Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.67 KB, 24 trang )

LI M U

Q

uá trình chuyển sang kinh tế thị trờng và thực hiện CNH-HĐH ở
Việt nam là bớc chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh
tế và quản lý kinh tế. Yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH cũng đã
đặt ra nhiệm vụ to lớn đối với công tác cán bộ, trong đó có công tác quy hoạch
cán bộ, khi nói tới vấn đề cán bộ đã có nhiều ý kiến thống nhất rằng con ngời
vừa là chủ thể vừa là đối tợng phục vụ của mọi hoạt động kinh tế xã hội và cũng
là nhân tố quyết định sự phát triển xã hội.
Thực tế cho thấy, những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh trong
thời kỳ gần đây là những quốc gia nghèo về tài nguyên thiên nhiên nhng giàu
về tiềm năng chất xám, các nớc thành công trong việc đầu t và khai thác
nguồn tài nguyên quý giá đó nh Hàn quốc, Nhật bản...
Những công trình nghiên cứu mới nhất đã đi tới kết luận, con ngời là
nguồn vốn lớn nhất, quý nhất của xã hội.
Một nhà kinh tế học phơng tây đã có nhận định: tài sản lớn nhất của công
ty hiện nay, không phải là các lâu đài công xởng mà chính là những cái nằm
trong vỏ não của các nhân viên.
Nh vậy, rõ ràng con ngời đặc biệt là tri thức của họ đã trở thành nguồn lực
quan trọng nhất của sự nghiệp phát triển.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng, thực hiện CNH-HĐH và mở
cửa nền kinh tế thì điều kiện tiên quyết là phải có đội ngũ cán bộ quản lý có trình
độ cao, có bản lĩnh vững vàng trớc những thời cơ, thách thức trong quá trình phát
triển. Qua các kỳ đại hội, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chiến lợc của công tác
cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ trớc hết là cán bộ chủ chốt có bản lĩnh
chính trị, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nớc. Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là một bộ phận của công tác cán
bộ, đảm bảo thành công của sự nghiệp đổi mới. Đại hội lần thứ VI đã xây dựng
chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 chỉ rõ Đổi mới căn


bản công tác cán bộ quản lý phải phù hợp với cơ chế mới.
Từ nhận thức trên, nên trong bài viết này em cũng xin mạnh dạn đề cập
đến vấn đề Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam nhằm mục
đích nhìn nhận vào thực trạng của việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô và
đa ra một số giải pháp đẩy mạnh, nâng cao chất lợng, hiệu quả công tác đào tạo
cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
Vì khả năng và trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế nên bài viết của em
không thể không có thiếu sót. Em rất mong nhận đợc sự bổ khuyết của các thầy
cô để bài viết của em đợc hoàn thiện hơn.

1


B. lý luận, thực trạng và
giải pháp
chơng I:
Sự cần thiết đối với cán bộ quản lý kinh tế và đào tạo
nâng cao chất lợng cán bộ quản lý
kinh tế vĩ mô ở nớc ta

I. cơ sở lý luận:

Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI (1986) nền kinh tế nớc ta từng bớc
chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo
định hớng XHCN. Sự chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới đòi hỏi phải có đội
ngũ cán bộ quản lý kinh tế tơng ứng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý nòng
cốt - (cán bộ quản lý cấp cao và các chính khách kinh tế hay cán bộ quản lý
kinh tế vĩ mô).
Vậy cán bộ quản lý kinh tế là gì? cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là gì?
Theo một số tài liệu thì:

1. Cán bộ quản lý kinh tế :

Là ngời làm lao động quản lý kinh tế và là một trong những yếu tố chủ
yếu của hệ thống quản lý, ngời làm công tác quản lý kinh tế có 3 loại cán bộ kỹ
thuật, nhân viên giúp việc và nhà quản lý.
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là một bộ phận của đội ngũ công chức nhà ớc, làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nớc về kinh tế, tham gia hoạch định
các chính sách kinh tế và thực hiện quản lý Nhà nớc các hoạt động kinh tế trên
phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc trong từng địa phơng, từng vùng
lãnh thổ.

2


2. Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có thể cụ thể hoá thành 2 loại là
các chính khách kinh tế và các nhà điều hành quản lý cấp cao:

Mô hình:
Các nhà quản
lý kinh tế

QLKT Vĩ mô

QLKT Vi mô

(CBLĐ cấp cao)

(Các nhà QLDN)

Các chính
khách KT


Các nhà điều
hành QL C.Cao

2.1. Các chính khách kinh tế:
Là những ngời nắm giữ các bộ phận quyền lực Nhà nớc, chịu trách nhiệm
trong việc hoạch định đờng lối, chủ trơng, chiến lợc, chính sách phát triển kinh tế
đất nớc và giám sát việc thực hiện đờng lối, chủ trơng, chiến lợc, chính sách phát
triển kinh tế đã vạch ra. Các chính khách kinh tế là các nhân vật có vị thế quan
trọng trong xã hội đơng thời (bao gồm cả các nhân vật trong chính quyền và các
nhân vật của các tổ chức và đoàn thể lớn trong xã hội). Thông thờng theo thiết kế
của các xã hội hiện nay, các chính khách kinh tế là những ngời đứng đầu cơ quan
quyền lực xã hội và các thành viên của cơ quan này (bộ trởng, ngời lãnh đạo cấp
tỉnh, thành phố) thực thi nhiệm vụ lãnh đạo các hoạt động quản lý kinh tế với vai trò
là ngời điều hành cuộc chơi trong kinh tế.
2.2. Các nhà điều hành quản lý cấp cao:
Đó là các cá nhân trực tiếp vận hành các hoạt động quản lý, biến đờng lối, chủ trơng, chiến lợc và chính sách phát triển kinh tế thành hiện thực. Các nhà điều hành quản
lý cấp cao thờng là những ngời đứng đầu cơ quan quyền lực Nhà nớc.
Theo thiết chế xã hội hiện nay, ở nhiều nớc chính khách kinh tế đồng thời
là nhà điều hành quản lý cấp cao. ở nớc ta hiện nay, thực hiện cơ thế Đảng lãnh
đạo, Nhà nớc quản lý, nhân dân làm chủ, thì phần nhiều chính khách kinh tế và
nhà điều hành quản lý cấp cao ở một hệ thống thờng là 2 thực thể khác nhau.
II. Vai trò của cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
đối với CNH-HĐH ở nớc ta:
3


1. Vai trò của quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trờng:

Quản lý kinh tế vĩ mô thực chất là nói đến vai trò, chức năng quản lý của

Nhà nớc đối với các hoạt động kinh tế. Mô hình kinh tế phổ biến trên thế giới
hiện là kinh tế hỗn hợp trong đó Nhà nớc có vai trò quan trọng trong việc điều
tiết, quản lý các hoạt động của nền kinh tế quốc dân thông qua hệ thống các
chính sách và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Nhà nớc thiết lập khung khuôn khổ luật pháp thống nhất để tạo môi trờng chung cho các thị trờng hoạt động.
- Khắc phục các khuyết tật của thị trờng để tạo cho cơ chế thị trờng hoạt
động có hiệu quả thông qua chính sách kinh tế vĩ mô, xây dựng các chơng
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc phân bổ các nguồn lực, phân
phối thu nhập giữa các tầng lớp, các nhóm dân c trong xã hội.
- ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn và kiềm chế lạm phát, thất nghiệp,
thực hiện các biện pháp kiểm soát, giám sát, sử dụng các công cụ thuế để điều
tiết các hoạt động kinh tế.
Trong điều kiện ở nớc ta, để đạt đợc các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra, quản
lý kinh tế vĩ mô càng có vị trí quan trọng hơn bao giờ hết và vai trò quản lý vĩ mô
nền kinh tế của Nhà nớc ta trong cơ chế mới thể hiện ở những điểm sau:
- Nhà nớc xây dựng các chơng trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều
kiện KT-XH nớc ta theo các mục tiêu đề ra và mong đạt đợc.
+ Nhà nớc chủ động điều tiết các doanh nghiệp nhằm tạo ra sự thống nhất
giữa các lợi ích của quốc gia.
+ Nhà nớc hoạch định các chơng trình phát triển KT-XH, thông qua đó
thực hiện chiến lợc phát triển KT-XH, dẫn dắt các doanh nghiệp và các thành
phần kinh tế đi đúng hớng đã chọn, thúc đẩy tốc độ tăng trởng kinh tế để nhanh
chóng hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
- Tạo môi trờng thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có chính sách để thu hút vốn đầu t
trong và ngoài nớc.
+ Quyết định và bảo đảm các quyền tạo điều kiện cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh nh các quyền sở hữu về t liệu sản xuất, xây dựng hệ thống
pháp luật đồng bộ và ổn định...

- Thực hiện các chính sách phân phối thu nhập công bằng, hiệu quả, tạo
động lực cho sản xuất phát triển.
- Phân phối hợp lý các nguồn lực và quản lý sử dụ ng có hiệu quả tài sản quốc gia.
2. Vai trò của cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nớc ta:

4


Trong một hệ thống kinh tế hoạt động thành công hay thất bại phụ thuộc
rất nhiều vào ngời cán bộ quản lý kinh tế. Nói cách khác trong hệ thống thì ngời cán bộ quản lý giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt
động kinh tế.
Cán bộ quản lý ở tầm vĩ mô chính là ngời vận hành, điều khiển và thực thi
trong bộ máy đó. Nói cách khác, tính hiệu quả của hệ thống các chính sách và
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào 2 điều kiệncơ bản
1. Cơ chế vận hành của nền kinh tế
2. Khả năng và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý
Hai yếu tố này có mối quan hệ tơng tác và có liên quan tới hàng loạt các
nhân tố KT-XH trong đó khả năng và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý đóng vai
trò quyết định nhất.
Để thực hiện đợc mục tiêu mà đại hội đảng VIII đã xác định, đội ngũ cán
bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô nói riêng có vai trò quyết định và
nó đợc thể hiện tập trung trên các mặt chủ yếu sau:
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc xây dựng
đúng đắn đờng lối, chiến lợc, chủ trơng, định hớng kế hoạch phát triển kinh tế,
chính sách, cơ chế quản lý kinh tế và hệ thống pháp luật kinh tế trong toàn bộ
đất nớc, trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phơng.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc tổ chức bộ
máy và lựa chọn cán bộ để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý trong thời
kỳ tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc chỉ huy và

điều hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ các hoạt động trong quá trình phát
triển kinh tế và quản lý kinh tế ở phạm vi cả nớc, từng ngành, từng lĩnh vực,
từng địa phơng.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc thờng
xuyên phối kết hợp các quá trình quản lý kinh tế để điều chỉnh kịp thời những
mặt cân đối, những mâu thuẫn phát sinh.
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc kiểm tra và
kiểm soát quá trình phát triển kinh tế và quản lý kinh tế. Trong đổi mới kinh tế
và cơ chế quản lý kinh tế, công tác kiểm tra, kiểm soát đặc biệt là kiểm tra,
kiểm soát trong lĩnh vực kinh tế tài chính có vị trí rất quan trọng, không có
kiểm tra, kiểm soát thì không có quản lý kinh tế vĩ mô.
Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô thì những ngời đứng đầu các cấp và
những chuyên gia đầu ngành luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
III. Tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
trong giai đoạn mới:

5


1. Phẩm chất chính trị:

- Có ý chí và có khả năng làm giàu cho hệ thống, cho xã hội và cho bản thân.
- Biết giao đúng việc cho cấp dới và tạo điều kiện cho thực hiện thành
công (để cấp dới luôn luôn có thành tích, để họ hồ hởi, tích cực làm việc).
- Biết lờng trớc mọi tình huống có thể xảy ra cho hệ thống và có giải pháp,
giải quyết đúng đắn.
- Biết dồn tiền lực vào các khâu xung yếu của hệ thống, biết tận dụng các
thời cơ có lợi.
2. Năng lực tổ chức:


- Có óc quan sát để biết đợc và nắm đợc cả cái tổng quát và cái chi tiết, để
tổ chức cho hệ thống mà mình phụ trách. Biết mình phải làm cái gì và làm cái
đó nh thế nào.
- Biết sử dụng con ngời có hiệu quả, biết cách tiếp cận với con ngời, phải
chan hoà, cởi mở, chân thành, trung thực.
- Tháo vát, có sáng kiến và không chịu bó tay trớc mọi khó khăn.
- Dám chịu trách nhiệm
- Dũng cảm, lạc quan, có khả năng dám chịu mạo hiểm
- Biết tâm trạng của tập thể và hoàn cảnh của cán bộ cấp dới.
- Có ngoại hình khả dĩ
3. Phơng pháp t duy khoa học để quan sát phân tích và giải quyết
vấn đề:

- Nhạy cảm với cái mới
- Có t duy hệ thống
- Có t duy phục thiện (có sai biết nhận, dám tự phủ định bản thân nếu đã
trở thành lạc hậu).
- Biết dùng ngời giúp việc
- Có khả năng ra quyết định...
4. Đạo đức công tác:

- Vững vàng, tự chủ, kiên định lập trờng quan điểm
- Công bằng, công tâm, có tính đồng loại
- Có văn hoá và biết tôn trọng con ngời
- Có thiện chí với con ngời, không làm điều ác cho con ngời
Trong các yêu cầu nói trên thì mức độ quan trọng của từng yêu cầu đối với
từng loại cán bộ quản lý kinh tế là có khác nhau. Đối với cán bộ quản lý kinh tế
vĩ mô thì những phẩm chất đợc đào tạo và năng lực là các yêu cầu quan trọng
6



hơn vì nó vừa là tiêu chuẩn, vừa là giá trị bên trong của con ngời, nó là thớc đo
năng lực thực tế và phẩm chất t tởng của cán bộ quản lý. Tuy nhiên trong công
tác quy hoạch cán bộ, việc lựa chọn, sử dụng, đào tạo,bồi dỡng cán bộ cần phải
căn cứ vào một tiêu chuẩn nữa đó là triển vọng, tức là khả năng cống hiến tiếp
theo của cán bộ. Trong công tác quy hoạch cán bộ cần chú ý việc sắp xếp, bố
trí cán bộ không chỉ là vấn đề tuổi tác,sức khoẻ và khả năng thích ứng của mỗi
con ngời. Chính điều đó là cơ sở để xem xét, đào tạo, bồi dỡng cán bộ cho phù
hợp với điều kiện thực tiễn.
IV. Sự cần thiết phải đào tạo và nâng cao chất lợng
cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:
1. Đặc điểm đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nớc ta hiện nay:

- Sau nhiều năm đổi mới, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đã có
những bớc phát triển quan trọng về số lợng, chất lợng, trình độ chuyên môn.
Trong công cuộc đổi mới đất nớc, đổi mới kinh tế, cán bộ quản lý kinh tế
đã tích lũy đợc những kinh nghiệm cần thiết để tiếp tục phát huy cao hơn trong
thời kỳ mới - thời kỳ tiếp tục sự nghiệp đổi mới đồng bộ, sâu sắc, đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nớc về mục tiêu dân giàu nớc mạnh xã hội công bằng và văn
minh, vững bớc đi lên CNXH. Trong những điều kiện và hoàn cảnh nói trên,
đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ lãnh đạo và quản lý kinh tế vĩ mô các cấp
nói riêng, đã đợc thử thách và trởng thành cả về số lợng và chất lợng. Có thể
nói, số đông cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế vĩ mô đã vì sự nghiệp chung
của đất nớc, của dân tộc, đoàn kết xung quanh Ban chấp hành trung ơng Đảng,
Bộ Chính trị thống nhất về đờng lối, quan điểm, chủ trơng, chính sách của
Đảng và lối sống lành mạnh, thích nghi nhanh với sự hình thành và phát triển
của nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN
Kiến thức, kinh nghiệm, trình độ và năng lực thực tiễn trong lãnh đạo,
quản lý kinh tế vĩ mô đợc nâng lên một bớc mới. Trong những năm đổi mới,
tiêu chuẩn cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô cũng từng bớc đợc hoàn

thiện và phù hợp với yêu cầu đổi mới kinh tế xã hội của đất nớc. Tỷ lệ đội ngũ
cán bộ trẻ có trình độ đã đợc tăng lên, cơ cấu nam nữ, vùng miền, dân tộc tôn
giáo, công, nông, binh, tri thức... đã đợc quan tâm nhiều hơn trong việc xây
dựng cán bộ chủ chốt của hệ thống quản lý kinh tế vĩ mô. Sự phát triển mới của
đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô trong thời gian qua đã thực sự là nhân tố
quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới đất nớc.
- Tuy nhiên đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nớc ta hiện nay còn
bộc lộ một số khuyết điểm, yếu kém đáng quan tâm:
Trong những năm qua trong số đông cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đã đợc
đào tạo và bồi dỡng lại những kiến thức và kinh nghiệm về quản lý kinh tế thị
trờng vẫn còn nhiều hạn chế, nên trong hoạt động thực tiễn nhiều ngời còn lúng
7


túng, làm ăn với nớc ngoài bị thua thiệt, thậm chí có một bộ phận bị lừa đảo, bị
lôi cuốn, biến chất và sa đoạ vì đồng tiền và lợi ích cá nhân bất chính, làm tổn
hại không nhỏ đến nền kinh tế, cho hệ thống Nhà nớc. Đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế trẻ tuy đợc đào tạo có hệ thống trong cơ chế mới đã tỏ ra có năng lực,
nhanh nhẹn, năng động hơn nhng cha đợc thử thách, rèn luyện và cha có nhiều
về kinh nghiệm thực tiễn, dễ nóng vội, thiếu thận trọng và còn những biểu hiện
tuỳ tiện trong hoạt động quản lý kinh tế.
Cơ cấu đội ngũ cán bộ hiện còn cha có sự đồng bộ nh cán bộ cao tuổi còn
chiếm tỉ trọng lớn nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế vĩ mô.
Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở vùng sâu, xa, miền núi, vừng
căn cứ cách mạng vừa thiếu về số lợng, vừa thấp về trình độ văn hoá, lý luận,
chuyên môn về quản lý kinh tế vĩ mô.
Tỷ trọng cán bộ nữ là lãnh đạo và quản lý trong các cơ quan Nhà nớc về
kinh tế còn thấp trong khi nữ chiếm 50% dân số cả nớc.
Tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ
mô tuy đã đợc hình thành nhng cha đợc cụ thể hoá cho từng cấp, ngành, từng

lĩnh vực và từng loại chức danh, cha có cơ sở pháp lý cho việc đào tạo, bồi dỡng, đề bạt, sử dụng, đánh giá cán bộ. Do đó làm cho một bộ phận cán bộ quản
lý kinh tế vĩ mô ỷ lại không chịu phấn đấu, vơn lên để nâng cao trình độ
chuyên môn và rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh chính trị theo tiêu chuẩn quy
định. Vậy có thể khẳng định đội ngũ cán bộ hiện còn bất cập về trình độ so với
đòi hỏi của công cuộc tiếp tục đổi mới kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH
ở Việt nam trong tơng lai.
2. Một số quan điểm cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế trong những năm đổi mới:

Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong những năm tới là
vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn. Từ trớc đến nay đã có nhiều quan điểm đợc đa ra nhằm mục đích xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong những
năm đổi mới đợc hữu hiệu trong đó những quan điểm sau đây đợc coi là hiệu
quả hơn cả:
- Phải luôn nắm vững quan điểm và nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác
Lê nin và t tởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ và xây dựng quy hoạch cán
bộ nói chung, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng.
- Cần chăm lo đến tính đồng bộ của đội ngũ cán bộ, phải hết sức coi trọng
và tập trung xây dựng tốt đội ngũ cán bộ chủ chốt, trớc hết là ngời đứng đầu về
quản lý kinh tế vĩ mô ở từng cấp và đặc biệt là cán bộ cấp chiến lợc về quản lý
kinh tế vĩ mô.
- Cần có quan điểm, phơng pháp đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khoa
học và khách quan, công tâm. Đánh giá đúng cán bộ và bố trí sử dụng đúng cán
bộ quản lý kinh tế vĩ mô là vấn đề khó khăn phức tạp và quan trọng nhất. Khi
đánh giá phải có quan điểm đúng và phải theo tiêu chuẩn quy định, căn cứ vào
kết quả và hiệu quả hoạt động của cán bộ, xét đến một cách đầy đủ, hoàn cảnh
8


và điều kiện hoạt động của cán bộ.
- Cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ bằng việc thể chế hoá

thành các quy chế, quy định, quy trình và chỉ đạo thực hiện một cách chặt chẽ
việc xây dựng đội ngũ cán bộ.
- Phải làm rõ trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi của cán bộ trong từng
thời kỳ. Cả 3 mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trách nhiệm rõ phải có
quyền để thực hiện, khi thực hiện trách nhiệm tốt phải đảm bảo quyền lợi về vật
chất và tinh thần đúng mực.
- Trong công tác cán bộ phải kết hợp chặt chẽ giữa trớc mắt và lâu dài, kế
thừa và phát triển nhằm đảm bảo kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng một
cách vững vàng.
3. Yêu cầu cấp thiết đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:

Nền kinh tế nớc ta đang bớc sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH thực hiện mục tiêu chiến lợc đa nớc ta cơ bản trở thành một nớc
công nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, công tác đào tạo
cán bộ trong đó có cán bộ quản lý kinh tế có đủ phẩm chất và năng lực, nắm bắt đợc công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và vận dụng thích ứng vào điều kiện cụ thể
ở nớc ta là một trong những khâu có ý nghĩa quyết định.
ở nớc ta hiện nay, công tác đào tạo cán bộ quản lý nói chung và đào tạo
cán bộ quản lý kinh tế nói riêng đang đứng trớc những mâu thuẫn gay gắt:
Thứ nhất: Yêu cầu từng quy mô với việc bảo đảm chất lợng và hiệu quả đào tạo.
Thứ hai: đào tạo cán bộ quản lý kinh tế có chất lợng cao với sự hạn hẹp về
tài chính và đội ngũ giáo viên có trình độ cao.
Thứ ba: sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu ngành giáo dục và thị hiếu tập
trung vào một số ít ngành nghề của ngời học.
Chính từ thực tế nh vậy cho nên trong những năm gần đây, nhu cầu đào tạo
cán bộ quản lý kinh tế ở nớc ta tăng lên rất nhanh, nhiều trờng đại học và cao đẳng
kinh tế đã mở rộng quy mô đào tạo. Sự tăng nhanh về quy mô đào tạo ở các trờng
kinh tế đã góp phần từng bớc khắc phục osự thiếu hụt về số lợng cán bộ quản lý
kinh tế. tuy nhiên điều này lại đang làm xuất hiện mâu thuẫn trong việc bảo đảm
chất lợng đào tạo do hạn chế về tài chính và năng lực nội sinh của các cơ quan đào
tạo và trởng thành từ trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo mô hình kế hoạch

hoá tập trung. Trong quá trình đổi mới, một bộ phận khá lớn cán bộ quản lý kinh
tế đã đợc đào tạo và đào tạo lại, bồi dỡng kiến thức về kinh tế thị trờng. Tuy nhiên
trớc yêu cầu tiếp tục đổi mới và hội nhập trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ cán bộ
nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng xét về số lợng, chất lợng và cơ cấu
có nhiều mặt cha ngang tầm với sự nghiệp CNH-HĐH.
chơng II:
thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô

9


và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
vĩ mô ở nớc ta hiện nay.

I. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô
ở nớc ta hiện nay:

Sau hơn 10 năm thực hiện đờng lối đổi mới, đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế vĩ mô đã đợc rèn luyện và trởng thành. Trong điều kiện biến động mạnh và
phức tạp của tình hình dân tộc, quốc tế, những thử thách gay go của đất nớc
trong những năm cuối thập kỷ 90, nhìn chung đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính
trị vững vàng, tin tởng và kiên định con đờng XHCN mà Đảng đã vạch ra.
Đã có chuyển biến mọi mặt về trình độ, năng lực, thông qua việc học
tập,bồi dỡng và hoạt động thực tiễn, làm quen và thích ứng với cơ chế quản lý
mới. Đặc biệt ở các thành phố lớn, lực lợng cán bộ có trình độ cao về chuyên
môn, lý luận chính trị tăng đáng kể, ở các tỉnh miền núi lãnh đạo chủ chốt và
phần đông cán bộ đã có ý thức đợc tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dỡng
đội ngũ cán bộ của địa phơng.
Những năm qua đội ngũ cán bộ có sự ổn định tơng đối về biên chế. Hầu
hết các địa phơng, với sự giúp đỡ của trung ơng đã tiến hành thực hiện công

việc đào tạo lại và bồi dỡng cán bộ có quy mô đáng kể.
Bên cạnh những mặt mạnh và u điểm cơ bản nêu trên, đội ngũ cán bộ quản
lí kinh tế vĩ mô ở nớc ta còn đang bộc lộ một số hạn chế sau:
Thứ nhất: Tình trạng vừa thừa, vừa thiếu đang diễn ra khá phổ biến nhất là
cán bộ quản lý nhà nớc ở các bộ, ban, ngành trung ơng và địa phơng. Thừa cán bộ
cha đợc đào tạo về quản lý kinh tế thích ứng với kinh tế thị trờng và thiếu cán bộ
có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng đợc yêu cầu quản lý kinh tế của nền kinh tế
đang chuyển đổi. Theo kết quả điều tra năm 1997 của Viện Nghiên cứu kinh tế và
phát triển - Đại học KTQD trong số 200 cán bộ quản lý kinh tế thuộc10 bộ và cơ
quan ngang bộ đợc hỏi có 60% ý kiến cho rằng cán bộ quản lý kinh tế của ta hiện
đang trong tình trạng thiếu, 20% ý kiến cho rằng đội ngũ này đang trong tình
trạng thừa và 20% cho rằng vừa thiếu vừa thừa.
Thứ hai: Một số lợng khá lớn cán bộ đang làm nhiệm vụ quản lý kinh tế
cha đợc đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống về quản lý kinh tế trong nền
kinh tế thị trờng. Kết quả điều tra chi tiết về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ
mô ở 10 bộ, cơ quan ngang bộ và 10 tỉnh thành trong cả nớc cho thấy có 65%
số cán bộ quản lý kinh tế ở cấp bộ đợc đào tạo trớc năm 1989 trong đó có
khoảng 30% cha đợc đào tạo lại, khoảng 60% số cán bộ quản lý kinh tế ở cấp
bộ có trình độ lý luận sơ cấp và chỉ có gần 5% có trình độ lý luận cao cấp. 89%
cán bộ quản lý kinh tế >45 tuổi không biết sử dụng máy vi tính và chỉ có 9,5%
biết tiếng Anh có trình độ trên C. ở các sở, ban, ngành cấp tỉnh có 52,8% số
cán bộ quản lý kinh tế đợc đào tạo từ trớc năm 1989 và có một bộ phận khá lớn
10


cha qua đaò tạo, bồi dỡng kiến thức kinh tế thị trờng, chỉ có 54% số cán bộ
quản lý kinh tế các sở, ban, ngành thuộc 10 tỉnh, thành phố đã đợc đào tạo từ
các trờng kinh tế. Số cán bộ đợc đào tạo ở các lĩnh vực khác (khoa học kỹ thuật,
khoa học cơ bản...) chiếm 46% và đang cần tiếp tục bồi dỡng kiến thức về quản
lý kinh tế.

Thứ ba: Cơ cấu cán bộ quản lý kinh tế đang có sự mất cân đối lớn xét cả
về độ tuổi và giới tính, lẫn sự phân bổ theo ngành nghề, theo vùng, giữa cấp
chiến lợc hoạch định chính sách và cấp trực tiếp quản lý kinh doanh ở các
doanh nghiệp. Số liệu điều tra 10 bộ cho thấy có gần 50% cán bộ quản lý kinh
tế vĩ mô có độ tuổi > 45 tuổi, chỉ 1/5 số cán bộ dới 35 tuổi, tuổi bình quân là 46
tuổi, cán bộ trẻ nhất (<35 tuổi) thuộc 2 ngành ngân hàng và tài chính: ngân
hàng nhà nớc có 43% và Bộ Tài chính có 44% cán bộ quản lý vĩ mô thuộc
nhóm tuổi dới 35. Ngợc lại số cán bộ ở độ tuổi dới 35 tuổi chỉ chiếm 5% ở Bộ
Thơng mại và 4% ở Bộ Công nghiệp. Bộ Công nghiệp và Bộ Nông nghiệp
-PTNT có tỷ lệ cán bộ >45 tuổi cao nhất. Tỷ lệ này ở Bộ Công nghiệp là 76%
và Bộ Nông nghiệp-PTNT là 69%. Đến năm 2005 có khoảng 80% số cán bộ
quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay đến tuổi nghỉ hu. Sự già hoá của đội đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế sẽ gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ quản lý kinh tế kế cận
ở nhiều tỉnh miền núi, cán bộ quản lý kinh tế là ngời dân tộc thiểu số
chiếm tỷ lệ rất thấp và phần lớn cha đợc qua đào tạo về quản lý kinh tế. ở Đắc
lắc chỉ có 1 trong 475 cán bộ quản lý ở cấp tỉnh và huyện là ngời dân tộc thiểu
số có trình độ từ cao đẳng trở lên. ở Lào cai có tới 49% cán bộ là ngời dân tộc
cha qua đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ.
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô hiện nay chủ yếu là nam, nữ chiếm bộ phận
thiểu số. Tuy nhiên tuỳ theo chức năng nhiệm vụ cụ thể thì tỷ lệ nam nữ cũng
cao thấp khác nhau: tỷ lệ nam bình quân chiếm trên 65%, nữ chỉ có khoảng
34%. Tỷ lệ nam cao nhất là ở Bộ Thơng mại (81%) và tỷ lệ nữ cao đông nhất là
ở Ngân hàng Nhà nớc (48%).
Thứ t: Công tác đào tạo cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói
riêng cha gắn với quy hoạch cán bộ. Hơn nữa, việc bố trí sử dụng cán bộ cha
thật hợp lý và trong nhiều trờng hợp còn nặng về cơ cấu, thiếu mạnh dạn đề bạt
cán bộ trẻ, cha có giải pháp cụ thể để thực sự khuyến khích những cán bộ có
năng lực và cha mạnh dạn bố trí, sắp xếp lại hoặc đa ra khỏi biên chế những
cán bộ không còn đáp ứng đợc yêu cầu, nhiệm vụ mới.


11


II. Thực trạng đào tạo cán bộ quản lý kinh tế
vĩ mô ở Việt Nam hiện nay:

Hiện nay ở nớc ta việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trớc hết tập
trung vào cán bộ quản lý Nhà nớc về kinh tế vì đội ngũ này vừa có vai trò quyết
định trong việc xây dựng cơ chế vận hành mô hình kinh tế mới, vừa là ngời
nghiên cứu, hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, sử dụng các chính sách và
công cụ quản lý kinh tế để điều tiết quản lý các hoạt động kinh tế trên bình
diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vậy để đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới và
hội nhập hiện nay đòi hỏi chúng ta phải xây dựng đợc đội ngũ cán bộ quản lý
tầm vĩ mô đủ về số lợng, mạnh về chất lợng và có cơ cấu hợp lý. Ngoài các tiêu
chuẩn chung mà Đại hội Trung ơng (Khoá 8) đã đề ra. Cán bộ quản lý kinh tế
vĩ mô phải hiểu biết sâu sắc đờng lối, quan điểm kinh tế của Đảng, có kiến thức
về kinh tế thị trờng, có khả năng đề xuất, hoạch định các cơ sở kinh tế và sử
dụng các công cụ quản lý kinh tế để quản lý, điều tiết các hoạt động của nền
kinh tế quốc dân phát triển theo các mục tiêu Kinh tế - Xã hội mà Đảng đã
vạch ra.
Nhận thức rõ vai trò của cán bộ quản lý kinh tế nh trên nên Đảng và Nhà
nớc ta đã đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Tuy
nhiên cũng vẫn còn những hạn chế.
1- Chúng ta đã xây dựng đợc 1 hệ thống các cơ sở đào tạo đại học
và trên đại học về kinh tế trên phạm vi cả nớc với số lợng ngày
càng tăng:

Cụ thể các trờng công lập nớc ta từ trờng đại học tài chính tế toán thành
phố Hồ Chí Minh sát nhập với trờng ĐHKT thành phố để trở thành thành viên
mới của đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Còn các trờng khác vẫn giữ

nguyên. Tuy nhiên quy mô đào tạo của từng trờng đã đợc mở rộng ra rất nhiều
so với trớc, thông thờng là tăng khoảng 10 lần.
Các khoa kinh tế của các trờng Đại học kỹ thuật cũng có sự mở rộng quy
mô đào tạo, thờng gia tăng từ 4-5 lần so với trớc.
Việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế dờng nh đợc tiến hành ở tất cả các
trung tâm hoặc các trờng đào tạo, bồi dỡng cán bộ của các tỉnh, thành phố trong
cả nớc. Tuy nhiên nét đặc trng nhất của hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ quản
lý kinh tế hiện nay là cùng với sự ra đời của nền kinh tế nhiều thành phần, các
trờng đại học dân lập mở ra khá nhiều, cho đến nay cả nớc đã có trên 15 trờng
đại học dân lập đợc thành lập. Các trờng này đợc tập trung ở 3 thành phố lớn là:
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Điều đáng quan tâm là phần lớn các
trờng đại học dân lập đều có đào tạo về kinh tế.

12


Ngoài ra viện đại học mở Hà nội, đại học mở bán công thành phố HCM
cũng là 2 cơ sở đào tạo cán bộ quản lý quy mô nhỏ.
Bên cạnh các trờng đại học còn có nhiều trờng Cao đẳng kỹ thuật, các
ngành, các địa phơng cũng tham gia vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế.
Việc mở rộng một cách ồ ạt các cơ sở đào tạo kỹ thuật bậc đại học thuộc
mọi thành phần có mặt tốt là tạo điều kiện cho nhiều ngời đợc tham gia học tập
và cũng nhanh chóng tạo ra cho đất nớc một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
đông đảo. Tuy nhiên cũng có mặt không tốt trong đó quan trọng nhất là khó
bảo đảm đợc chất lợng của đội ngũ cán bộ đào tạo ra.
Chúng ta biết rằng chất lợng đào tạo đại học nói chung, đại học kinh tế nói
riêng, phụ thuộc rất nhiều yếu tố: Điều kiện học tập, tham khảo tài liệu, khảo
sát thực tế, điều kiện ăn ở sinh hoạt... Song quyết định nhất vẫn là đội ngũ thày
giáo tốt. Nhng trong thời gian qua, các cơ sở đào tạo đại học kinh tế đợc mở ra

rất nhiều, song các điều kiện để đảm bảo cho việc dạy và học tốt thì không bảo
đảm. Qua số liệu điều tra của về số lợng giáo viên và sinh viên ở một số trờng
đại học kinh tế năm 1995-1996 của Viện nghiên cứu kinh tế và đại học KTQD
thì ta đánh giá đợc hiện tợng có thể nói là chảy máu chất xám từ các trờng công
lập sang các trờng dân lập.
Tên trờng

1. ĐHKTQD Hà Nội
2. Viện ĐH mở Hà Nội
3. ĐH Dân lập P. Đông
4. ĐH Dân lập Đ. Đô
5. ĐH Dân lập T.Long

Số giảng viên
hiện có

Số sinh viên
đang học

Số sinh viên
tuyển năm 1995

419
36
14
24
56

19.543
19.844

3.169
1.774
5.737

5.584
1.695
2.470
1.174
5.737

Ta thấy Đại học kinh tế quốc dân có số giáo viện hiện có gấp 12,5 lần giáo
viên đại học mở nhng số sinh viên đang học lại ít hơn 301 ngời hoặc so với đại
học dân lập Phơng đông số giáo viện hiện có của đại học kinh tế quốc dân
nhiều hơn 32 lần nhng số sinh viên đang học chỉ hơn 6,16 lần.
Điều này càng khẳng định là có sự chảy máu chất xám từ các trờng công
lập sang trờng dân lập.

13


2 - Cơ sở vật chất kỹ thuật của các trờng đại học kinh tế:

Ngày nay đã đợc nâng cấp và ngày càng đợc quan tâm. Các trờng Đại học
kinh tế ở nớc ta (Chủ yếu là các trờng quốc lập) ở phía Bắc đợc xây dựng cách
đây trên 40 năm, ở phía Nam trên 20 năm. Trong những năm vừa qua nhất là từ
năm 1991 trở lại đây nhờ sự quan tâm đầu t của Nhà nớc và sự nỗ lực của từng
trờng, một số bộ phận của cơ sở vật chất các trờng đã có sự thay đổi vật chất và
nâng cấp phục vụ ngày càng tốt hơn công tác giảng dạy của thày và học tập của
sinh viên trong nhà trờng.
- Chỗ làm việc của các khoa, các bộ môn trực thuộc cũng nh các phòng

ban, các trung tâm đã đợc nâng cấp nhiều so với trớc. Các cơ sở này đã đợc
trang bị thêm máy vi tính, bàn ghế giờng tủ, tủ đựng tài liệu và giá sách.
- Giảng đờng phục vụ học tập của Sinh viên cũng đã đợc sửa chữa nâng
cấp, bàn ghế, bảng viết tốt hơn, ánh sáng đầy đủ và thoáng mát hơn. Tuy nhiên
vẫn còn thiếu nhiều trờng phải bố trí dạy và học 3 ca (Sáng, chiều, tối)
- Th viện nhiều sách hơn, việc cho mợn sách cũng dề dàng hơn, thuận lợi.
Chỗ đọc sạch sẽ thoáng mát hơn bớc đầu có thể đảm bảo cho sinh viên tìm
kiếm và nghiên cứu học tập ngay tại th viện. Nhng với số lợng sinh viên không
lớn vì đầu sách còn ít. Thực tế với số sách hiện có của các th viện bình quân
mỗi sinh viên kinh tế mới có khoảng 1,94 đầu sách và tạp chí. Theo thống kê
của các trờng hiện nay, chỗ ngồi đọc sách và tạp chí tính bình quân mỗi sinh
viên mới chỉ đạt 0,01.
- Tại nhiều trờng kinh tế, các trung tâm máy tính cũng đã đợc thành lập
nhằm giúp sinh viên nhanh chóng tiếp cận với tin học, giúp cho giáo viên có
điều kiện thuận lợi hơn trong nghiên cứu khoa học nhng số lợng máy tính ở các
trờng đại học kinh tế còn quá ít. Tính bình quân khoảng 200 sinh viên và 4-5
giáo viên mới có 1 máy vi tính. Bởi vậy việc thực hành của sinh viên trên máy
vi tính là rất hạn chế.cùng với hạn chế trong việc sử dụng máy vi tính thì phần
lớn việc học ngoại ngữ ở các trờng kinh tế là học chay do thiếu các phơng tiện
luyện nghe, nói hiện đại vì vậy khả năng nghe và nói của sinh viên cũng bị hạn
chế.
- Ký túc xá sinh viên của các trờng mặc dù đã đợc đầu t nâng cấp nhiều
lần song do xây dựng quá lâu, nhà cửa đã quá cũ vì vậy ký túc xá xuống cấp rất
nhanh và cha thoả mãn đợc nhu cầu về chỗ ở cho sinh viên. Theo báo cáo của
các trờng, hệ thống ký túc xá chỉ mới đáp ứng đợc 25-30% nhu cầu chỗ ở của
sinh viên và điều kiện ăn ở của sinh viên hiện nay là hết sức chật chội, bình
quân 2 m2/1 sinh viên, trang bị của ký túc xá phần lớn rất sơ sài, giờng tầng và
chủ yếu và giờng sắt, tủ không ô, bàn học không ngăn...
- Cơ sở vật chất phục vụ việc giáo dục thể chất, khu sân chơi thể dục thể
thao cho sinh viên nh: Sân bóng rổ, bóng chuyền, bóng đá rất hẹp và chất lợng

cha đợc đảm bảo.

14


3 - Thực trạng đội ngũ giáo viên của các trờng ĐHKT hiện nay:

Cùng với sự phát triển của đất nớc, đội ngũ giáo viên ở các trờng ĐH nói
chung, đại học kinh tế nói riêng, cũng không ngừng trởng thành (Cả về số lợng,
chất lợng).
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (Tháng 12-1986), nền kinh tế nớc ta
đã từng bớc chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trờng có sự quản
lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN. Phát triển nền kinh tế thị trờng, đó là
điều rất mới mẻ. Đội ngũ giáo viên các trờng ĐHKT tại thời điểm đó chủ yếu là
đợc đào tạo tại Liên xô, Trung quốc và các nớc Đông Âu, ít am hiểu về kinh tế
thị trờng. Vì vậy để có thể đào tạo cho đất nớc một đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế hoạt động tốt trong nền kinh tế thị trờng, đội ngũ giáo viên của các trờng Đại
học kinh tế đã thực hiện khá nhanh việc tự đào tạo lại mình. Thông qua nhiều
hình thức phong phú, đa dạng nh: Đi bồi dỡng ngắn hạn ở các nớc có nền kinh
tế thị trờng phát triển, mời các chuyên gia, các giáo s của các trờng đại học nổi
tiếng trên thế giới sang tổ chức bồi dỡng kiến thức về kinh tế thị trờng cho đội
ngũ giáo viên, hợp tác với một số trờng đại học của nớc ngoài tổ chức các khoá
đào tạo cho giáo viên của trờng. Việc bồi dỡng kiến thức kinh tế thị trờng cho
giáo viên còn đợc tiến hành thông qua các cuộc hội thảo, các cuộc tham quan,
khảo sát thực tế ở nớc ngoài...
- Trong những năm qua đã có hàng vạn giáo viên của các trờng đợc đi bồi
dỡng lại kiến thức. Chỉ tính riêng trờng Đại học KTQD trong khoảng thời gian
từ năm 1986 đến năm 1996 đã có 5.936 lợt giáo viên, cán bộ đợc bồi dỡng và
đào tạo lại kiến thức về kinh tế thị trờng.
Cùng với việc bồi dỡng kiến thức về kinh tế thị trờng, đội ngũ giáo viên

các trờng Đại học kinh tế cũng đợc bồi dỡng thêm về ngoại ngữ cũng nh về
máy vi tính. Nhiều giáo viên của các trờng giờ đây đã có thể giảng bài hoàn
toàn bằng ngoại ngữ. Một số cũng đã đăng ký giảng dạy ở nớc ngoài, đồng thời
cũng không ít giáo viên đã sử dụng thành thạo máy vi tính theo biên soạn giáo
trình, nghiên cứu khoa học.
Chính vì vậy, trong 10 năm đổi mới vừa qua, đội ngũ giáo viên các trờng
Đại học kinh tế đã thực hiện khá tốt việc đào tạo cho đất nớc một đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế khá đông đảo thuộc mọi lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần
vào việc bồi dỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức, đặc biệt là đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế thuộc các cơ quan Trung ơng, các tỉnh, thành phố trong cả nớc.
Ngoài ra đội ngũ giáo viên trong các trờng Đại học kinh tế còn có nhiều
đóng góp quan trọng vào việc xây dựng các chiến lợc, các chủ trơng, chính
sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nớc ta.
Có thể nói 10 năm đổi mới vừa qua đội ngũ giáo viên của các trờng đại
học kinh tế đã có bớc trởng thành đáng kể cả về số lợng và chất lợng. Tính đến
tháng 10 năm 1996 đội ngũ Giáo viên của 6 trờng đại học kinh tế công lập là
1.691 ngời trong đó:
15


+ Nếu phân theo chức vụ khoa học có: 20 giáo s (1,2%), 97 phó giáo s
(5,7%); 364 giảng viên chính (21,5%); 1.210 giảng viên (71,6%).
+ Nếu phân theo trình độ đào tạo có: 15 tiến sĩ (0,9%); 314 PTS (18,6%);
232 thạc sĩ (12,7%); cử nhân 1.130 (66,8%).
Nếu tính đến năm 1999 thì con số thống kê đã tăng lên khá nhiều so với
năm 1996.
Bên cạnh những mặt trởng thành của đội ngũ Giáo viên của các trờng đại
học kinh tế trong 10 năm đổi mới, hiện tại đội ngũ này còn thiếu rất nhiều về số
lợng. Vì vậy tình trạng đội ngũ Giáo viên phải giảng 2-3 ca/ngày là phổ biến
dẫn đến chất lợng giảng dạy giảm sút. Hơn nữa cơ cấu đội ngũ Giáo viên hiện

tại không hợp lý. Tỷ lệ Giáo viên dới 35 tuổi có bằng sau đại học ít, phần lớn
giáo s, PTS, Tiến sĩ đều ở lứa tuổi 50 trở lên. Nếu không có chính sách bổ xung
đào tạo kịp thời sẽ gây ra sự hẫng hụt về đội ngũ trong những năm sắp tới.
Đó là đội ngũ Giáo viên ở các trờng quốc lập, còn ở các trờng dân lập và
đại học mở, đội ngũ giáo viên hiện có vừa thiếu về số lợng, vừa yếu về chất lợng. Việc giảng dạy ở các cơ sở này chủ yếu dựa vào việc đi thuê các thày của
các trờng công lập hoặc thuê các thày về hu.
4 - Nội dung chơng trình đào tạo:

Về cơ cấu kiến thức và nội dung đào tạo, để đảm bảo sự phù hợp với đòi
hỏi của nền kinh tế thị trờng, các cơ sở đào tạo cán bộ kinh tế đã đổi mới cơ cấu
kiến thức, nội dung đào tạo. Các kiến thức của nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung đã đợc thay thế bằng kiến thức của nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc theo định hớng XHCN.
Hầu hết các môn học đã đợc biên soạn thành giáo trình, hệ thống giáo
trình này cũng đã đợc in và cung cấp đủ cho sinh viên. Có thể nói, mới từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trờng có một thời
gian ngắn mà chúng ta đã xây dựng đợc một hệ thống giáo trình mới tơng đối
phù hợp là một cố gắng rất lớn của đội ngũ Giáo viên của các trờng đại học
kinh tế.
Tuy nhiên về cơ cấu và nội dung chơng trình đào tạo vẫn còn nhiều
tồn tại sau đây:
- Số môn học còn quá nhiều, trong 4 năm học sinh viên phải học từ 45-60
môn (bình quân mỗi năm 15 môn). Đây là một điều cha thật hợp lý bởi lẽ mỗi
môn học có vài học trình, ngời dạy cũng khó có thể trình bày sâu sắc đợc
những vấn đề gì lớn về mặt khoa học.
- Sự trùng lặp giữa các môn học khá lớn do mở ra nhiều chuyên ngành đào
tạo tơng đối cụ thể và đa ra quá nhiều môn học vì thế khó có thể tránh khỏi sự
trùng lặp.
Vậy trong tơng lai cần phải có sự nghiên cứu để xây dựng cho đợc cơ cấu
kiến thức hợp lý, các ngành và chuyên ngành đào tạo hợp lý để có giáo trình tốt

cũng phải tập trung đội ngũ giáo viên giỏi cho từng chuyên ngành, đầu t thoả
đáng để họ viết, mặt khác cũng cần phải có một hội đồng chuyên môn đa
ngành, xem xét, cắt bỏ những phần trùng lặp của giáo trình, chơng trình đào
16


tạo.
- Trừ một số giáo trình đã có từ trớc, (những giáo trình toán, triết, kinh tế
chính trị học .v.v). Còn phần lớn các môn học mới giáo trình là đợc dịch từ giáo
trình của các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển, có sửa chữa bổ xung. Vì
vậy tính Việt Nam còn rất hạn chế.
- Nội dung và chơng trình giảng dạy của ta còn quá nặng nề về giảng lý
thuyết, việc rèn luyện khả năng thực hành còn quá ít và yếu, nhất là việc thực
hành về các kỹ năng phân tích đánh giá các hiện tợng kinh tế, khả năng về giao
tiếp với bên ngoài về sử dụng các công cụ và phơng tiện hiện đại trong quản lý
kinh tế .v.v.
- Việc dành thời gian cho sinh viên nghiên cứu khoa học, việc tổ chức để
cho thày hớng dẫn sinh viên làm quen cũng nh tiếp cận với các hoạt động
nghiên cứu khoa học còn quá ít.
5 - Các hình thức đào tạo:

Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, việc đào tạo của
các trờng đại học kinh tế đợc tiến hành dới 4 hình thức: Dài hạn tập trung
(Chính quy); tại chức, chuyên tu và bồi dỡng. Tuy nhiên hình thức chuyên tu
chỉ áp dụng trong một số năm đầu khi chúng ta còn quá thiếu cán bộ quản lý
kinh tế.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo
định hớng XHCN do nhu cầu cán bộ quản lý kinh tế tăng nhanh nên các trờng
đại học kinh tế đã áp dụng nhiều hình thức đào tạo linh hoạt:
* Đào tạo chính quy tập trung: Đây là hình thức đào tạo cử nhân kinh tế

chủ yếu, thông qua kỳ thi quốc gia để tuyển chọn những ngời có đủ tiêu chuẩn
vào học 4 năm theo hình thức tập trung tại trờng. Đây là hình thức đào tạo tốt
nhất, có chất lợng nhất hiện nay. Bởi lẽ sinh viên đợc học tập rèn luyện trong
môi trờng tốt nhất.
Đào tạo tập trung cung cấp cho xã hội những cử nhân kinh tế giỏi vè
chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực nghiên cứu, có trình độ
ngoại ngữ và sử dụng các công cụ, các phơng tiện hiện đại phục vụ cho việc
nghiên cứu, quản lý. Những cán bộ quản lý kinh tế có tài năng thờng đợc đào
tạo ở hình thức này.
* Hệ mở rộng tập trung: Đầu thập kỷ 90 do nhu cầu ngời học quá lớn, đợ
phép của Bộ GD-ĐT, các trờng đại học kinh tế mở thêm hệ đào tạo mở rộng.
Hệ này tuyển số học sinh đã thi vào trờng nhng không đạt điểm chuẩn vào hệ
chính quy. Tuy nhiên do chất lợng của đầu vào không đảm bảo, d luận xã hội
không đồng đều nên từ nă m 1994 đến nay hệ này không còn nữa.
* Đào tạo tại chức: Do sự phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của xã hội
cần thiết phải nâng cáo trình độ cho những ngời đang làm việc. Đây là hình
17


thức nâng cao kỹ năng và trình độ có liên quan đến nghề nghiệp của ngời đi
học và phải chuyển đổi ngành để kiếm việc làm mới. Hiện nay bộ phận không
nhỏ những ngời cha có việc làm cũng theo học hình thức này.
Đào tạo tại chức dành cho những ngời thuộc mọi thành phần kinh tế, học ở
mọi phơng thức khác nhau không phải học tập trung liên tục tại trờng đại học
tại chức là một bộ phận của giáo dục thờng xuyên, ngời học có thể vừa học vừa
làm: Học tập và tích luỹ kiến thức dần dần với các phơng thức đào tạo linh
hoạt, đa dạng trong khoảng thời gian và không gian thích hợp mềm dẻo để đạt
đợc một mục tiêu nội dung và chơng trình quy định. Do đó đào tạo tại chức
hiện nay có nhiều hình thức, mỗi hình thức đều có những u nhợc điểm nhất
định, tuy nhiên do nhiều yếu tố tác động, giáo dục đại học tại chức hiện nay

đang có nhiều bất cập.
* Hình thức đào tạo từ xa: Đây là hình thức đào tạo thích hợp trong điều
kiện kinh tế xã hội đã phát triển, hệ thống các tài liệu, t liệu thông tin liên lạc,
phát thanh truyền hình phổ biến trong cả nớc. Hình thức đào tạo này ngời học
không cần phải có mặt thờng xuyên hay định kỳ tại trờng. Nhờ có hình thức
đào tạo này mà những ngời ở miền xa xôi, miền núi, hải đảo nếu muốn học
cũng có thể học đợc. Hình thức này hiện nay mới đợc thực hiện ở một vài trờng
với phạm vi nhỏ vì hệ thống thông tin liên lạc của ta còn cha đầy đủ và nhiều
ngời cha lĩnh hội đợc phơng pháp này nên còn ngần ngại.
* Hình thức đào tạo cấp văn bằng đại học II: Hình thức này giành cho
những ngời đã tốt nghiệp 1 bằng đại học do nhu cầu của công việc họ cần thiết
phải chuyển đổi ngành. Hình thức này thời gian học tập có thể kéo dài một
cách linh hoạt từ 20 đến 30 tháng. Sau khi tốt nghiệp họ đợc cấp bằng cử nhân
kinh tế theo chuyên ngành, chơng trình đào tạo đợc tuân theo hệ chuẩn, có bảo
lu những phần học đã tích luỹ theo chơng trình của Bộ GD&ĐT.
Hình thức này đang đợc xã hội đánh giá cao. Tuy nhiên do thời gian đào
tạo là ngoài giờ (Buổi tối) nên ngời học thờng mệt mỏi sau một ngày làm việc
căng thẳng ở cơ quan. Vì vậy ảnh hởng đến chất lợng đào tạo. Mặt khác hình
thức này đòi hỏi ngời học phải tự học 50% và với phơng pháp học tập có hiệu
quả. Nhng vì các điều kiện khác nhằm đảm bảo dồng bộ trong đào tạo cha thoả
đáng nên chất lợng đào tạo còn bị hạn chế.
* Hình thức đào tạo theo chứng chỉ: Hiện nay hình thức đào tạo theo
chứng chỉ là hình thức đợc đào tạo thờng xuyên, ngời học có thể tích luỹ từng
bộ phận kiến thức theo đơn vị học trình và học phần một cách linh hoạt. Nhờ áp
dụng phơng thức đào tạo này nên chỉ trong một thời gian tơng đối ngắn, các trờng đại học kinh tế đã đào tạo đợc cho đất nớc một đội ngũ cán bộ quản lý kinh
tế khá đông đảo. Đội ngũ này cũng đã có những đóng góp xứng đáng cho sự
nghiệp phát triển của nền kinh tế nớc nhà.

6 - Trình độ đào tạo:


18


Các trờng đại học kinh tế hiện nay chủ yếu là đào tạo các loại bằng cấp:
Cử nhân kinh tế và quản trị kinh doanh, thạc sĩ kinh tế và quản trị kinh doanh,
tiến sĩ Khoa học kỹ thuật và quản trị kinh doanh.
Nh vậy hơn 10 năm đổi mới, đợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nớc, sự
nghiệp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế của nớc ta có sự phát triển đáng mừng
nhất là trong những năm gần đây.
a - Chúng ta đã xây dựng đợc một hệ thống các cơ sở đào tạo đại học và
trên đại học về kinh tế trên phạm vi cả nớc với số lợng ngày càng tăng, quy mô
ngày càng lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng đợc tăng cờng.
b - Đã đào tạo đợc một đội ngũ Giáo viên đông đảo về số lợng, có chất
lợng tơng đối tốt, bớc đầu đáp ứng đợc nhu cầu đào tạo cán bộ quản lý
kinh tế cho đất nớc.
c - Đã từng bớc xây dựng đợc nội dung, chơng trình đào tạo phù hợp
với đối tợng cần đào tạo, phù hợp với nền kinh tế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc theo định hớng XHCN.
d - Đã đào tạo cho đất nớc một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế (Cả vĩ
mô và vi mô) tơng đối đông đảo, với chất lợng tơng đối khá.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đáng khích lệ đó, sự nghiệp đào tạo
cán bộ quản lý kinh tế của chúng ta cũng còn nhiều khả năng và hạn chế lớn:
d.1.Hệ thống các cơ sở đào tạo sử dụng cán bộ quản lý kinh tế phát triển
thiếu quy hoạch bởi vậy quy mô của các trờng cha ngang tầm với các nớc trong
khu vực.
d.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật của các trờng vừa thiếu, vừa lạc hậu, cha đạt
tiêu chuẩn của một trờng đại học hiện đại.
d.3.Đội ngũ Giáo viên còn thiếu về số lợng, cơ cấu không hợp lý và chất lợng cũng còn hạn chế.
d.4.Nội dung chơng trình đào tạo, phơng pháp đào tạo vẫn cha thật phù
hợp, cha thật khoa học hiện đại và Việt Nam.

Muốn giải quyết những tồn tại trên đòi hỏi phải có sự đầu t lớn và đồng bộ
của Đảng và Nhà nớc cũng nh nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của tất cả các trờng.

19


Chơng III
Định hớng phát triển đào tạo và nâng cao chất lợng
cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam:

Nghị quyết hội nghị Trung Ương lần thứ 3 (Khoá VIII) đã chỉ rõ: Phải xuất
phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ
quản lý hiện có, dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ, công
chức để chủ động có phơng hớng đào tạo, bồi dỡng đặc biệt chú trọng đào tạo đợc
nguồn cán bộ dồi dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu...
I - Căn cứ để phát triển đào tạo và nâng
cao chất lợng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:

Để có đợc căn cứ phát triển đào tạo và nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế vĩ mô trớc tiên ta phải xem xét đến mục tiêu chiến lợc trong
việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô và những quan điểm cơ bản
trong việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
1 - Mục tiêu chiến lợc trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý
kinh tế vĩ mô:

- Mục tiêu chung là tạo ra một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đủ về
số lợng và có chất lợng cao, có khả năng tiếp thu những kiến thức quản lý kinh
tế mới nhất của thế giới ứng dụng vào Việt Nam cũng nh giải quyết đợc một
cách hiệu quả những vấn đề lý luận và thực tiễn do sự phát triển của nền kinh tế
Việt Nam đặt ra.

- Tích cực đào tạo, bồi dỡng trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện có. Những ngời đứng đầu
của hệ thống chính trị các cấp, nhằm bảo đảm sự chuyển biến liên tục và kế tục
vững vàng sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nớc giữa các thế hệ trong những
năm đầu của thế kỷ XXI.
- Xây dựng đợc đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế của hệ thống chính trị các
cấp đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý kinh tế và vận động quần
chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế. Có cơ cấu đồng bộ, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức và năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế
và vận động quần chúng thực hiện mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, vững bớc đi lên CNXH.
- Xây dựng và thực hiện đồng bộ các chính sách và biện pháp để khuyến
khích các cán bộ quản lý kinh tế làm việc năng xuất, chất lợng, hiệu quả, ngăn
chặn đẩy lùi và hạn chế tiêu cực trong đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị các
cấp. Trớc hết là cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nớc và các đoàn thể quần
20


chúng ở các cấp, giữ vững kỷ cơng kỷ luật không để lọt những phần tử cơ hội
thiếu trung thực.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và bộ máy quản lý cán bộ, quản lý
kinh tế vĩ mô ở các cấp từ Trung ơng Tỉnh, Thành phố, đảm bảo cho bộ máy
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và có hiệu quả. Đảm bảo xây dựng đợc đội
ngũ lãnh đạo và quản lý kinh tế vĩ mô ở cấp Trung ơng và địa phơng đạt tiêu
chuẩn đội ngũ cán bộ làm việc có năng suất, chất lợng và hiệu quả cao.
- Căn cứ vào quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cần xây
dựng quy hoạch đào tạo và bồi dỡng cán bộ để thực hiện quy hoạch với các nội
dung yêu cầu chất lợng đào tạo toàn diện, xác định đồng bộ cơ cấu ngành nghề
theo cấp quản lý, xác định đồng bộ cơ cấu trình độ đào tạo, xác định hợp lý cơ
cấu kiến thức và mạng lới các trờng đào tạo...

2 - Những quan điểm cơ bản trong việc đào tạo cán bộ quản lý kinh
tế vĩ mô:

Để xây dựng đợc đội ngũ cán bộ đồng bộ và công tác cán bộ đáp ứng đợc
sự nghiệp tiếp tục đổi mới, đẩy mạnhCNH-HĐH và mục tiêu dân giàu nớc
mạnh xã hội công bằng văn minh, cần quán triệt đầy đủ những quan điểm sau
đây trong việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm giai cấp công nhân trong xây dựng quy
hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ
trong xây dựng quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm trọng dụng nhân tài về quản lý kinh tế của
đất nớc trong xây dựng, quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ
mô. Để thực hiện đợc quan điểm này, chúng ta phải có chính sách đúng đắn để
phát hiện, đào tạo và bồi dỡng nhân tài về kinh tế và quản lý kinh tế cho đất nớc.
- Thực hiện đúng đắn quan điểm đồng bộ trong xây dựng, quy hoạch và
đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm bảo đảm tính kế thừa và liên tục trong xây
dựng quy hoạch và đội ngũ đào tạo cán bộ và công tác cán bộ quản lý kinh tế vĩ
mô trong hệ thống chính trị.
- Thực hiện đầy đủ quan điểm toàn diện và có trọng điểm trong xây dựng
quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.
- Việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ và công tác quản lý cán bộ
trong hệ thống chính trị phải đặt dới sự lãnh đạo trực tiếp và thống nhất của các
tổ chức Đảng.

21


3- Căn cứ cụ thể và các yêu cầu đối với phát triển đào tạo và nâng

cao chất lợng cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:

* Căn cứ cụ thể:
- Căn cứ vào hệ thống tổ chức của các cơ quan cấp Bộ, tổng cục ở Trung ơng, của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng cũng nh chức năng nhiệm vụ
của các cơ quan trong hệ thống tổ chức đó.
- Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nớc ta hiện
nay.
- Nếu so với yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới, trình độ và năng lực
của cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô nói chung vẫn còn nhiều mặt hạn chế, còn
hẫng hụt trong kiến thức về kinh tế thị trờng, về quản lý kinh tế vĩ mô và pháp
luật. Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng đang từng bớc hội nhập vào khu vực
và thế giới thì các kiến thức về kinh tế quốc tế, luật pháp quốc tế, các kỹ năng
về ngoại ngữ, tin học cũng cha đáp ứng đợc yêu cầu.
Chính vì vậy, theo đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đều có
chung tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Thừa những ngời có trình độ năng lực yếu,
khả năng tự vơn lên hoặc đào tạo lại, tiếp thu các kiến thức của kinh tế thị trờng
có nhiều hạn chế. Thiếu cán bộ có đủ trình độ ở trờng tầm vĩ mô, đặc biệt là
năng lực hoạch định chiến lợc và chính sách đó, năng lực soạn thảo và tổ chức
thực thi các văn bản pháp quy về quản lý.
* Yêu cầu đối với đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:
- Việc đào tạo phải nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô đáp
ứng đợc yêu cầu của nền kinh tế đang trong quá trình chuyển sang mô hình
kinh tế mới.
Trớc các yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế, số đông trong đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô vẫn bộc lộ sự yếu kém về t duy, phong cách làm
việc, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy trong tiến trình đổi mới kinh tế,
cơ chế thị trờng đã và đang từng bớc hình thành nhng cha đồng bộ, toàn diện,
nên nhiều chính sách, chế độ, luật pháp...ban hành chậm, các công cụ quản lý
vĩ mô khác cha chuyển kịp thời với những thay đổi của nền kinh tế do tác động
của cơ chế mới. Công cụ kế hoạchhoá cha làm tốt chức năng định hớng nền

kinh tế, chính sách tài chính, tiền tệ cha phát huy đợc vai trò tích cực trong điều
tiết kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh ấy, ngời cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô, bộ
phận cấu thành của hệ thống tổ chức và quản lý Nhà nớc cần đợc tiến hành quy
hoạch lại. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô phải quán triệt yêu
cầu của tiến trình chuyển đổi nền kinh tế.
- Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô phải đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH-HĐH nền kinh tế.
- Đáp ứng yêu cầu mở cửa và hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế.

22


Trong những năm thực hiện đổi mới kinh tế, việc thực hiện mở cửa nền
kinh tế dã đạt đợc những kết quả quan trọng. Tuy vậy, khi ta tiến hành hợp tác
kinh tế với nớc ngoài do mới tiếp cận cha hiểu biết luật chơi của kinh tế thị
trờng, cùng những thông lệ quốc tế trong hợp tác kinh tế với nớc ngoài nên đã
dẫn đến những hạn chế và không ít va vấp, thua thiệt.
Từ những vấn đề trình bày trên cho thấy, trớc tình hình và nhiệm vụ mới
của đất nớc công tác đào tạo đội ngũ cán bộ ở cấp quản lý kinh tế vĩ mô đang là
vấn đề cấp bách đặt ra.
II - Định hớng phát triển đào tạo cán bộ
quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam:

Căn cứ vào mục tiêu chiến lợc, vào quan điểm và các yêu cầu đối với đào
tạo và nâng cao chất lợng cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô, nhiệm vụ đào tạo và bồi
dỡng cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở nớc ta. Trong những năm tới cần tập trung
vào một số vấn đề cơ bản sau:
1 - Xây dựng mục tiêu, chơng trình, nội dung đào tạo cán bộ quản lý kinh
tế vĩ mô thích ứng nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lợng đào tạo.
2 - Xây dựng hệ thống các cơ sở đào tạo đáp ứng yêu cầu đào tạo đội ngũ

cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô (Đội ngũ Giáo viên, giáo trình, tài liệu học tập, cơ
sở vật chất kỹ thuật nhà trờng: Ký túc xá, th viện, giảng đờng, khu rèn luyện
thể chất, giáo dục truyền thống).
3 - Xác định phơng hớng và hình thức đào tạo bồi dỡng cán bộ quản lý
kinh tế vĩ mô thích hợp.

chơng IV
Một số giải pháp chủ yếu để phát triển đào tạo và nâng
cao chất lợng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô:

Để tiếp tục tạo bớc phát triển mới trong đào tạo cán bộ quản lý kinh tế
xuất phát từ thực trạng đào tạo cán bộ quản lý kinh tế ở nớc ta hiện nay thì
trong những năm trớc mắt cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau
đây:
Thứ nhất: Tiếp tục cụ thể hoá nghị quyết hội nghị lần thứ III Ban chấp
hành Trung ơng Đảng ( khoá VIII) về chiến lợc cán bộ, nhanh chóng xây dựng
chiến lợc về cán bộ quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó triển khai thực hiện quy
hoạch về đào tạo cán bộ quản lý kinh tế.
Quy hoạch này cần tập trung vào một số nội dung cơ bản nh đánh giá
23


đúng thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, các cơ sở đào tạo cán bộ quản
lý kinh tế ( đánh giá về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực).
Trên cơ sở đó sắp xếp lại mạng lới các trờng kinh tế, rà soát và tiếp tục đổi
mới, chuẩn hoá nội dung chơng trình, cơ cấu ngành đào tạo về kinh tế và quản
trị kinh doanh ở tất cả các cấp học từ Cao đẳng, Đại học đến Thạc sĩ và Tiến sĩ.
Nội dung chơng trình đào tạo cần đợc xây dựng trên cơ sở tiếp tục những kinh
nghiệm tiên tiến của thế giới, đồng thời mang bản sắc riêng phù hợp với truyền
thống văn hoá và thực tiễn Việt Nam.

Thứ hai: Có kế hoạch, chơng trình đào tạo lại, đào tạo bổ xung và nâng
cao kiến thức cơ bản về quản lý kinh tế vĩ mô với nội dung và hình thữc thích
hợp với từng đối tợng. Trong chơng trình đào tạo lại, trớc hết tập trung vào đối
tợng là cán bộ quản lý kinh tế tại các cơ quan, hoạch định chính sách ở Trung ơng và địa phơng, gồm đào tạo lại, bồi dỡng với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy
hoạch sử dụng cán bộ.
Thứ ba: Đối với các trờng Đại học thuộc khối kinh tế, từ nay đến năm
2000 nên ổn định quy mô đào tạo hệ Đại học và trên Đại học, phát triển hệ
thống các trờng Trung cấp để thu hút một bộ phận học sinh sau Trung học phổ
thông. Điều này sẽ nhanh chóng huy động đợc nhiều nguồn lực của xã hội
(Ngân sách Nhà nớc, doanh nghiệp...) vào việc đào tạo nguồn nhân lực giảm
bớt sức ép về quy mô cho các trờng Đại học và góp phần tích cực tạo cơ cấu lao
động hợp lý cho trớc mắt và lâu dài, đảm bảo và nâng cao hiệu quả đào tạo đa
dạng hoá hình thức và loại hình đào tạo phải gắn liền vơí việc tăng cờng quản
lý chặt chẽ việc tuyển sinh, công nhận tốt nghiệp và hệ thống văn bằng... Mở
rộng hình thức bồi dỡng cho cán bộ quản lý Nhà nớc về kinh tế trên cơ sở xây
dựng chơng trình thích hợp cho từng đối tợng, có kế hoạch từng bớc tập trung
xây dựng một số trờng Đại học kinh tế và Quản trị kinh doanh có đủ điều kiện (
về cơ sở vật chất và nhân lực) thành những trung tâm đào tạo có chất lợng cao.
Một số trờng này xa là nơi đào tạo các chuyên gia kinh tế và quản trị kinh
doanh giỏi cho đất nớc, vừa là trung tâm nghiên cứu khoa học kinh tế mạnh góp
phần đề xuất và giải quyết những vấn đề phức tạp trong quản lý kinh tế cả ở
tầm vi mô và vĩ mô - Sinh viên tốt nghiệp từ các trờng này sẽ là nguồn chủ yếu
cung cấp cán bộ quản lý kinh tế cho các cơ quan hoạch định chính sách ở
Trung ơng, địa phơng và các doanh nghiệp.
Thứ t: Tăng cờng đầu t cho đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Trong những
năm qua nguồn đầu t cho giáo dục và đào tạo trong ngân sách Nhà nớc đã tăng
lên đáng kể từ 8% (1990) lên 10,8% (1996) và 13,6% năm 1998, dự kiến năm
2000 sẽ tăng lên lớn hơn.
Tuy nhiên mức đầu t này vẫn còn thấp so với các nớc trong khu vực và
trên thế giới ( Thái Lan 20%; Hàn Quốc 16.5%; Pháp 12,3%; Mĩ 15,5%).

Đầu t cho đào tạo cán bộ quản lý kinh tế trong những năm trớc mắt không
chỉ để phát triển theo chiều rộng mà trớc hết là nhằm mục tiêu tiếp tục hoàn
thiện và khai thác thế mạnh của nguồn nhân lực cán bộ quản lý kinh tế hiện có,
24


nâng cao chất lợng đào tạo.
Thứ năm: Tạo môi trờng đầu t hấp dẫn để thu hút đầu t nớc ngoài vào lĩnh
vực đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Có chính sách cụ thể động viên khuyến
khích đội ngũ trong chí thức đông đảo là ngời Việt Nam đang công tác, nghiên
cứu, giảng dạy ở nớc ngoài đóng góp vào sự nghiệp đào tạo cán bộ quản lý kinh
tế.
Thứ sáu: Đẩy mạnh và tạo điều kiện chăm lo giáo dục toàn diện cho sinh
viên, trớc hết là chính trị, t tởng, truyền thống văn hoá dân tộc để bảo đảm tạo
ra nhân cách của sinh viên Việt Nam. Có lý tởng vì xã hội dân giàu nớc mạnh,
xã hội công bằng văn minh và nhậy bén thông minh, tiếp thu đợc công nghệ
quản lý kinh tế hiện đại. Đây chính là một nhân tố căn bản góp phần vào sự
nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam trong tơng lai.
Thứ bảy: Thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ quản lý kinh tế, nhất là cán bộ
quản lý cấp chiến lợc, tiếp tục đào tạo, bồi dỡng và sử dụng tốt lực lợng cán bộ
có đủ phảm chất và năng lực, kiên quyết chuyển khỏi vị trí công tác nếu họ
không thích ứng với yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Việc bố trí và sử
dụng cán bộ phải gắn bó với yêu cầu, tiêu chuẩn và phù hợp với sở trờng.
Thứ tám: Có giải pháp cụ thể khắc phục dần sự bất hợp lý trong chính
sách đối với cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng, tạo điều kiện
vật chất và tinh thần đủ sức tạo động lực cho đội ngũ đang làm nhiệm vụ đào
tạo cán bộ quản lý kinh tế. Làm việc có chất lợng và hiệu quả tốt hơn, thu hút
họ tập trung vào nhiệm vụ đào tạo, hạn chế tối đa sự chảy máu chất xám của
đội ngũ cán bộ này.


25


×