Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp học sinh khiếm thính lớp 1b thực hiện phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.77 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
Mã số : ...........................

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP HỌC SINH KHIẾM THÍNH LỚP 1B THỰC HIỆN
PHÉP TRỪ TRONG PHẠM VI 100 (TRỪ KHÔNG NHỚ)

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG
Lĩnh vực/ Môn nghiên cứu:
Giáo dục khuyết tật- Môn Toán
Có đính kèm:
Mô hình

Phần mềm

Phim ảnh

Hiện vật khác

Năm học 2012 – 2013

------------------

1


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I/ THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN


1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy Hằng
Ngày tháng năm sinh: 02- 09- 1979
Nam, nữ: Nữ
Địa chỉ: Khu 3- Ấp Bình Thạch- Xã Bình Hòa- Huyện Vĩnh CửuTỉnh Đồng Nai.
Điện thoại: Cơ quan- 0613954171 – Di động- 0975984602
Fax:
Email:
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trung tâm Nuôi dạy Trẻ khuyết tật Đồng Nai.

II/ TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị: (Hoặc trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhất): Cử nhân khoa học.
- Năm nhận bằng: 2009
- Chuyên nghành đạo tạo: Sư phạm Giáo dục đặc biệt.
III/ KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Dạy trẻ khiếm thính.
- Số năm kinh nghiệm: 10 năm.
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây.
- MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌCVIẾT ĐÚNG PHÂN MÔN CHÍNH TẢ TẠI LỚP 1B2
(Năm 2012).


2


MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH KHIẾM THÍNH LỚP 1B
THỰC HIỆN PHÉP TRỪ KHÔNG NHỚ TRONG PHẠM VI 100
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong cuộc sống toán học được ứng dụng rộng rãi và có vai trò quan trọng.
Nó giúp chúng ta có thể trao đổi trong mua bán và làm giàu cho nền kinh tế. Chính
vì thế môn toán được chọn là môn học bắt buộc trong tất cả các trường từ bậc học
thấp đến bậc học cao.
Toán là môn học chính cho nên không phân biệt học sinh ở cấp bậc nào hay
các em ở hoàn cảnh nào, ở dạng tật đặc biệt nào – tất cả đều được học những kiến
thức cơ bản nhất. Đối với học sinh lớp 1, sau khi hoàn thành chương trình môn
toán các em có thể thực hiện các phép tính cộng trừ (không nhớ) trong phạm vi 100
cùng với một số bài toán đơn giản và làm quen với các dạng hình học cơ bản cũng
như một số đơn vị đo đại lượng.
Cũng như vậy, các học sinh khiếm thính cũng được học như các bạn bình
thường khác. Các em được làm quen với toán học cơ bản cho đến những phép tính
và bài toán phức tạp hơn. Lớp 1 là lớp nền tảng cho các lớp khác về tất cả các môn
học trong đó có toán. Các em sẽ được học từ các khái niệm nhiều hơn, ít hơn, bằng
nhau cho đến làm quen với số đếm và số lượng; sau đó là đến các phép tính cộng
trừ trong phạm vi 10, 20; ...;.. các phép tính cộng trừ (không nhớ) trong phạm vi
100. Do bị khiếm khuyết về khả năng thính giác cho nên học sinh khiếm thính
cũng gặp nhiều khó khăn trong việc học các môn học, nhất là môn toán. Nếu học
sinh bình thường nghe giảng và thực hành là hiểu bài, nhưng học sinh khiếm thính
nghe giảng thông qua ngôn ngữ kí hiệu và thực hành là chưa đủ. Các em phải được
dạy với nhiều phương pháp và biện pháp phù hợp với dạng tật của mình và của
từng em thì các em mới tiếp thu bài một cách tốt nhất.
Là giáo viên dạy học sinh khiếm thính lớp 1B nhiều năm, tôi nhận thấy các
em gặp nhiều khó khăn trong việc học toán nhất là thực hiện phép trừ (không nhớ)

trong phạm vi 100. Các em nhầm lẫn giữa thực hiện phép trừ với phép cộng, thực
hiện phép trừ không theo quy tắc, không thuộc bảng cộng trừ trong phạm vi 10 để
ứng dụng vào phép tính. Chính vì vậy mà tôi mạnh dạn đưa ra giải pháp để giúp
các em khiếm thính trong đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh khiếm thính
lớp 1B thực hiện phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100”. Những giải pháp
này chủ yếu là các hoạt động, các dạng bài tập được chuyển thành các trò chơi gây
sự hứng thú, tập trung chú ýnhằm giúp các em thực hiện đúng phép trừ (không
nhớ) trong phạm vi 100, hạn chế những lỗi sai thường mắc phải khi làm tính trừ.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Một số thuật ngữ:
- Học sinh khiếm thính:
Khiếm thính hiểu theo nghĩa dân gian là những người không nghe được âm
thanh hay còn gọi là “điếc”. Ngoài ra khiếm thính còn có nghĩa là khiếm khuyết về
mặt thính giác (theo tổ chức Y tế thế giới). Do cơ quan thính giác bị phá hủy nên
trẻ không tri giác được bằng thế giới âm thanh nên không nghe được tiếng nói. Vì
3


thế không hình thành được tiếng nói dẫn đến câm. Như vậy điếc là nguyên nhân
còn câm là hậu quả.
- Môn toán:
Là một môn học có trong chương trình của tất cả các cấp học, được cung cấp
kiến thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp tăng dần theo từng lớp và từng
cấp học. Ở bậc Tiểu học môn toán dạy về các con số, các phép tính, các đơn vị đo
lường, các yếu tố hình học và giải bài toán. Nói theo cách thông thường môn toán
là sự tính toán và các con số.
1.2. Chương trình môn toán của học sinh khiếm thính ở lớp 1B tại Trung
tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
Chương trình học của học sinh tiểu học khiếm thính tại Trung tâm Nuôi dạy

trẻ khuyết tật Đồng Nai như sau: Các lớp học theo chương trình sách giáo khoa của
Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện hành, Trung tâm đã điều chỉnh chương cho phù hợp
với học sinh khiếm thính thực hiện trong 6 năm. Trong đó chương trình lớp 1 học
trong 2 năm, năm đầu là lớp 1A, năm sau là lớp 1B. Lớp 1A học theo chương trình
học kì I của lớp 1 theo quy định của Bộ, lớp 1B học theo chương trình học kì II của
lớp 1 theo quy định của Bộ. Còn các lớp từ lớp 2 đến lớp 5, mỗi lớp học 1 năm.
Do vậy môn toán của lớp 1B tại Trung tâm học theo chương trình học kỳ II
của lớp 1 theo quy định của Bộ. Tức là các em sẽ học các kiến thức: Các số trong
phạm vi 100; đo độ dài; giải bài toán; phép cộng, phép trừ trong phạm vi 100; đo
thời gian.
Một tuần các em sẽ học 6 tiết, một bài sẽ học trong 2 tiết, nội dung bài học sẽ
được kéo dãn và các em sẽ có nhiều thời gian thực hành để có thể nắm vững được
kiến thức cơ bản.
1.3. Việc thực hiện phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100 của học sinh
khiếm thính lớp 1B tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
Theo phân bố chương trình, các em học sinh lớp 1B tại Trung tâm sẽ học hai
phần trong sách giáo khoa môn Toán lớp 1 là phần 3 và phần 4: Phần 3 gồm các số
trong phạm vi 100, đo dộ dài, giải bài toán; phần 4gồm: phép cộng, phép trừ trong
phạm vi 100, đo thời gian.
Như chúng ta đã biết, do bị hạn chế về khả năng nghe hoặc không còn nghe
thấy âm thanh mà ngôn ngữ của trẻ khiếm thính không giống với trẻ bình thường.
Để trao đổi, giao tiếp với xung quanh các em sử dụng rất nhiều cách khác nhau.
Như:Ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ tự nhiên, ngôn ngữ kí hiệu, ngôn ngữ chữ cái ngón
tay, ngôn ngữ hình miệng, ngôn ngữ viết, ngôn ngữ nói... Những ngôn ngữ này xét
về một mặt nào đó cũng chưa thể giúp học sinh khiếm thính có thể hiểu hết những
khái niệm sự vật hiện tượng xung quanh các em cũng như diễn đạt ý nghĩ của mình
cho người khác hiểu.
Trong quá trình học môn toán các em thực sự gặp khó khăn khi chuyển từ
phép cộng sang phép trừ. Những lỗi các em thường mắc phải đó là:
- Nhầm lẫn giữa phép cộng và phép trừ. Khi mới chuyển sang học tính trừ các

em thường làm thành tính cộng mặc dù viết phép tính đúng dấu. Nguyên nhân có
thể do các em còn bỡ ngỡ khi chuyển từ tính cộng sang tính trừ, theo thói quen là
đem cộng các số lại với nhau. Vấn đề này do các em hạn chế hoặc mất khả năng
nghe nên các em chưa thực sự nắm được việc làm tính trừ khác với làm tính cộng.
4


- Thực hiện tính trừ không theo quy tắc tính hàng đơn vị trước rồi mới tính
hàng chục. Các em thường nhầm lẫn lấy hàng chục của số này trừ cho hàng đơn vị
của số kia rồi ghi kết quả hoặc lấy hàng đơn vị của số này trừ cho hàng chục của số
kia. Lỗi này thường là khi các em thực hiện phép cộng theo hàng ngang, khi được
hướng dẫn bằng kí hiệu ngôn ngữ các em cũng khó hiểu để thực hiện đúng.
- Khi chuyển từ bài toán có lời văn sang phép tính các em thực hiện sai phép
tính. Nguyên nhân là do các em không nắm rõ các từ khóa “thêm vào” hoặc “bớt
đi” là làm phép tính gì. Do hạn chế của các em là học thông qua ngôn ngữ kí hiệu
nên các em còn chưa nhớ những con chữ đó với kí hiệu tương ứng để có cách hiểu
đúng.
- Các em thường không nhớ bảng cộng trừ trong phạm vi 10 để ứng dụng vào
việc thực hiện phép trừ không nhớ trong phạm vi 100. Khi thực hiện phép tính các
em đã làm đúng tính trừ nhưng kết quả tính lại sai.
Đó là một số lỗi các em học sinh khiếm thính lớp 1B tại Trung tâm thường
mắc phải khi thực hiện phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100. Một phần là do
các em không nghe được sự hướng dẫn của giáo viên, một phần là do ngôn ngữ kí
hiệu không thể truyền tải hết được lời nói để các em hiểu. Tuy nhiên các em có thế
mạnh là ghi nhớ hình ảnh rất tốt, với những miêu tả hoặc vật thật, tình huống cụ
thể thì các em tiếp thu bài rất nhanh.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Từ những lý luận ở trên tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để giúp các
em khiếm thính lớp 1B thực hành đúng phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100.
Để có thể giúp các em tiếp thu tốt kiến thức cần học thì không chỉ là việc thực

hành các bài tập trong sách giáo khoa, đó là cả một quá trình từ việc chuẩn bị của
giáo viên, việc chuẩn bị của học sinh, việc thay đổi nội dung hình thức các bài tập,
đến việc kích thích sự hứng thú của học sinh trong môn toán. Tất cả kết hợp với
nhau một cách chọn lọc mới đem lại hiệu quả cao nhất cho học sinh. Sau đây là
quá trình tôi thực hiện các giải pháp giúp học sinh khiếm thính học tốt môn toán.
2.1. Chuẩn bị của giáo viên:
Khi dạy một bài mới thì sự chuẩn bị của giáo viên rất quan trọng. Người
giáo viên sẽ phải lên kế hoạch cho bài dạy với những hoạt động phù hợp nhằm
giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức một cách tốt nhất. Ở phần này giáo viên phải
nắm được những học sinh có điểm mạnh điểm yếu nào để có những điều chỉnh phù
hợp khi đưa ra yêu cầu hay giảm tải nội dung bài học. Ngoài ra người giáo viên
còn đưa ra cho học sinh yêu cầu về nhà chuẩn bị trước cho những bài tiếp theo.
Ví dụ: Bài “Phép trừ trong phạm vi 100 (trừ không nhớ) sách giáo khoa,
trang 158.Các bước chuẩn bị của giáo viên như sau:
- Đầu tiên sẽ yêu cầu học sinh về nhà đọc trước bài sẽ học, tìm hiểu nội dung
của bài học. Điều này sẽ giúp các em biết được tiết sau mình học gì, bài học như
thế nào và có tâm thế sẵn sàng lĩnh hội kiến thức. Các em khá giỏi có thể sẽ nắm
được một phần kiến thức sắp học. Như bài học này là chuyển từ phép cộng không
nhớ sang phép trừ không nhớ, chắc chắn các em đọc trước sẽ thấy có sự khác biệt
và sẽ chú ý vào bài học hơn.

5


- Trong phần chuẩn bị giáo án: giáo viên sẽ hình thành bài này mình dạy
trong 4 hoạt động. Mỗi hoạt động sẽ hình thành cách thức tổ chức khác nhau để
học sinh có thể tiếp thu kiến thức tốt nhất và hứng thú nhất. Cụ thể:
+ Hoạt động 1: Kiểm tra bài cũ: Giáo viên phát phiếu học tập để kiểm tra
kiến thức bài trước là ôn tập lại phép cộng không nhớ trong phạm vi 100. Hình
thức này giúp giáo viên bao quát được cả lớp có nắm được những kiến thức mình

đã học không và không mất nhiều thời gian.
+ Hoạt động 2: Bài mới: Giáo viên cùng làm việc với cả lớp để nắm được
nội dung bài là thực hiện phép trừ không nhớ trong phạm vi 100. Giáo viên chuẩn
bị que tính để thực hiện thao tác tính. Để củng cố phần này giáo viên lồng ghép với
bài tập 1.a trong sách giáo khoa.
+ Hoạt động 3: Luyện tập: Giáo viên sẽ lên kế hoạch cho bài tập 2 là trò
chơi “ai nhanh ai đúng”: chia lớp thành 4 nhóm và mỗi nhóm được phát hai thẻ
“Đ” (đúng), “S” (sai). Khi giáo viên giơ phép tính thì các nhóm sẽ giơ các thẻ bài
tương ứng. Mỗi một phép tính sẽ cộng điểm cho nhóm đúng, tổng kết nhóm nào
nhiều điểm nhất nhóm đó thắng. Bài tập 3 giáo viên chia lớp thành 2 nhóm, nhóm
1 thực hiện bài toán bằng việc đếm 1 cuốn sách như trong đề bài, nhóm 2 thực hiện
theo phép tính. Sau đó giáo viên cho 2 nhóm đối chiếu kết quả với nhau và đưa ra
1 bài hoàn chỉnh.
+ Hoạt động 4: Củng cố, dặn dò, khen thưởng: Giáo viên có thể yêu cầu
một em thực hiện lại một phép trừ nhất định để củng cố. Việc nhắc nhở học sinh về
nhà thực hiện lại các bài tập để các em rèn kỹ năng tính toán và ôn tập kiến thức,
ngoài ra yêu cầu học sinh đọc trước bài học tiếp theo như đã nói ở trên. Khen
thưởng học sinh bằng nhiều hình thức như thưởng điểm, thưởng hiện vật để học
sinh hứng thú với kết quả học tập của bản thân.
2.2. Chuẩn bị của học sinh:
Để việc học đạt kết quả cao và mang tính tự giác thì học sinh khiếm thính
phải chuẩn bị kỹ các bài mình sắp học. Cắc em đã bị hạn chế về việc nghe nên việc
tiếp thu kiến thức sẽ có nhiều khó khăn hơn các bạn khác. Nếu việc chuẩn bị trước
khi đi học tốt sẽ giúp các em có thể tự tin hơn với môn học của mình. Các em sẽ
được giáo viên nhắc về nhà chuẩn bị trước bài nào, với yêu cầu đó các em sẽ về
tìm hiểu sách giáo khoa trước, đọc và tự mình nắm bắt nội dung. Từ việc đọc trước
đó sẽ hình thành trong đầu các em về môn học, kiến thức gì, và em hiểu thế nào,
khó hiểu chỗ nào để sau đó vào tiết học chính các em sẽ cùng giải quyết vấn đề với
các bạn và giáo viên. Nhất là với toán, việc chuyển từ phép cộng sang phép trừ làm
nhiều em nhầm lẫn. Việc đọc trước bài sẽ giúp các em biết được phép trừ khác với

phép cộng, đơn giản nhất là dấu “+”, dấu “-” khác nhau, kết quả cũng khác nhau.
2.3. Sử dụng trò chơi vào việc học toán.
Học mà chơi, chơi mà học, việc tổ chức các trò chơi vào trong học toán là
rất cần thiết. Khi tham gia trò chơi các em sẽ có hứng thú với môn học mà không
cảm thấy sợ hay ngại. Từ việc hứng thú học tập sẽ là động lực để các em tích cực
trong việc nắm bắt các kiến thức mới, nhất là những kiến thức khó hoặc hay bị
nhầm lẫn. Ngoài ra trong trò chơi còn có tính cạnh tranh để giành thắng thua, sẽ
thúc đẩy các em phải làm sao để giành chiến thắng trong cuộc chơi đó. Trong trò
chơi các em khá giỏi sẽ hỗ trợ các em yếu cũng như rèn kỹ năng làm việc theo
6


nhóm, để giúp nhóm thắng lợi thì tất cả các thanh viên phải hoạt động tích cực. Trò
chơi lôi kéo được tất cả các học sinh cùng tham gia đầy hào hứng. Ngoài ra đối với
học sinh khiếm thính, trò chơi là minh họa cụ thể dễ hiểu nhất các yêu cầu, nội
dung cần học với các em. Vì không nghe thấy hoặc nghe không rõ các lời giảng
của giáo viên nên không phải em nào cũng hiểu được, nhưng khi được minh họa
bằng trò chơi, các em nhìn thấy, các em được thực hành thì các em lại nắm bài rất
nhanh.
Một số trò chơi thường được sử dụng trong môn toán:
- Trò chơi tiếp sức: Trò chơi này thường là những bài tập điền kết quả hoặc
điền số, áp dụng cho những bài có yêu cầu “tính”. Trò chơi này mang tính thi đua
cao, phải nhanh và đúng thì mới thắng. Trò chơi này giúp các em thích thú với việc
tính toán. Yêu cầu nhanh đúng sẽ kích thích các em phải nhớ cách tính đúng, ra kết
quả đúng để thi đua với các bạn. Điều này sẽ giúp các em phân biệt phép cộng với
phép trừ, thực hiện đúng cách tính và ghi nhớ được bảng cộng trừ trong phạm vi
10. Ngoài ra trò chơi giúp các em thể hiện tinh thần đoàn kết trong nhóm, nêu cao
tính tập thể.
Ví dụ: Bài 1/ trang 158/ SGK Toán 1.
Tổ chức trò chơi tiếp sức: giáo viên chia 2 nhóm, mỗi nhóm được ghi các

phép tính ở trên bảng, sau khi nghe giáo viên hô hiệu lệnh, các nhóm lần lượt cử
các bạn lên thực hiện từng phép tính. Nhóm nào nhanh, đúng nhóm đó sẽ thắng.
Giáo viên cho các nhóm nhận xét kết quả lẫn nhau. Trong quá trình nhận xét học
sinh sẽ ôn lại cách tính và tính đúng. Giáo viên nhận xét và khen thưởng nhóm
thắng cuộc.
Thực hiện trò chơi này học sinh sẽ rèn được nhiều kỹ năng cần thiết như các
em có kỹ năng thực hiện phép tính, kỹ năng hợp tác với bạn. Ngoài ra trò chơi còn
giúp các em giảm bớt áp lực khi bắt buộc phải thực hiện phép tính và tính, giúp
cho việc học toán thật hứng thú và đơn giản.

Phổ biến luật chơi

Học sinh thi đuaa

- Trò chơi “ai nhanh ai đúng”:Đây là dạng trò chơi phản ứng nhanh, có thể
chơi theo nhóm hoặc chơi cá nhân. Dạng trò chơi này có thể áp dụng cho các bài
7


tập điền đúng sai hoặc các bài trắc nghiệm chọn kết quả có sẵn, hoặc nối phép tính
với kết quả cho trước. Khi thực hiện trò chơi này trong các bài tập thực hiện phép
trừ (không nhớ) trong phạm vi 100 sẽ giúp các em có cách tính đúng để đưa ra
được kết quả đúng.
Ví dụ 1: Bài 2/ trang 159/ SGK Toán 1.
Tổ chức trò chơi “ai nhanh ai đúng”: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, mỗi
nhóm 1 phiếu bài tập phóng to, yêu cầu trong thời gian 1phút các nhóm hoàn
thành, nhóm nào xong trước thì gắn lên bảng trước. Hết thời gian các nhóm đều
phải trình bày kết quả trên bảng, giáo viên cho các nhóm nhận xét lẫn nhau, nêu ra
lý do tại sao chọn đúng, chọn sai. Giáo viên ghi nhận thời gian và nêu nhóm thắng
cuộc, tuyên dương và khen thưởng cho các nhóm.

Để làm được bài tập này thì học sinh phải nắm được quy tắc đặt tính và tính;
đặt tính xong phải trừ cho đúng tức là thuộc bảng cộng trừ trong phạm vi 10; từ đó
mới biết mình nên điền đúng hay sai.
Ví dụ 2: Bài 5/ trang 160/ SGK Toán 1.
Tổ chức trò chơi “ ai nhanh ai đúng”: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm. Mỗi
nhóm được phát một thẻ số 54, 71, 32. Yêu cầu trong 30 giây các nhóm phải lên
bảng và lấy vềcác thẻ phép tính có kết quả tương ứng với thẻ số mình có. Nhóm
nào lấy nhanh và chính xác thì nhóm đó thắng. Các nhóm nhận xét lẫn nhau, giáo
viên nhận xét chung, khen thưởng nhóm nhanh và đúng.
Để làm được bài này thì học sinh phải sử dụng kĩ năng tính toán để có đáp
án đúng và tìm ra đúng phép tính tương ứng với số mà nhóm đang có. Điều này
củng cố cách tính và ghi nhớ bảng cộng trừ trong phạm vi 10, ngoài ra các em khá
giỏi sẽ hỗ trợ các bạn yếu trong nhóm của mình. Một điều quan trọng nữa là các
em hứng thú với bài tập vì được vận động và cảm thấy không bị áp lực trong khi
tính toán.
- Trò chơi “ tìm nhà”: Áp dụng trò chơi này để học sinh phân biệt được
phép cộng, phép trừ, hoặc điền dấu (<, >, =) hoặc tìm đúng kết quả của phép tính
mình đang có như các em tìm đúng nhà của mình.
Ví dụ 1: Bài 1/ trang 169/ SGK Toán 1.
Tổ chức “trò chơi tìm nhà”: Giáo viên cho đặt mô hình 3 nóc nhà tương ứng
với các dấu “<”, “>”, “=” trên bảng. Mỗi học sinh được phát một thẻ có ghi 1 biểu
thức có trong bài tập. Trong thời gian 30 giây các học sinh phải về đúng nóc nhà
tương ứng ở trên bảng bằng việc gắn thẻ của mình dưới nóc nhà đó. Học sinh nào
chọn sai nhà sẽ bị phạt và các bạn còn lại sẽ giúp bạn tìm về đúng nhà của mình.
Với trò chơi này sẽ giúp các em độc lập trong tính toán, các em hứng thú với
bài tập hơn là việc giáo viên ra yêu cầu và bắt học sinh làm bài tập trong sách giáo
khoa. Những em chậm trong việc tính toán sẽ được các bạn giúp đỡ, lớp học sẽ rất
sinh động và vui vẻ.Tự bản thân các học sinh yếu sẽ nhận ra là mình làm sai ở
phần nào và phải sửa như thế nào để có kết quả đúng và về đúng nhà mình.
Ví dụ 2: Bài 5/ trang 160/ SGK Toán 1.

Tổ chức “trò chơi tìm nhà”: Giáo viên cho đặt 3 ngôi nhà với số tương ứng
là 54, 71, 32. Các học sinh được chọn ngẫu nhiên các thẻ phép tính. Yêu cầu trong
vòng 30 giây các em phải về đúng ngôi nhà có kết quả bằng phép tính mình có.
Bạn nào lạc nhà sẽ bị phạt và được giúp đỡ tìm lại nhà.
8


Với trò chơi này học sinh sẽ được củng cố cách đặt tính rồi tính, thực hiện
đúng phép cộng trừ, nhớ được bảng cộng trừ trong phạm vi 10.
Ví dụ 3: Bài 4/ trang 175/ SGK Toán 1.
Bài tập này thay vì làm theo yêu cầu của sách giáo khoa thì chúng ta có thể
đổi hình thức đặt tính rồi tính bằng việc cho kết quả và bỏ đi các dấu “+”, “-” sau
đó tạo thành trò chơi cho học sinh tham gia như sau: gắn lên bảng 2 nóc nhà có dấu
“+”, “-”, các học sinh được phát các phép tính yêu cầu gắn vào đúng ngôi nhà có
dấu tương ứng để được phép tính đúng.
Với bài tập này giúp học sinh phân biệt được tính cộng và tính trừ, kỹ năng
thực hiện các phép tính.
2.4. Xây dựng mô hình “đôi bạn cùng tiến”:
Ngay từ đầu năm học, sau khi nắm tình hình của lớp, giáo viên sắp xếp các
học sinh có trình độ khá để hỗ trợ các học sinh có trình độ yếu hơn, đó là mô hình
“đôi bạn cùng tiến”. Việc học tập cùng bạn bè sẽ giúp các em tiếp thu tốt hơn và
gần gũi dễ hiểu hơn ngoài việc được giáo viên giảng dạy. Trong việc thực hiện
phép trừ không nhớ trong phạm vi 100, những em có trình độ yếu sẽ mắc phải
những lỗi như đặt tính sai, thực hiện phép tính sai, không thuộc bảng cộng trừ
trong phạm vi 10. Khi ở trong mô hình “ đôi bạn cùng tiến” các em sẽ được bạn
mình giúp đỡ và giảng giải lại một cách cụ thể, hoặc đôi khi có em ngại, hoặc giấu
dốt sẽ được bạn phát hiện và giúp đỡ kịp thời nhất. Ngoài ra việc học với bạn sẽ có
tâm lý thoải mái hơn khi học cùng giáo viên, nhất là những em khiếm thính việc có
chung một ngôn ngữ kí hiệu và cử chỉ điệu bộ với bạn giúp các em gần gũi và hiểu
nhau hơn.


2.5. Thay đổi hình thức một số bài tập trong sách giáo khoa.
đôi các học sinh khiếm thính thì việcNhóm
Để việc học đơn giản Nhóm
hơn với
thay đôi
đổi
hình thức một số các bài tập trong sách giáo khoa sẽ giúp các em dễ hiểu và giảm
áp lực học tập. Việc thay đổi hình thức này thường áp dụng cho những em yếu
kém để các em dễ tiếp cận với kiến thức và đơn giản nội dung học tập mà vẫn
không thay đổi mục tiêu cần đạt. Một số hình thức thay đổi như sau:
 Dạng 1: Bài tập phân biệt phép cộng, phép trừ.
Đây là dạng bài tập giúp các em phân biệt đúng phép cộng và phép trừ để
làm bài cho đúng khi mà các em mới chuyển từ phép cộng sang phép trừ. Học sinh
khiếm thính thường học tập theo thói quen, cho nên đang học phép cộng mà
chuyển sang phép trừ các em vẫn chưa hình thành được kiến thức mới để làm tính
đúng.
9


Bài 1: Điền dấu “+” hoặc dấu “-”Bài tập này giúp các em hình thành trong đầu
khái niệm về dấu cộng (+) và dấu trừ (-) khác nhau:
Ví dụ: Bài 2/ trang 160/ SGK Toán 1.
Thay yêu cầu tính nhẩm bằng yêu cầu điền “+”, “-” với những con số có sẵn
trong bài và ra kết quả, thêm một số phép tính có kết quả là điền phép cộng để cho
học sinh củng cố sự khác nhau giữa cộng và trừ.
Bài 2: Chuyển các phép tính thành các bài toán có lời văn sử dụng “thêm vào”
hoặc “bớt đi”
Bài tập này giúp các em dễ dàng tiếp thu được khái niệm “thêm vào” thì làm
tính cộng, “bớt đi” thì làm tính trừ vì ngôn ngữ kí hiệu của hai khái niệm này rất rõ

ràng.
Ví dụ: Bài 1.b/ trang 158/ SGK Toán 1.
Yêu cầu bài là đặt tính rồi tính thì giáo viên có thể hướng dẫn học sinh như
sau: phép tính 67 – 22: giáo viên hướng dẫn học sinh bằng lời. “cô có 67 que tính,
cô bớt đi 22 que tính, hỏi cô còn lại bao nhiêu que tính? Vậy cô phải làm phép tính
gì? Cô phải tính như thế nào?” Khi học sinh được hỏi bằng kí hiệu ngôn ngữ, các
em sẽ nắm được ngay từ khóa “bớt đi”, “còn lại” và biết là sử dụng phép trừ, từ đó
các em sẽ dễ dàng đặt tính rồi tính.
 Dạng 2: Thực hiện phép trừ theo đúng quy tắc: trừ hàng đơn vị trước
rồi sau đó mới trừ hàng chục.
Khi các em đã nắm được sự khác nhau giữa tính cộng và tính trừ thì các em
phải có kỹ năng tính đúng, tức là các em phải phân biệt được số hàng đơn vị trừ
cho số hàng đơn vị trước sau đó mới tính đến các số hàng chục trừ cho nhau.
Bài 1: Chọn kết quả đúng.
Bài tập này giúp các em phải thực hành đúng để chọn được kết quả đúng.
Ví dụ: Bài 4/ trang 174/ SGk Toán 1.
Yêu cầu bài là tính thì có thể thay thế bằng yêu cầu chọn kết quả đúng như sau:
(tương tự cho các phép tính khác).
68
32

Có kết quả là:
a. 90
b. 36

c. 45

Bài 2: Điền đúng, sai.
Bài tập này giúp các em có thể phân biệt được cách tính đúng khi làm tính
trừ hàng dọc cũng như hàng ngang. Trong sách giáo khoa cũng có dạng bài này,

nhưng để giúp các học sinh khiếm thínhhọc tốt thì giáo viên có thể thay đổi một số
bài tập thành dạng điền đúng hay sai để giúp các em luyện tập phân biệt được cách
đặt tính và tính đúng.
Ví dụ: Bài 3/ trang 176/ SGK Toán 1.
Yêu cầu của bài là đặt tính rồi tính thì có thể thay bằng yêu cầu điền đúng,
sai sau khi chuyển các phép tính hàng ngang thành cột dọc và tính ra kết quả; có
những kết quả đúng do đặt tính và tính đúng, có kết quả sai do đặt tính và tính sai.
Học sinh phải biết thực hành đúng để điền đúng với những kết quả cho trước.
10


63
+
25

94
34

87
14

62
62

31
+
56

55
33


2.6. Linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động học toán:
Ngoài những giải pháp đã nêu ở trên thì để việc học đạt kết quả cao người
giáo viên phải tạo ra nhiều hình thức hoạt động cho học sinh trong lớp học của
mình nhằm giúp các em phát huy hết khả năng và mạnh dạn tự tin hơn khi giải bài
tập.
Đối với học sinh khiếm thính, thế mạnh của các em là nắm bắt hình ảnh
nhanh, nhớ lâu các kiến thức được trực tiếp khám phá tìm hiểu cho nên để phát huy
thế mạnh này trong môn toán chúng ta có thể tổ chức các hình thức học nhóm. Với
tình hình lớp ít học sinh có thể tổ chức thành 2 hoặc 3 nhóm, mỗi nhóm có thể từ 3
đến 5 học sinh. Trong quá trình làm việc nhóm như vậy thì tất cả các học sinh phải
hoạt động tích cực để đem về cho nhóm những phần thưởng hay khích lệ của giáo
viên. Với hình thức hoạt động nhóm giáo viên có thể triển khai các yêu cầu trò
chơi, thảo luận trong suốt một tiết học toán mà không làm các em cảm thấy mệt
mỏi nhàm chán.

Thảo luận nhóm

Trong quá trình học không phải cứ học nhóm và chơi nhiều trò chơi là đem
lại hiệu quả cao, mà người giáo viên cần phải cho các em làm việc độc lập, hoạt
động cá nhân để các em có tính tự lập không dựa vào các bạn khác. Khi học tính
trừ trong phạm vi 100 không nhớ, hoạt động cá nhân sẽ cho giáo viên biết được em
nào còn yếu chỗ nào, mắc lỗi sai ở đâu và có những phương án hỗ trợ cụ thể mà
khi hoạt động nhóm thì không thể nhận ra được.

11


Làm việc cá nhân


Bên cạnh việc tổ chức các hoạt động cho học sinh thì người giáo viên cũng phải có
những hình thức khen thưởng khích lệ kịp thời để khuyến khích các em tích cực
trong việc học của mình. Có thể thưởng điểm hoặc bằng các trò chơi, đồ vật đơn
giản gần gũi với các em để các em có hứng thú với môn học.
Song song với việc khen thưởng và tổ chức hoạt động thì giáo viên cũng cần
chuẩn bị các đồ dùng học tập phong phú và những phiếu ghi lại các phép tính treo
trong lớp giúp học sinh ôn tập và ghi nhớ bảng cộng trừ trong phạm vi 10, các số
từ 1 đến 100. Việc treo hợp lý sẽ giúp cho học sinh ghi nhớ các kiến thức đã học và
làm cho lớp học trở nên sinh động và lôi cuốn học sinh tích cực học tập. Bởi học
sinh khiếm thính là những em có khả năng quan sát và ghi nhớ bằng hình ảnh
nhanh nhẹn, những sự vật hình ảnh luôn xuất hiện trước mắt sẽ in sâu vào trí não
các em, để các em có thể vận dụng vào việc học tập của mình.
2.7. Kết hợp với phụ huynh và người chăm sóc:
Việc phối hợp với phụ huynh rất quan trọng, giúp cho giáo viên và cả người
chăm sóc trẻ nắm được tình hình học tập và sự tiến bộ của trẻ, từ đó có kế hoạch cụ
thể để giúp các em có những tiến bộ trong việc học toán nói riêng và trong học tập
nói chung. Ngoài ra, thời gian học ở lớp cũng không nhiều bằng việc trẻ ở gia đình,
cha mẹ, người chăm sóc trẻ có thể kèm thêm cho trẻ.
Hướng dẫn phụ huynh cách học cùng con mình ở nhà vì đa số phụ huynh
đều hạn chế trong vấn đề giao tiếp bằng kí hiệu ngôn ngữ với đứa con bị khuyết tật
thính giác của mình.
Phối hợp với giáo viên bộ môn để nhắc nhở, uốn nắn nhằm giúp các em có ý
thức học tập tốt hơn.
Trên đây chỉ là một số biện pháp được sử dụng phổ biến để giúp các em
khiếm thính thực hiện đúng phép trừ trong phạm vi 100( trừ không nhớ) khi học
môn toán tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai. Để rèn cho các em kĩ
năng thực hiện đúng thì không nhất thiết phải áp dụng theo một biện pháp cụ thể
nào mà có thể kết hợp nhiều biện pháp với nhau để đem lại hiệu quả tốt nhất. Điều
quan trọng khi rèn kĩ năng là phải kiên trì và được rèn luyện thực hành trong một
thời gian dài.

III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
12


1. Thực trạng học sinh khiếm thính lớp 1B tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ
khuyết tật Đồng Nai thực hiện phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100 trước
khi áp dụng các giải pháp của đề tài
Bảng thống kê học sinh khiếm thính lớp 1B thực hiện
phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100
Đặt tính và tính Nhớ bảng cộng trừ trong
đúng
phạm vi 10
Năm học
Sĩ số
Số lượng
%
Số lượng
%
2011 - 2012
10
5
50.0
4
40.0
2012 - 2013
12
5
41.6
5
41.6

2. Kết quả sau khi áp dụng các giải pháp và bài tập thay thế về thực hiện
phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100 cho học sinh khiếm thính lớp 1B tại
Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
Từ những thực trạng trên,sau một thời gian thực hiện các giải pháp và các bài
tập thay thế của đề tài đã đề ra, kết quả đạt được như sau:
Bảng thống kê học sinh khiếm thính lớp 1B thực hiện
phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100 với các bài tập thay thế
Đặt tính và tính Nhớ bảng cộng trừ trong
đúng
phạm vi 10
Năm học
Sĩ số
Số lượng
%
Số lượng
%
2011 - 2012
10
9
90.0
8
80.0
2012 - 2013
12
10
83.33
11
91.67
Có được kết quả trên là do:
- Sự kiên trì, tích cực của giáo viên.

- Sự luyện tập chăm chỉ, hứng thú từ bản thân các em.
- Những bài tập đơn giản dễ hiểu được thay đổi hình thức cho các bài tập
trong sách giáo khoa. Các trò chơi, các hình thức tổ chức sinh động lôi cuốn các
em tham gia tích cực.
- Phụ huynh tích cực trong việc giúp con luyện tập; những bài tập cũng giúp
cha mẹ gần gũi và hiểu con hơn, có cái nhìn đúng đắn về tật của các em hơn.
Tuy nhiên để tất cả các em có thể làm toán tốt hơn thì không chỉ là thay đổi
hình thức các bài tập mà còn là sự kết hợp của nhiều phương pháp và biện pháp
khác trong quá trình giảng dạy; sự quan tâm của phụ huynh đến học sinh; sự kết
hợp giữa giáo viên – phụ huynh – nhà trường để giúp đỡ một cách kịp thời đối với
từng em. Chúng ta phải luôn đổi mới phương pháp và linh động cho phù hợp với
trình độ, lứa tuổi, khiếm khuyết của các em. Có như vậy mới đem lại những hiệu
quả tối ưu trong dạy và học.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Để việc giáo dục trẻ khuyết tật nói chung và trẻ khiếm thính nói riêng đạt kết
quả cao, tôi có một số đề xuất, khuyến nghị như sau:
1. Đối với Giáo viên:
- Cần điều chỉnh nội dung chương trình học tập cho phù hợp với từng trình
độ và sự khiếm khuyết của học sinh.

13


- Luôn tìm tòi, sáng tạo, kết hợp linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ
chức dạy học làm cho bài giảng phong phú và lôi cuốn học sinh, phát huy tối đa
tính tích cực chủđộng của học sinh vào quá trình học tập.
- Tạo không khí học tập vui tươi,thoải mái, khuyến khích tinh thần tự học
của học sinh.
- Đầu tư, sáng tạo, tích cực trong việc làm đồ dùng dạy học phục vụ cho
công tác giảng dạy.

- Không ngừng học hỏi để nâng cao kiến thức, kĩ năng dạy trẻ khiếm thính.
2. Đối với học sinh:
- Cần ý thức được việc học tập của mình.
- Có tinh thần học tập tự giác cao.
- Ngoan ngoãn vâng lời thầy, cô giáo và người chăm sóc.
3. Đối với Ban Giám đốc Trung tâm:
- Tăng cường phương tiện dạy học phù hợp với học sinh khuyết tật nói
chung và với học sinh khiếm thính nói riêng.
- Tổ chức nhiều hơn các cuộc giao lưu, trao đổi học tập kinh nghiệm với các
trường bạn.
4. Đối với gia đình và cộng đồng:
- Phát hiện sớm và cho các em học sinh khiếm thính được tham gia can thiệp
sớm đúng độ tuổi.
- Hỗ trợ máy trợ thính đầy đủ, chất lượng.
- Kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm, nhà trường trong việc giáo dục
học sinh.
- Quan tâm, hỗ trợđúng mức về mọi mặt cho sự tiến bộ của học sinh.
Kết luận:
Hiện nay, chúng ta đang cố gắng nâng cao chất lượng dạy và học nhất là
trong việc giáo dục trẻ khuyết tật có thể hòa nhập với xã hội sau này. Việc đưa ra
các giải pháp giúp học sinh khiếm thính thực hiện đúng các phép tính trong môn
toán là rất quan trọng, nó không chỉ giúp các em có một kết quả học tập cao mà
còn giúp các em trong cuộc sống trao đổi với thế giới xung quanh. Học toán tốt
giúp cho khả năng tư duy logic của các em nâng cao, phản ứng nhanh nhẹn với các
tính huống thực tế hàng ngày.
Để đạt được điều này trước hết là có sự quan tâm của Ban Giám đốc về cơ
sở vật chất, sự chỉ đạo sâu sát của tổ chuyên môn. Hơn hết, là tinh thần trách nhiệm
cao của người giáo viên, có tâm với nghề, tận tụy, yêu thương trẻ khuyết tật cũng
như không ngại khó khăn trong việc áp dụng các phương pháp làm thế nào cho trẻ
khiếm thính có thể tiếp thu bài học một cách hiệu quả nhất. Quan trọng nhất là bản

thân các em có sự nỗ lực phấn đấu, vượt qua chính mình để hòa nhập với cuộc
sống.
Trong quá trình thực hiện đề tài còn rất nhiều thiếu sót, rất mong được sự
đóng góp, nhận xét của tổ chuyên môn vàcác bạn đồng nghiệp để chúng tôi làm tốt
hơn. Nhằm xây dựng nên những phương pháp, biện pháp tối ưu giúp các em khiếm
thính không chỉ học tốt môn toán mà còn học tốt các môn học khác cùng các kĩ
năng cần thiết trong cuộc sống.
14


V. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nâng cao khả năng dạy học trẻ Khiếm thính (Viện Chiến lược và phát
triển. Giáo dục Việt Nam).
2. Các phương pháp dạy trẻ Khuyết tật (Viện Chiến lược và phát triển. Giáo
dục Việt Nam).
3. Sách giáo viên, sách giáo khoa Toán 1 Lớp 1 Tập 2 (Nhà xuất bản Giáo
dục- Bộ Giáo dục và Đào tạo) - Năm 2003
Biên Hòa, ngày 10 tháng 5 năm 2013.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Thúy Hằng

15


SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TT NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
Độc lập- Tự do – Hạnh phúc

Biên Hoà, ngày tháng năm 2013


PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012 – 2013
Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
KHIẾM THÍNH LỚP 1B THỰC HIỆN PHÉP TRỪ TRONG PHẠM VI 100
(TRỪ KHÔNG NHỚ)
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thúy Hằng
Nam, nữ: Nữ
Lĩnh vực/ Môn nghiên cứu:
- Giáo dục khuyết tật- Môn Toán
- Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị
Trong Ngành
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
tại đơn vị có hiệu quả
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc vạch định đường lối, chính sách:
Tốt
Khá
Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện
và dễ đi vào cuộc sống: Tốt
Khá

Đạt
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu
quả trong phạm vi rộng: Tốt
Khá
Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

16


17



×