Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh khiếm thị lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.57 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT

Mã số . . . . . . . . . . . .

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH KHIẾM THỊ LỚP 2

Người thực hiện: ĐOÀN NGỌC HƯƠNG
Lĩnh vực/ Môn nghiên cứu:
Giáo dục khuyết tật: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh khiếm thị

Có đính kèm:
Mô hình
Phần mềm

Phim ảnh

Năm học: 2012 – 2013

Hiện vật khác


SƠ LƯỢC VỀ LÝ LỊCH KHOA HỌC

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: ĐOÀN NGỌC HƯƠNG
2. Ngày, tháng, năm sinh: 08/8/1982
3. Nam, nữ: Nữ


4. Địa chỉ: Ấp 2, xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại: 0613. 954171 (CQ) – Di động: 0983019907
6. Fax:
E-mail:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân Khoa học Đại học Sư phạm TP. HCM
- Năm nhận bằng: 2009
- Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục đặc biệt
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Dạy trẻ Khiếm thị - Nhìn kém
- Số năm có kinh nghiệm: 10 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 05 năm gần đây:
+ Một số biện pháp hỗ trợ rèn kỹ năng viết cho học sinh nhìn kém.
(Năm 2009)
+ Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh nhìn kém lớp 4.
(Năm 2011)
+ Một số bài tập giúp học sinh khiếm thị lớp 2 rèn kỹ năng định hướng di
chuyển trong trường học.
(Năm 2012)


MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH KHIẾM THỊ LỚP 2
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong cuộc sống, để có thể tồn tại và phát triển thì con người phải có những
kỹ năng cơ bản, những kỹ năng này một phần là bản năng, một phần là do quá
trình được luyện tập từ lúc mới sinh ra cho đến khi trưởng thành. Đối với mỗi đứa
trẻ bình thường, khi lớn lên qua việc tiếp xúc, bắt chước và học hỏi chúng sẽ rèn

được những kỹ năng sống cần thiết như: kỹ năng tự chăm sóc bản thân, kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng sử dụng các đồ dùng, kỹ năng sử dụng các phương tiện công
cộng, kỹ năng xử lý tình huống, ...
Tuy nhiên không phải trẻ em nào cũng may mắn được sinh ra hoàn toàn bình
thường khỏe mạnh. Vẫn còn những em bị khuyết tật nói chung và những em khiếm
thị nói riêng. Do ảnh hưởng của việc mất thị lực hoặc hạn chế thị lực mà những em
khiếm thị phát triển rất kém các kỹ năng cần có so với các bạn cùng độ tuổi. Các
em thường có những biểu hiện không phù hợp khi giao tiếp; có thái độ rụt rè, chậm
chạp, ngại vận động; ít tự phục vụ được cho nhu cầu cá nhân. Nếu các em không
được can thiệp hỗ trợ để phát triển các kỹ năng sống thì các em sẽ trở nên thụ
động, phụ thuộc hoàn toàn vào người khác, khó có thể khám phá và phát triển bản
thân.
Qua nhiều năm giảng dạy trẻ khiếm thị, tôi nhận thấy rằng cần phải sử dụng
đa dạng biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cần
thiết cho học sinh. Vấn đề đặt ra ở đây là dạy thế nào để có thể phát huy tối đa khả
năng cũng như đánh thức sự tự giác, vượt qua mặc cảm khuyết tật của các em;
đánh thức phụ huynh, người chăm sóc không nên bao bọc thái quá – để các em có
những sự phát triển hoàn toàn bình thường như các bạn khác. Tôi đã mạnh dạn áp
dụng “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh khiếm thị lớp 2” để
thực hiện những trăn trở bấy lâu trong quá trình dạy học sinh khiếm thị nhằm mục
đích giúp các em có thể tự tin, độc lập trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Một số thuật ngữ
1.1.1. Trẻ khiếm thị
Trẻ khiếm thị là trẻ bị khuyết tật về thị giác. Cơ quan thị giác của trẻ bị phá
hủy một bộ phận nào đó hoặc bị phá hủy hoàn toàn dẫn đến giảm hoặc mất khả
năng cảm nhận ánh sáng, màu sắc và sự vật, hiện tượng. Hay nói một cách khác trẻ
khiếm thị là trẻ có bệnh lí, tật khúc xạ hay khiếm khuyết của mắt gây giảm thị lực,
có thị lực dưới 3/10 sau khi đã được điều trị bệnh lí về mắt và chỉnh kính.

1


1.1.2. Kỹ năng sống
Kỹ năng sống là kỹ năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có
khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày.
(Theo WHO)
1.2. Tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với trẻ khiếm thị:
Có được kỹ năng sống tốt sẽ giúp cho trẻ khiếm thị:
- Có khả năng độc lập trong cuộc sống hằng ngày như:
+ Tự phục vụ: Vệ sinh cá nhân, tắm giặt, ăn uống, …
+ Sử dụng đồ dùng: Sử dụng được đồ dùng trong cuộc sống: ca, chén,
muỗng, đũa, vòi nước, tivi, quạt, …; đồ dùng học tập như: bảng viết, dùi viết, bàn
toán, gậy, kéo, …
+ Đi lại: Có thể tự đi từ nơi này đến nơi khác trong phạm vi nhà ở,
trường học (môi trường quen thuộc), những nơi công cộng (môi trường lạ) và cả
những nơi mình thích, …
+ Sử dụng phương tiện giao thông: Biết cách lên xuống, ngồi đúng tư
thế, có hành vi đúng mực, …
+ Giao tiếp xã hội: Học hỏi người khác, giao lưu, kết bạn, …
- Hòa nhập vào cộng đồng: Tham gia vào các hoạt động học tập, vui chơi,
giải trí, … ở gia đình, trường học và xã hội cùng với các bạn đồng trang lứa (phù
hợp với lứa tuổi), …
- Phát triển bản thân: Khi trẻ đã có khả năng độc lập, sự hòa nhập vào cộng
đồng tốt, trẻ sẽ có nhiều cơ hội để học tập, rèn luyện, lĩnh hội kiến thức, nâng cao
năng lực, phát huy thế mạnh của bản thân, …
1.3. Vai trò của các giác quan đối với trẻ khiếm thị:
Theo quy luật bù trừ, khi gặp hạn chế về thị giác thì các giác quan còn lại sẽ
gia tăng hoạt động làm nhiệm vụ hỗ trợ, bổ sung, thay thế, bù trừ cho các chức
năng của thị giác. Cụ thể như sau:

- Đối với trẻ khiếm thị, xúc giác là một giác quan cực kỳ quan trọng, phản
ánh hầu hết các thuộc tính không gian, thời gian và các tính chất của vật thể thay
thị giác.
- Thính giác giúp trẻ khiếm thị nhận biết rất nhiều thông tin trong cuộc sống:
xác định tín hiệu định hướng di chuyển; gọi tên được đồ vật, học tập qua âm thanh,
lời nói; hiểu được tâm trạng của một người qua giọng nói,…
- Khứu giác, vị giác: giúp trẻ nắm bắt được thông tin phản ánh bản chất của
sự vật; qua đó, trẻ có thể hiểu mùi vị đó thuộc cái gì, hiện tượng gì, chuyện gì đang
diễn ra và sẽ xảy ra,…
- Cảm giác cơ giác vận động đối với trẻ khiếm thị là cơ sở tri giác hình dạng,
kích thước, cự ly.
Nhờ vào các giác quan này, trẻ khiếm thị vẫn nhận thức được thế giới khách
quan. Đây chính là cơ sở khoa học để giáo dục cho trẻ kỹ năng sống.
2


1.4. Thực trạng việc sử dụng kỹ năng sống của học sinh khiếm thị lớp 2 tại
Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai:
Do khiếm khuyết về khả năng nhìn nên đa số các kỹ năng sống mà trẻ khiếm
thị lớp 2 có được thường chậm hơn các bạn bình thường khác. Cụ thể là:
- Việc tự phục vụ, vệ sinh cá nhân thường phải nhờ vào sự hỗ trợ của người
khác; di chuyển khó khăn, chậm chạp.
- Giao tiếp với người xung quanh thì ít có biểu thị xúc cảm khuôn mặt phù
hợp, dáng người sai (cúi người, lắc lư, …), không hướng về phía người đang giao
tiếp với mình nên dễ tạo ra khoảng cách và sự hiểu lầm là thờ ơ, không quan tâm,
không lễ phép.
- Do hạn chế thị lực nên trẻ có thói quen dựa dẫm và trông chờ vào sự giúp
đỡ của người khác, thu mình, ngại tiếp xúc, thụ động trong giao tiếp hoặc xử lí các
tình huống bất ngờ như lạc đường, rơi đồ vật, …
- Trẻ học các kỹ năng chậm hơn và cần nhiều thời gian hơn so với trẻ bình

thường.
- Gia đình quá bao bọc, làm giúp, làm hết việc cho con dẫn đến trẻ lười vận
động, có tâm lý ỷ lại.
 Chính những hạn chế này làm cho trẻ khiếm thị bị thụ động và ngại giao
tiếp với thế giới xung quanh. Do vậy, muốn trẻ phát triển tốt thì chúng ta phải có
những biện pháp hỗ trợ phù hợp nhất.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Từ những cơ sở lí luận ở trên, hiểu được nhu cầu giáo dục đặc biệt của các em
tôi mạnh dạn áp dụng một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh khiếm
thị lớp 2. Đó là những hướng dẫn cho việc thực hành luyện tập các kỹ năng, là
những biện pháp hỗ trợ các em thực hiện, là những hình thức hoạt động, những
khích lệ, khen thưởng kịp thời. Tất cả nhằm phát huy tối đa khả năng của học sinh;
giúp các em có thể tự tin trong học tập và trong cuộc sống.
2.1. Chuẩn bị khi dạy kỹ năng sống cho học sinh khiếm thị lớp 2
Việc chuẩn bị khi dạy kỹ năng sống rất quan trọng. Những việc này sẽ giúp
cho giáo viên nắm được tình hình cụ thể của từng học sinh như các vấn đề về mắt,
các kỹ năng đã đạt được, các kỹ năng cần được bổ sung, … Từ đó, giáo viên sẽ lập
kế hoạch giáo dục và theo dõi một cách có hệ thống. Các bước chuẩn bị bao gồm
như sau:
2.1.1. Đánh giá ban đầu
Hoàn thành việc đánh giá ban đầu một cách hiệu quả - đó sẽ là nền móng, là
cơ sở đầu tiên, quyết định chất lượng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Ta có thể thực hiện như sau:
Tiến hành đánh giá ở trẻ về các mặt sau:
 Dạng tật của mắt.
 Thị lực chức năng:
+ Có thể nhận thấy gì.
+ Có thể thấy được trong những điều kiện nào.
+ Sử dụng thị lực như thế nào, ở mức độ nào.
3



 Thị lực xa, thị lực gần bằng “Bảng chữ E”.
 Thị trường của mắt.
 Kỹ năng di chuyển:
+ Kỹ năng đạt được.
+ Điều kiện và môi trường thuận lợi khi di chuyển.
 Khả năng sử dụng các giác quan còn lại.
 Khả năng học và hiểu.
Việc đánh giá trên nhằm cung cấp thông tin, làm căn cứ cho việc lập kế hoạch
giáo dục kỹ năng sống đảm bảo tính cần thiết, đúng đắn và phù hợp nhất cho mỗi
học sinh.
Ví dụ: Học sinh Lê Ngọc Phương Nhung - Lớp 2
 Dạng tật của mắt: Nhìn kém do mắt bị đục thủy tinh thể, rung giật nhãn cầu.
Đeo kính theo toa chỉ định của Bác sĩ.
 Thị lực chức năng:
Có thể nhận thấy: các đồ vật to, màu sắc tương phản, ở cự ly gần.
Có thể thấy được trong những điều kiện: sức khỏe tốt, ánh sáng ban
ngày, ánh sáng đèn sắc trắng.
Sử dụng thị lực trong di chuyển, sinh hoạt hằng ngày và học tập (học với
chữ sáng phóng to).
 Thị lực xa: 2/60 - thị lực gần: đọc: 4M tương đương font 26 và viết 3M
tương đương font 24.
 Thị trường của mắt: hẹp thị trường trên, trái.
 Kỹ năng di chuyển: có thể tự đi chậm, trên đường phẳng với ánh sáng ban
ngày hoặc ánh sáng đèn sắc trắng.
 Khả năng sử dụng các giác quan còn lại: tương đối tốt.
 Khả năng học và hiểu: xếp loại học lực Giỏi.
 Những khó khăn và hạn chế: Các thao tác chậm, ít chịu xin lỗi khi mắc lỗi,
tư thế ngồi chưa đúng, tập trung kém, khó bắt chuyện với người khác,…


Hình 1. Đánh giá thị lực gần của học sinh bằng “Bảng chữ E”.
4


2.1.2. Lập kế hoạch
Căn cứ vào kết quả của bước đánh giá ban đầu về trẻ, căn cứ vào chương trình
của môn giáo dục kỹ năng sống lớp 2, dựa trên môi trường sống của trẻ cũng như
điều kiện thực tế chúng ta có thể lập kế hoạch ngắn hạn (cho từng tiết học, từng
tuần, từng tháng) và dài hạn (quý, học kỳ, năm học) cụ thể theo mẫu sau:
Thời gian

Nội dung

Biện pháp cụ thể

Kết quả đạt được

Tồn tại

Ví dụ: Học sinh Lê Ngọc Phương Nhung - lớp 2
Thời gian

9/2012

Nội dung

Biện pháp cụ thể
- Hướng dẫn HS
- Biết nhận lỗi khi thực hành theo cách

có hành vi không tập xử lí tình huống
đúng mực, tự hào và ứng dụng trong
khi làm việc tốt.
thực tế.

Kết quả đạt được
- Biết sửa lỗi khi
được hướng dẫn
sửa sai.
- Vui vẻ khi giúp
đỡ được cho bạn.

Tồn tại
- Chưa có ý
thức tự giác,
còn phải để
nhắc nhở.

Ở mỗi giai đoạn, chúng ta sắp xếp các dạng bài tập, các kỹ năng cần rèn luyện
từ dễ đến khó; có sự hướng dẫn đến bước đầu tự thực hiện có giáo viên theo dõi và
cuối cùng đến bước tự thực hiện.
Ghi nhận sự tiến bộ và những tồn tại của học sinh trong suốt quá trình rèn
luyện để đánh giá sau mỗi giai đoạn, làm cơ sở đề ra phương hướng, kế hoạch cho
thời gian tiếp theo.
2.1.3. Điều chỉnh môi trường phù hợp
Điều kiện môi trường phù hợp là một yếu tố quan trọng giúp trẻ an tâm, tự tin
học tập và rèn luyện kỹ năng sống cũng như thực hiện các công việc hằng ngày.
Cần lưu ý ở một số yếu tố sau:
- Đảm bảo ánh sáng trẻ thích ứng (loại ánh sáng, mức độ, sử dụng ánh sáng
mặt trời hay cần hỗ trợ thêm đèn).

- Kích thước và màu sắc của đồ dùng (cần cho trẻ làm quen và sử dụng các
đồ dùng sát với thực tế cuộc sống, kích thước phù hợp; trẻ nhìn kém cần độ tương
phản cao về màu sắc giữa các loại đồ dùng và giữa đồ dùng với nền).
- Cách bố trí đồ dùng ở nhà, trường học giúp trẻ dễ nhận biết nhất.
- Nên cố định các vị trí đồ dùng trong khoảng thời gian dài, chỉ thay đổi khi
cần thiết và phải thông báo cho trẻ biết về cách sắp xếp mới.
- Đảm bảo độ an toàn cao.
- Có biểu tượng hỗ trợ (dán hình cây đàn trên cánh cửa phòng học nhạc, dán
biểu tượng riêng trên tủ cá nhân, thêu kí hiệu riêng trên đồ đồng phục cho mỗi học
sinh, …).
- Thái độ, hành động của mọi người.
- Khi đưa trẻ đến môi trường lạ cần giới thiệu ngay cho trẻ biết nơi đó thế
nào (về điều kiện cơ sở vật chất, những quy tắc chung, số lượng, vai vế với người
được tiếp xúc, …)
5


Ví dụ:
- Cửa: mở vào phía trong nhà, màu cửa có độ tương phản với tường.
- Lối đi: không để vật cản cố định chắn lối đi, không mở cửa sổ lơ lửng ở lối
đi, nên có điểm mốc để nhận biết nơi lên xuống bậc thềm, ...
- Màu sắc: sử dụng màu sắc có độ tương phản cao (không quá chói, nhòe) sẽ
giúp cho trẻ khiếm thị nhận ra đồ vật một cách dễ dàng.
- Vật nhọn, bén, nóng, …(nguy hiểm cho trẻ) cần cất vào vị trí thích hợp; ổ
điện ở độ cao hợp lí, …
- Người lớn là tấm gương sáng về thái độ và hành động (nói năng nhẹ
nhàng, lịch sự; cư xử đúng mực, biểu lộ sự yêu thương, lòng biết ơn; giữ vệ sinh cơ
thể sạch sẽ, bỏ rác đúng nơi quy định,…)
Việc chuẩn bị này không chỉ có vai trò trong việc theo dõi quá trình giáo dục
và sự tiến bộ của học sinh mà còn là những hồ sơ để phụ huynh có thể tham khảo,

kịp thời nắm bắt và có sự hỗ trợ cho con em mình hoặc khi các em chuyển lớp sẽ là
căn cứ để giáo viên mới nắm được tình hình của học sinh.
2.2. Hướng dẫn theo từng bước nhỏ (Chia nhỏ nhiệm vụ)
Hầu hết các hoạt động mà chúng ta làm hằng ngày đều rất phức tạp và có thể
chúng ta không để ý đến các bước nhỏ riêng biệt cấu thành nên hoạt động đó.
Nhưng trẻ khiếm thị lại có thể gặp lúng túng do không quan sát được bằng mắt để
nắm bắt, ghi nhớ kịp thời dẫn đến thao tác sai hoặc lẫn lộn. Nếu gặp quá nhiều khó
khăn và không thể hoàn thành tốt công việc, trẻ sẽ thất vọng, mặc cảm và không
muốn làm lại thêm một lần nữa.
Bằng cách chia một hoạt động ra nhiều bước nhỏ và dạy riêng biệt mỗi bước
trước khi hợp các bước lại để thành một hoạt động hoàn chỉnh sẽ giúp trẻ dễ dàng
tiếp thu, khắc sâu và có đủ thời gian để thực hiện, luyện tập.
Ví dụ: Đối với bài “ Cắt móng tay”, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh theo
các bước nhỏ sau:
 Bước 1. Chuẩn bị: Dụng cụ bấm móng tay, khăn, thau nước sạch.
 Bước 2. Làm ướt hai bàn tay để làm mềm móng, sau đó lau khô.
 Bước 3. Cắt móng tay: Cắt móng cho lần lượt từng ngón từ tay trái rồi đến
tay phải. Bỏ gọn phần móng đã cắt vào một tờ giấy để cho vào thùng rác.
 Bước 4. Rửa tay lại sạch sẽ và lau khô.
 Bước 5. Vệ sinh, dọn dẹp các dụng cụ vừa sử dụng.

Hình 2,3,4. Học sinh thực hiện các bước làm ướt tay, lau khô và cắt móng tay.
6


Khi các bước được chia nhỏ ra, học sinh có thể dễ dàng hoàn thành từng bước
một; việc hoàn thành đó sẽ tạo cho các em tâm lý tự tin, sẵn sàng thực hiện các
bước tiếp theo.
2.3. Hướng dẫn theo chuỗi xuôi – chuỗi ngược
Hướng dẫn theo chuỗi xuôi: Hướng dẫn tất cả các bước thực hiện kỹ năng cho

học sinh theo một chuỗi hành động từ đầu tiên cho đến cuối cùng, từ mở đầu đến
kết thúc. (Giúp học sinh lần lượt học và ghi nhớ trình tự các bước.)
Ví dụ: Bài “Đánh răng”
Hướng dẫn học sinh lần lượt các bước sau:
 Bước 1. Lấy kem đánh răng, lấy nước.
 Bước 2. Xúc miệng bằng nước.
 Bước 3. Dùng bàn chảy đánh răng.
 Bước 4. Đánh răng.
 Bước 5. Xúc miệng lại bằng nước cho hết bọt kem.
Hướng dẫn theo chuỗi ngược: Hướng dẫn cho học sinh thực hiện bước cuối
cùng trước, rồi đến các bước tiếp theo chiều ngược về bước đầu tiên cuối cùng.
(Giúp học sinh có cảm giác thành công vì hoàn thành được hoạt động và các em
thường thích thú tìm hiểu các bước lùi dần theo chuỗi ngược và tự làm lại theo
chuỗi xuôi.)
Ví dụ: Bài “Uống nước”
Hướng dẫn học sinh lần lượt các bước theo chuỗi ngược như sau :
 Bước 1. Uống nước, cất ca
 Bước 2. Rót nước
 Bước 3. Lấy ca
Tùy từng dạng bài tập, giáo viên sẽ lựa chọn hướng dẫn cho học sinh theo
chuỗi hành động phù hợp.
2.4. Trải nghiệm thực tế
Đặt bản thân mình vào vị trí của trẻ để tự làm thử các hoạt động trước khi dạy
trẻ. Ở vị trí này, chúng ta sẽ gặp những thử thách và phải suy nghĩ về cách thức để
hoàn thành công việc hiệu quả. Chính điều này đem lại cho chúng ta cơ hội trải
nghiệm thú vị. Chúng ta sẽ nghĩ ra cách tốt nhất để dạy trẻ.
Ví dụ: Giáo viên tự ăn cơm, di chuyển trong trường khi bịt mắt mình lại.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ khiếm thị không chỉ là đến bài, đến tiết là
trẻ được học những kỹ năng mới mà phải được dạy ngay trong những tình huống
trẻ gặp hàng ngày như ăn cơm, tắm giặt, sử dụng phương tiện giao thông,… Hãy

tạo mọi cơ hội, mọi điều kiện để trẻ được thực hành, được trải nghiệm. Những tình
huống tự nhiên trong cuộc sống sẽ cho các em những khái niệm rõ ràng, là dịp để
trẻ học tập một cách sâu sắc và tích lũy được kinh nghiệm từ sự va chạm thực tế.
Ví dụ: Đối với bài “ Sử dụng bộ đồ ăn”
- Giáo viên sẽ hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu mục đích và cách sử dụng bộ
đồ ăn (chén, dĩa, muỗng, đũa, …) trong tình huống cả lớp cùng thưởng thức các
món ăn trong giờ cơm trưa. Bằng hành động cụ thể với các dụng cụ này, học sinh
sẽ hiểu, nhớ nội dung bài học ngày hôm đó và tự chắt lọc cho mình kinh nghiệm để
ứng dụng trong cuộc sống ở ngày mai.
7


Cùng trẻ trải nghiệm những tình huống cụ thể để kịp thời nhận ra khả năng,
điểm mạnh, điểm yếu của các em và có hướng hỗ trợ kịp thời.
Ví dụ: Trong những hoạt động tập thể toàn trường như: Thi kể chuyện, thi trò chơi
dân gian, hội chơ ẩm thực, chào mừng các đoàn khách đến thăm, … giáo viên chú
ý quan sát, ghi nhận để có hướng hỗ trợ hoặc chỉnh sửa ngay cho trẻ.
Giúp trẻ khiếm thị làm một việc là điều tự nhiên. Nhưng nếu chúng ta làm
thay hay giúp trẻ quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng trẻ không có cơ hội để tự học và
biết được những công việc phải làm như thế nào. Xuyên suốt quá trình giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh khiếm thị, cần khuyến khích mọi độc lập trải nghiệm nơi
trẻ (có sự giám sát của người lớn).
Ví dụ: Học sinh khiếm thị cùng nhau dạo chơi trong sân trường để rèn luyện kỹ
năng di chuyển, giao tiếp, học hỏi, hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau khám phá, …

Hình 5. Học sinh dạo chơi trong sân trường.
(Trải nghiệm khi định hướng di chuyển)
Ví dụ: Đề tài: “Rót nước vào ca (chai) không đổ.”
- Đối với học sinh mù: Trải nghiệm để biết sử dụng thính giác nghe tiếng
nước chảy; xúc giác cảm nhận độ vơi, đầy của nước khi rót vào ca (chai); cảm giác

thăng bằng để giữ ca (chai) đứng thẳng và cơ giác vận động để điều chỉnh khoảng
cách giữa bình đựng nước với ca (chai) cũng như hướng rót nước, …
- Đối với học sinh nhìn kém: Trải nghiệm để biết tận dụng tối đa thị lực còn
lại trong việc thực hiện hành động rót nước, các giác quan còn lại đóng vai trò hỗ
trợ thêm.
Ví dụ: Đề tài: “Phân biệt một số loại đồ ăn, nước uống”
- Thông qua thị giác (nếu còn nhìn thấy) kết hợp với xúc giác, vị giác, khứu
giác và kinh nghiệm của bản thân, học sinh khiếm thị sẽ trải qua giai đoạn tìm
hiểu, khám phá, tưởng tượng, tổng hợp, kinh ngạc và tìm ra kết quả.
 Trong quá trình giảng dạy, tôi thường áp dụng biện pháp “trải nghiệm
thực tế” này để giúp học sinh lĩnh hội những kỹ năng sống mới bằng cách khơi dậy
ở các em sự tò mò, tìm tòi; dẫn các em đến sự khám phá (dự đoán, thử, sai, tìm ra
kết quả,…). Điều quan trọng là để học sinh khiếm thị biết tự mình phối hợp nhiều
8


thao tác cần thiết để đi đến sự hiểu biết về thực tế và đúc kết kinh nghiệm sống cho
bản thân.
2.5. Linh hoạt các hình thức tổ chức hoạt động
2.5.1. Hoạt động cá nhân
Tùy thuộc vào nhu cầu của trẻ cũng như nội dung bài học, giáo viên có thể sử
dụng hình thức dạy cá nhân và cho trẻ thực hành cá nhân. Với hình thức này, giáo
viên có nhiếu thời gian dành cho trẻ hơn để hướng dẫn, theo dõi trẻ thực hiện
nhiệm vụ, từ đó sẽ có cơ hội hiểu được rõ ràng hơn những mặt mạnh, những khó
khăn, hạn chế của trẻ và có cách hướng dẫn phù hợp với đặc điểm của từng trẻ.
Ngược lại, trẻ sẽ có cơ hội chủ động, thể hiện sự sáng tạo và độc lập.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh tự lập thời gian biểu trong ngày cho bản thân một cách
phù hợp hoặc sắp xếp ngăn bàn, tủ cá nhân hợp lí.
2.5.2. Hoạt động nhóm
Được là thành viên trong nhóm, trẻ sẽ có cơ hội thể hiện bản thân, được cùng

nhau làm việc, cùng chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau. Bên cạnh đó, trẻ còn
được rèn luyện về tác phong làm việc trong một tập thể, tinh thần trách nhiệm và ý
thức vì tập thể.
- Tiến hành theo các bước sau:
 Phân học sinh thành các nhóm phù hợp.
 Quy định thời gian và hình thức hoạt động cho nhóm.
 Giới thiệu yêu cầu thực hiện.
 Nhóm họp bàn, phân công nhiệm vụ, thực hiện.
 Giáo viên theo dõi, hỗ trơ kịp thời cho học sinh.
 Đại diện mỗi nhóm nối tiếp nhau trình bày kết quả làm việc của nhóm
trước lớp.
 Các thành viên trong nhóm và nhóm bạn có ý kiến, bổ sung.
 Giáo viên chốt lại ý đúng.
 Nhận xét và tuyên dương HS.
Ví dụ: Đối với bài “Ứng xử phù hợp khi nhận và trao quà”, giáo viên phân học
sinh thành 2 nhóm. Quy định thời gian thảo luận là 10 phút và trình bày bằng hình
thức đóng vai. Yêu cầu đại diện mỗi nhóm lên bốc thăm chọn 2 trong 4 tình huống
sau đây để cùng thảo luận chọn cách ứng xử phù hợp.
 Nhân dịp sinh nhật lần thứ 7 của em, ba mẹ tặng cho em một hộp quà là
con gấu bông to mà em rất thích.
 Cả lớp cùng nhau đến chúc mừng bạn Ý vừa đoạt giải nhì trong hội thi kể
chuyện cấp trường và tặng bạn một món quà là chiếc đĩa sách nói về truyện cổ tích
rất hay.
 Các cô chú mạnh thường quân đến thăm và tặng các em rất nhiều dụng cụ
học tập cần thiết.
 Sau 2 tuần đi học ở nội trú, em về thăm nhà. Em trai (gái) mừng rỡ chạy ra
đón chị và tặng chị hai viên kẹo xinh xắn gói trong tờ giấy báo nhỏ.
Tùy vào bài dạy, giáo viên sẽ phân nhóm và chọn lựa hình thức hoạt động phù
hợp để giúp học sinh tiếp thu bài nhanh và hiệu quả.
9



Ví dụ: Tổ chức thảo luận theo chủ điểm trong giờ sinh hoạt lớp.
Ví dụ: Phân công học sinh trực nhật lớp theo nhóm.

Hình 6. Học sinh làm nhiệm vụ trực nhật lớp theo nhóm.
(Rèn kỹ năng làm việc nhóm)
2.6. Phối kết hợp giữa giáo viên, phụ huynh và bảo mẫu.
Ngoài thời gian học tập trên lớp với giáo viên, phần lớn thời gian còn lại học
sinh sẽ trở về sinh sống bên gia đình (học sinh bán trú) hoặc bên bạn bè với sự
chăm sóc của cô bảo mẫu (đối với học sinh nội trú). Các em sẽ có nhiều cơ hội để
thể hiện, rèn luyện và học hỏi thêm các kỹ năng sống mới trong chính khoảng thời
gian này. Vì vậy giáo viên, phụ huynh và bảo mẫu cần có sự phối kết hợp chặt chẽ
thì việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh mới được đảm bảo liên tục và đồng
nhất.
- Đối với học sinh bán trú:
+ Giáo viên thông báo với phụ huynh về mục tiêu, yêu cầu và biện pháp rèn kỹ
năng sống cho học sinh được áp dụng theo bảng kế hoạch để phụ huynh và các
thành viên khác trong gia đình có sự kết hợp trong việc tiếp tục tạo điều kiện môi
trường thuận lợi; tích cực hướng dẫn, nhắc nhở học sinh rèn luyện khi về nhà.
+ Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về những khó khăn và sự tiến bộ của học
sinh để làm căn cứ cho mục tiêu kế tiếp.
- Đối với học sinh nội trú:
+ Đa số học sinh ở Trung tâm nói chung và học sinh ở lớp do tôi chủ nhiệm nói
riêng thường ở xa, ít có điều kiện đi về hằng ngày (thường 1 - 2 tháng/lần) nên bảo
mẫu là người chăm sóc và gần gũi với các em nhất. Kết hợp chặt chẽ với bảo mẫu
để có kế hoạch hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện rèn kỹ năng sống cho học
sinh ngoài giờ lên lớp là một việc làm vô cùng cần thiết.
Ví dụ: Bảo mẫu sẽ hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện ứng dụng của học sinh
trong các hoạt động cá nhân hằng ngày như tắm, giặt, ăn uống, giao tiếp, ứng xử,

vui chơi với bạn bè, … trong môi trường tập thể dựa trên phiếu theo dõi với các cột
sau: mục tiêu, yêu cầu, kết quả, đề xuất.

10


+ Hàng tuần, giáo viên và bảo mẫu cùng ngồi lại để đánh giá và có phương hướng
rèn luyện tiếp theo cho học sinh.

Hình 7. Cô Bảo mẫu đang hướng dẫn học sinh phơi quần áo.
Tùy vào mức độ khuyết tật, mỗi trẻ khiếm thị sẽ gặp những khó khăn riêng.
Hãy tin tưởng và tôn trọng trẻ. Tôn trọng những cố gắng, sự miệt mài học hỏi, rèn
luyện của trẻ. Tin tưởng rằng theo thời gian trẻ sẽ có nhiều tiến bộ.
2.7. Động viên, khen thưởng kịp thời
Nội dung chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh khiếm thị lớp 2 đã
nâng lên một bậc cao hơn so với lớp 1. Chính điều này đòi hỏi các em phải cố gắng
rất nhiều trong việc tiếp thu bài giảng, thực hành và luyện tập; có một tinh thần lạc
quan, một niềm tin và sự cầu tiến. Vì vậy người giáo viên hãy luôn bên các em với
tấm lòng, trách nhiệm và sự hiểu biết của mình. Chia sẻ với các em những khó
khăn, mong muốn. Dành cho các em những lời động viên chân thành. Khuyến
khích và khen thưởng các em bằng những món quà tinh thần ý nghĩa như: một bài
hát với niềm yêu thương và hy vọng, một đĩa “sách nói” về nghị lực sống, đồ dùng
trong sinh hoạt mà các em đang cần,…
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Trải qua một năm học mạnh dạn áp dụng “một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh khiếm thị lớp 2”, tôi nhận được một số kết quả khả quan như
sau:
Học sinh:
- Nắm bắt và áp dụng được bài học vào thực tiễn cuộc sống. Có kỹ năng tự
phục vụ, chăm sóc bản thân, chủ động giải quyết vấn đề và trình bày ý kiến, … phù

hợp với lứa tuổi và đặc điểm của bản thân.
- Biết rút kinh nghiệm khi được chỉnh sửa những hành vi sai.
11


- Lạc quan, tự tin giao tiếp với mọi người; biết cách chia sẻ, học hỏi thông
qua giao tiếp.
- Biết cách làm việc nhóm và có tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động.
- Các thao tác thực hành của trẻ ngày càng nhanh hơn, đẹp hơn; có những
tiền đề tương đối vững cho các bài luyện tập sau này.
- Hiểu được lợi ích của việc rèn kỹ năng sống nên các em đã có ý thức tự
giác cao, chủ động sử dụng thị lực còn lại và khả năng của mình để rèn luyện trong
mọi lúc, mọi nơi, tại mọi tình huống có thể.
Phụ huynh
- Thấu hiểu về tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho con.
- Ý thức được vai trò của bản thân, của các thành viên trong gia đình cũng
như các biện pháp giáo dục tích cực, phù hợp với điều kiện thực tế .
- Có sự phối, kết hợp chặt chẽ với nhà trường để đem lại môi trường giáo
dục tốt nhất cho trẻ.
Giáo viên
- Trong quá trình hướng dẫn cho học sinh, chính bản thân người giáo viên
lại được trải nghiệm rất nhiều: hy vọng và thất bại rồi kiên trì tìm cách vượt qua
khó khăn để đi đến thành công. Chính mỗi học sinh sẽ là người gợi ý giáo viên
phải bắt đầu từ đâu, cần làm những điều gì cho các em. Khi đặt mình vào vị trí của
học sinh, tự làm thử từng hoạt động một, nghĩ về từng bước một, tiếp cận những
trở ngại đã giúp tôi nghĩ ra các biện pháp phù hợp để dạy trẻ.
Bảng so sánh mức độ đạt được một số kỹ năng sống
của học sinh khiếm thị lớp 2 ở các thời điểm của năm học
(Sĩ số: 4/3 HS)
Giai đoạn


Kỹ năng cần đạt
Vệ sinh cá nhân

Đầu năm
Tốt

Cuối HKII

Đạt

Chưa
đạt

Tốt

Đạt

Chưa
đạt

Tốt

Đạt

1 HS

3 HS

1 HS


2 HS

1 HS

3 HS

1 HS

4 HS

1 HS

2 HS

1 HS

3 HS

1 HS

2 HS

2 HS

Tự phục vụ trong ăn uống
Sử dụng đồ dùng

Cuối HKI


1 HS

3 HS

Nhận thức bản thân

4 HS

Giao tiếp xã hội

4 HS

1 HS

3 HS
2 HS

4 HS
3 HS

2 HS

Chưa
đạt

1 HS
3 HS

1 HS


Mặc dù kết quả mà học sinh khiếm thị lớp 2 đạt được sau một quá trình rèn
luyện có thể chưa tốt bằng một học sinh bình thường nhưng rõ ràng theo thời gian,
các em đã tiến bộ rất nhiều về kỹ năng đạt được, về ý thức và kết quả học tập.

12


IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Một số biện pháp tôi đã sử dụng để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
khiếm thị lớp 2 có thể áp dụng được ở các lớp tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết
tật Đồng Nai hoặc ở các trường bình thường và có học sinh khiếm thị học hòa
nhập.
Trên cơ sở đó, tôi xin có một số đề xuất như sau:
1. Đối với giáo viên và những thành viên trong Trung tâm:
Các hoạt động giáo dục kỹ năng sống được tập trung vào việc: trẻ cần gì và
làm được gì sau khi học xong.
Có thể dạy cho học sinh mọi lúc, mọi nơi, theo từng tình huống, hoàn cảnh,
địa điểm cụ thể.
Sự nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với các em khiếm thị, chính vì
vậy mọi thành viên trong nhà trường phải luôn chú ý đem đến cho trẻ những điều
an toàn nhất.
Học sinh khiếm thị cần có nhiều thời gian hơn cho một hoạt động, cần có
nhiều cơ hội được làm thử, được chủ động cọ xát, trao đổi kinh nghiệm, tập tành,
thực hành, áp dụng hơn so với học sinh bình thường.
Hãy giúp các em hiểu rằng: Có được kỹ năng sống tốt là điều vô cùng hữu
ích, các em hãy tự giác học tập và rèn luyện để có thể sống độc lập, tự tin thể hiện
bản thân.
Luôn có niềm tin, sự kiên nhẫn, sự chia sẻ cùng với tinh thần đồng cảm và
trách nhiệm.
Động viên, tuyên dương, khen thưởng học sinh kịp thời, đúng lúc.

Thường xuyên trao đổi với gia đình nhằm kịp thời nắm bắt mọi thông tin, có
hướng hỗ trợ phù hợp; giúp cho phạm vi rèn luyện của học sinh mở rộng hơn, thời
gian được luyện tập cũng nhiều hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
2. Đối với học sinh:
Tích cực tìm kiếm mọi cơ hội để được học tập và rèn luyện.
Vượt qua hoàn cảnh, vượt lên chính mình bằng tất cả sự nỗ lực của bản thân.
Hãy chịu khó, mạnh dạn, tự tin, sáng tạo, hòa nhập vào cuộc sống.
3. Đối với gia đình và cộng đồng:
Phụ huynh chính là người hiểu rõ những nhu cầu, mong muốn, khả năng và
hạn chế của trẻ hơn bất kỳ ai. Phụ huynh hãy chính là chuyên gia của trẻ.
Không để trẻ khiếm thị có thói quen được phục vụ và chăm sóc tận nơi. Hãy
tạo mọi cơ hội và điều kiện thuận lợi nhất; hãy sử dụng tối ưu thị lực còn lại của trẻ
nhằm giúp các em rèn luyện cho mình kỹ năng sống. Động viên trẻ trở nên độc lập
trên bước đường hòa nhập vào cộng đồng.
Nâng cao công tác tuyên truyền, vận động nhằm giảm thiểu sự kỳ thị, phân
biệt đối xử với người khiếm thị.
4. Đối với Ban Giám đốc Trung tâm:
Duy trì kế hoạch khám mắt 2 lần/năm cho học sinh khiếm thị nhằm có sự
kiểm tra thường xuyên về thị lực; được sự hướng dẫn, hỗ trợ thị lực kịp thời từ y
tế.
13


Trang bị những dụng cụ dạy - học trong môn giáo dục kỹ năng sống đầy đủ,
kịp thời nhằm giúp các em khắc phục những khó khăn trong học tập.
Cung cấp sách, tài liệu về các dạng tật của học sinh để giáo viên tham khảo.
Tổ chức các cuộc giao lưu, trao đổi học tập kinh nghiệm với các trường bạn.
 Kết luận: Tùy vào từng đối tượng học sinh mà chúng ta sẽ linh động lựa
chọn và áp dụng những biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho các em một cách phù
hợp để đem lại hiệu quả tốt nhất.

Tuy luôn gặp phải rất nhiều khó khăn và cần rất nhiều sự giúp đỡ đặc biệt
nhưng chắn chắn học sinh khiếm thị có thể rèn luyện và trang bị cho mình kỹ năng
sống để thể hiện bản thân, để trở thành người lớn, để là thành viên trong cộng
đồng.
Mái ấm gia đình, nhà trường và xã hội là nơi sẽ cho em nhiều trải nghiệm.
Hãy lắng nghe và tận tâm hỗ trợ các em bằng cả trái tim mình.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu về tâm lý học trẻ khiếm thị.
2. Giúp đỡ trẻ em mù – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, 2010
3. Nội dung, phương pháp giáo dục trẻ khuyết tật – Trung tâm tật học, Viện
K.H.G.D Việt Nam, 1993.
Biên Hòa, ngày tháng năm 2013
NGƯỜI THỰC HIỆN

Đoàn Ngọc Hương

14


SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TT NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Biên Hoà, ngày

tháng

năm 2013


PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012 - 2013
Tên sáng kiến kinh nghiệm:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH KHIẾM THỊ LỚP 2
Họ và tên tác giả: ĐOÀN NGỌC HƯƠNG
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai
Lĩnh vực/ Môn nghiên cứu:
Giáo dục khuyết tật: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh khiếm thị
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị
Trong Ngành
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toán mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
tại đơn vị có hiệu quả cao
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách:
Tốt
Khá
Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện

và dễ đi vào cuộc sống:
Tốt
Khá
Đạt
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu
quả trong phạm vi rộng:
Tốt
Khá
Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ



×