Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

SKKN dạy học nêu vấn đề và sử dụng công nghệ thông tin để phát huy tính tích cực của học sinh trong tiết dạy học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 32 trang )

Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT THỐNG NHẤT B


Mã số:……….........
Chuyên đề
DẠY HỌC NÊU VẤN ĐỀ VÀ SỬ DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC
SINH TRONG TIẾT DẠY HỌC LỊCH SỬ

Người thực hiện

: Vũ Ngọc Bích Trang

Lĩnh vực nghiên cứu : Phương pháp dạy học Lịch sử
Quản lý giáo dục
Phương pháp dạy bộ môn: Lịch Sử
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác
Năm học : 2012 – 2013

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 1


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử


I/ THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN:
Họ và tên: Vũ Ngọc Bích Trang
Sinh ngày 01/10/1980
Địa chỉ: Trần Cao Vân, Bàu Hàm II,
Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai.
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trường THPT Thống Nhất B.
II/ TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:
Học vị: Cử nhân khoa học.
Năm nhận bằng: 2003.
Chuyên ngành đào tạo: Lịch sử.
III/ KINH NGHIỆM KHOA HỌC:
Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Lịch sử.
Số năm kinh nghiệm: 10 năm.
Sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
“Tích cực và hạn chế khi áp dụng CNTT trong dạy – học lịch sử”.
“ Sử dụng công nghệ thông tin và dạy học liên môn trong dạy học lịch sử
ở trường THPT”
“Sử dụng bài tập phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch
sử ở trường THPT”
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 2


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

MỤC LỤC
I. Phần mở đầu: ------------------------------------------------------------------ Trang 2
1. Đặt vấn đề ------------------------------------------------------------ Trang 2

2. Phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------------- Trang 3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ------------------------------------- Trang 3
II. Phần nội dung: ---------------------------------------------------------------- Trang 5
1. Cơ sở thực tiễn và khoa học của chuyên đề --------------------- Trang 5
2. Thực trạng dạy và học môn lịch sử ở trường THPT Thống Nhất B
---------------------------------------------------------------------------- Trang 6
3. Dạy học nêu vấn đề với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin khơi dậy
hứng thú học tập lịch sử của học sinh ------------------------------- Trang 7
III. Hiệu quả và ý nghĩa của chuyên đề ------------------------------------ Trang 24
IV. Kết luận và những đề xuất ----------------------------------------------- Trang 25
V. Tài liệu tham khảo ---------------------------------------------------------- Trang 28

GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 3


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Đặt vấn đề:
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ CNH – HĐH, với mục tiêu tiến đến năm
2020 trở thành nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh
đó, đặt ra những yêu cầu mới đối với phẩm chất và năng lực của người lao động,
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Để đáp ứng được nhu cầu này,
cần phải nâng cao chất lượng giáo dục, tăng cường cho thế hệ trẻ, yêu CNXH, yêu
quê hương gia đình, lòng biết ơn, lòng nhân ái, tinh thần yêu nước, biết thừa kế,
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Mục tiêu của bộ môn lịch sử ở trường THPT nhằm góp phần vào việc đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Trong quá trình hội nhập, môn lịch

sử, đặc biệt là lịch sử dân tộc rất cần được coi trọng để giúp thế hệ trẻ hình thành
nhân cách, bản lĩnh con người để giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhưng thực trạng việc
dạy và học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đang ở mức báo động, kiến thức
lịch sử của học sinh quá kém, dư luận xã hội đang rất quan tâm đến vấn đề này.
Trong thư gửi cuộc họp Hội thảo “ Thực trạng việc dạy và học lịch sử trong
trường phổ thông, nguyên nhân và giải pháp” do Hội khoa học lịch sử Việt Nam và
Bộ giáo dục và đào tạo phối hợp tổ chức, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng “
Cứ trượt dốc theo đà này thì chúng ta chưa thể lường hết những hậu quả đối với
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ”.
Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch
sử? Dạy học lịch sử như thế nào đề đạt được hiệu quả tốt nhất là điều mong muốn
của thầy cô giáo chúng ta. Muốn vậy thì phải đổi phương pháp, biện pháp dạy và
học; nền giáo dục nước ta hiên nay đang đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi
mới phương pháp dạy học nhằm tạo cho học sinh hứng thú, say sưa với từng môn
học, chủ động sáng tạo để loại bỏ dần cách học thụ động trước đây.
Luật giáo dục nước ta được Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam thông qua năm 1998, trong chương I “ Những quy định chung” đã nhấn
mạnh yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học
nói riêng là “ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của người
học; bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vương lên ”.
Mục đích trong nhà trường phổ thông việc dạy học lịch sử cũng cần đảm bảo
cho học sinh có nền tảng văn hóa phổ thông về lịch sử, góp phần đào tạo giáo dục
cho thế hệ trẻ. Thế nhưng hiện nay, trong nhà trường còn rất nhiều học sinh coi
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 4


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử


thường môn lịch sử vì xem đó chỉ là môn phụ. Môn lịch sử chưa được đánh giá
đúng mức do nhiều nguyên nhân. Đa số học sinh còn quen với cách học thụ động,
thiếu năng lực tư duy độc lập, sáng tạo để vận dụng kiến thức, kỹ năng vào cuộc
sống thực tế.
Vấn đề được đặt ra là: phải phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập
nói chung, khơi dậy khả năng, hứng thú học tập lịch sử của học sinh trong nhà
trường phổ thông nói riêng. Do vậy giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh
chiếm lĩnh tri thức. Bằng những phương pháp, biện pháp, phương tiện dạy học lịch
sử phù hợp để hiểu rõ khả năng, năng lực của từng học sinh, tạo cho các em hứng
thú, say mê khi học lịch sử. Từ đó tiết học thêm sinh động, chất lượng dạy học
được nâng cao.
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch
sử nói riêng, bản thân tôi với một số năm giảng dạy bộ môn lịch sử, kinh nghiệm
chưa nhiều nhưng cũng xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề:

“ Dạy học nêu vấn đề và sử dụng công nghệ thông tin để phát
huy tính tích cực của học sinh trong tiết dạy học lịch sử”
2. Phạm vi nghiên cứu:
Chuyên đề xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập lịch sử với
phương pháp dạy học nêu vấn đề, cùng với phương tiện công nghệ thông tin để
phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập lịch sử. Đối tượng nghiên cứu mà
tôi áp dụng cho chuyên đề là học sinh 03 lớp 10 và 4 lớp 12 của trường THPT
Thống Nhất B năm học 2010 – 2011.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của chuyên đề :
3.1/ Ý nghĩa khoa học:
Chuyên đề này giúp tôi nhận thức sâu sắc đổi mới phương pháp dạy học lịch
sử, bên cạnh những phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học
tích cực hiện nay: như dạy học nêu vấn đề, dạy học liên môn, dạy học có sự hỗ trợ
của công nghệ thông tin… thì việc tiến hành các bước của bài giảng người giáo
viên phải biết lưa chọn những phương pháp nào hiệu quả nhất để hình thành tri

thức lịch sử cho học sinh.
3.2/ Ý nghĩa thực tiễn:
Trong quá trình giảng dạy lịch sử tôi áp dụng linh hoạt các phương pháp,
phương tiện, biện pháp như thuyết trình, miêu tả dạy học liên môn, dạy học nêu
vấn đề… và tôi thấy rằng dạy học nêu vấn đề cùng với phương tiện giảng dạy là
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 5


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

công nghệ thông tin thì việc phát huy năng lực tư duy của học sinh dễ dàng hơn.
Các em hiểu được quá trình lịch sử một cách logic, khách quan và có hệ thống từ
đó các em hiểu và có hứng thú học tập môn lịch sử hơn.

GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 6


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở thực tiễn và khoa học của chuyên đề:
Đairi nhà giáo dục Liên Xô cũ đã từng nói rằng : “Dạy lịch sử cũng như bất
cứ dạy cái gì đòi hỏi người thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải là
bắt buộc các trí nhớ làm việc, bắt nó ghi chép rồi trả lời.”. Như vậy mục đích của
việc dạy học lịch sử ở trường là người giáo viên không chỉ giúp cho học sinh hình
dung được những kết quả của quá khứ biết và ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng của

lịch sử mà quan trong hơn là hiểu được lịch sử tức là phải nắm được bản chất của
sự kiện. Trong phát triển tư duy của học sinh việc sử dụng các thao tác logic có ý
nghĩa rất quan trọng. Vậy làm sao để phát triển tư duy logic của học sinh trong học
tập?
Nhiệm vụ của người thầy giáo trong dạy học truyền thống là người truyền
đạt kiến thức cho học sinh, thầy giáo là trung tâm của lớp học, học sinh đóng vai
trò thụ động trong việc tiếp thu kiến thức do thầy cung cấp. Nhưng những kiến
thức mà học sinh thụ động tiếp thu từ thầy sẽ không vững chắc trong nhận thức.
Khoa học giáo dục chỉ ra rằng, quá trình học là quá trình chủ động lĩnh hội tri thức
của học sinh.
Như vậy nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử, các
nhà giáo dục đã khởi xướng một kiểu dạy mới “ Dạy học lấy học sinh làm trung
tâm ” hay còn gọi là “ Dạy học nêu vấn đề” mục đích là tích cực hóa hoạt động
nhận thức của học sinh, biến việc học tập của học sinh trở nên hứng thú, trở thành
nhu cầu chính của người học.
Theo Nguyễn Cảnh Toàn, “ trong dạy học nêu vấn đề, người học tự tìm ra
kiến thức, phát hiện những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, Học sinh nhận dạng vấn đề trình bày và bảo vệ cách giải quyết vấn
đề của mình, tranh luận đúng sai với bạn bè, và giáo viên là người đưa ra kết luận,
bỗ sung tri thức của mình”.
Nhưng dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp riêng, mà là một
kiểu dạy học được thông qua sự liên kết nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau
nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy học. Vì vậy dạy học nêu vấn
đề rất quan trọng trong dạy học nói chung và trong học lịch sử nói riêng. Dạy học
nêu vấn đề sẽ thật hiệu quả khi được kết hợp với công nghệ thông tin - một phương
tiện dạy học hữu ích hiện nay.
2. Thực trạng dạy và học môn lịch sử hiện nay:
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 7



Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

2.1/ Thực trạng chung:
Người dạy thiếu chiều sâu, chưa hấp dẫn vẫn mang tính chất nhồi nhét… và
người thầy cung chưa đủ sức vượt qua “rào cản” môn phụ, nên tâm lý chán nản,
không muốn đầu tư nhiều cho một tiết dạy, nhưng không có nghĩa là tất cả thầy cô
dạy lịch sử đều như thế.
Thực dụng môn học có lẽ là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng yếu kém
về kiến thức môn lịch sử ở rất nhiều người, kể cả những học sinh đã và chưa tốt
nghiệp. Bởi vì có thể nói 99% nghề không phải cần lao động phải am hiểu về lịch
sử, mà chỉ cần trình độ tin học, Ngoại ngữ hay Toán, Lý, Hóa, Sinh mà thôi. Môn
lịch sử không phải là môn bắt buột thi tốt nghiệp THPT hoặc khi phỏng vấn xin
việc hoặc thi vào biên chế nhà nước, nên dần dần trong học sinh, thầy cô và cả mọi
người tồn tại ứng xử ngầm “ Lịch sử chỉ là môn học phụ”, học chỉ mang tính chất
đối phó, học để biết, nhưng “biết để làm gì” vì không vận dụng vào thực tiễn công
việc. Đối với giáo viên dạy môn lịch sử ở trường phổ thông là bốn không : không
phụ đạo, không tăng tiết, không dạy thêm, không thu nhập. Một khi không thu
nhập thì làm sao trang bị đồ dùng dạy học hay ứng dụng công nghệ thông tin vào
bài giảng, mà trực quan không sinh động, không phong phú thì học sinh chán học.
Từ đó chất lượng môn học lịch sử cũng đi xuống.
2.2/ Thực trạng dạy và học lịch sử ở trường THPT Thống Nhất B:
* Ưu điểm:
+ Về phía giáo viên:
Đa số giáo viên đều có cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình,
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp trực
quan, phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp thông qua sự trình
bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật và miêu tả… và từng
bước ứng dụng công nghệ thông tin.

Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức
cho nhau thông qua hoạt động này, những học sinh yếu kém được hoạt động tích
cực dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi từ đó học sinh năm
vững được kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện hiện tượng lịch sử…
+ Về phía học sinh:
Đa số học sinh chú ý nghe giảng, chuẩn bị bài mới ở nhà.
Tích cực thảo luận nhóm, trả lời câu hỏi cuối mục trong bài.
Học sinh yếu kém đã nắm được kiến thức trọng tâm cơ bản.
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 8


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

* Về mặt hạn chế:
+ Về phía giáo viên:
Một số ít giáo viên chưa thật sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học
cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điệu
kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức vẫn còn “thầy nói trò
nghe”, “ thầy đọc trò chép”. Do đó học sinh chưa nắm được kiến thức mà chỉ thuộc
một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn.
Đa số giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ học, sau khi kiểm tra bài
cũ giáo viên vào bài luôn mà không giới thiệu bài qua việc nêu câu hỏi nhận thức,
điều này làm giảm bớt sự tập trung, chú ý bài học của học sinh ngay từ hoạt động
đầu tiên.
Đôi khi giáo viên đặt câu hỏi quá khó làm cho đối tượng học sinh yếu kém
tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản môn học.
+ Về phía học sinh:
Học sinh thường trả lời các vấn đề giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách

giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc nguyên
trong sách giáo khoa để trả lời câu hỏi.
Học sinh còn lười chưa có sự say mê môn học, một số bộ phận học sinh
không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập đầy đủ, trên lớp thiếu tập trung
suy nghĩ.
Học sinh chỉ trả lời những câu hỏi dễ, đơn giản, còn dạng câu hỏi tổng hợp,
phân tích, so sánh… thì học sinh còn lúng túng khi trả lời hoặc mang tính chất
chung chung…
Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học môn lịch sử trong nhà trường
phổ thông, tôi xin nêu trong phạm vi chuyên đề: kiểu dạy học nêu vấn đề và ứng
dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy tôi thấy rất hiệu quả.
3/ Dạy học nêu vấn đề với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin khơi dậy
khả năng,hứng thú học tập lịch sử của học sinh:
3.1/ Dạy học nêu vấn đề là gì ?
Dạy học nêu vấn đề là một quan niệm dạy học, trong đó việc phát triển tư
duy sáng tạo, độc lập suy nghĩ, khơi gợi nhu cầu, hứng thú học tập của học sinh
được đặt lên hàng đầu. Vai trò của giáo viên là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 9


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

việc tạo ra tình huống có vấn đề và hướng dẫn học sinh giải quyết sáng tạo vấn đề
đó.
Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp cụ thể mà là nguyên tắc
chỉ đạo việc tiến hành của nhiều phương pháp dạy học. Nó được vận dụng trong tất
cả các khâu trong giờ học và là một kiểu dạy học. Giờ học nêu vấn đề có ý nghĩa
đặc biệt trong việc hình thành kiến thức trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập của

học sinh.
3.2/ Ý nghĩa của dạy học nêu vấn đề:
Dạy học nêu vấn đề là một phương pháp dạy học, mà trong đó, học sinh
đứng trước sự cần thiết phải tìm ra cái mới, cái chưa biết thì cần phải biết. Cụ thể
là:
+ Về nội dung: học sinh chưa biết một kiến thức mang tính trừu tượng, khái
quát như khái niệm, quy luật, học bài lịch sử…
+ Về phương pháp: học sinh chưa biết cách lập luận, chưa tạo được “ một
con đường”, một cấu trúc tư duy để đi từ cái đã biết sang cái chưa biết nhưng cần
phải biết.
Dạy học nêu vấn đề được thực hiện theo tinh thần tôn trọng vai trò chủ thể
của học sinh, đề cao nhu cầu, hứng thú học tập của học sinh, từ đó tạo ra hứng thú,
động cơ học tập một cách tích cực ở các em.
Tham gia quá trình học tập có sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề, học
sinh sẽ rèn được khả năng, thói quen độc lập, chủ động sáng tạo trong lao động và
cuộc sống. Đây chính là ý nghĩa, chức năng có tính chất quyết định của dạy học
nêu vấn đề.
Từ việc tư duy và sáng tạo, học sinh sẽ từng bước rèn luyện khả năng ngôn
ngữ, học được cách trình bày nội dung một vấn đề dưới hình thức một bài nghị
luận về lịch sử. Bên cạnh đó, qua những buổi tranh luận, trao đổi để bảo vệ ý kiến
các em sẽ được khả năng, thói quen bạo dạn, tinh thần dân chủ trong giao tiếp.
Như vậy, tổ chức dạy học theo hướng nêu vấn đề là một trong những phương pháp
đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế - xã hội hiện đại. Đó là đào tạo thế hệ trẻ thành
một lực lượng lao động “tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết các
vấn đề do thực tiễn đặt ra.”.
Trong dạy học lịch sử, dạy học nêu vấn đề với những ưu điểm của mình đã
góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng bộ môn, nhất là việc phát triển
năng lực nhận thức các vấn đề lịch sử ở học sinh.
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang


Trang 10


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

3.3/ Quy trình thực hiện:
Phương pháp dạy học nêu vấn đề được thể hiện như sau:

Dạy học nêu vấn
đề

Giáo viên nêu vấn đề
đề
Học sinh hợp tác giải
quyết vấn đề

Trong đó:
+ Giáo viên nêu vấn đề dưới dạng câu hỏi, sơ đồ, một bảng biểu…
+ Học sinh tiếp nhận vấn đề.
+ Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề.
+ Học sinh báo cáo kết quả trước lớp, có sự chất vấn và thảo luận của cả lớp.
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, và tổng kết.
3.4/ Các yếu tố cấu thành của dạy học nêu vấn đề:
Dạy học nêu vấn đề bao gồm các yếu tố: Trình bày nêu vấn đề, tình huống
có vấn đề và bài tập (câu hỏi) nêu vấn đề, hướng dẫn học sinh giải quyết và giáo
viên tổng kết, cũng cố những điều đã thu nhận.
3.4.1/ Trình bày nêu vấn đề cũng như các dạng trình bày khác phải đảm bảo
về các yêu cầu mang tính khoa học, hình ảnh và ngôn ngữ trong sáng, đúng, song
bên cạnh đó, trình bày nêu vấn đề có các thành phần đặc biệt khác như gợi và
quyết định hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Khi trình bày nêu vấn đề, giáo

viên cần đặt học sinh trước sự giải quyết một vấn đề mới, chưa biết, đồng thời giúp
cho học sinh tự tìm ra bản chất của sự kiện hiện tượng, độc lập rút ra các kết luận
cần thiết dựa trên cơ sở bài trình bày của thầy cô, kiến thúc kỹ năng, kỹ xảo vốn có
của các em.
Trình bày nêu vấn đề khác với thông báo tài liệu. Ví dụ: Khi dạy bài 31
Cách Mạng Tư Sản Pháp cuối thế kỷ XVIII ở lớp 10, có hai hướng trình bày:
+ Thông báo: giáo viên chỉ trình bày những nét chính về kinh tế, chính trị,
xã hội và tư tưởng nước Pháp trước năm 1789, sau đó rút ra nhận xét, rồi chỉ ra
nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ cách mạng.
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 11


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

+ Trình bày nêu vấn đề: trước khi trình bày giáo viên đặt câu hỏi “ Tại sao
cách mạng Pháp bùng nổ?” sau đó giáo viên trình bày kết hợp yêu cầu học sinh
nghiên cứu sách giáo khoa, tranh ảnh, về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội…. Để
giúp học sinh trả lời câu hỏi vừa nêu, giáo viên sử dụng công nghệ thông tin để
khai thác tranh ảnh, sơ đồ sau:
Hình: Tình cảnh nông dân Pháp trước
cách mạng (tranh biếm họa)
Nội dung: Đây là bức tranh biếm họa nói
lên tình cảnh người nông dân Pháp trước
cách mạng tư sản. Bức tranh miêu tả một
người nông dân già nua, ốm yếu nhưng
lại phải cõng trên lưng mình hai người
đàn ông to béo, khỏe mạnh. Đó chính là
hình tượng cho hai đẳng cấp quý tộc và

tăng lữ trong xã hội Pháp trước cách
mạng Người ngồi đằng trước mặc chiếc
áo choàng, cổ đeo cây thánh giá, nét mặt
có vẻ sung sướng thỏa mãn, tượng
trương cho tăng lữ(Đ/c thứ nhất). Người ngồi đằng sau đeo thanh kiếm dài ở cạnh
sườn có nhiều đồ trang sức và mũ lông chim rất cao quý, tượng trưng cho tầng lớp
quý tộc (đ/c thứ 2) Cả hai đều béo mũm mĩm, má toàn mỡ, ăn mặc thì màu mè,
diêm dúa và cự kỳ quý phái. Trong tú quần và túi áo của tăng lữ, quý tộc thò ra
những loại văn bản vay nợ, cho thuê ruộng, những quy định về nghĩa vụ phong
kiến của nông dân mà có lẽ đến hàng nghìn đời họ cũng không trả hết được. Người
nông dân phải nộp đủ mọi
thư thuế như: thuế kế thừa,
thuế rượu, thuế muốn…sản
phẩm làm ra phải nộp cho
lãnh chúa 10 đến 20%, cho
nhà nước là 50%, cho giáo
hội 10%. Ngoài ra, họ phải
nộp thuế khi qua cầu của
lãnh chúa, thuế khi dùng cối
để xay bột…
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 12


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Sử dụng sơ đồ 3 đẳng cấp để giải thích về tình hình chính trị xã hội của nước
Pháp trước cách mạng. Bên cạnh đó giáo viên nói thêm về Vua Lui XVI và hoàng
hậu Mari Ăngtoanét - người đã làm cho ngân khố nhà nước khánh kiệt.


Vua Lui XVI

Hoàng hậu Mari Ăngtoanét

Sau khi trình bày xong, giáo viên có thể gợi mở để các em có nhận xét gì về
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Pháp, rút ra nguyên nhân sâu xa dẫn tới cách
mạng bùng nổ?
3.4.2/ Tình huống có vấn đề: Theo M.I.Macnutốp tình huống có vấn đề
“đó là trở ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta chưa biết cách giải
thích hiện tượng, sự kiện quá trình thực tế, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách
thức hoạt động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải
quyết hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận
thức sáng tạo, có hiệu quả.”.
Như vậy tình huống có vấn đề trong học tập lịch sử của học sinh: Trước hết
là sự xuất hiện của một mâu thuẫn mà học sinh đứng trước sự cần thiết phải tìm ra
cái mới, cái chưa biết nhưng cần phải biết. Cụ thể là về nội dung: học sinh chưa
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 13


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

biết một kiến thức nào đó, có thể là nguyên nhân (bùng nổ, thắng lợi, thất bại) bản
chất các sự kiện, ý nghĩa, khuynh hướng phát triển của các sự kiện hiện tượng lịch
sử, những kiến thức trừu tượng, khái quát như khái niệm, quy luật, bài học lịch sử.
Trong cuốn sách “Các tình huống có vấn đề trong tư duy và dạy học”.
A.M.Machiuskin đưa ra 7 loại tình huống có vấn đề thường gặp trong thực tế dạy
học đó là:

+ Tình huống khủng hoảng( phê phán).
+ Tình huống bất ngờ.
+ Tình huống không phù hợp.
+ Tình huống xung đột.
+ Tình huống lựa chọn.
+ Tình huống phản bác (bác bỏ).
+ Tình huống giả định.
Trong dạy học lịch sử tình huống có vấn đề được hình thành trong các
trường hợp sau:
+ Một : Khi giáo viên đưa ra các ý kiến khác nhau để học sinh tự phân tích,
đánh giá chung.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 16 lớp 12 ban cơ bản, giáo viên đưa ra vấn đề sau: “ Sử
gia Tư sản cho rằng, Cách Mạng Tháng Tám thàng công là do sự “ăn may”, nhưng
nhiều người khẳng định rằng đó là do quá trình chuẩn bị lâu dài với nghệ thuật
chớp thời cơ của Đảng ta. Theo em, ý kiến nào là đúng? Vì sao ?” Học sinh phải
theo dõi bài, suy nghĩ, phân tích, rút ra kết luận đúng. Để giúp học sinh trả lời câu
hỏi này giáo viên gợi ý cho học sinh về quá trình chuẩn bị của Đảng ta cho Cách
Mạng Tháng Tám năm 1945…giáo viên có thể sử dụng phim tư liệu hoặc hình ảnh
nói về sự chuẩn bị lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng…

GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 14


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Buổi lễ thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân;
Võ Nguyên Giáp (bìa trái), Hoàng Văn Thái cầm cờ (là người đội mũ)
Ví dụ 2: Trong bài: “Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc

Mỹ”, sau khi giảng những mặt tiến bộ của cuộc chiến tranh giành độc lập của 13
thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, những mặt tích cực của bản tuyên ngôn độc lập, của hiến
pháp tư sản năm 1787, giáo viên dẫn học sinh vào tình huống có vấn đề: “Chiến
tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ là sự tiến bộ so với thời bấy
giờ, nhưng tại sao trong tác phẩm “Đường kách mệnh” Nguyễn Ái Quốc cho rằng
là “cuộc kách mệnh chưa đến nơi” “ An Nam không nên thực hiện cuộc kách mệnh
này”.
Giáo viên sử dụng sơ đồ bộ máy nhà nước Mỹ theo Hiến pháp 1787 để gợi ý
cho học sinh thông qua việc giải thích sơ đồ này.

GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 15


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Tổng thống
(nhiệm kỳ 4 năm, không quá 2 nhiệm kỳ)

Các bộ trưởng

Thượng viện

Tòa án tối cao,

( chịu trách nhiệm
trước tổng thống)

(mỗi bang 2 thượng

nghị sĩ)

(9 quan tòa, nhiệm kì
suốt đời)

Hạ viện
Đại cử tri

(Số đại biểu theo số
dân mỗi bang)

Cử tri
………………………………………………………...
Không có quyền bầu cử
Phụ nữ

Không có quyền công dân
Nô lệ - thổ dân

Sơ đồ: Bộ máy nhà nước Mỹ theo hiến pháp 1787
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 16


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Học sinh giải quyết tình huống này là các em phải tìm ra được “điểm nối”
giữa những điều đã biết với những điều chưa biết. Lúc này, giáo viên là người
hướng dẫn học sinh tìm ra những điểm nối đó. Bên cạnh những mặt tiến bộ, tích

cực, các văn kiện trên vẫn có mặt trái, mặt tiêu cực. Và đó chính là lý do tại sao
Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng Mỹ - cách mạng tư sản – là cuộc cách mạng
“chưa đến nơi”. Qua đó, học sinh cũng hiểu cách mạng tư sản - về thực chất là sự
thay thế giai cấp bóc lột này (giai cấp phong kiến) bằng giai cấp bóc lột khác (giai
cấp tư sản). Cho nên, Nguyễn Ái Quốc đã cho rằng “ cách mạng An Nam không
nên làm theo cách mạng Mỹ - một cuộc cách mạng tư sản”.
+ Hai: Khi giáo viên hướng dẫn học sinh nêu ra mâu thuẫn, sự xung đột về
kiến thức và tự tìm tòi con đường giải quyết.
Ví dụ 1: Khi dạy bài chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc
Mỹ giáo viên yêu cầu học sinh cần nhắc lại các vấn đề cơ bản của cách mạng tư
sản Anh (mục đích, lãnh đạo, lực lượng, kết quả), rồi tìm hiểu tính chất, mục tiêu
của cuộc chiến tranh này. Trên cơ sở tư liệu, sự kiện cụ thể, đối chiếu với kiến thức
đã học, học sinh rút ra kết luận đây là cuộc cách mạng tư sản, diễn ra dưới hình
thức đấu tranh giành độc lập.
Bài tập nêu vấn đề là những câu hỏi thể hiện nội dung cơ bản của bài, là một
điều mới học sinh chưa biết, các em cần giải quyết trong giờ học đó là câu trả lời
của học sinh phải là sản phẩm của hoạt động tư duy độc lập.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII” ở lớp 10
ban cơ bản giáo viên có thể tổ chức cho học sinh trao đổi để tạo tình huống có vấn
đề, rồi nêu lên vấn đề đó dưới dạng bài tập: “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ
XVIII, giống và khác gì với cách mạng tư sản Anh 1640, chiến tranh giành thuộc
địa Anh ở Bắc Mỹ?”,“ vì sao gọi cách mạng tư sản Pháp 1789 là cuộc cách mạng
dân chủ điển hình?”,“đánh giá vai trò của giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân
trong cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789”, khi giải quyết các vấn đề này. Học sinh
nắm đuợc các nội dung cơ bản của bài.
Giáo viên gợi ý cho học sinh bằng cách lập bảng sau:
* Điểm giống nhau:
+ Đều là cách mạng tư sản.
+ Nguyên nhân sâu xa là mâu thuẫn chế độ phong kiến lỗi thời với lực lượng
sản xuất tư bản chủ nghĩa.

+ Lật đổ chế độ phong kiến, xác lập quyền thống trị của giai cấp tư sản, mở
đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 17


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

+ Động lực chủ yếu là quần chúng nhân dân.
+ Các cuộc cách mạng đều có ảnh hưởng sâu rộng và ý nghĩa quốc tế lớn lao.
+ Đều có mặt hạn chế là duy trì chế độ tư hữu, không giải phóng hoàn toàn
cho người lao động.
* Điểm khác nhau:
Cách mang tư
sản Anh(thế kỷ
XVII)

Chiến tranh giành độc
lập ở Bắc Mỹ (thế kỷ
XVIII)

Cách mạng tư sản
Pháp (thế kỷ
XVIII)

Hình thức

Nội chiến


Đấu tranh giành độc lập

Vừa nội chiến vừa
chống giặc ngoại
xâm

Giai cấp
lãnh đạo

Tư sản và quý
tộc mới

Tư sản và chủ nô

Tư sản

Đặc điểm

Không có bầu
cử, không có
hiến pháp

Có tuyên ngôn độc lập và
hiến pháp1787

Có bầu cử, có tuyên
ngôn nhân quyền vá
dân quyền, có hiến
pháp (1791, 1793).


Lật đổ nền thống trị của
Thiết lập chế độ
thực dân Anh – thành lập
quan chủ lập
Hoa Kỳ với nền công hòa,
hiến – tư sản và
Tư sản và chủ nô nắm
quý tộc mới nắm
quyền, theo chế độ Tổng
quyền
thống

Thành lập chế độ
cộng hòa, giai cấp tư
sản nắm quyền

Kết quả

Tính chất
cách mạng

Nhiệm vụ
cách mạng

Cách mạng tư
sản không triệt
để

Vừa là chiến tranh giải
phóng dân tộc, vừa là cách

mạng tư sản không triệt để

Cách mạng dân chủ
tư sản triệt để

Lật đổ chế độ
phong kiến

Lật đổ nền thống trị của
chính quyền thực dân
Anh, giải phóng dân tôc

Lật đổ chế độ quân
chủ chuyên chế chống liên minh
phong kiến Áo, Phổ

GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 18


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Hay muốn đánh giá vai trò của quần chúng nhân dân, vai trò của giai cấp Tư
sản trong cuộc cách mạng tư sản Pháp giáo viên đưa sơ đồ đi lên của giai cấp tư
sản Pháp.
Giai đoạn 3
Quần chúng lật đổ phái Girôngđanh
đưa phái Giacôbanh lên cầm quyền
02 – 06 – 1793

Giai đoạn 2
Quần chúng khởi nghĩa lật đổ
Chính quyền đại tư sản lập
hiến

Nền chuyên chính Giacôbanh.
Xóa bỏ mọi nghĩa vụ phong
kiến đối với nông dân.
Quy định quyền nhân dân.

10 – 8 – 792

Giai đoạn 1
Quần chúng đánh
chiếm ngục Baxti
14 – 7 – 1789

Xóa bỏ chế độ quân chủ lập hiến
Thành lập nền cộng hòa
Nền thống trị của tư sản công hòa
Girôngđanh

Cách mạng nổ ra và thắng lợi
Hạn chế quyền vua
Xóa bỏ đẳng cấp
Thiết lập nền thống trị của đại tư sản
lập hiến

-Qua bảng so sánh các cuộc cách mạng tư sản, sơ đồ của cách mạng tư sản
Pháp năm1789, học sinh sẽ trả lời được câu hỏi trên.

Khi ra bài tập nêu vấn đề, cần chú ý việc hình thành thế giới quan duy vật
biện chứng, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Giáo viên có thể sử dụng
nhiều dạng bài tập để hình thành khả năng phân tích, đánh giá phát triển ngôn ngữ,
làm việc với các loại tài liệu, vận dụng kiến thức.

GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 19


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

3.5/ Ví dụ minh họa:
Khi dạy bài: Bài 17 (lớp 12 ban cơ bản) Nước Viêt Nam Dân Chủ cộng Hòa
từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 23/9/1946.
Giáo viên chuẩn bị cho việc quá trình nhận thức của học sinh như sau:
* Nêu một số vấn đề trong bài dạy, để học sinh tự tìm hiểu và đưa ra ý kiến
của mình, thông qua 3 vấn đề:
+ Nước Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau Cách Mạng Tháng Tám 1945 có
những vấn đề gì nổi bật ? Những vấn đề đó ảnh hưởng gì tới sự tồn tại của một nhà
nước Việt Nam non trẻ ?
+ Việc giải quyết những vấn đề khó khăn trước mắt và lâu dài của Đảng ta
ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công được tiến hành như thế nào ? Việc
nào là chủ trương, việc nào là biện pháp?
+ Em hãy suy nghĩ: cách giải quyết khó khăn của Đảng ta khi có nhiều kẻ
thù đang tìm cách “bóp chết” chính quyền cách mạng non trẻ đúng hay sai? Điều
đúng đắn thể hiện ở chi tiết nào của bài học ?
* Để dẫn dắt học sinh tìm ra chân lý, giáo viên thường thể hiện theo hai
cách:
Cách 1: Nêu vấn đề (đặt câu hỏi) theo chiều hướng đi tự cụ thể đến khái

quát. Theo phương pháp quy nạp.
Cách 2: Nêu những câu hỏi phản đề để học sinh tự đối chiếu với nhận thức
của mình về một vấn đề lịch sử nào đó, tự các em khẳng định đúng sai.
Ví dụ: Trong bài 17 (lớp 12 ban cơ bản): Nước Viêt Nam Dân Chủ cộng
Hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 23/9/1946, giáo viên nêu vấn đề: trong
lúc nhân dân Nam bộ đang quyết tâm cầm súng chống Pháp, Đảng ta, đứng đầu là
Hồ Chủ Tịch lại chủ trương hòa với Pháp. Chủ trương đó đúng hay sai ? Vì sao ?
Giải quyết được vấn đề này, học sinh không chỉ nắm vững kiến thức một cách sâu
sắc về tình hình thực tế của cách mạng lúc đó, mà còn có khả năng nhận biết về
tình hình xã hội khác
Sau đây là đề cương giảng bài số 17(lớp 12 ban cơ bản): Nước Viêt Nam
Dân Chủ cộng Hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 23/9/1946.
* Đặt vấn đề: Mục đích cuối cùng của cuộc cách mạng là vấn đề chính
quyền, giành được chính quyền đã khó giữ vững chính quyền lại càng khó hơn.
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 20


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Bằng những cơ sở khoa học, em hãy làm sáng tỏ ý kiến cho rằng: Ngay sau khi
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”?
Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh xem sách giáo khoa để nắm vững vấn đề
khó khăn của nước ta sau Cách mạng tháng Tám 1945 về các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, ngoại xâm, nội phản.
Câu hỏi 1: “Trong những khó khăn trên, khó khăn nào là trước mắt, khó
khăn nào là lâu dài, khó khăn nào cần phải giải quyết trước tiên?”
Dự kiến trả lời: có 2 tình huống xác định khó khăn trước mắt
+ Những khó khăn về kinh tế, xã hội.

+ Những khó khăn ngoại xâm.
Câu hỏi 2: Trước muôn vàn khó khăn trên, có ý kiến cho rằng phải ổn định
được đời sống, nâng cao dân trí mới có thể đánh giặc được. Có ý kiến cho rằng,
cần phải chống giặc ngoại xâm trước, bởi vì “nước mất thì nhà tan”. Ý kiến nào
đúng mà chưa đủ, ý kiến nào sai? Vì sao?
Cũng có khả năng cho rằng 2 ý kiến trên đều đúng. Vấn đề cần khẳng định
tuy những khó khăn diễn ra trong từng mặt của đời sống nhưng nó diển ra cùng
một lúc, đe dọa sự sống còn của nhân dân. Không thể giải quyết một khó khăn mà
xem nhẹ giải quyết khó khăn khác, bởi vì, những khó khăn đó liên quan mật thiết
với nhau. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói “Giặc đói và giặc dốt là bạn đồng hành
của giặc ngoại xâm” điều này thể hiện trong “Chỉ thị kháng chiến - kiến quốc”.
Để giải quyết nạn đói, Đảng ta đã nêu ra chủ trương, biện pháp “thực hành
tiết kiệm”, “lá lành đùm lá rách”, “hũ gạo tiết kiệm, “tăng gia sản xuất”, “thực hiện
tất đất tất vàng”, đâu là chủ trương? đâu là biện pháp?
Phải lấy những biện pháp để thực hiện lâu dài.
Câu hỏi 3: “Vì sao đất nước ta có muôn vàn khó khăn, chúng ta lại bầu cử
Quốc hội thống nhất vào ngày 6 tháng 1 năm 1946”.

GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 21


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Là một biện pháp lớn để thực hiện việc cũng cố chính quyền vững mạnh,
khẳng định tính độc lập, tự chủ, thống nhất đất nước, củng cố khối đoàn kết toàn
dân, phá tan âm mưu chia rẽ của kẻ thù, xác định quyền làm chủ nhà nước của
nhân dân lao động, nhà nước của dân do dân và vì dân. Đây là mục đích chiến lược
của Đảng ta trước âm mưu xâm lược và phá hoại của kẻ thù.

Nêu tiếp vấn đề:
Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và phản động đề bảo vệ chính quyền
cách mạng, trong cùng một thời gian, chúng ta đương đầu với nhiều kẻ thù. Việc
xác định kẻ thù chính của dân tộc là cần thiết, từ đó mới đề ra những sách lược đối
phó với từng kẻ thù. Đảng ta đã xác định kẻ thù chính của dân tộc lúc này là thực
dân Pháp.Vì sao?
Thực dân Pháp thống trị ở Việt Nam. Nay được bọn đế quốc giúp đỡ muốn
quay trở lại Việt Nam, khôi phục lại nền thống trị của chúng.
Câu hỏi 4: “Khi xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính của dân tộc, tại sao
ta lại nhân nhượng, hòa hoãn với quân Trung Hoa Dân Quốc mà không hòa hoãn
với Pháp? Nếu hòa hoãn với Pháp ngay từ đấu có lợi cho cách mạng không? Vì
sao?”.
Quân Trung Hoa Dân Quốc và tay sai vào nước ta theo hiệp định Pốtxđam,
với danh nghĩa là đồng minh vào tước vũ khí của quân Nhật. Bản thân đội quân ô
hợp, sức chiến đấu chưa cao. Tình hình trong nước, cách mạng Trung Quốc đang
phát triển.
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 22


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Chúng chưa lộ rõ bộ mặt xâm lược, mới chỉ xúi giục bọn Việt quốc, Việt
cách quấy phá cách mạng.
Pháp với âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Núp sau quân Anh, nhờ Anh
giúp đỡ, đã nổ súng vào nhân dân ta ngay sau khi cách mạng thành công…
Chủ trương của ta tránh đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Việc lựa
chọn để hòa hoãn, nhân nhượng với quân Trung Hoa Dân Quốc là một sách lược
đúng đắn, kịp thời, tránh những tổn thất nặng nề cho dân tộc trong lúc này. Đây là

sách lược phân hóa kẻ thù để loại trừ từng kẻ thù ra khỏi đất nước.
Bản chất của kẻ thù (đế quốc) luôn luôn mâu thuẫn với nhau, song với âm
mưu tiêu diệt các lực lượng cách mạng, chúng sẵn sáng câu kết với nhau. Vì vậy,
chúng ta phải thận trọng, khéo léo trong sự nhân nhượng với quân Trung Hoa Dân
Quốc để tập trung chống Pháp ở Nam Bộ, nhân nhượng nhưng giữ được nguyên
tắc - giữ vững được sự lãnh đạo của Đảng.
Câu hỏi 5: “Tại sao Trung Hoa Dân Quốc lại dễ dàng chấp nhận để Pháp kéo
ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa Dân Quốc? Khi hiệp định Hoa Pháp được ký
ngày 18 - 2 - 1946, có ảnh hưởng gì đến cách mạng Việt Nam?”.
Cách mạng Việt Nam chỉ được chọn một trong hai con đường:
+ Chủ động đàm phán với Pháp.
+ Cầm súng trực tiếp chống Pháp khi chúng kéo quân ra miền Bắc.
Câu hỏi 6: “Tại sao chúng lựa chọn đàm phán với Pháp trong lúc này khi
nhân dân Nam Bộ đã cầm súng đứng lên chống Pháp ngay trong những ngày đầu
tiên sau Cách mạng tháng Tám?”.
Việc quyết định này có đúng không? Một số người cho rằng, không hòa
hoãn với ai hết, phải đánh đến cùng. Cách mạng là tiến công. Nhân nhượng , hòa
hoãn là thỏa hiệp, đầu hàng?
Cần khẳng định: Hòa với Pháp lúc này là hết sức đúng đắn, chủ trương này
là sáng suốt và kịp thời, đây là chủ trương hòa để tiến.
Có thời gian để chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Nhờ kẻ thù tự loại kẻ thù, đuổi 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc về nước,
kéo theo cả bọn tai sai của chúng, cách mạng giảm nhẹ những khó khăn.
Chúng tỏ thiện chí mong muốn hòa bình của dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự
ủng hộ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ của Pháp.
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 23



Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

Hòa với Pháp là cần thiết trong lúc này nhưng đó phải là mục đích của cách
mạng không? Đó là sách lược mềm dẻo và thể hiện sự sáng suốt của Đảng ta trong
phút giây lịch sử của dân tộc. Bởi vì, ta phải chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng bước và
cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp. Một điều chắc chắn không thể tránh khỏi. Vì
sao?
Nêu vấn đề tiếp tục tìm hiểu: Thông qua việc ký Hiệp định sơ bộ 6 - 3 và
tạm ước 14 - 9, hãy làm rõ:
Sự hòa hoãn của ta đối với Trung Hoa Dân Quốc và Pháp có gì giống và
khác nhau?
Thông qua những vấn đề nhân nhượng, hòa hoãn với kẻ thù, chúng ta đã thể
hiện sự mềm dẻo về sách lược, cứng rắn về nguyên tắc ở những điểm nào?...
Như vậy, dạy học nêu vấn đề đặt ra một loạt yêu câu đối với người giáo viên
không chỉ về mặt kiến thức mà còn về cả kỹ năng sư phạm. Trong quá trình giảng
dạy thầy giáo có thể xen kẽ nhiều phương pháp, phương tiện dạy học truyền thống
cũng như hiện đại để khéo léo dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề.
Khi áp dụng kiểu dạy học nêu vấn đề, tôi thường kết hợp với việc ứng dụng
công nghệ thông tin để khơi dậy hứng thú học tập lịch sử của học sinh. Tùy theo
nội dung của từng bài, từng vấn đề được đặt ra, với phương tiện hỗ trợ đắc lực là
công nghệ thông tin giáo viên tạo ra các biểu đồ, lược đồ, sơ đồ, bảng thống kê
nhằm tạo ra biểu tượng cụ thể cho học sinh về sự kiện hay hiện tượng lịch sử.
Công nghệ thông tin giúp học sinh trực quan sinh động những thành tựu văn hóa,
những nhân vật lịch sử, ngoài ra sử dụng công nghệ thông tin với những đoạn phim
minh họa cho sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử…
Ví dụ 1: Bài 16 lịch sử 12 cơ bản phần Cách mạng Tháng Tám thành công,
giáo viên cho học sinh xem đoạn phim tư liệu về công tác chưẩn bị trước ngày tổng
khởi nghĩa nổ ra. Học sinh thấy được sự hăng hái trong công tác chuẩn bị của nhân
dân ta, từ đó học sinh có những suy nghĩ và rút ra bài học cho bản thân. Hay khi
dạy mục IV Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời để giúp học sinh hiểu được

ý nghĩa của bản Tuyên Ngôn độc lập ngày 2 – 9 – 1945, giáo viên sử dụng đoạn
phim tư liệu Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn. Qua đó giáo viên cũng khắc sâu được
hình ảnh giản dị của Bác trong ngày đọc tuyên ngôn.
Ví dụ 2: Dạy bài 20 lịch sử 12 (cơ bản) để học sinh hiểu được sự chuẩn bị của
quân và dân ta cho chiến lược Điện Biên Phủ như thế nào ta có thể cho học sinh
xem những đoạn phim tư liệu ngắn về việc vận chuyển lương thực bằng những
chiếc xe đạp thồ; hoặc đoạn phim kéo pháo vào trận địa. Hoặc để khắc sâu sự kiện
GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 24


Chuyên đề: Dạy học nêu vấn đề và sử dụng CNTT để phát huy tính tích cực của HS trong tiết dạy học Lịch sử

quân Pháp đầu hàng ta ra sao thì cho học sinh xem đoạn phim quân Pháp rồng rắn
căng cờ trắng ra hàng. Và hình ảnh Đờcáttơri bị bắt sống.
Qua những đoạn phim tư liệu trên học sinh thấy được sự hăng hái trong công
tác chuẩn bị của quân và dân ta cho chiến lược, cho thấy được sự dũng cảm mưu trí
của bộ đội ta khi bắt sống tướng Đờcáttơri.
Ví dụ 3: Khi giảng về chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giáo viên có thể chiếu
đoạn phim trong bộ VCD “Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày” do Phùng Văn Lợi
biên tập, trong khoảng thời gian từ 1 → 2 phút, kết hợp lời giới thiệu ngắn gọn của
giáo viên: Trước việc tuyến phòng thủ Phan Rang, Xuân Lộc, của ngõ phía đông
bảo vệ Sài Gòn bị quân ta chọc thủng, nội bộ Mỹ ngày càng thêm rối loạn. Tổng
thống Mỹ ra lệnh di tản người Mỹ ra khỏi Sài Gòn, năm cánh quân từ các hướng
vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch để tiến vào Sài Gòn. Tổng thống
Thiệu từ chức 17h ngày 26/4/1975,
Như vậy, khi áp dụng kiểu dạy học nêu vấn đề có sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin qua một năm học, tôi thấy rằng kết quả đạt được rất khả quan, học sinh
có sự tích cực hơn trong việc tiếp thu kiến thức lịch sử.


GVTH: Vũ Ngọc Bích Trang

Trang 25


×