 năm 1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Chỉ thị 46/CT
ngày 28/4/1989 về bảo hộ và phát triển hàng sản xuất trong nước, trong đó cho
phép quân đội được sử dụng các trang thiết bị, nhà cửa, đất đai do quân đội đang
quản lý, không sử dụng cho quốc phòng để tăng gia sản xuất và làm kinh tế
nhằm giữ gìn tiềm lực công nghiệp quốc phòng, đóng góp cho ngân sách và cải
thiện đời sống cho bộ đội.


Ket-noi.com
Ket-noi.com Kho
Kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi
25

Trên cơ sở đó, Đảng uỷ Quân sự trung ương đã ra Nghị quyết số 33/NQĐUQSTW ngày 22/6/1989 về việc quân đội tăng gia sản xuất và làm kinh tế
nhằm giữ gìn tiềm lực công nghiệp quốc phòng. Để triển khai thực hiện nhiệm
vụ đó, BQP đã trình HĐBT ban hành Nghị định số 22/HĐ-BT ngày 03 tháng 3
năm 1989 thành lập Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và kinh tế.

Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng và kinh tế được quy định bằng Quyết định số 131/QĐ-QP ngày 24/4/l989
của Bộ trưởng BQP. Sự ra đời của cơ quan này đánh dấu việc chuyển hoạt động
của các xí nghiệp quốc phòng từ cơ chế bao cấp sang sản xuất kinh doanh hạch
toán kinh tế.
Ngày 21 tháng 11 năm 1989, BQP đã có Chỉ thị số 298/CT-QP chỉ đạo
việc kiện toàn tổ chức và quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh của quân đội.
Trên cơ sở đó, các cấp đã triển khai việc sắp xếp lại các đơn vị kinh tế thành các
tổng công ty, công ty, xí nghiệp... cho phù hợp với tổ chức và cơ chế hoạt động
kinh tế dang được đổi mới. Đến cuối năm 1990, toàn quân có 10 Tổng công ty và
nhiều đơn vị kinh tế được tổ chức lại, lực lượng xây dựng kinh tế có khoảng
55.050 người [ 2, tr.3 ].
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DN thực hiện quyền tự chủ trong sản
xuất kinh doanh, BQP thực hiện chủ trương giao vốn cho các đơn vị kinh tế.
Việc giao vốn cho các đơn vị làm ăn kinh tế là bước ngoặt quan trọng để tăng
cường trách nhiệm của các DN trong việc sử dụng tài sản, quản lý và sử dụng
vốn có hiệu quả. Trong quá trình đổi mới sắp xếp lại các DN, thực hiện Nghị
định 388/HĐ-BT ngày 20/1l/l991 của Hội đồng Bộ trưởng, BQP đã thực hiệp
sắp xếp lại các đơn vị kinh tế và đăng ký thành lập DNNN. Đến cuối năm 1993,
toàn quân có 305 DN...
BQP đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện các qui định mới của
nhà nước. Đặc biệt sau khi có Nghị định số 388/HĐ-BT ngày 20/1/1999 của Hội
đồng Bộ trưởng về qui chế thành lập và giải thể DNNN. Tất cả các DNNN trong
quân đội được thành lập trước đây đều làm lại thủ tục thành lập và đăng ký kinh


×