Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

ẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 97 trang )

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC CẤP NHÀ NƯỚC KX.04/06-10

MỤC LỤC

“NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIAI ĐOẠN 2006 – 2010”

Nội dung

***********************

ĐỀ TÀI KX.04.09/06-10
VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(BÁO CÁO TỔNG HỢP)

1

Chương thứ nhất: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỞ HỮU
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA

11

1.1.

HỌC THUYẾT MÁC XÍT - LÊ NIN NÍT VỀ VẤN ĐỀ SỞ HỮU –
SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI

11


1.2.

BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG CỦA SỞ HỮU NHÌN TỪ CÁC GÓC
ĐỘ KINH TẾ VÀ PHÁP LÝ

24

1.3.

CÁC CHẾ ĐỘ SỞ HỮU VÀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.3.1. Các chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường
1.3.2. Các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường
1.3.2.1. Các hình thức sở hữu trong chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
1.3.2.2. Các hình thức sở hữu trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất

Chủ nhiệm: GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn

1.4.

Cơ quan chủ trì: Trường Đại học Kinh tế quốc dân

MỐI QUAN HỆ GIỮA SỞ HỮU VỚI TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ
PHÂN PHỐI

1.4.1. Mối quan hệ giữa sở hữu với tổ chức quản lý
1.4.2. Mối quan hệ giữa sở hữu với phân phối

8124


Hà Nội. 2010

1.5.

SỰ PHÁT TRIỂN CÁC CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG CÁC PHƯƠNG
THỨC SẢN XUẤT XÃ HỘI

1.5.1.
1.5.2.
1.5.3.
1.5.4.
1.5.5.

Sở hữu trong công xã nguyên thủy
Sở hữu trong xã hội chiếm hữu nô lệ
Sở hữu trong xã hội phong kiến
Sở hữu trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Sở hữu trong mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa kiểu cũ

1.6.

CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRÊN CƠ SỞ CÁC HÌNH THỨC
SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.6.1. Phân chia các thành phần kinh tế

A

1.6.2. Vị trí các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa
1.7.

MỐI QUAN HỆ GIỮA SỞ HỮU VỚI CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC
KINH DOANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.7.1. Loại hình tổ chức kinh doanh – hình thức chứa đựng các quan hệ
sở hữu
1.7.2. Xu hướng phát triển các loại hình tổ chức kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường
KẾT LUẬN CHƯƠNG THỨ NHẤT

2.1- QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUAN ĐIỂM,
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ VẤN ĐỀ SỞ HỮU VÀ THÀNH PHẦN
KINH TẾ
2.1.1. Những tư tưởng cơ bản về sở hữu và thành phần kinh tế qua các

2.2.

TỔNG QUAN THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC SỞ
HỮU, CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ CÁC LOẠI HÌNH TỔ
CHỨC KINH DOANH TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI

2.2.1. Qúa trình thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng
2.2.2. Khái quát tình hình các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và
loại hình tổ chức kinh doanh
2.3.

THỰC TRẠNG SỞ HỮU NHÀ NƯỚC, THÀNH PHẦN KINH TẾ
NHÀ NƯỚC VÀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC


2.3.1. Các quan điểm, chủ trương của Đảng và khung khổ pháp luật của
Nhà nước
2.3.2. Khái quát thực trạng và các vấn đề đặt ra
2.4.

2.4.2. Khái quát thực trạng và các vấn đề đặt ra

52
52
56
61
61
61
62
63
68
69
69

152

2.5.

THỰC TRẠNG SỞ HỮU TƯ NHÂN, KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ
CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

163

91


2.5.1. Các quan điểm, chủ trương của Đảng và khung khổ pháp luật của
Nhà nước
2.5.2. Khái quát thực trạng và các vấn đề đặt ra

163
167

91

2.6.
100

THỰC TRẠNG SỞ HỮU CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI, THÀNH
PHẦN KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC LOẠI
HÌNH DOANH NGHIỆP CÓ VỐN NƯỚC NGOÀI

182

102

2.6.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và khung khổ pháp luật của
Nhà nước
2.6.2. Khái quát thực trạng và các vấn đề đặt ra

182
185

KẾT LUẬN CHƯƠNG THỨ HAI


199

95

Chương thứ hai: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
102

110
110

PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU, CÁC THÀNH PHẦN
KINH TẾ VÀ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.1. CÁC QUAN ĐIỂM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
3.1.1. Các quan điểm cơ bản
3.1.2. Xu hướng phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế

115

và các loại hình doanh nghiệp

123

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC SỞ
HỮU, CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ VÀ CÁC LOẠI HÌNH DOANH
NGHIỆP
3.2.1. Tạo lập nền tảng chính trị - xã hội cho giải quyết vấn đề sở hữu và


123
127

THỰC TRẠNG SỞ HỮU TẬP THỂ, THÀNH PHẦN KINH TẾ TẬP
THỂ VÀ HỢP TÁC XÃ

147

2.4.1. Các quan điểm, chủ trương của Đảng và khung khổ pháp luật của
Nhà nước

147

C

31
44
44
50

88

102
107

kỳ Đại hội Đảng
2.1.2. Những vấn đề đặt ra

30


B

Chương thứ hai: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SỞ HỮU, CÁC THÀNH
PHẦN KINH TẾ VÀ CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TRONG
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Trang

LỜI MỞ ĐẦU

200

200
200
215

phát triển các thành phần kinh tế
3.2.2. Đổi mới quản lý nhà nước, tạo lập môi trường bình đẳng phát
triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp
3.2.2.1. Tiếp tục đổi mới nhận thức về vai trò của Nhà nước phù hợp với yêu
D

228
228

240



cầu phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và các
loại hình doanh nghiệp
3.2.2.2. Phát huy vai trò của Nhà nước trong việc định hướng phát triển đầu
tư và kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần
3.2.2.3. Tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế
3.2.2.4. Giải tỏa các “điểm nghẽn” trong phát triển các thành phần kinh tế và
các loại hình doanh nghiệp

DANH MỤC CÁC HỘP
240
Tên hộp
242
247
250

3.2.3. Hoàn thiện, bổ sung khung khổ pháp luật về sở hữu, thành phần
kinh tế và các loại hình doanh nghiệp
3.2.3.1. Các yêu cầu cơ bản với việc hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật
3.2.3.2. Một số nội dung hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật về sở hữu
và loại hình doanh nghiệp

255
255

3.2.4. Thúc đẩy đổi mới doanh nghiệp nhà nước
3.2.4.1. Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước với doanh nghiệp nhà nước
3.2.4.3. Thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
3.2.4.3. Hoàn thiện cơ chế hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước


272
273
283
286

259

3.2.5. Hoàn thiện các quan hệ đất đai theo yêu cầu phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.2.5.1. Xác định hình thức sở hữu đất đai
3.2.5.2. Xử lý mối quan hệ về quyền quản lý của nhà nước và quyền của các
chủ thể nhận sử dụng đất
3.2.5.3- Quy hoạch sử dụng đất trên phạm vi cả nước
3.2.5.4. Điều chỉnh lại mức hạn điền
3.2.5.5. Tăng cường quản lý của Nhà nước về đất đai

294
294

Trang

Hộp 1.1. Làm sao để chuyển tài sản thành vốn

25

Hộp 1.2: Sức sống của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân

34


Hộp 1.3: Các quan điểm khác nhau về sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước

38

Hộp 1.4: Nhận thức về chế độ sở hữu trong quá trình cải cách mở cửa của
Trung Quốc

43

Hộp 1.5: Sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa

48

Hộp 1.6: Tầm quan trọng của quan hệ tổ chức quản lý ở tầm vĩ mô

53

Hộp 1.7: Các thành phần kinh tế qua các kỳ Đại hội Đảng

71

Hộp 1.8: Kết cấu nền kinh tế Trung Quốc theo quan hệ sở hữu

79

Hộp 1.9: Phân định thành phần kinh tế và thống kê theo thành phần kinh tế

80

Hộp 1.10: Một quan niệm khác về phạm vi của kinh tế tư nhân


84

Hộp 2.1: Bàn về nông thôn qua góc nhìn sở hữu ruộng đất

132

Hộp 2.2: Doanh nghiệp nhà nước – quy mô mới, bệnh tật cũ

142

Hộp 2.3: Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã

158

Hộp 2.4: Hủy diệt và phục sinh – cái giá quá đắt

191

Hộp 2.5: Chưa có cuộc đình công nào đúng luật

193

297
303
305
307

KẾT LUẬN CHƯƠNG THỨ BA


309

KẾT LUẬN

311

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

314

E

F

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

LỜI MỞ ĐẦU

DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994

116

Bảng 2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế


117

Bảng 2.3. Tổng quan tình hình doanh nghiệp nhà nước

136

1. SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Sở hữu luôn được coi là vấn đề trọng yếu của mỗi quốc gia. Giải quyết hợp lý
vấn đề sở hữu sẽ tạo động lực huy động và phân bổ hợp lý các nguồn lực để vừa bảo
đảm lợi ích của chủ sở hữu, vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại,
nhận thức sai và giải quyết không hợp lý vấn đề sở hữu sẽ tạo nên những cản trở hữu

Bảng 2.4. Tốc độ tăng trưởng của các thành phần kinh tế thời kỳ 1995 –
2008

155

Bảng 2.5. Vị trí của kinh tế tập thể trong cơ cấu thành phần kinh tế

156

Bảng 2.6. Tổng quan tình hình kinh tế tư nhân

168

Bảng 2.7: Vị trí của đầu tư tư nhân trong tổng đầu tư toàn xã hội

170


Theo mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, nền kinh tế Việt Nam dựa trên cơ sở

Bảng 2.8: Phân loại doanh nghiệp theo số lượng lao động

174

chế độ công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập

Bảng 2.9: Phân loại quy mô doanh nghiệp theo vốn kinh doanh

175

Bảng 2.10. Tổng quan tình hình kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

186

Bảng 2.11: Tỷ trọng khu vực có vốn nước ngoài trong đầu tư và trong GDP

187

tế - xã hội bức xúc của đất nước sau chiến tranh, đất nước lâm vào trình trạng khủng

Bảng 2.12: Vị trí của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong xuất khẩu

189

hoảng sâu sắc. Tuy nhiên, ngay trong mô hình kinh tế ấy cũng vẫn tồn tại, dù ở mức

Bảng 2.13: Quy mô doanh nghiệp có vốn nước ngoài theo vốn kinh doanh


195

Bảng 2.14: Vốn đăng ký và vốn thực hiện

197

Bảng 3.1. Tỷ trọng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế

219

Bảng 3.2. Tỷ trọng tổng sản phẩm trong nước của các thành phần kinh tế
thời kỳ 1990 – 2008

220

có nghĩa là phải phát triển các hình thức sở hữu đa dạng, tuân thủ quy luật về sự phù

Bảng 3.3. Số lượng doanh nghiệp thuộc các loại hình khác nhau

222

hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ

hình và vô hình với sự phát triển kinh tế - xã hội, thậm chí gây nên những đối đầu xã
hội. Tuy Hiến pháp của các quốc gia đều ghi rõ các chế độ sở hữu và quyền sở hữu
của các chủ thể với các đối tượng khác nhau, nhưng không phải vì thế mà đã chấm
dứt được các tranh chấp về sở hữu.

thể. Chế độ sở hữu đó gắn liền với việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp đã làm triệt tiêu các động lực kinh tế với quá trình phát triển và

những hạn chế trong việc khai thác các nguồn lực vào việc giải quyết các vấn đề kinh

độ hết sức nhỏ bé, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới ở nước ta,
đã xác định chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, coi đó là “giải pháp
có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý”1. Thực hiện chủ trương đó cũng

quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ trương đó thể hiện sự đột phá trong tư duy kinh tế
và chính trị về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta.

1

G

Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. NXB Chính trị quốc gia, 2005, trang 57.

1


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

Công cuộc đổi mới được tiến hành gần 25 năm qua đã mang lại những thành

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************


hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối thích ứng với mỗi hình thức sở hữu, về

tựu to lớn về kinh tế và xã hội. “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có

mối quan hệ tương hỗ và vị trí của mỗi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế trong

sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công

hệ thống các hình thức sở hữu, về vấn đề sở hữu trong xã hội xã hội chủ nghĩa, về mối

nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

quan hệ giữa mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các hình thức

đang được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và

sở hữu, về những tác động và những ràng buộc chính trị - xã hội với vấn đề sở hữu,

khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định.

thậm chí cả sự e ngại chệch hướng xã hội chủ nghĩa khi phát triển sở hữu tư nhân và

Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không

các thành phần kinh tế ngoài nhà nước…Việc chưa thống nhất về hàng loạt vấn đề đó

ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra

dẫn đến nhiều hệ luỵ: thiếu rõ ràng trong quan điểm về sở hữu và thành phần kinh tế;


thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Nhận thức về chủ

thiếu rõ ràng và nhất quán trong cơ chế chính sách và chỉ đạo xử lý vấn đề sở hữu

nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống

trong xây dựng và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; sự phân biệt đối xử với các

quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau (có các hình thức sở hữu khác

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những đường nét cơ bản”1. Trong

nhau); định kiến xã hội với các chủ sở hữu tư nhân…Nguyên nhân cơ bản của tình

khi khẳng định những thành tựu to lớn đã đạt được, cũng cần thấy rõ những khuyết

hình này là ở chỗ: cơ sở lý luận về vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định

điểm và yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mà nổi bật là “Tăng

hướng xã hội chủ nghĩa chưa được làm rõ, từ đó chưa có sự thống nhất trong nhận

trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh

thức và quan điểm, trong hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn xây dựng nền

của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ chế, chính sách về văn


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

hóa – xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt
động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số khâu
chậm đổi mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu…”2.

Bối cảnh phát triển mới của đất nước đang đặt ra hàng loạt vấn đề liên quan
đến sở hữu đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết. Sự phát triển như vũ bão của khoa học
công nghệ, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, xu hướng
phát triển nền kinh tế tri thức…làm thay đổi vị trí của các đối tượng sở hữu: sở hữu trí

Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến những khuyết điểm và

tuệ ngày càng có vị trí quan trọng và trở thành mối quan tâm hàng đầu của các chủ sở

yếu kém đó. Nguyên nhân chủ quan có tính chất bao trùm là tư duy về một số vấn đề

hữu. Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cuốn hút các quốc gia vào

kinh tế và chính trị - xã hội chậm được đổi mới. Từ đó, nhiều vấn đề chưa được thống

cuộc chơi chung, trên sân chơi chung với luật chơi chung. Các quốc gia tồn tại và phát

nhất nhận thức, quan điểm chủ trương chưa rõ ràng đã dẫn đến sự thiếu dứt khoát,

triển trong thế phụ thuộc lẫn nhau. Với điều kiện ấy, sở hữu quốc tế với những đối

nhất quán trong hoạch định chính sách và trong chỉ đạo điều hành.


tượng khác nhau ngày càng trở nên phổ biến…Đó là hiện thực khách quan ảnh hưởng

Sở hữu nổi lên như một trong những vấn đề trọng yếu chi phối nhiều vấn đề
kinh tế và chính trị khác. Trong khi thống nhất về tính đúng đắn của chủ trương chiến

trực tiếp đến tiến trình phát triển của Việt Nam, nhưng lại chưa được nghiên cứu có
hệ thống và sâu sắc.

lược về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhưng vẫn còn những ý

Từ những điều đã nêu trên đây, có thể khẳng định rằng việc nghiên cứu “Vấn

kiến khác nhau về sở hữu và về thành phần kinh tế, về mối quan hệ giữa quan hệ sở

đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1
2

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X. NXB Chính trị quốc gia, 2006, trang 17.
Văn kiện Đại hội X đã dẫn, trang 15

2

3

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10


************************************************************************

************************************************************************

2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

việc chuyển sở hữu nhà nước thành sở hữu tư nhân. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá

Mỗi quốc gia, với những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội riêng, có cách

cao Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới biên soạn năm 1999

thức giải quyết riêng với vấn đề sở hữu. Ở các quốc gia đang phát triển và các quốc
gia đang trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, sở hữu luôn được coi là vấn đề phức tạp cả trên
phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội. Vấn đề này đã và đang thu hút
sự quan tâm không những chỉ của các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu
về kinh tế và luật pháp, mà còn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các
nhà kinh doanh và của mọi người công dân. Ở nước ngoài, đã có nhiều có nhiều cuộc
thảo luận và nhiều công trình nghiên cứu vấn đề sở hữu. Theo nội dung, có thể chia
các công trình này ra làm ba nhóm lớn:
1/ Phê phán các quan hệ sở hữu theo mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ.
Một trong những ví dụ điển hình của nhóm nội dung này là chương “Sở hữu”
trong cuốn “Hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa” của Kornai Janos, nhà kinh tế học nổi
tiếng người Hung ga ri. Trong đó, sau khi bàn về khái niệm sở hữu, ông đã khái quát
trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kiểu cổ điển có sở hữu công cộng với hai hình thức
xí nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và hợp tác xã thuộc sở hữu của những người lao
động, “vẫn còn sống sót các hình thức sở hữu tư nhân khác nhau, mặc dù nó đã bị khu
vực nhà nước và hợp tác xã làm cho còi cọc”. Phê phán đó hướng tới khẳng định sự

cần thiết phải đa dạng hoá sở hữu (thực chất là phải phát triển sở hữu tư nhân) cùng
với quá trình chuyển từ mô hình kinh tế chỉ huy sang mô hình kinh tế hỗn hợp.
2/ Đề cập tới những khía cạnh khác nhau của quá trình tư nhân hoá.
Trong số những công trình đề cập tới vấn đề sở hữu, đây là loại chủ đề phổ
biến nhất, đặc biệt là các Chương trình nghiên cứu và tài trợ của Ngân hàng Thế giới,
Quỹ Tiền tệ Thế giới, cũng như nhiều học giả phương Tây và các học giả ở ngay các
nước có nền kinh tế chuyển đổi. Theo các công trình này, tư nhân hoá được giải thích
theo 2 góc độ: thứ nhất, trên góc độ quản lý nhà nước, với các nước có nền kinh tế
chuyển đổi, tư nhân hoá đồng nghĩa với việc Nhà nước công nhận và bảo hộ cho sở
hữu tư nhân, khuyến khích và hỗ trợ cho việc phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân; thứ
hai, trên góc độ từng doanh nghiệp riêng biệt thuộc sở hữu nhà nước, tư nhân hoá là

4

mang tên “Giới quan chức trong kinh doanh – Ý nghĩa kinh tế và chính trị của sở hữu
nhà nước”. Trong công trình này, ngoài việc chỉ ra những cản trở và cách thức vượt
qua những cản trở về kinh tế và về chính trị đối với quá trình cải cách doanh nghiệp
nhà nước, các tác giả coi việc đưa các doanh nghiệp ra hoạt động trong môi trường
cạnh tranh với các doanh nghiệp có hình thức sở hữu khác, coi đó là một áp lực kinh
tế để thúc đẩy cải cách thành công các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu
quả. Trong một số thuyết trình tại Việt Nam, GS. Joseph E. Stiglitz, nhà kinh tế học
người Mỹ được giải thưởng Nobel về kinh tế, GS. David Dapice, giáo sư Đại học
Harvard, và nhiều nhà kinh tế học khác cũng đề cập đến việc phát triển mạnh sở hữu
tư nhân (và kinh tế tư nhân) như một trong các giải pháp thúc đẩy cải cách doanh
nghiệp nhà nước.
3/ Đề cập đến việc điều chỉnh vai trò, chức năng của Nhà nước phù hợp với cơ
chế thị trường với nhiều hình thức sở hữu đa dạng.
Loại công trình này đề cập đến nhiều nội dung rộng lớn về thể chế, chiến lược
và chính sách phát triển. Vấn đề sở hữu được xác định là một trong những nội dung
trọng yếu của quá trình chuyển đổi kinh tế và cũng là nội dung liên quan nhiều đến

điều chỉnh vai trò, chức năng của Nhà nước: cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà
nước; cơ chế chính sách phát triển các hình thức sở hữu khác nhau nhằm huy động
các nguồn lực cho đầu tư phát triển; tạo lập môi trường bình đẳng và minh bạch cho
các doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau.
Trong quá trình cải cách mở cửa ở Trung Quốc, việc nghiên cứu vấn đề sở hữu
được hết sức quan tâm và nhiều kết quả nghiên cứu đã được vận dụng vào hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung quốc. Các nghiên cứu,
một mặt, chỉ rõ tính tất yếu của việc phát triển các hình thức sở hữu đa dạng, mặt
khác, xác định vai trò chủ thể của quốc hữu. Cuốn “Lý luận mới về kinh tế học xã hội
chủ nghĩa” do Giáo sư Cốc Thư Đường chủ biên là một trong những công trình đề cập
một cách tập trung và toàn diện vấn đề lý luận và thực tế về sở hữu trong nền kinh tế
thị trường mang màu sắc Trung Quốc. Về mặt chính thống, Đảng Cộng sản Trung
Quốc chủ trương: “Kiên trì chế độ công hữu làm chủ thể, thúc đẩy sự phát triển của

5


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

kinh tế phi công hữu, thống nhất trong tiến trình xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ

đổi mới trong thực tiễn với việc thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế

nghĩa, hai khâu này không thể đối lập với nhau” (Báo cáo Chính trị tại Đại hội XVI,


nhiều thành phần”. Báo cáo này cũng chỉ rõ hạn chế về nhận thức là “Chưa hình thành

2002). Chủ trương này của Đảng Cộng sản Trung Quốc hướng tới yêu cầu giải phóng

được khung lý luận vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

và phát triển sức sản xuất.

nghĩa, nên nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của kinh tế

Ở Việt Nam, vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế cũng thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu. Trong đó, có những công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn
đề sở hữu hoặc về từng hình thức sở hữu (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân,…), có những công trình nghiên cứu vấn đề sở hữu trong mối quan hệ với các
thành phần kinh tế. Tất cả các công trình nghiên cứu ấy đều đặt vấn đề sở hữu trong
mối quan hệ với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.

thị trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế”. Vấn đề sở
hữu, phân định các thành phần kinh tế, vai trò của các thành phần kinh tế, quan hệ
hợp tác và liên kết giữa các chủ thể kinh tế, sự phát triển các loại hình doanh nghiệp
trong môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng…là những vấn đề nổi bật.
Khái quát chung, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề sở
hữu có những nội dung tương đồng khá cơ bản. Đó là:
- Khẳng định sự cần thiết phải phát triển đa dạng các hình thức sở hữu trong

Nếu chỉ tính các nghiên cứu đã tiến hành từ năm 2001 tới nay, có thể coi
Chương trình Khoa học cấp nhà nước “Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (mã số KX01) do GS.TS. Vũ Đình Bách chủ trì thực

hiện trong giai đoạn 2001 - 2005, là công trình nghiên cứu công phu và toàn diện nhất
về vấn đề sở hữu. Trong hệ thống 11 đề tài của Chương trình khoa học này, một loạt
đề tài đề cập đến vấn đề sở hữu nói chung, hoặc vấn đề sở hữu trong mối quan hệ với
thành phần kinh tế (hoặc loại hình doanh nghiệp). Chẳng hạn, đề tài KX01.01 đề cập
tới quan niệm và đặc trưng của quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; các đề tài KX01.02, KX01.03, KX01.04, KX01.05,
KX01.06…đề cập đặc điểm và vai trò của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, sở hữu
nhà nước, kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, sở hữu tập thể và kinh tế hợp
tác, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…trong quá trình phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Công trình “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi
mới (1986 – 2006)” do Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận biên tập và Nhà xuất bản Chính

quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường. Đa dạng hoá sở hữu có mối quan hệ hữu cơ
với đa dạng hoá loại hình tổ chức doanh nghiệp.
- Mỗi hình thức sở hữu có vai trò, vị trí riêng trong cơ cấu kinh tế đa sở hữu;
giữa các hình thức sở hữu có mối quan hệ tương hỗ với nhau.
- Cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước nằm trong tổng thể quá trình đổi
mới hệ thống kinh tế của mỗi quốc gia. Với các quốc gia “chuyển đổi”, đa dạng hoá
hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước - một trong các nội dung của cải cách doanh
nghiệp nhà nước - gắn liền với quá trình đa dạng hoá hình thức sở hữu…
Tuy nhiên, cũng còn một loạt vấn đề hoặc còn có những quan điểm khác biệt
nhau, thậm chí trái ngược nhau, hoặc còn chưa được làm rõ. Chẳng hạn:
- Quan niệm về chế độ sở hữu, hình thức sở hữu và mối quan hệ của chúng với
các loại hình doanh nghiệp; cơ sở và nội dung phân chia các hình thức sở hữu; mối
quan hệ giữa sự phân chia các hình thức sở hữu với phân chia các thành phần (khu
vực) kinh tế.

trị quốc gia xuất bản (lưu hành nội bộ) tháng 9 năm 2005 đã đề cập toàn diện và sâu


- Vai trò là mục tiêu và là động lực của sở hữu trong quá trình phát triển kinh

sắc quá trình đổi mới và những bài học rút ra từ quá trình này. Về vấn đề sở hữu, công

tế - xã hội. Vị trí và vai trò của mỗi hình thức sở hữu trong tổng thể các hình thức sở

trình này chỉ rõ: “Ở nước ta có ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), từ đó,

hữu. - Vai trò và vị trí của các thành phần kinh tế trong quá trình phát triển nền kinh tế

tạo thành nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen hỗn hợp…”. Báo

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là vai trò của thành phần kinh tế nhà

cáo cũng cho rằng: “Sự đổi mới quan trọng về nhận thức lý luận đó đã tạo cơ sở cho

nước và kinh tế tập thể.

6

7

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

- Quan điểm, thái độ kinh tế và chính trị của Nhà nước với các hình thức sở
hữu. Vai trò của Nhà nước và các cơ chế chính sách thích ứng phát triển các hình thức

sở hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa..

************************************************************************

triển nảy sinh từ vướng mắc trong tư duy nhận thức, trong cơ chế chính sách và trong
chỉ đạo thực tế có liên quan đến vấn đề sở hữu.
4/ Xác định xu hướng phát triển của các hình thức sở hữu trong quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; cung cấp cơ sở

- Và nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vai

khoa học cho việc điều chỉnh và bổ sung Cương lĩnh và các quan điểm, chủ trương

trò và tổ chức hoạt động của các tập đoàn kinh tế, quyền sở hữu và quyền sử dụng đất

của Đảng, hoạch định cơ chế, chính sách của Nhà nước tạo động lực bảo đảm phát

đai, sở hữu tập thể và hợp tác xã, sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân, sở

triển nhanh, có hiệu quả và bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

hữu có yếu tố nước ngoài trong nền kinh tế quốc gia…

nghĩa Việt Nam.

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

3. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu đề tài là làm rõ thêm những vấn đề lý luận

Vấn đề sở hữu có nội dung phức tạp và phạm vi rộng. Trong quá trình xây

cơ bản về vấn đề sở hữu trong mô hình kinh tế thị trường; vận dụng chúng để làm rõ

dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nghiên cứu sở

vấn đề sở hữu trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

hữu vừa là vấn đề có tính thời sự, vừa có tính cơ bản. Trong quá trình nghiên cứu, sẽ

Nam; cung cấp luận chứng khoa học cho việc bổ sung, điều chỉnh các quan điểm, chủ

phải chú trọng: đi từ thực tiễn của quá trình đổi mới của Việt Nam; phân tích vấn đề

trương của Đảng và cơ chế chính sách của Nhà nước trong quá trình xây dựng nền

sở hữu một cách toàn diện trên các góc độ kinh tế, chính trị và xã hội; đặt việc giải

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn tới.

quyết vấn đề sở hữu trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và phát

Để thực hiện mục tiêu đó, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ lớn sau đây:
1/ Làm rõ những vấn đề lý luận về bản chất và đặc trưng của vấn đề sở hữu
trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam; vị trí của quan hệ sở hữu với quan hệ quản lý và quan hệ phân
phối; quan hệ giữa vấn đề sở hữu với lực lượng sản xuất và khoa học công nghệ; vấn
đề sở hữu và định hướng xã hội chủ nghĩa; vai trò của sở hữu như phương thức và

động lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2/ Làm rõ các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; bản chất, đặc trưng, vị trí của mỗi hình thức sở hữu và mối quan
hệ tương hỗ giữa các hình thức sở hữu trong hệ thống sở hữu.
3/ Làm rõ đặc điểm hình thành các hình thức sở hữu ở Việt Nam; phân tích sự
vận động của các hình thức sở hữu trong quá trình đổi mới ở Việt Nam; đánh giá
những kết quả tích cực và hạn chế trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về đa
dạng hoá các hình thức sở hữu; xác định rõ những khó khăn cản trở quá trình phát

8

triển nền kinh tế tri thức.
Chủ đề trung tâm của đề tài là vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Song việc nghiên cứu vấn đề sở hữu không thể tách rời việc
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức kinh
doanh (các loại hình doanh nghiệp). Bởi lẽ: 1/ Các thành phần kinh tế được xác định
trên cơ sở các hình thức sở hữu và được coi là dạng thức biểu hiện thực tế của các
hình thức sở hữu; 2/ Các loại hình tổ chức kinh doanh là hình thức tổ chức để các chủ
kinh tế thực hiện quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng các đối tượng sở
hữu, và qua đó, thu được lợi ích từ các đối tượng sở hữu. Bởi vậy, trong khi bám sát
chủ đề trung tâm là vấn đề sở hữu, đề tài cũng đồng thời phải chú trọng nghiên cứu
các vấn đề liên quan đến thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp.
Với tính chất của đề tài khoa học xã hội và nhân văn, để thực hiện mục tiêu
nghiên cứu đã xác định, đề tài dự kiến kết hợp sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau (phương pháp chuẩn đối sánh, phương pháp nghiên cứu chuẩn

9


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

tắc, phương pháp nghiên cứu thực chứng…) trên nền tảng phương pháp luận duy vật

CHƯƠNG THỨ NHẤT

biện chứng và duy vật lịch sử mác xít – lê nin nít. Cụ thể là:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỞ HỮU
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG

- Hệ thống hoá những quan điểm chủ trương của Đảng trước và sau đổi mới về

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

vấn đề sở hữu và về các thành phần kinh tế.
- Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp phân tích kinh tế (cả về định tính và
định lượng), chú trọng việc nghiên cứu thực tế ở một số địa phương và doanh nghiệp
thuộc các hình thức sở hữu khác nhau, thực hiện việc điều tra thực tế, phỏng vấn, toạ

1.1.

THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI

đàm bàn tròn với các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách và các chủ sở hữu

(đại diện chủ sở hữu). Việc sử dụng các phương pháp này cho phép có được những tư
liệu sơ cấp xác thực để đưa ra được các kết luận có sức thuyết phục.
4. KẾT CẤU BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung báo cáo
đề tài được chia thành ba chương:

HỌC THUYẾT MÁC XÍT - LÊ NIN NÍT VỀ VẤN ĐỀ SỞ HỮU – SỰ KẾ
Khác với các nhà tư tưởng cùng thời, C. Mác đã đi sâu nghiên cứu vấn đề sở

hữu gắn với việc nghiên cứu các hình thái kinh tế - xã hội chứ không nghiên cứu khái
niệm sở hữu một cách chung chung trừu tượng. C Mác đã phân biệt rõ ràng hai khái
niệm “chiếm hữu” và “sở hữu”. Trong các tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước” và “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác cho rằng, “chiếm hữu” là
hành vi tất yếu, tự nhiên của con người để tồn tại. Khi “chiếm hữu” là mối quan hệ

Chương thứ nhất: Những vấn đề lý luận cơ bản về sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương thứ hai: Thực trạng vấn đề sở hữu, thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam.

mang tính chất tự nhiên, như việc người ta chiếm lấy không khí, ánh sáng hoặc những
sản vật của rừng nguyên sinh…, thì đó là mối quan hệ của con người với tự nhiên, là
quan hệ tất yếu, vính viễn trong tất cả các giai đoạn lịch sử phát triển xã hội. Hành
động “chiếm hữu” đó không phải là “sở hữu”. Khi nghiên cứu xã hội nguyên thủy, C.
Mác đã chỉ rõ: “Nói một cách đúng đắn, có những gia đình, bộ tộc chỉ mới chiếm hữu

Chương thứ ba: Quan điểm, phương hướng và giải pháp phát triển các hình

chứ chưa có sở hữu”1. Do đó, xét trên góc độ lịch sử, “chiếm hữu” xuất hiện trước sở


thức sở hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp trong quá trình xây

hữu”. Hành động dùng ngôn ngữ đánh dấu những tư liệu dùng để thỏa mãn những

dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

nhu cầu của mình chính là sự thể hiện ban đầu của quan hệ “sở hữu”. Khi “chiếm
hữu” mang tính chất xã hội, nghĩa là thể hiện mối quan hệ giữa con người với con
người về đối tượng của sự “chiếm hữu”, thì đó là quan hệ “sở hữu”.
Theo C. Mác, phương pháp luận nghiên cứu khái niệm “sở hữu” phải đi từ việc
phân tích nền sản xuất xã hội. Chỉ có dựa vào việc nghiên cứu các điều kiện vật chất
của đời sống xã hội, mới có thể đưa ra được định nghĩa đúng đắn về sở hữu và vị trí,
vai trò của nó trong hệ thống các quan hệ xã hội nói chung.
Sản xuất xã hội là quá trình tạo ra của cải vật chất cần thiết để đáp ứng nhu cầu
của con người. Để tiến hành sản xuất, người lao động cần thiết phải có công cụ lao
1

C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 12, trang 879.

10

11

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************


động và đối tượng lao động, phải có những người chủ sở hữu những tư liệu sản xuất

tạo ra bởi chính quá trình sản xuất. Sản xuất tạo ra của cải vật chất đồng thời cũng tạo

đó, dù là sở hữu của cá nhân hay của cộng đồng. Trong quá trình này đã xuất hiện

ra những phương thức chiếm hữu nhất định những của cải vật chất đó. Hình thức

những mối quan hệ giữa con người và con người. Theo C. Mác, việc chiếm hữu của

chiếm hữu đó, dưới những hình thức lịch sử nhất định chính là sở hữu.

cải vật chất là kết quả của quá trình sản xuất xã hội trước hết được thể hiện qua việc
chiếm hữu tư liệu sản xuất. Từ đó, mối quan hệ giữa con người với nhau được hình
thành do sự chiếm hữu tư liệu sản xuất. Đến lượt mình, mối quan hệ đó được thể hiện
dưới hình thức của các mối quan hệ sở hữu. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, ông
đã chỉ ra rằng: những hình thức sở hữu là những mối quan hệ nhất định giữa con
người trong quá trình sản xuất. Ông cũng khẳng định: bản thân vật thể không thể là sở
hữu, sở hữu chỉ có thể tồn tại nơi mà con người nằm trong những mối quan hệ nhất

Trên cơ sở nghiên cứu phân biệt sở hữu với chiếm hữu những sản vật của tự
nhiên, C. Mác đã đi đến những nhận định sau đây về sở hữu:
- Sở hữu là một quan hệ xã hội mang tính lịch sử cụ thể. Trong tác phẩm “Sự
khốn cùng của triết học”, C. Mác đã viết: “Trong các thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã
phát triển một cách khác nhau và trong một loạt quan hệ xã hội hoàn toàn khác
nhau”1.
- Sở hữu là quan hệ sản xuất chứ không phải quan hệ ý chí. Nhận định này

định với nhau trong quá trình sản xuất và chiếm hữu những vật thể đó.

C. Mác là người đầu tiên đứng trên quan điểm duy vật biện chứng để phân tích
xã hội và sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã tìm ra quy luật khách quan về sự
phát triển của xã hội loài người. C. Mác khẳng định, sự phát triển của các lực lượng
sản xuất quyết định bước chuyển khách quan và tự nhiên từ hình thái kinh tế - xã hội
này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Tất cả mọi xung đột trong lịch sử, suy đến
cùng, đều có gốc rễ từ mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất và các quan hệ sản xuất

được C. Mác thể hiện rõ trong tác phẩm “Bàn về Prudon”. Cơ sở của sở hữu là mối
quan hệ qua lại của con người với tư liệu sản xuất. Phương thức chiếm hữu tư liệu sản
xuất quy định phương thức chiếm hữu các sản phẩm được sản xuất ra. Hơn nữa, quan
hệ kinh tế của sự chiếm hữu những vật phẩm dùng cho sản xuất và phi sản xuất cũng
không tồn tại bên ngoài các giai đoạn tái sản xuất xã hội, mà lại tạo ra nội dung hiện
thực của các giai đoạn ấy.

xã hội. C. Mác đã phát hiện ra quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình

- Sở hữu là quan hệ mang tính pháp lý. Trong tác phẩm “Quốc hữu hóa ruộng

độ phát triển lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ nhất định

đất”, C. Mác đã nhận định rằng, trong tiến trình lịch sử, những kẻ chiếm đoạt đều

thì mâu thuẫn với quan hệ sản xuất cũ đã lạc hậu và trở thành lực cản kìm hãm sự

nhận thấy cần phải thông qua luật pháp do chính họ đặt ra để đem lại tính ổn định về

phát triển lực lượng sản xuất; việc xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy

mặt xã hội (một sự thừa nhận nào đó) cho cái quyền nguyên thủy nảy sinh từ sức


phát triển lực lượng sản xuất là yêu cầu khách quan.

mạnh thô bạo.

Từ những điều nêu trên, có thể thấy rằng C. Mác đã xác định sở hữu thể hiện

C. Mác và Ph. Ănghen nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở

mối quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất xã hội thông qua việc

giai đoạn tự do cạnh tranh. C. Mác cho rằng, sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời trên cơ

chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, tức là các của cải vật chất của xã

sở hai điều kiện tiền đề: 1/ Phải có những người lao động được tự do về thân thể,

hội. Theo ông, sở hữu là sự chiếm hữu các sản phẩm tự nhiên nhưng phải trong điều

đồng thời bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, bắt buộc phải bán sức lao động để kiếm

kiện một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, trong điều kiện cụ thể của quá trình sản

sống; 2/ Phải tập trung được số lượng lớn tiền của vào tay một số ít người để lập ra

xuất vật chất. Điều đó có nghĩa, con người nhờ có hoạt động thực tiễn đã cải tạo và

các công xưởng lớn. Tích lũy nguyên thủy tư bản chủ nghĩa đã tạo ra hai điều kiện

biến đổi các đối tượng của thế giới bên ngoài, biến chúng thành những vật có ích


tiền đề này bằng cách dùng bạo lực tước đoạt tư liệu sản xuất của hàng loạt những

nhằm thỏa mãn những nhu cầu của cá nhân và nhu cầu của sản xuất. Theo C. Mác,

người sản xuất hàng hóa nhỏ, đặc biệt là nông dân, biến họ thành những người vô sản,

khác với việc chiếm hữu các sản vật tự nhiên, việc chiếm hữu của cải vật chất được
1

12

C. Mác, Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 4, trang 234.

13


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

đồng thời với việc xâm chiếm và bóc lột thuộc địa. Bằng lý luận về giá trị thặng dư,

chính trị, từ cuộc cách mạng đầu tiên đến cuộc cách mạng cuối cùng, đều được tiến

C. Mác đã lý giải rõ quy luật vận động cơ bản của xã hội tư bản, phân tích sâu sắc mối


hành để bảo hộ chế độ sản xuất thuộc một loại nào đó”1.

quan hệ giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê, bóc trần thực chất bóc lột của
giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Theo C. Mác, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, người
lao động làm thuê bị bần cùng hóa tuyệt đối và tương đối. Ông cũng vạch rõ mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Từ
đó, C. Mác vạch rõ đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, “tước
đoạt lại những kẻ đi tước đoạt”, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất là cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản bị bóc lột và và giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư, bảo đảm quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất. Hiểu rộng ra, điều này còn có nghĩa, quan hệ sở hữu
không phải là điều “nhất thành bất biến”, mà luôn có sự vận động biến đổi. Căn
nguyên của sự vận động biến đổi này là sự phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi phải
có quan hệ sản xuất, trong đó có quan hệ sở hữu, phù hợp.

Phân tích quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa trong thời đại mình, C. Mác đã nêu
những đặc trưng của quan hệ sở hữu này, thừa nhận những đóng góp to lớn của nó với
sự phát triển của xã hội loài người, chỉ ra những hạn chế, những mâu thuẫn nội tại mà
tự bản thân nó không thể khắc phục được. Ông chỉ ra rằng, đến giai đoạn nào đó của
sự phát triển, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư bản chủ nghĩa, toàn bộ xã hội
tư sản sẽ bất lực trước sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. “Lực lượng sản
xuất hiện đại sẽ nổi dậy chống những quan hệ sản xuất hiện tại, chống những quan hệ
sở hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư sản”2. Những mâu
thuẫn nội tại này của chế độ tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa sẽ tất yếu dẫn đến sự phủ định bản thân nó. C. Mác gọi đây là sự phủ định
cái phủ định. Bởi lẽ trước đó, chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã hoàn thành sự phủ
định đối với chế độ sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân dựa trên lao động của bản
thân người lao động. Ông viết: “Phương thức chiếm hữu tư bản chủ nghĩa xuất phát từ


Trong các nghiên cứu của mình, C. Mác coi vấn đề sở hữu giữ vị trí cực kỳ

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, và do đó cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,

quan trọng cả về mặt kinh tế và mặt chính trị. Về mặt kinh tế, vấn đề sở hữu có quan

đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản

hệ mật thiết với quá trình sản xuất của cải vật chất. Sở hữu chính là mối quan hệ xã

thân. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính

hội tồn tại một cách khách quan giữa người với người trong quá trình lao động sản

tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này

xuất. Đó chính là quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao

không khôi phục lại chế độ tư hữu cá nhân, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân

đổi và tiêu dùng những của cải xã hội. Nhờ có mối quan hệ khách quan này, con

trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hợp tác và sự

người có thể tiến hành được quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, và nhờ

chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động

có quá trình sản xuất này mà xã hội loài người có thể tồn tại và phát triển. C. Mác


làm ra”3. Việc xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa được coi là một tất

viết: “Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả, thì ở đó cũng không có một nền

yếu khách quan. C. Mác nhấn mạnh rằng, giải quyết vấn đề sở hữu phải nhằm tạo

sản xuất nào cả. Do đó cũng không có một xã hội nào cả”1. Về mặt chính trị, C. Mác

điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy toàn bộ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng

cho rằng, giai cấp nào nắm được quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, thì giai

sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn, bảo đảm cho việc cung cấp đầy đủ sản phẩm thỏa

cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất, nắm quyền phân phối sản phẩm xã hội;

mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Song quá trình

giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị vật chất, thì giai cấp đó

xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không phải là quá trình phủ định sạch

cũng nắm quyền chi phối mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị

trơn mọi quan hệ sở hữu, mà là quá trình xóa bỏ sự đối lập gay gắt giữa hai cực “Tư

trong xã hội. Ông viết: “Tất cả các cuộc cách mạng gọi là những cuộc cách mạng
1
2
1


C. Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, tập 46, trang 43.

3

C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 21, trang 173.
C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 4, trang 604.
C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 23, trang 1.059 – 1.060.

14

15

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

bản” và “Lao động”. “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm

nói đến “công ty cổ phần của nhà tư bản tập thể” và “công ty cổ phần trực tiếp mang

hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm

hình thức xã hội, đối lập với tư bản tư nhân”1. Ông cũng cho rằng: “Xí nghiệp cổ phần

hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”1. C. Mác khẳng định, giải quyết vấn đề


tư bản chủ nghĩa, cũng như các nhà máy hợp tác, đều phải được coi là những hình thái

sở hữu với hai nội dung: xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và xây dựng

quá độ từ phương thức tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể”2. Ở đây,

chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, phải dựa trên những điều

Ph. Ănghen không gọi là “phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa”, bởi lẽ trong thời

kiện hiện thực và là kết quả của hoạt động hiện thực trên cơ sở tôn trọng các quy luật

kỳ đó ở Anh, Mỹ và nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành nhiều doanh nghiệp

khách quan. Ông viết: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả

tập thể của những người lao động.

những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn cho phát triển, vẫn chưa
phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện
trước những điều kiện vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản
thân xã hội cũ”2. Điều kiện vật chất đó, trong thời đại của C. Mác, chính là sự phát
triển của công nghiệp. “Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất và tổng quát
nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội. Việc cải tạo này là kết quả tất yếu của sự
phát triển của công nghiệp”3.
C. Mác cũng đã đề cập các hình thức quá độ trong quá trình thực hiện “sự phủ
định của phủ định” đó. C. Mác coi các hợp tác xã lao động cũng như các công ty cổ
phần đều là những hình thức quá độ dẫn đến việc chuyển tư bản thành sở hữu của
những người sản xuất, không phải với tư cách sở hữu tư nhân của những người sản


Trên đây là khái quát một số tư tưởng cơ bản của C. Mác và Ph. Ănghen về
vấn đề sở hữu. Những tư tưởng này bao hàm các khía cạnh: bản chất của sở hữu; nội
dung của sở hữu; vai trò của sở hữu; mối quan hệ giữa sở hữu như nội dung cơ bản
của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất; sự vận động của sở hữu trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội; các hình thức biểu hiện của sở hữu…
Khi nghiên cứu những tư tưởng cơ bản này, cần chú ý một số điểm có tính chất
lịch sử sau đây:
- Thời đại của C. Mác và Ph. Ănghen là thời đại chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh. Đó là thời đại cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra sức mạnh to lớn vượt bậc
so với thời đại của phương thức sản xuất phong kiến.

xuất riêng lẻ, mà với tư cách sở hữu tư nhân của những người sản xuất liên hiệp,

- Lấy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là đối tượng nghiên cứu và, từ đó,

thành sở hữu xã hội trực tiếp. Xuất phát từ nghiên cứu các hợp tác xã được hình thành

phác họa những ý tưởng cơ bản về phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa –

trong lòng xã hội tư bản, ông đã lập luận rằng, trong điều kiện tự do cạnh tranh,

phương thức ở nấc thang phát triển cao hơn về chất và đối lập hoàn toàn với phương

những người sản xuất nhỏ yếu thế lực về kinh tế phải hợp sức, hợp vốn với nhau dưới

thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

hình thức hợp tác xã không phải vì lợi nhuận, mà là sự hỗ trợ nhau để có thể tồn tại


- Giả thiết nghiên cứu là xã hội có hai giai cấp đối lập nhau: giai cấp tư sản

bên cạnh các nhà tư bản lớn. Đó là dạng thức thực hiện xã hội hóa tư liệu sản xuất,

nắm giữ tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư; giai cấp vô sản bị tước đoạt tư liệu

thực hiện tích tụ, tập trung hóa sản xuất và làm sâu sắc phân công lao động xã hội.

sản xuất và bị bóc lột thặng dư.

Một dạng thức khác cũng được phát triển trong thời đại của C. Mác và Ph. Ănghen là
các công ty cổ phần. Đó là loại hình doanh nghiệp đa chủ sở hữu. Các chủ sở hữu có
thể chỉ là các nhà tư bản, có thể gồm các nhà tư bản lớn và các chủ sở hữu tư nhân
nhỏ, có thể gồm cả những người lao động trong doanh nghiệp. Ph. Ănghen đã từng
1
2
3

C. Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, trang 615, 618.
C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 13, trang 15 – 16.
C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 4, trang 467.

16

- Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vạch trần nguồn gốc bọc
lột giá trị thặng dư của các nhà tư bản. Từ đó, khẳng định đấu tranh giai cấp là cách
thức giải phóng triệt để giai cấp vô sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là xóa
bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa…
1
2


C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 25, trang 667.
C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 25, trang 763.

17


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

Kế thừa và phát triển lý luận của C. Mác và Ph. Ănghen trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn độc quyền và đặc biệt là trong điều kiện lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, V. I. Lê
nin đã chỉ rõ hàng loạt luận điểm trọng yếu về sở hữu.
Trước hết, đó là những tư tưởng cơ bản về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Phân tích của V. I. Lê nin về đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa đã làm rõ hơn bản chất của chủ nghĩa tư bản, về sự quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản. Lý luận của V. I. Lê nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển bao gồm một số luận điểm
cơ bản sau đây:

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

xã hội chủ nghĩa sẽ giữ địa vị thống trị và chi phối khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Không phải chỉ nêu ra những luận điểm lý thuyết, mà V. I. Lê nin còn là người
trực tiếp chỉ đạo thực hiện các luận điểm lý thuyết đó trong điều kiện thực tiễn xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau nội chiến.
Trong cuộc nội chiến (1918 – 1920), V. I. Lê nin đã chỉ đạo áp dụng Chính
sách Cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của chính sách này là trưng thu lương thực
thừa của nông dân sau khi giành cho họ khẩu phần tối thiểu, xóa bỏ quan hệ hàng hóa
– tiền tệ, thực hiện chế độ cung cấp bằng hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước.
Chính sách này đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chính quyền Xô viết trong

- Luận điểm về việc giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên quyết để xây
dựng tiền đề kinh tế cho chủ nghĩa xã hội.
- Luận điểm về thời kỳ quá độ “với một loạt những bước quá độ”.
- Luận điểm về tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Bước nhảy vọt này có thể thực hiện được khi bảo đảm được những điều kiện: về
khách quan, có một nước giành được thắng lợi trong cách mạng vô sản, tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội; về chủ quan, phải giành được chính quyền, xây dựng tổ chức
nhà nước mà bản chất là xô viết của những người lao động.
V. I. Lê nin cũng chỉ rõ đặc điểm kinh tế xuyên suốt và bao trùm của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Trong thời kỳ
quá độ, nền kinh tế có tính chất quá độ: không còn là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,
nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Người giải thích: “Danh
từ quá độ nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện
nay có cả những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn

cuộc chiến chống thù trong giặc ngoài. Khi chuyển sang giai đoạn mới của cách
mạng, Chính sách Cộng sản thời chiến không còn thích hợp nữa, thậm chí còn trở
thành lực cản với sự phát triển, vì đã làm triệt tiêu động lực của những người sản xuất.
Chính sách Kinh tế mới (NEP) được V. I. Lê nin đưa ra để thay thế Chính sách Cộng
sản thời chiến.
Chính sách Kinh tế mới bao gồm nhiều nội dung khác nhau, trong đó có chủ
trương sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế quá độ như
khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công, khuyến

khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, chấn chỉnh lại các
doanh nghiệp nhà nước, chuyển mạnh sang hạch toán kinh tế. Đồng thời, V. I. Lê nin
cũng chủ trương đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây để tranh
thủ kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm quản lý.
V. I. Lê nin đã chỉ ra những thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước
Nga bao gồm:

chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng phải thừa nhận là có. Song không phải mỗi

“1/ Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là phần lớn có tính chất tự nhiên;

người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã

2/ Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì);

hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại
1

chính là ở chỗ đó” . Những thành phần, những bộ phận, những mảnh đó hợp thành hệ
thống kinh tế quốc dân thống nhất và có quan hệ tương tác với nhau. Bộ phận kinh tế
1

3/ Chủ nghĩa tư bản tư nhân;
4/ Chủ nghĩa tư bản nhà nước;

V. I. Lê nin, Toàn tập, tập 36, trang 362.

18

19


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

5/ Chủ nghĩa xã hội”1.

phát triển phù hợp với điều kiện của thời đại. Chính V. I. Lê nin là tấm gương về điều

Các thành phần (các bộ phận, các mảnh) cấu thành nền kinh tế là hoàn toàn

này khi phát triển các nguyên lý của C. Mác và Ph. Ănghen phù hợp với điều kiện của

phù hợp với điều kiện không chỉ với nước Nga trong giai đoạn đầy khó khăn cản trở,
mà còn với các nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp kém. Trong điều kiện đó,

chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn độc quyền và trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Nga qua những nội dung của Chính sách Kinh tế mới.

việc quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ quan duy ý chí, mà phải trài

Trong khi khẳng định tính đúng đắn và giá trị thực tiễn to lớn của những tư

qua nhiều chặng đường phát triển khác nhau, mà V. I. Lê nin gọi là phải trải qua “một

tưởng cơ bản trong học thuyết mác xít – lê nin nít về sở hữu, cũng cần thấy rằng thời


loạt bước quá độ”. Việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần đồng nghĩa với

đại ngày nay đã có những thay đổi lớn lao so với thời đại của C. Mác, Ph. Ănghen và

việc thừa nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau và sự phát triển đan xen giữa các

V. I. Lê nin. Nhận thức rõ những thay đổi ấy là một trong những yếu tố mang tính

hình thức sở hữu ấy dưới sự chỉ đạo, điều tiết và định hướng của Nhà nước xã hội chủ

chất tiền đề để vận dụng đúng đắn các nguyên lý mác xít – lê nin nít về sở hữu vào

nghĩa để hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc phát triển nền kinh tế

cuộc sống, làm cơ sở giải quyết có hiệu quả các vấn đề cuộc sống đặt ra.

nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu cùng với việc mở rộng hợp tác kinh tế với
nước ngoài nêu trong Chính sách Kinh tế mới là cách thức huy động các nguồn lực
cả trong và ngoài nước phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy
V. I. Lê nin không nói ra một cách trực tiếp, nhưng nội dung Chính sách Kinh tế mới
rõ ràng là biểu hiện của việc vận dụng sáng tạo quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện cụ thể của nước
Nga. Nội dung của Chính sách Kinh tế mới cũng thể hiện rõ tư tưởng phát triển kinh
tế thị trường và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Đáng tiếc là, những tư tưởng của V. I. Lê nin về thời kỳ quá độ, về phát triển
kinh tế nhiều thành phần, về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu và về phát triển
nền kinh tế thị trường đã không được những người kế tục sau này kế thừa và phát
triển, mà lại đưa nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo của nền kinh tế chỉ huy.
Học thuyết mác xít – lê nin nít là nền tảng tư tưởng và phương pháp luận cho


Đó là một số yếu tố cơ bản sau đây:
- Chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh lớn lao nhằm bảo đảm thích ứng
với điều kiện phát triển mới. Những điều chỉnh này không phải chỉ là sự phát triển lực
lượng sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, mà còn cả ở nhiều
nội dung liên quan đến quan hệ sản xuất. Về quan hệ sở hữu, hình thức sở hữu hỗn
hợp được hình thành từ sự liên kết các chủ sở hữu tư bản tư nhân riêng lẻ dưới những
hình thức khác nhau, chủ yếu là công ty cổ phần, trở thành xu hướng được phát triển
ngày càng mạnh mẽ. Đồng thời, việc “hữu sản hóa người lao động” cũng trở nên ngày
càng phổ biến. Với các cách thức này, các doanh nghiệp tư bản vừa huy động thêm
vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh
tranh, vừa làm dịu bớt mâu thuẫn giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất
với chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn chủ - thợ trong một doanh
nghiệp. Về quan hệ tổ chức quản lý, các nhà tư bản đã đi đầu trong việc đổi mới tổ

chính đảng của giai cấp công nhân, là cơ sở khoa học để hoạch định đường lối đấu

chức quản lý quá trình sản xuất với việc ứng dụng các phương pháp quản lý hiện đại

tranh giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song việc vận dụng các

nhằm tăng năng suất lao động, giảm chi phí kinh doanh và tăng khả năng cạnh tranh

nguyên lý về vấn đề sở hữu đòi hỏi phải tính đến những điều kiện lịch sử xã hội cụ

trên thị trường. Về quan hệ phân phối, các chế độ phúc lợi xã hội được cả nhà tư bản

thể. Sự cứng nhắc giáo điều chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại. Chính C. Mác đã từng chỉ

– chủ sở hữu và Nhà nước tư bản quan tâm hơn nhằm tạo sự gắn bó của người lao


rõ, học thuyết mang tên ông “không phải là một giáo điều, mà là sự vận động”. Điều

động với doanh nghiệp và giảm những bất bình xã hội.

đó có nghĩa, các nguyên lý của chủ nghĩa mác – lê nin phải được vận dụng một cách
sáng tạo phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể và cũng phải được nghiên cứu
1

Đồng thời với việc điều chỉnh ở phạm vi vi mô, chủ nghĩa tư bản đã có những
điều chỉnh ở tầm vĩ mô qua việc tìm tòi và ứng dụng các mô hình kinh tế khác nhau.
Mô hình kinh tế thị trường xã hội và Nhà nước phúc lợi thể hiện sự chú trọng hơn của

V. I. Lê nin, Toàn tập, tập 36, trang 363.

20

21


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

Nhà nước tới các vấn đề xã hội. Trong những năm gần đây, người ta đề cập nhiều đến


liên kết kinh tế quốc tế. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu tạo

cái gọi là “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsability –

điều kiện cho mỗi quốc gia phát huy được lợi thế và cũng đặt ra những thách thức hết

CSR)”. Theo đó, các chủ sở hữu không phải chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân

sức gay gắt. Để tranh thủ cơ hội và vượt qua thách thức, ngoài sự nỗ lực chủ quan của

mình, mà còn có trách nhiệm phát triển xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái nữa.
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã làm biến đổi sâu sắc đời
sống kinh tế - xã hội của các quốc gia. Nếu thời đại của C. Mác và của V. I. Lê nin là
thời đại của cách mạng công nghiệp, thì thời đại ngày nay khoa học công nghệ đã
thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trình độ công nghệ và tốc độ đổi mới
công nghệ trở thành nhân tố quyết định sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh trên
thị trường không những của từng doanh nghiệp mà cả của quốc gia. Do đó, đầu tư
phát triển khoa học công nghệ được các doanh nghiệp và các chính phủ hết sức quan

mỗi chính phủ và mỗi doanh nghiệp, còn cần phải chủ động tham gia vào các quan hệ
liên kết kinh tế quốc tế dưới những hình thức khác nhau. Từ đó, sở hữu mang tính
quốc tế trong nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng ngày càng phát triển và đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Các luật chơi chung mang tính chất
toàn cầu đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những điều chỉnh hệ thống luật pháp phù hợp
với thông lệ quốc tế. Trong sự phát triển kinh tế quốc tế, các tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia (TNC), với những tiềm lực to lớn về tài chính và khoa học công nghệ, có ảnh
hưởng ngày càng lớn.
Trong những điều kiện đó, không chỉ Chính phủ, mà mỗi doanh nghiệp cũng

tâm. Trong thời đại ngày nay, thời đại chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền

kinh tế tri thức, sở hữu trí tuệ được đánh giá giữ vị trí còn quan trọng hơn là sở hữu về

cần phải có tầm nhìn toàn cầu trong việc đưa ra các quyết định của mình.

vốn tài chính và tài nguyên. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng được coi trọng.
Không còn sự phân định rạch ròi ranh giới của một số yếu tố cấu thành quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất do sự phát triển có tính chất giao thoa giữa chúng. Chẳng
hạn, tổ chức quản lý quá trình sản xuất không thuần túy chỉ là một bộ phận cấu thành
quan hệ sản xuất, mà còn là một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất, nó
là chất kết dính giữa các yếu tố vật chất và yếu tố con người trong lực lượng sản xuất,
chi phối trực tiếp tính hiệu quả của quá trình sản xuất. Khoa học công nghệ cũng làm
thay đổi vai trò của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Con
người dẫu vẫn là yếu tố quyết định của quá trình sản xuất, nhưng lao động quản lý,
chỉ đạo ở cả tầm vĩ mô và vi mô ngày càng giữ vị trí quan trọng hơn so với lao động
trực tiếp sản xuất.

- Sự sụp đổ của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Sự sụp đổ của Liên xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu không phải là sự sụp đổ của lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa, mà là sự sụp đổ của một mô hình kinh tế và chính trị cứng nhắc, không
thích ứng với điều kiện thời đại, của những sai lầm về quan điểm và cơ chế chính
sách. Từ sự sụp đổ ấy đòi hỏi phải nhìn nhận lại hàng loạt vấn đề của hệ thống xã hội
chủ nghĩa trước đây, trong đó có các vấn đề liên quan đến mô hình kinh tế kế hoạch
hóa tập trung và xác lập sự độc tôn của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong
thời đại ngày nay, mô hình kinh tế chỉ huy theo kiểu kế hoạch hóa tập trung chỉ phát
huy vai trò trong những điều kiện hết sức giới hạn, chủ yếu là điều kiện chiến tranh.
Việc duy trì mô hình này trong điều kiện hòa bình xây dựng, phát triển kinh tế được
coi là nhiệm vụ trọng tâm, đã làm triệt tiêu động lực và trở thành yếu tố cản trở sự

Những sự thay đổi trên đây thúc đẩy các quốc gia và các doanh nghiệp hết sức


phát triển kinh tế và nâng cao mức sống của nhân dân. Gắn liền với mô hình kinh tế

quan tâm đến sự phát triển lực lượng sản xuất, đổi mới công nghệ và áp dụng công

kế hoạch hóa tập trung ấy là nhận thức cứng nhắc và giáo điều về nền kinh tế xã hội

nghệ mới, đổi mới tổ chức quản lý sản xuất.

chủ nghĩa, không nhận thức đầy đủ tính chất phức tạp và lâu dài của thời kỳ quá độ

- Toàn cầu hóa kinh tế trở thành xu thế khách quan. Việc xây dựng nền kinh tế
mở là yêu cầu tất yếu của các quốc gia, nền kinh tế của mỗi quốc gia trở thành một bộ
phận của kinh tế toàn cầu và phát triển trong quan hệ tương hỗ với các nền kinh tế
khác. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vừa thúc đẩy cạnh tranh, vừa thúc đẩy

lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai
hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể nhanh chóng được thiết lập là biểu hiện
trực tiếp của việc không nhận thức đúng đắn quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.

22

23

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************


************************************************************************

Từ thực tiễn đó, việc nhận thức và vận dụng đúng đắn các nguyên lý của chủ

Trong tác phẩm Bí ẩn của vốn, Hernaldo de Soto, nhà kinh tế học người Peru,

nghĩa mác – lê nin về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã,

đã lý giải nguồn gốc của vốn (tư bản), vạch ra những trở ngại với quá trình chuyển

đang và sẽ được đặt ra một cách nghiêm túc. Sở hữu, thành phần kinh tế trong thời kỳ

hóa các nguồn lực phát triển, từ chỗ chỉ mang hình thái tự nhiên thành nguồn lực kinh

quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong các vấn đề trọng yếu. Mọi tư tưởng và hành

tế và mang lại sức mạnh cho nền kinh tế, tạo cơ sở cho sự giàu có.

động chủ quan duy ý chí mượn danh chủ nghĩa mác – lê nin, cũng như chủ nghĩa giáo

Hộp 1.1. Làm sao để chuyển tài sản thành vốn

điều trong xử lý các vấn đề phát sinh đều chắc chắn sẽ thất bại.
1.2.

“Bí ẩn của vốn. Đây là điều bí ẩn then chốt và là điều quan trọng nhất của cuốn
sách này. Vốn là một chủ đề làm mê hoặc các nhà tư tưởng suốt trong ba thế kỷ qua.

BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG CỦA SỞ HỮU NHÌN TỪ CÁC GÓC ĐỘ


C. Mác nói rằng cần phải vượt ra ngoài yếu tố vật chất để chạm vào ‘con gà đẻ trứng

KINH TẾ VÀ PHÁP LÝ

vàng’. Adam Smith cảm thấy phải tạo ra ‘một loại toa xe goòng xuyên qua không

Trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp và đã hình thành Nhà nước, sở

khí’ để có được đúng con gà mái đó. Nhưng không ai chúng ta biết rõ con gà được

hữu được sử dụng như một khái niệm pháp lý dùng để chỉ các quan hệ tài sản. Đồng

giấu ở đâu. Vốn là cái gì, nó được tạo ra như thế nào và nó có quan hệ ra sao với

thời, sở hữu cũng là một phạm trù kinh tế dùng để chỉ quan hệ giữa người với người

tiền”1. Hernaldo de Soto tóm tắt chìa khóa để giải mã điều bí ẩn này như sau:

trong tổ chức sản xuất xã hội. Chủ thể sở hữu là người (hoặc cộng đồng người) có

- Tập trung vào tiềm năng kinh tế của tài sản: vốn sẽ được sinh ra trong một cơ

quyền chiếm hữu và định đoạt một (hoặc những) đối tượng cụ thể. Nếu trước đây, đối

chế theo đó người sở hữu được phép tách nguồn lực khỏi giới hạn vật chất của nó và

tượng sở hữu chỉ bao gồm các thực thể vật chất (đất đai, máy móc thiết bị, nguyên

tập trung nhiều hơn vào tiềm năng sinh lời.


nhiên vật liệu, sức lao động, tư bản…), thì ngày nay, đối tượng ấy được mở rộng ra cả

- Hợp nhất thông tin phân tán thành một hệ thống: Lý do các nền kinh tế thị

những yếu tố phi vật chất (sở hữu trí tuệ, thương hiệu…) và những yếu tố này ngày

trường hoạt động hiệu quả ở các nước phát triển và không hiệu quả ở các nước đang

càng chiếm vị trí quan trọng trong toàn bộ các đối tượng sở hữu. Giới hạn nghiên cứu

phát triển là đa số tài sản ở các nước giàu đều đã được hợp nhất vào một hệ thống

vào các tư liệu sản xuất, thì những loại tư liệu sản xuất hiện hữu lại được chia thành

đặc trưng chính thức.

hai loại: một số đang được sử dụng trong quá trình tái sản xuất và, do đó, có khả năng

- Làm cho mọi người có trách nhiệm: làm cho người sở hữu và có thu nhập từ tài

sinh lợi cho chủ sở hữu; có loại chưa được sử dụng trong quá trình tái sản xuất và, do

sản phải có trách nhiệm tạo ra cảm giác an toàn và đảm bảo cho các nhà đầu tư.

đó, chỉ là “tiềm năng” trong việc mang lại lợi ích cho chủ sở hữu. Việc xác định chủ

- Sử dụng tài sản cho nhiều mục đích: chuyển đổi tài sản trong điều kiện khó tiếp

thể sở hữu với những yếu tố đang được sử dụng có thể rất phức tạp vì nảy sinh sự


cận sang điều kiện dễ tiếp cận hơn.

tranh chấp của các chủ sở hữu (với mong muốn mở rộng phạm vi và quy mô sở hữu

- Nối kết người dân: làm cho tài sản dễ chuyển đổi mục đích, thực thi quyền sở

để từ đó tăng lợi ích kinh tế). Nhưng việc xác định chủ thể sở hữu của các loại chưa

hữu và làm cho thông tin dễ tiếp cận hơn; khi đó tài sản sẽ di chuyển một cách tự do

được sử dụng vào quá trình tái sản xuất còn phức tạp hơn nhiều. Song trong mọi

giữa người dân.

trường hợp, việc xác định rõ ràng chủ sở hữu, xóa bỏ tình trạng “vô chủ”, gắn liền với

- Bảo vệ các giao dịch: thông qua luật pháp, bằng khoán, hợp đồng, v.v. bằng

xác định rõ quyền sở hữu là một trong các điều kiện tối quan trọng để huy động các

cách tập trung vào sự an toàn của các giao dịch, các nước giàu cho phép công dân di

yếu tố “tiềm tàng” vào quá trình sinh lợi. Giải quyết vấn đề này có liên quan đến việc

chuyển một lượng lớn tài sản với số lượng giao dịch rất ít.

phân định chế độ sở hữu và hình thức sở hữu, đến sự tách rời giữa quyền sở hữu và
quyền sử dụng những đối tượng nhất định.
1


24

Hernaldo de Soto: Bí ẩn của vốn. NXB Chính trị quốc gia, 2006, trang 12.

25


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

Sở hữu có thể được tiếp cận ở những góc độ kinh tế, chính trị, luật pháp, triết

tạo ra từ các yếu tố đó. Bởi lẽ, chính giá trị gia tăng ấy là cái bảo đảm lợi ích về mặt

học…Trong các góc độ tiếp cận đó, tiếp cận trên góc độ kinh tế và góc độ pháp lý là

kinh tế các yếu tố mà họ sở hữu, là cái tạo ra và củng cố địa vị của họ trong đời sống

các góc độ tiếp cận phổ biến nhất và, trong chừng mực nhất định, có tính chất bao

kinh tế - xã hội. Để đạt được yêu cầu này, các chủ sở hữu hết sức quan tâm đến hợp lý
hóa việc tổ chức và quản lý quá trình sản xuất, không ngừng đổi mới công nghệ và

trùm nhiều góc độ tiếp cận khác.
Nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Có thể coi nội dung kinh tế là hình thái hiện thực của sở hữu, còn nội dung pháp lý là

kích thích sự sáng tạo của người lao động trong quá trình sản xuất - kinh doanh.
Nội dung pháp lý của sở hữu thể hiện những quy định luật pháp về quyền hạn,
quyền lợi và trách nhiệm của chủ sở hữu. Điều này cũng có nghĩa, sở hữu luôn là một

“cái vỏ bọc bên ngoài” của sở hữu.
Nội dung kinh tế của sở hữu thể hiện ở chỗ nó là cơ sở, là điều kiện của sản
1

xuất . Nói đến sở hữu là nói đến quan hệ với các điều kiện (các yếu tố) của sản xuất,
đồng thời cũng là nói đến quan hệ chiếm hữu các điều kiện sản xuất và kết quả sản
xuất. Do vậy, nội dung kinh tế của sở hữu cũng còn biểu hiện ở những lợi ích kinh tế,
quyền lợi kinh tế mà chủ sở hữu được hưởng từ những cái mà họ sở hữu. Chính lợi
ích và quyền lợi này là động lực thúc đẩy các chủ thể luôn tìm cách gia tăng phạm vi
và quy mô sở hữu của mình. Nói cách khác, sở hữu trở thành phương tiện trọng yếu
để đạt tới những mục tiêu về kinh tế của các chủ thể. Sự thay đổi tương quan về phạm
vi và quy mô các đối tượng sở hữu của các chủ thể (nhóm chủ thể) sẽ dẫn đến sự thay
đổi tương quan về vị trí của các chủ thể (nhóm chủ thể) trong đời sống kinh tế - xã
hội. Bất luận trong xã hội nào, mỗi chủ thể riêng biệt đều là một bộ phận của cả xã hội
và có mối quan hệ tương hỗ với các chủ thể khác. Mỗi chủ thể, do vậy, không chỉ
quan tâm đến lợi ích của riêng mình, mà còn phải quan tâm đến lợi ích của cả cộng
đồng và phải ý thức rằng lợi ích của mình chỉ có thể được bảo đảm bền vững khi đặt
trong lợi ích chung. Với tinh thần đó, nội dung kinh tế của sở hữu cũng hàm cả ý
nghĩa mỗi chủ thể phải xác định rõ trách nhiệm trong việc góp phần bảo đảm lợi ích
chung của cộng đồng và cộng đồng có trách nhiệm bảo đảm lợi ích hợp lý cho từng
chủ thể sở hữu riêng biệt. Song trong thực tế, việc không tuân thủ nguyên lý này đã
làm nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn giữa các chủ thể khác nhau mà việc giải quyết
chúng hoàn toàn không đơn giản.
Về mặt kinh tế, các chủ sở hữu không chỉ quan tâm đến quy mô và thành phần

các yếu tố thuộc quyền sở hữu của mình, mà còn quan tâm đến giá trị gia tăng được

trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong quản lý nhà nước với đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia bất luận ở trình độ phát triển nào. Trong khi thừa nhận tính
giai cấp của Nhà nước, thì Nhà nước luôn phải bảo vệ lợi ích cho giai cấp mà nó đại
diện. Nhà nước quy định trong luật pháp các chế độ và các hình thức sở hữu, Nhà
nước thường luôn hướng tới bảo vệ lợi ích về sở hữu của giai cấp cầm quyền, đồng
thời cũng phải biết tạo điều kiện và kích thích các chủ sở hữu khác phát huy khả năng
trong việc phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội trên cơ sở bảo đảm lợi ích hợp lý của
các chủ sở hữu này. Hành động của Nhà nước luôn mang tính chủ quan, nhưng sự chủ
quan này tuyệt nhiên không phải đồng nghĩa với sự tùy tiện, duy ý chí, mà luôn phải
tính đến những điều kiện và những yêu cầu phát triển trong những giai đoạn nhất
định, đặc biệt là phải tuân thủ những quy luật khách quan của sự phát triển mang tính
tự nhiên của các chế độ và các hình thức sở hữu. Thực tế lịch sử nhiều nước đã chỉ ra
rằng sự áp đặt, can thiệp thô bạo của Nhà nước và sự nôn nóng của Nhà nước trong
việc đưa ra những quyết định không phù hợp với quy luật khách quan đã không
những không thúc đẩy, mà thậm chí còn kéo lùi quá trình tiến hóa kinh tế, gây nên
những hệ lụy cả về chính trị và xã hội. Nhà nước luôn luôn muốn tăng cường sức
mạnh của mình (nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của mình). Việc tăng cường
ấy có thể được thực hiện bằng việc tăng cường sức mạnh kinh tế của chính Nhà nước
qua mở rộng phạm vi và quy mô sở hữu do Nhà nước nắm giữ, nhưng cũng có thể
được thực hiện bằng việc Nhà nước chỉ nắm giữ những khâu trọng yếu nhất và sử
dụng quyền lực của mình hướng các chủ thể sở hữu khác phục vụ cho mục tiêu chung
của toàn xã hội. Điều quan trọng không phải là Nhà nước ra quyết định gì, mà là các
quyết định của Nhà nước có tác động thuận/nghịch (đẩy/cản) như thế nào với tiến
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1

Xem: C. Mác và F. Anghen, toàn tập, tập 12, trang 860


26

27

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

Trên góc độ nghiên cứu, có thể tách bạch nội dung kinh tế và nội dung pháp lý

************************************************************************

hết sức rõ ràng, minh bạch và cụ thể. Đó là một trong các nội dung của quản lý nhà

của vấn đề sở hữu. Song trong đời sống thực tế, sở hữu luôn là sự thống nhất hữu cơ

nước về kinh tế. Trong quy định hình thức sở hữu, mỗi đối tượng cụ thể phải có chủ

giữa nội dung kinh tế và nội dung pháp lý. Nội dung kinh tế được bảo đảm bằng hệ

thể sở hữu rõ ràng, không thể để xảy ra tình trạng “vô chủ”; pháp luật phải quy định

thống luật pháp của Nhà nước; nội dung pháp lý thể hiện ở việc Nhà nước phải xác

quyền và nghĩa vụ cụ thể với chủ sở hữu ấy. Trong các quy định luật pháp với các

định rõ phạm vi các chế độ và các hình thức sở hữu, tạo lập khuôn khổ pháp lỹ rõ


hình thức sở hữu, quy định về quyền sở hữu có vị trí đặc biệt quan trọng.

ràng và ổn định để huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực bảo đảm lợi ích của
chủ sở hữu và góp phần vào lợi ích chung của cả xã hội, xác định rõ quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể sở hữu. Việc xác lập quan hệ pháp lý của sở hữu phụ thuộc vào
nhận thức và ý chí của người quyết định quan hệ ấy (rộng ra là vào Nhà nước và giai
cấp cầm quyền). Song về nguyên tắc, không phải quan hệ pháp lý (nội dung pháp lý
của sở hữu) quyết định sự tồn tại và tính chất của quan hệ sở hữu (nội dung kinh tế
của sở hữu), mà ngược lại, chính sự những quy luật và tính quy luật khách quan của
sự phát triển các quan hệ sở hữu đòi hỏi phải có các quan hệ pháp lý thích hợp. Nội

Có nhiều cách tiếp cận xác định quyền sở hữu. Xem xét một cách tổng quát,
nội dung của quyền sở hữu bao gồm ba loại quyền cơ bản: quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản
thuộc sở hữu của mình. Thông thường, quyền chiếm hữu được thực hiện bởi chủ sở
hữu. Nhưng người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu tài sản trong
trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao hay do pháp luật quy định.

dung kinh tế của sở hữu (đối tượng sở hữu, chủ thể sở hữu, phạm vi và quy mô của sở

Quyền sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi,

hữu, quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể sở hữu, mối tương quan giữa các chủ thể

lợi tức từ tài sản (hoa lợi là sản vật do tự nhiên mang lại; lợi tức là các khoản lợi thu

sở hữu…) luôn luôn vận động và biến đổi do sự phát triển của lực lượng sản xuất,

được từ khai thác tài sản). Người không phải chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài


trước hết là của khoa học và công nghệ, và do cả các yếu tố chính trị - xã hội khác. Do

sản trong trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng thông qua hợp

vậy, việc hoàn thiện, bổ sung và phát triển các hình thức và nội dung pháp lý để thực

đồng hoặc do luật pháp quy định.

hiện nội dung kinh tế của sở hữu cho phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất và
các yêu cầu, các điều kiện phát triển cụ thể là một đòi hỏi khách quan.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế học mác xít, sở hữu thể hiện sự chiếm hữu của
những chủ thể xác định với tài sản (hiện hữu và tiềm tàng; vật chất và phi vật chất),

Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình
cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Các hình thức thông thường thể hiện
quyền này là bán, trao đổi, tặng, cho vay, cho thừa kế…Chủ sở hữu tự mình hoặc ủy
quyền cho người khác định đoạt tài sản của mình.

qua đó và trên cơ sở đó thể hiện quan hệ giữa con người với con người trong quá trình

Nguyên tắc chung trong việc thực hiện quyền sở hữu là: chủ sở hữu được thực

tái sản xuất. Nội dung cốt lõi của sở hữu là quan hệ chiếm hữu nhằm thu được (hoặc

hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại

kỳ vọng thu được) những lợi ích (kinh tế và phi kinh tế) nhất định với những nghĩa vụ

hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích


nhất định được quy định bằng hệ thống luật pháp của Nhà nước.

hợp pháp của người khác. Trong ba quyền cơ bản đó, có một điều đáng chú ý là các

Cả trên góc độ kinh tế và góc độ pháp lý, việc xác định chế độ sở hữu và hình

chủ sở hữu có thể trực tiếp thực hiện quyền của mình hoặc giao cho (ủy quyền cho)

thức sở hữu đều liên quan đến việc xác định quyền (trong đó có quyền lợi) và nghĩa

chủ thể khác thực hiện nếu có thể đem lại lợi ích cao hơn. Nguyên lý này được vận

vụ (trách nhiệm) của các chủ thể sở hữu với các đối tượng mà họ sở hữu. Nếu với chế

dụng trong thực tế dưới nhiều hình thức khác nhau:

độ sở hữu, các điều này (quyền và nghĩa vụ) chỉ có thể quy định ở những đường nét

- Doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, Nhà nước có thể không trực

tổng quan, thì với các hình thức sở hữu, điều này đòi hỏi phải được xác định một cách

tiếp quản lý, sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, mà giao khoán cho một

28

29



Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

người hoặc nhóm người quản lý điều hành, hai bên thỏa thuận thống nhất quyền lợi và
trách nhiệm của mỗi bên trong việc quản lý, sử dụng tài sản ấy.
- Trong các công ty cổ phần, người sở hữu cổ phần (cổ đông) không thực hiện
trực tiếp quyền sở hữu của mình với phần vốn góp, mà ủy quyền cho người đại diện
trong bộ máy quản trị và điều hành công ty thực hiện quyền sở hữu của mình, chủ sở
hữu hưởng lợi và chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp.
- Trong quản trị doanh nghiệp hiện đại, việc thuê giám đốc điều hành trở nên
ngày càng phổ biến. Đó chính là việc ủy thác thực hiện quyền sở hữu cho chủ thể
khác trên cơ sở quy định quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng giữa các bên hữu quan.
Trong điều kiện này, giám đốc điều hành đã trở thành một nghề.
1.3.

CÁC CHẾ ĐỘ SỞ HỮU VÀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG NỀN

Trên góc độ luật pháp, việc quy định chế độ sở hữu và hình thức sở hữu có liên
quan trực tiếp đến việc xác định các quan hệ sở hữu cơ bản của một quốc gia và
những biểu hiện cụ thể của các quan hệ sở hữu đó. Đến lượt mình, điều đó lại là cơ sở
để quy định về mặt luật pháp về: đối tượng sở hữu; chủ thể sở hữu; các nội dung cụ
thể của quyền sở hữu (gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài
sản) của chủ sở hữu; việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu; bảo vệ quyền sở hữu. Đó
là những điều mà Hiếp pháp và Bộ Luật Dân sự của quốc gia nào cũng phải quy định.
Về mặt kinh tế, những quy định luật pháp về chế độ và hình thức sở hữu đó sẽ tạo lập

cơ sở pháp lý trực tiếp cho các giao dịch kinh tế, cho tổ chức các loại hình doanh
nghiệp và xác định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
1.3.1. CÁC CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Khá nhiều người cho rằng “Khi quan hệ sở hữu được thể chế hóa về mặt pháp

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

lý bằng hệ thống pháp luật thì trở thành chế độ sở hữu”1, hoặc “Chế độ sở hữu là sự

Trong các ấn phẩm kinh tế cũng như trong cuộc sống thường ngày, kể cả trong

thể hiện về mặt pháp lý của hình thức sở hữu. Hình thức sở hữu mang tính hiện thực,

các văn kiện của Đảng và Nhà nước, trong các giáo trình kinh tế, các thuật ngữ liên
quan đến sở hữu, như quan hệ sở hữu, chế độ sở hữu, hình thức sở hữu, loại hình sở

nó đang tồn tại một cách khách quan ở một xã hội nào đó, khi nó được pháp chế hóa
thì đó là chế độ sở hữu…”2. Cũng có ý kiến cho rằng “Tùy từng khung cảnh cụ thể, có

hữu, kiểu sở hữu,…thường được sử dụng khá tùy tiện, đôi khi lẫn lộn với nhau. Chính

lúc người ta nói chế độ, có lúc người ta nói hình thức”3. Ngay trong các văn kiện

sự tùy tiện đó lại dẫn đến những tranh luận dường như không có hồi kết, mỗi người

chính thức của Đảng và Nhà nước, cũng còn có sự không nhất quán trong việc sử

đều có lập luận riêng của mình. Sự thống nhất các thuật ngữ có liên quan đến sở hữu

dụng các thuật ngữ này. Trong khi Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) dùng


trở thành một yêu cầu cần thiết của bản thân các môn khoa học và của cuộc sống.

thuật ngữ “các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư

Trong mục này, chúng tôi chỉ xin tập trung đề cập thuật ngữ chế độ sở hữu và
hình thức sở hữu. Trong thực tế, đây là hai khái niệm thường bị lẫn lộn nhiều nhất.

nhân…”, thì Văn kiện Đại hội X (2006) và Hiến pháp năm 1992 lại sử dụng thuật ngữ
“chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,…”.

Cũng xin nói thêm rằng, tuy đã được sử dụng trong các văn kiện của Đảng, trong

Như trên đã trình bày, nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu có quan

Hiến pháp và Bộ Luật dân sự, nhưng vẫn có ý kiến phân vân trong việc sử dụng thuật

hệ hữu cơ với nhau và chứa đựng lẫn nhau. Nội dung pháp lý thể hiện sự công nhận

ngữ “chế độ sở hữu” vì e rằng có sự lẫn lộn với thuật ngữ “chế độ xã hội, hoặc chế độ

về mặt luật pháp với sở hữu, trong đó hàm chứa các quy định về quyền lợi (gồm cả

chính trị”. Thật ra, “chế độ” là một thuật ngữ chung dùng để chỉ “1. Hệ thống tổ chức
chính trị, kinh tế.v.v…của xã hội; 2. Toàn bộ nói chung những điều quy định cần tuân

1
Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản, 2000,
trang 149. Từ điển “Petit Larousse Illustré 1992” cũng giải thích: “1. Mode de fonctionnement d’une
organisation politique, sociale, économique, d’un Etat; 2. Ensemble des dispositions légales qui


régissent un objet particulier…”, page 829 (1. Cách thức vận hành của một tổ chức chính trị, xã hội,
kinh tế, của một Nhà nước; 2. Tập hợp các cách sắp đặt hợp pháp điều khiển một đối tượng đặc
thù…”, trang 829).
1
PGS. TS. Nguyễn Văn Thạo và TS. Nguyễn Hữu Đạt (chủ biên): Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta
hiện nay”. NXB Chính trị quốc gia, 2004, trang 38.
2
Tổng thuật các ý kiến phát biểu tại cuộc tọa đàm về “Vấn đề sở hữu kinh tế” do Đề tài KX.04.01/0610 tổ chức ngày 20/3/2008.
3
Tài liệu tổng thuật đã dẫn.

30

31

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

theo trong một việc nào đó”1.

************************************************************************

************************************************************************

quyền được Nhà nước bảo vệ sở hữu hợp pháp) và nghĩa vụ của các chủ sở hữu với

nghĩa với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất giữ địa vị thống trị. Tuy nhiên, với một


các đối tượng sở hữu của họ. Theo đó, coi “sự thể hiện về mặt pháp lý” là cơ sở để

chế độ xã hội đang trong thời kỳ quá độ từ phương thức sản xuất này sang thương

phân định chế độ sở hữu và hình thức sở hữu là điều không rõ ràng và, do đó, không

thức sản xuất khác ở trình độ cao hơn, các yếu tố của phương thức sản xuất cũ vẫn

có tính thuyết phục. Dẫu ở chế độ xã hội nào, chủ sở hữu cũng mong muốn và đòi hỏi

đang tồn tại và được sử dụng (góp phần vào sự phát triển chung), các yếu tố của

Nhà nước phải thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu chính đáng của mình; đồng thời,

phương thức sản xuất mới đang trong quá trình hình thành và phát triển, thì chưa hẳn

với thẩm quyền của mình, Nhà nước có trách nhiệm công nhận (chứng thực) quyền sở

đã có quan hệ sản xuất, trong đó có quan hệ sở hữu, nào giữ địa vị thống trị, chi phối

hữu chính đáng của chủ sở hữu, quy định rõ ràng và minh bạch các quyền và nghĩa vụ

hoặc dẫn dắt các quan hệ sản xuất và quan hệ sở hữu khác. Lúc này, tính năng động
và quyền lực của quản lý nhà nước sẽ đóng vai trò chi phối, điều tiết và dẫn dắt quá

của các chủ sở hữu.
Thật ra, cả chế độ sở hữu và hình thức sở hữu đều là những khái niệm luật
pháp. Chế độ sở hữu là khái niệm mang tính tổng quát chỉ sở hữu ở khía cạnh bản
chất nhất. Còn hình thức sở hữu là khái niệm chỉ sở hữu ở khía cạnh cụ thể, là những
biểu hiện cụ thể của sở hữu trong đời sống hàng ngày. Một chế độ sở hữu có thể có

nhiều hình thức sở hữu. Nếu chế độ sở hữu được coi như một phạm trù ổn định tương
đối, thì hình thức sở hữu lại được coi như một phạm trù lịch sử, có sự biến đổi theo
điều kiện lịch sử cụ thể. Ở chế độ xã hội nào, trong giai đoạn phát triển nào cũng có
những chế độ sở hữu nhất định, nhưng những hình thức biểu hiện cụ thể của mỗi chế
độ sở hữu lại có thể có sự thay đổi và chuyển hóa.
Trong quá trình thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình, Nhà nước không
phải chỉ xác định rõ ràng các chế độ sở hữu và các hình thức biểu hiện của các chế độ
sở hữu ấy, các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, mà còn phải xác định đặc trưng, vị
trí của mỗi hình thức sở hữu, mối quan hệ tương hỗ giữa các hình thức sở hữu, các
hình thức tổ chức kinh tế để chủ sở hữu thực thi quyền và trách nhiệm của mình, từ đó
có các chính sách thích hợp huy động được các nguồn lực cho phát triển toàn bộ xã
hội.
Theo học thuyết mác xít về hình thái kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất, trong
đó chủ yếu là quan hệ sở hữu, là tiêu chuẩn khách quan và quan trọng nhất để phân
biệt sự khác nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội. Với một chế độ xã hội đã được
định hình và đang tồn tại, điều đó là hoàn toàn đúng đắn. Chẳng hạn, đặc trưng của
chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ tư hữu
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị; đặc trưng của chế độ xã
hội xã hội chủ nghĩa ở trình độ phát triển chín muồi sẽ là quan hệ sản xuất xã hội chủ

32

trình phát triển nhưng trong khuôn khổ tôn trọng và hành động theo đúng các quy luật
khách quan. Nếu không nhận thức một cách đầy đủ đặc trưng của giai đoạn này, sẽ
dẫn đến lạm dụng quyền lực và tạo ra các áp lực kinh tế và chính trị một cách chủ
quan duy ý chí đến các quá trình kinh tế, áp đặt trạng thái ở trình độ phát triển chín
muồi (ở trạng thái hướng đích mong muốn chủ quan) cho các giai đoạn của quá trình
hướng tới trạng thái đó. Hệ quả tất yếu của hành động chủ quan duy ý chí này là có
thể đạt được kết quả mong muốn về hình thức ở mức độ nhất định trong khoảng thời
gian ngắn ngủi, nhưng kết quả đó sẽ hết sức mong manh và không bền vững do cách

thức đạt được mang tính khiên cưỡng. Điều quan trọng hơn là sẽ gây nên những lãng
phí to lớn về các nguồn lực và chính kết quả mong manh ấy lại trở thành lực cản cho
các bước phát triển.
Thừa nhận chế độ sở hữu là một phạm trù có sự ổn định tương đối hàm ý ở chế
độ xã hội nào, trình độ phát triển nào, về cơ bản, cũng có những chế độ sở hữu nhất
định. Điều này hoàn toàn không phủ nhận giữa các chế độ sở hữu có sự chuyển hóa:
từ chế độ sở hữu này chuyển thành chế độ sở hữu khác theo những quy luật nhất định.
Nhưng sự chuyển hóa ấy chỉ dẫn đến sự thay đổi phạm vi và quy mô của mỗi chế độ
sở hữu, chứ không làm biến mất hoàn toàn một chế độ sở hữu. Chẳng hạn, sự chuyển
hóa từ chế độ sở hữu tư nhân sang chế độ sở hữu công cộng với sự tự nguyện hoặc bị
ép buộc của chủ sở hữu chỉ làm cho phạm vi và quy mô của sở hữu tư nhân thu hẹp
lại chứ không thể làm biến mất hoàn toàn chế độ sở hữu tư nhân. Những hành động
nóng vội xóa bỏ hoàn toàn chế độ sở hữu này, hình thức sở hữu kia xuất phát từ tư
duy chủ quan duy ý chí chắc chắn sẽ gây nên những tổn thất cả về vật chất và tinh
thần cho quá trình phát triển.

33


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

Theo quan niệm cứng nhắc về chủ nghĩa xã hội và nhận thức không đầy đủ về

bằng các mệnh lệnh của Nhà nước. Thực tế lịch sử đã chỉ rõ, sự thành công của mô


tính chất lâu dài, phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong những năm

hình kinh tế kinh tế chỉ huy chỉ có được trong những điều kiện rất giới hạn (chiến

trước đây các nước xã hội chủ nghĩa đã thực hiện các hình thức khác nhau nhằm

tranh hoặc các tình huống khẩn cấp của nền kinh tế), còn trong điều kiện bình thường,

nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, nhưng kinh tế tư nhân vẫn tồn

mô hình kinh tế này không thể mang lại kết quả mong muốn. Trong các nền kinh tế

tại. Đến khi thực hiện công cuộc cải cách kinh tế với những hình thức và lộ trình khác

đương đại, kiểu kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là kiểu phổ biến nhất, ở

nhau để chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang phát triển nền kinh tế

đó có sự kết hợp giữa điều tiết của thị trường (“bàn tay vô hình”) và sự can thiệp của

thị trường, sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển mạnh mẽ.

Nhà nước (“bàn tay hữu hình”). Qúa trình phát triển của kinh tế thị trường cũng là quá

Hộp 1.2: Sức sống của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân

trình vận động và phát triển của các chế độ và các hình thức sở hữu.

Các đợt quốc hữu hóa, tập thể hóa và tịch thu hầu như đã hoàn toàn tiêu diệt


Thời gian qua, giới khoa học đã mất khá nhiều thời gian cho việc tranh luận:

khu vực tư nhân, khởi xướng tư nhân, sở hữu tư nhân. Thế mà chỉ cần nới lỏng một

trong nền kinh tế thị trường có bao nhiêu chế độ sở hữu? sở hữu nhà nước, sở hữu

vài trói buộc, ngay lập tức các hoạt động tư lại xuất hiện như nấm sau mưa. Chỉ cần

chung, sở hữu công cộng, sở hữu xã hội có những điểm gì tương đồng và khác

làm ngơ cho qua việc nhiều người không tuân thủ theo đúng chữ của các quy định

biệt?...Những tranh luận đó có ý nghĩa nhất định về mặt học thuật, song cũng không

cấm đoán khác nhau là tất cả các hoạt động mà người ta thường liệt kê vào khu vực

nên quá rạch ròi, chi ly dẫn đến phức tạp hóa trong tranh luận khoa học mà lại ít có

kinh tế thứ hai đã lan rộng hàng loạt.

giá trị chỉ dẫn thực tế.

Bằng chứng quan trọng nhất của sức sống khu vực tư nhân chính là sự lan
rộng tự phát này. Ngược lại, phải tiến hành tổ chức một cách nhân tạo, từ trên
xuống, đối với các tổ chức của khu vực nhà nước và sự chỉ đạo chúng, điều phối
chúng bằng các biện pháp tập trung. Còn khu vực tư nhân thì tự nó lớn lên, từ dưới
mà không cần các chỉ thị nào của trung ương cả. Chẳng cần phải động viên, thuyết
phục hay chỉ thị cho các đơn vị của khu vực tư nhân rằng chúng phải cư xử theo cơ
chế thị trường, bởi vì đó chính là dạng thức sinh tồn của chúng (ngược lại, với các


Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, tuy trải qua nhiều phương thức sản
xuất khác nhau, nhưng chỉ có hai chế độ sở hữu cơ bản là chế độ sở hữu tư nhân (còn
gọi là chế độ tư hữu) và chế độ sở hữu công cộng (còn gọi là chế độ công hữu) về tư
liệu sản xuất. Đó là hai cực của một hệ thống có sự phân biệt ranh giới rõ ràng cả về
chủ thể sở hữu (một bên chủ sở hữu là cá nhân và một bên chủ sở hữu là cộng đồng
người với quy mô và phạm vi khác nhau) và về phạm vi các đối tượng sở hữu. Thông

cơ sở quốc doanh, người ta phải động viên, thậm chí chỉ thị một cách triền miên

thường, chế độ công hữu có phạm vi rộng và cơ cấu phức tạp hơn nhiều so với chế độ

rằng chúng phải ứng xử theo cơ chế thị trường, thế mà chúng vẫn chẳng thể nào

tư hữu. Trong nền kinh tế thị trường, điều này lại càng thể hiện rõ nét.

quên được.

Sở hữu công xã là chế độ sở hữu xuất hiện trong những giai đoạn nhất định của

Kornai János: Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do. NXB Tri thức, 2007, trang 29

phương thức sản xuất công xã nguyên thủy. Với lực lượng sản xuất phát triển ở trình
độ thấp kém, con người không thể chống nổi sức mạnh của tự nhiên nên phải cố kết

Trên cơ sở một số luận điểm chung đó, dưới đây sẽ đề cập một số khía cạnh về
các chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường.
Theo nghĩa tổng quát, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội,

với nhau trong lao động chung và kết quả lao động thuộc về cộng đồng công xã. Lúc

này chưa có chế độ sở hữu tư nhân và cũng chưa có sản xuất hàng hóa và nền kinh tế
hàng hóa. Với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, sở hữu tư nhân xuất hiện và

trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông

làm nảy sinh hiện tượng người bóc lột người, xã hội phân chia thành giai cấp bóc lột

qua thị trường. Đó là kiểu tổ chức kinh tế xã hội hoàn toàn trái ngược với kinh tế chỉ

và giai cấp bị bóc lột. Sở hữu tư nhân là cơ sở kinh tế của quan hệ xã hội dưới chế độ

huy, ở đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được quyết định

chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ tư hữu

34

35

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

cùng với nền kinh tế thị trường đã đạt tới sự phát triển cao. Tuy nhiên, cùng với sự

do cá nhân trong việc bảo đảm các điều kiện vật chất và tài chính để thực hiện hoạt


phát triển của chế độ tư hữu, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất vẫn tồn tại và phát

động kinh tế. Sự gắn bó trực tiếp giữa quyền sở hữu với lợi ích (kinh tế và phi kinh tế)

triển dưới những hình thức khác nhau.

sinh ra từ các đối tượng sở hữu tạo nên động lực to lớn thúc đẩy quá trình phát triển

Chế độ sở hữu tư nhân là một phạm trù được sử dụng rộng rãi ở cả các nước xã
hội chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là sở hữu của cá nhân được đầu tư và
sử dụng trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế. Về đối tượng sở hữu, các học giả
Trung Quốc phân định ra sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, về sức lao động và về kết
quả sản xuất1. Nhưng lâu nay, cả ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, chế độ sở
hữu tư nhân thường chỉ được giới hạn trong yếu tố tư liệu sản xuất dưới hình thức
hiện vật hoặc tiền vốn dùng trong kinh doanh. Ngày nay, với sự phát triển của khoa
học công nghệ, đặc biệt là với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, đối tượng sở hữu
được mở rộng ra cả các yếu tố phi vật chất, như các sáng chế, phát minh, thương
hiệu…Sở hữu trí tuệ ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế.
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời của chế độ tư hữu là sự phủ nhận chế độ công hữu
công xã nguyên thủy và gắn liền với sự phát triển sản xuất hàng hóa. V. I. Lê nin viết:
“Cơ sở của chế độ tư hữu là sự chuyên môn hóa vừa mới chớm nở của lao động xã
hội và việc đem bán sản phẩm ra thị trường. Chẳng hạn, chừng nào mà tất cả các
thành viên của công xã nguyên thủy của những người Indian còn cùng nhau chế tạo ra
tất cả các sản phẩm mà họ cần dùng, thì chừng đó vẫn chưa thể có chế độ tư hữu
được. Nhưng khi mà sự phân công bắt đầu xâm nhập vào công xã và mỗi thành viên
bắt đầu sản xuất riêng rẽ một sản phẩm nào đó để đem bán ra thị trường, thì sự tách

kinh tế và bảo đảm hiệu quả của quá trình phát triển ấy. Tuy nhiên, ưu thế đó của sở
hữu tư nhân không phải là tuyệt đối. Khi quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, tình

trạng cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, kinh doanh trên cơ sở sở hữu tư
nhân sẽ bộc lộ hàng loạt những yếu thế trong việc nghiên cứu và ứng dụng những
thành tựu mới của khoa học công nghệ, nắm bắt và hiện thực hóa các cơ hội kinh
doanh, cải thiện khả năng cạnh tranh trên thị trường…Do vậy, song song với việc
phát triển các tổ chức kinh tế đơn sở hữu tư nhân, sẽ hình thành ngày càng nhiều tổ
chức kinh tế đa sở hữu trên cơ sở sự liên kết, liên doanh của các chủ sở hữu tư nhân.
Trong lý thuyết kinh tế xã hội chủ nghĩa truyền thống, chế độ sở hữu tư nhân là
cái đối lập với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, là yếu tố phi xã hội chủ nghĩa, sở
hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ là yếu tố “hàng ngày, hàng giờ
đẻ ra chủ nghĩa tư bản”. Bởi vậy, trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, Nhà nước
thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để thu hẹp và tiến tới xoá bỏ chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên ngay trong điều kiện khắc nghiệt đó, sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất và khu vực kinh tế tư nhân vẫn tồn tại và phát triển dưới
những hình thức và mức độ khác nhau: một bộ phận nhỏ tồn tại trong khuôn khổ luật
pháp nhà nước; một bộ phận tồn tại dưới hình thức kinh tế ngầm, nằm ngoài sự kiểm
soát và thống kê của Nhà nước.

rời về mặt vật chất đó giữa những người sản xuất hàng hóa được biểu hiện bằng chế

Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất cũng là phạm trù được

độ tư hữu”2. Với chế độ sở hữu tư nhân, người chủ sở hữu có quyền sử dụng, định

sử dụng rộng rãi ở các nước theo những chế độ xã hội khác nhau. Chủ sở hữu là cộng

đoạt, hưởng lợi từ các đối tượng mà họ sở hữu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về

đồng người trong những hình thức tổ chức cụ thể và với phạm vi xác định. Đó có thể

các hành vi của mình.


là cộng đồng dân cư của một quốc gia, cộng đồng làng bản hoặc dòng họ, cộng đồng

Chế độ sở hữu tư nhân về các loại tư liệu sản xuất đã tồn tại lâu đời qua các
phương thức sản xuất. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, sự tôn
trọng và tạo điều kiện phát triển sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thể hiện quyền tự
1
Đại từ điển kinh tế thị trường. Viện Nghiên cứu và phổ biến kiến thức bách khoa dịch và xuất bản,
1998, trang 107 – 108.
2
V. I. Lê nin, Toàn tập đã dẫn, tập 1, trang 182.

36

các thành viên trong một tổ chức kinh tế, một tổ chức chính trị - xã hội, một tổ chức
xã hội, tổ chức tôn giáo…Trong chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, các đối tượng sở
hữu thuộc về mọi thành viên của cộng đồng, mọi thành viên trong cộng đồng đều có
quyền và có trách nhiệm với các đối tượng sở hữu này. Đối tượng sở hữu có thể có
nguồn gốc từ tự nhiên (đất đai, sông ngòi, thềm lục địa và các tài nguyên chứa đựng
trong đó), hoặc do sự đóng góp gắn với việc chuyển quyền sở hữu từ các chủ sở hữu

37


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************


************************************************************************

tư nhân, hoặc là kết quả hoạt động chung (sản xuất, mua bán, nhượng quyền,…) của

hữu những tài sản quốc gia theo quy định bao gồm: vùng biển, vùng trời, đất đai

các thành viên trong cộng đồng, hoặc do sự quy định bằng luật pháp của Nhà

lãnh thổ, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia. Vậy với sở hữu toàn dân thì ai là chủ

nước…Các hình thức của chế độ công hữu phản ánh mức độ khác nhau về xã hội hóa

sở hữu?”. Quan điểm này cho rằng, trong thời kỳ phát triển hiện nay của nước ta, chỉ

quan hệ sở hữu. Mức độ này có thể được đánh giá theo phạm vi của cộng đồng được

nên sử dụng sở hữu nhà nước là đủ, còn sở hữu toàn dân chưa có điều kiện thực

xác định là chủ thể sở hữu. Theo đó, sở hữu toàn dân được coi là trình độ xã hội hóa

hiện.

cao nhất về tư liệu sản xuất – mọi người công dân đều được coi là chủ sở hữu và, do

- Quan điểm thứ ba cho rằng sở hữu toàn dân hoàn toàn khác sở hữu nhà nước.

đó, đều có quyền và nghĩa vụ với các tài sản chung của xã hội. Thông thường, trong

“Toàn dân và Nhà nước là hai khái niệm khác nhau về chất nên sở hữu toàn dân và


pháp luật quy định Nhà nước đại diện cho công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ

sở hữu nhà nước cũng là hai khái niệm có nội hàm và ngoại diên khác nhau, chúng
có sự thống nhất chứ không phải là đồng nhất…Nhà nước là tổ chức của một giai

đó và cơ chế kiểm soát xã hội với Nhà nước trong thực thi vai trò đại diện đó.

cấp nhưng bản thân nó không phải là giai cấp thống trị. Nó thay mặt cho nhân dân

Ở Việt Nam đến thời điểm này, trong các văn kiện chính thức của Đảng và

nhưng không phải là nhân dân. Nó quản lý xã hội nhưng không phải là xã hội. Nhà

Nhà nước, không xác định rõ ràng phạm trù sở hữu công cộng, mà xác định sở hữu

nước nhân danh toàn dân chứ không phải là toàn dân. Trong bất cứ trường hợp nào

toàn dân như một chế độ sở hữu1. Tuy vậy trong giới nghiên cứu, vẫn còn những ý

cũng không được đồng nhất hay quy Nhà nước đồng nhất với giai cấp, với nhân dân,

kiến khác nhau về phạm trù này.

với xã hội hay với toàn dân”.

Trong cuốn sách “Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh

- Quan điểm thứ tư là quan điểm trung dung giữa ba quan điểm trên. “Sở hữu

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do PGS.TS. Nguyễn Cúc và


toàn dân có chủ thể sở hữu là toàn dân, có đối tượng sở hữu là tất cả tài sản thuộc

PGS.TS. Kim Văn Chính chủ biên đã khái quát một số quan điểm phổ biến về phân

quyền sở hữu của một nước như đất đai, tài nguyên, rừng, biển…và tài sản, vốn mà

biệt sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân.

Nhà nước đầu tư trong nền kinh tế quốc dân. Không nên đồng nhất sở hữu toàn dân
với sở hữu nhà nước vì Nhà nước đại diện cho toàn dân chứ không phải Nhà nước

Hộp 1.3: Các quan điểm khác nhau về sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước

với nhân dân là một”.

- Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là hai khái niệm mặc dù có sự khác nhau về

Các tác giả của cuốn sách trên bày tỏ sự đồng tình với quan điểm thứ ba đã nêu

tên gọi nhưng thống nhất và đồng quy với nhau. “Sở hữu nhà nước về bản chất là

trên đây và nhấn mạnh hai điểm thể hiện ý nghĩa phương pháp luận của phân định sở

thuộc quyền chiếm hữu thực tế của toàn dân, còn các cơ quan và bộ máy nhà nước

hữu toàn dân với sở hữu nhà nước: 1/ Đồng nhất sở hữu toàn dân với sở hữu nhà

giống như người đại diện nhân dân để quản lý, định đoạt tài sản toàn dân”. “Cho đến


nước sẽ dẫn đến lẫn lộn trong thực hiện quyền quản lý và sử dụng của Nhà nước với

nay, ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa khác, sở hữu toàn dân chưa có

thực hiện quyền sở hữu của toàn dân; 2/ Không thấy sự thống nhất tương đối giữa sở

điều kiện lộ nguyên hình…mà còn phải thông qua hình thức sở hữu nhà nước mới

hữu toàn dân và sở hữu nhà nước sẽ không phát huy được vai trò của Nhà nước

vận động trên bề mặt đời sống kinh tế…Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành chủ sở

trong quản lý và sử dụng sở hữu toàn dân.

hữu tư liệu sản xuất của toàn dân”.

PGS.TS. Nguyễn Cúc và PGS.TS. Kim Văn Chính (chủ biên): Sở hữu nhà nước

- Quan điểm thứ hai phê phán sự đồng nhất Nhà nước với quốc gia và cho

và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

rằng có sự khác nhau giữa sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước. “Khi thành lập quốc

ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, 2006, trang 60 – 70.

gia, giai cấp thống trị thiết lập Nhà nước làm công cụ quyền lực quản lý đất nước,
thì Nhà nước là chủ thể quản lý đất nước. Vì vậy, Nhà nước đương nhiên là chủ sở
1


Xem Hiến pháp năm 1992 và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X.

38

39

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

Rõ ràng là việc phân định chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước hoàn
toàn không chỉ có ý nghĩa thuần túy về mặt học thuật, mà có ý nghĩa thực tiễn thiết
thực vì nó liên quan trực tiếp đến xác định chủ thể sở hữu với những đối tượng sở hữu
nhất định trong phạm vi một quốc gia. Dường như việc phân định rõ ràng phạm vi
cộng đồng trong một quốc gia sẽ cho phép xác định vấn đề một cách rõ ràng hơn. Đối
với mỗi quốc gia, tất cả các công dân của quốc gia đều là người chủ của quốc gia ấy
và có nghĩa vụ (trách nhiệm) bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời của quốc gia. Theo nghĩa
đó, sở hữu toàn dân tồn tại như một thực tế khách quan với mọi quốc gia. Về bản
chất, Nhà nước là đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, nhưng đại bộ phận các
Nhà nước hiện nay đều được công dân của quốc gia bầu lên một cách trực tiếp hay
gián tiếp và được coi là đại diện cho các công dân trong mỗi quốc gia thực hiện việc
quản lý điều hành đất nước. Mặc nhiên, Nhà nước cũng được coi là đại diện cho quốc
gia trong việc quản lý các tài sản chung của quốc gia. Nhà nước, do vậy, được coi là
đại diện cho sở hữu toàn dân. Nếu xem xét “cộng đồng” ở phạm vi hẹp hơn, như một
dòng tộc, một tổ chức kinh tế, một tổ chức chính trị - xã hội…, thì mỗi cộng đồng ấy
đều có những tài sản riêng thuộc sở hữu của mình như phương tiện phục vụ thực hiện
mục tiêu của “cộng đồng” ấy. Tài sản đó là của chung của cả cộng đồng và được phân

biệt một cách rõ ràng với sở hữu tư nhân, nghĩa là không một cá nhân nào có quyền
quyết định các vấn đề liên quan đến sở hữu chung đó. Loại sở hữu chung này không
phải là một chế độ sở hữu độc lập, mà chỉ là một trong các hình thức của chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất. Những nội dung này sẽ được đề cập một cách cụ thể hơn
trong phần tiếp theo.
Trong quá trình cải cách mở cửa ở Trung Quốc, việc đổi mới tư duy nhận thức
và hành động trong cải cách cơ cấu chế độ sở hữu trong khuôn khổ phát triển nền kinh
tế thị trường đặc sắc Trung Quốc được coi là một trong những yếu tố quan trọng tạo
nên những thành tựu thần kỳ trong phát triển kinh tế. Các tổng kết nhân kỷ niệm 30
năm cải cách mở cửa của Trung Quốc đều nhấn mạnh tư tưởng “kiên định củng cố và
phát triển chees độ kinh tế công hữu…đồng thời kiên trì khuyến khích, ủng hộ và dẫn
dắt kinh tế phi công hữu phát triển, hình thành cạnh tranh bình đẳng và hỗ trợ cùng

************************************************************************

thúc đẩy cục diện mới giữa các chế độ sở hữu kinh tế”1ại vừa kiên trì khuyến khích,
ủng hộ
Có ý kiến cho rằng, sự liên kết giữa hai cực, một cực là chế độ công hữu và
cực kia là chế độ tư hữu, tạo thành một “khoảng giao thoa” gọi là chế độ sở hữu hỗn
hợp. Cụ thể hơn, chế độ sở hữu này được hình thành từ sự liên kết giữa các chủ thể sở
hữu tư nhân với sở hữu nhà nước gắn với việc thành lập một tổ chức kinh doanh (một
pháp nhân kinh tế mới). Song trong thực tế, không chỉ có liên kết giữa các chủ thể của
hai chế độ sở hữu khác nhau với nhau, mà còn diễn ra giữa các chủ thể kinh tế trong
cùng một chế độ sở hữu (các chủ thể kinh tế nhà nước với nhau, các chủ thể tư nhân
với nhau). Trong tổ chức kinh doanh mới được hình thành từ liên kết kinh doanh, mỗi
chủ thể sở hữu vẫn giữ quyền sở hữu với phần tài sản đã đóng góp và chỉ chịu trách
nhiệm tương ứng với phần tài sản ấy; những người đóng góp ủy quyền sử dụng các tài
sản cho những người do họ cử ra. Về bản chất, phần tài sản và vốn mà mỗi chủ thể đã
đóng góp vẫn thuộc quyền sở hữu của từng chủ thể riêng biệt (chủ thể đại diện cho sở
hữu nhà nước hoặc chủ thể sở hữu tư nhân), khi rút ra khỏi tổ chức liên kết, hoặc khi

tổ chức liên kết bị giải thể, chủ sở hữu được hoàn trả phần tài sản đã đóng góp (hoặc
phần tải sản đã đóng góp còn lại sau khi khấu trừ phần chủ sở hữu phải chịu trách
nhiệm do tổ chức liên kết bị thua lỗ); phần tài sản và vốn tăng thêm từ sử dụng tài sản
đóng góp là sở hữu chung của các chủ thể đã đóng góp và không được phân chia cho
các chủ thể riêng biệt dưới bất kỳ hình thức nào. Bởi vậy, sẽ không có cái gọi là chế
độ sở hữu hỗn hợp được.
Ở Trung Quốc, sau Đại hội lần thứ XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc kết thúc,
các báo và tạp chí lớn của Trung Quốc đã đăng nhiều bài viết của các học giả phân
tích đường lối, chính sách về kinh tế, trong đó có những bài viết đề cập tới những
nhận thức về cải cách chế độ sở hữu.
Hộp 1.4. Nhận thức về chế độ sở hữu
trong quá trình cải cách mở cửa của Trung Quốc
Xã hội tiến bộ thường lấy giải phóng tư tưởng, thay đổi quan niệm làm chủ đạo.
Đặng Tiểu Bình từng nói: “Một Đảng, một Nhà nước, một Dân tộc nếu xuất phát từ
1
Hồ Cẩm Đào: “Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 30 năm cải cách mở cửa của Trung Quốc”. Tài liệu tham
khảo đặc biệt do Thông tấn xã Việt Nam phát hành, 3/2010, trang 24.

40

41


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************


tư tưởng cứng nhắc, mê tín thịnh hành sẽ không thể phát triển được, sức sống ngưng
trệ, đảng sẽ tan, nước sẽ mất”.

chỉnh cơ cấu chế độ công hữu quá đơn nhất, cho phép và động viên nền kinh tế phi
công hữu phát triển, giảm một cách thích đáng tỉ trọng chế độ công hữu, đặc biệt là

Nhìn lại lịch sử tiến bộ xã hội và phát triển kinh tế của Trung Quốc trong những
năm qua thì những trở ngại chủ yếu đối với sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa
chính là những quan niệm sai trái, phiến diện, giản đơn về chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản, về chế độ công hữu và tư hữu, đặc biệt là về chủ nghĩa Mác. Những
quan niệm này đến nay có chỗ đã thay đổi, có chỗ đang dần dần thay đổi, cũng có
chỗ đang thu hút sự chú ý của mọi người.
…Chuyển đổi chỉ coi trọng lực lượng sản xuất sang coi trọng phát triển lực

nền kinh tế quốc hữu. Biện pháp này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất, quốc lực tổng
hợp và đời sống nhân dân nâng cao rõ rệt, được tuyệt đại đa số cán bộ và quần
chúng nhân dân ủng hộ, trên thực chất rất gần với chủ nghĩa xã hội.
Đối với chế độ sở hữu, chuyển biến từ "Phương pháp nhị phân hẹp" sang cách
nhìn nhận bao quát hơn.
Về vấn đề sở hữu, trong suốt thời gian dài chúng ta quen dùng “phương pháp
nhị phân” công và tư để phân tích, dường như chế độ sở hữu không phải “công” thì
là “tư”. Trên thực tế, chế độ sở hữu có hình thức “lập thể” về động thái, nhận thức

lượng sản xuất.
Về vấn đề chế độ công hữu, lâu nay nhiều người hình thành tư duy coi chế độ

chế độ sở hữu còn nhiều góc độ khác nhau.

công hữu là vấn đề căn bản nhất, nội dung quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội,


Trên thực tế, trước đây quan điểm của chúng ta coi chế độ sở hữu nhà nước là

dường như có chế độ công hữu là có chủ nghĩa xã hội, chế độ công hữu càng nhiều,

hình thức cao nhất của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, là có rất nhiều thiếu sót. Xu

càng lớn tức là chủ nghĩa xã hội càng chín muồi. Đây là quan niệm sai lầm, xa rời

hướng chủ yếu của sự phát triển chế độ sở hữu đương đại là chế độ sở hữu hỗn hợp,

lực lượng sản xuất, bàn luận một cách chủ quan, duy ý chí về chế độ sở hữu và chủ

coi chế độ cổ phần là hình thức thực hiện, nó cùng dung nạp cả công hữu, tư hữu,

nghĩa xã hội.

quốc hữu, dân hữu, có ưu thế “tạp giao” nhất định.

Về mặt lý luận, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác về vấn đề sở hữu là tiêu

Hiện nay, chúng ta đang tiến hành điều chỉnh mang tính chiến lược nền kinh tế

chuẩn của lực lượng sản xuất, cho rằng tất cả chế độ sở hữu có lợi cho lực lượng sản

mang tính quốc hữu vì đã thấy được tính hạn chế của sở hữu nhà nước, vì thế đó

xuất đều là hợp lý và tiến bộ, còn tất cả chế độ sở hữu cản trở sự phát triển của lực

chính là lựa chọn hợp lý với xu hướng phát triển của xã hội.


lượng sản xuất đều là lạc hậu, thậm chí phản động. Chúng ta phải thay đổi từ chỗ
quan tâm thái quá “là công hay tư” sang quan tâm trước tiên chế độ sở hữu “là tốt
hay xấu”, tức là có lợi cho phát triển lực lượng sản xuất hay không. Điều đó mới
khoa học, có ý nghĩa thực tế và phù hợp với nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác.

Xu thế phát triển của chế độ sở hữu, phương hướng cơ bản của chế độ sở hữu là
thích nghi với yêu cầu sản xuất không ngừng của xã hội hóa. Chúng ta không chỉ
phải chú ý phát huy tác dụng của tư bản, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sở hữu,
mà còn phải chú trọng bảo vệ lợi ích của người lao động, từng bước thực hiện

Thực tiễn của Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã chứng

“người lao động có phần của mình”, “người người có phần của mình”. Vừa phải chú

minh, chế độ công hữu ít nhất có hai loại: một là, chế độ công hữu trong suốt thời kỳ

ý thực hiện quyền sở hữu, vừa phải chú ý quyền thu nhập thực tế, bởi quyền thu

dài không có lợi ích và hiệu quả; hai là, chế độ công hữu có lợi ích và hiệu quả. Như

nhập thực tế là thực hiện mục đích cuối cùng của quyền sở hữu.

vậy, có thể thấy rằng không thể đánh dấu bằng giữa chế độ công hữu và chủ nghĩa
xã hội. Có chế độ công hữu không nhất định có chủ nghĩa xã hội.
Trước khi Trung Quốc cải cách mở cửa, chế độ công hữu chiếm trên 99% nền
kinh tế quốc dân, nếu như lấy chế độ công hữu làm tiêu chuẩn thì dường như chúng

Đổng Đức Cương, giáo sư, Phó Chủ nhiệm Khoa Triết học, Trường Đảng
Trung ương: “Mười thay đổi lớn về quan niệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc”,

website của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Bắc Kinh nhật báo. Nguồn: Vietbao.vn,
ngày 15/12/2007.

ta giống chủ nghĩa xã hội hơn bây giờ. Vậy mà lúc đó nước ta lại lâm vào tình trạng
nước yếu dân nghèo. Sau khi bước vào thời kỳ cải cách, Đảng và nhà nước ta điều

42

43

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

Tóm lại, theo tính phổ quát về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường, một

thi vai trò của mình, Nhà nước sẽ quy định hệ thống luật pháp, quy định quyền và

quốc gia chỉ tồn tại hai chế độ sở hữu là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Trong

nghĩa vụ của công dân, quyền và nghĩa vụ của Nhà nước – người đại diện chủ sở hữu

mỗi chế độ sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Việc xác định các hình

– trong việc quản lý và sử dụng tài sản quốc gia. Điều này có nghĩa, Nhà nước quy


thức sở hữu trong mỗi chế độ sở hữu chủ yếu dựa vào phạm vi đối tượng sở hữu và

định hệ thống luật pháp yêu cầu và chế định mọi công dân phải tuân thủ trong quản lý

các quyền sở hữu liên quan đến các đối tượng ấy. Nói cách khác, việc xác định các

và sử dụng tài sản quốc gia, đồng thời Nhà nước cũng phải tuân thủ các quy định về

hình thức sở hữu là sự tiếp nối việc quy định về mặt pháp lý với mỗi chế độ sở hữu,

nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong quản lý, sử dụng tài sản quốc gia, xã hội

trong đó phải xác định một cách cụ thể phạm vi đối tượng sở hữu của mỗi loại chủ sở

(cộng đồng công dân) có quyền và nghĩa vụ giám sát và chế định hoạt động của Nhà

hữu, các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu với các đối tượng sở hữu ấy.

nước liên quan đến tài sản quốc gia ấy. Đó là những vấn đề mang tính nguyên tắc mà

1.3.2. CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

việc thực hiện chúng phụ thuộc vào nhiều điều kiện, trong đó có sự công tâm, minh

1.3.2.1. Các hình thức sở hữu trong chế độ công hữu về tư liệu sản xuất

bạch và trí tuệ của bộ máy Nhà nước, trách nhiệm, quyền làm chủ và cách thức bảo
đảm quyền làm chủ của công dân trong mỗi quốc gia. Trong thực tế, không phải quốc

Theo phạm vi cộng đồng chủ sở hữu, phạm vi và nguồn gốc các đối tượng sở


gia nào cũng bảo đảm được những điều kiện ấy và do đó sở hữu lẽ ra là của toàn dân

hữu, chế độ công hữu tư liệu sản xuất được phân chia thành các hình thức sở hữu sau

nhưng lại không phục vụ được lợi ích của toàn dân mà lại phục vụ cho lợi ích của một

đây:

nhóm người cầm quyền và những công dân có quyền lực chi phối bộ máy cầm quyền.
Sở hữu toàn dân

Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sở hữu toàn dân thường được đồng

Mọi quốc gia đều có những tài sản chung được xác định là đối tượng sở hữu

nhất với sở hữu xã hội chủ nghĩa và được coi là một trong hai hình thức của chế độ

của cả cộng đồng dân tộc. Do vậy, theo quan niệm rộng, sở hữu toàn dân là hình thức

công hữu xã hội chủ nghĩa. Vai trò của sở hữu toàn dân (xã hội chủ nghĩa) được đề

phổ biến ở các quốc gia theo các chế độ chính trị - xã hội khác nhau chứ không phải

cao trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội: là cơ sở bảo đảm tính định hướng xã

chỉ ở các nước theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Đối tượng sở hữu được quy định theo

hội chủ nghĩa, là cơ sở vật chất để Nhà nước xã hội chủ nghĩa điều tiết và định hướng


pháp luật với những phạm vi khác nhau tùy điều kiện cụ thể và quan niệm của mỗi

phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong quan niệm này, chưa có sự phân biệt rạch ròi

quốc gia. Nhưng dẫu với phạm vi nào và với thể chế chính trị - xã hội nào, đối tượng

sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước.

sở hữu ấy phải thể hiện độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia ấy.

Sở hữu nhà nước

Cộng đồng chủ sở hữu toàn dân được xem xét ở phạm vi quốc gia. Cụ thể, đó

Trong bất kỳ chế độ xã hội nào, Nhà nước đều có quyền và trách nhiệm quản

là cộng đồng các dân tộc của một quốc gia độc lập có chủ quyền. Hiến pháp các quốc

lý toàn diện đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Dẫu rằng Nhà nước có tính giai

gia đều quy định quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia (gồm cả

cấp, đại diện quyền lợi của giai cấp thống trị, nhưng trong điều kiện đương đại, Nhà

vùng đất, vùng trời và vùng biển). Đó là tài sản quốc gia, cũng là tài sản chung của

nước, về danh nghĩa, đều được coi là đại diện của cả cộng đồng quốc gia, được cộng

quốc gia mà mỗi người công dân, theo hiến định, đều là người chủ và đều có nghĩa


đồng quốc gia bầu ra một cách trực tiếp hay gián tiếp, được cộng đồng quốc gia giao

vụ, trách nhiệm bảo vệ tài sản chung ấy.

quyền và trách nhiệm thực hiện các chức năng quản lý đất nước. Để thực thi trách

Để thực thi quyền và nghĩa vụ của những người chủ - cộng đồng các dân tộc

nhiệm của mình, một mặt, Nhà nước nhân danh đại diện chủ sở hữu toàn dân (đại diện

của một quốc gia, luật pháp quy định Nhà nước là người đại diện cho cộng đồng các

chủ sở hữu các tài sản thuộc cả cộng đồng quốc gia) sử dụng các tài sản quốc gia; mặt

dân tộc thực thi vai trò của người chủ sở hữu với tư cách đại diện chủ sở hữu. Để thực

khác, Nhà nước tạo ra các tài sản thuộc sở hữu của mình bằng những cách khác nhau,

44

45


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************


trong đó có cả cách sử dụng tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Đó là điều có thể phân

quyền sở hữu với quyền quản lý và quyền sử dụng. Người được giao quản lý, sử dụng

định về mặt lý thuyết, nhưng trong thực tế thường khó có thể phân định một cách rạch

tài sản sẽ được hưởng một phần lợi ích sinh ra từ sử dụng tài sản, đồng thời có trách

ròi đâu là tài sản thuộc sở hữu toàn dân được Nhà nước sử dụng với tư cách đại diện

nhiệm bảo toàn và bảo đảm hiệu quả sử dụng các tài sản được giao. Các quyền lợi và

chủ sở hữu, đâu là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước. Thật ra trong những trường

trách nhiệm ấy được quy định trong các pháp luật của Nhà nước và các hợp đồng

hợp này, sự phân định rạch ròi lại là không cần thiết và có thể làm phức tạp thêm vấn

thích ứng. Chẳng hạn: Nhà nước cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước thuê có thời

đề. Điều quan trọng là phải xem xét Nhà nước sử dụng tài sản cho mục tiêu gì và sử

hạn đất đai để xây dựng nhà máy hoặc các công trình dân dụng; Nhà nước thu thuế tài

dụng chúng như thế nào. Nếu tài sản ấy được sử dụng nhằm tạo nền tảng vững chắc

nguyên với các chủ thể kinh tế được Nhà nước cho phép khai thác các loại tài nguyên

cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia (đào tạo nguồn nhân lực chất lượng


tự nhiên trong phạm vi lãnh thổ nhất định…

cao; phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại; tạo lập nền hành chính vận hành có
hiệu lực và hiệu quả; xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia…) và những yếu tố
kinh tế vừa đủ khả năng khắc phục những trục trặc của thị trường…, sẽ được coi là
hướng đi tích cực và cần được phát huy. Ngược lại, Nhà nước quá quan tâm đến việc
“làm kinh tế” thông qua sử dụng ngân sách (được hình thành từ sự đóng góp của tất
cả các lực lượng xã hội) đầu tư xây dựng lực lượng kinh tế - các doanh nghiệp nhà
nước, tạo ra những ưu đãi cho lực lượng kinh tế của mình, không quan tâm đầy đủ
đến vai trò người “nhạc trưởng” trong xã hội, thậm chí sử dụng tài sản thuộc sở hữu
toàn dân và sở hữu nhà nước để mưu lợi cá nhân hoặc lợi ích nhóm, thì lại cần được
phải có những chế tài nghiêm khắc từ chính Nhà nước và cộng đồng xã hội.

Chính phủ các nước đang phát triển, đặc biệt các nước mới giành độc lập, có
xu hướng phát triển rộng rãi các doanh nghiệp nhà nước. Có hai lý do chính giải thích
cho xu hướng này: 1/ Nỗ lực bảo đảm sự độc lập về kinh tế (mong muốn thoát khỏi
tình trạng phụ thuộc vào nước ngoài); 2/ Tạo lập lực lượng kinh tế để giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh. Song do nhiều lý do, trong đó có sự can thiệp quá
sâu của chủ sở hữu – Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp, tình trạng không rõ
ràng về trách nhiệm và quyền lợi của những người được giao quản lý doanh nghiệp
nhà nước,…các doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động không có hiệu quả. Việc
cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước được đặt ra ở tất cả các nước, kể cả các
nước tư bản chủ nghĩa và các nước chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung

Như vậy, với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân và với tư cách chủ sở hữu,

sang phát triển kinh tế thị trường. Xu hướng chung là thu hẹp sở hữu nhà nước trong

Nhà nước thực hiện quyền sở hữu với các loại tài sản thuộc cả sở hữu toàn dân và tài


khu vực doanh nghiệp, phát triển tập trung hơn vào các lĩnh vực nhằm khắc phục

sản thuộc sở hữu nhà nước. Song khi thực hiện các chức năng của quản lý Nhà nước

những “trục trặc của thị trường” và các lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế

phù hợp với các nguyên tắc thị trường, Nhà nước sẽ không trực tiếp thực hiện các

(theo quan niệm cụ thể của từng nước trong từng giai đoạn phát triển).

quyền ấy, mà thông thường giao cho các chủ thể kinh tế khác quản lý và sử dụng theo
những yêu cầu của Nhà nước. Trong trường hợp này, việc bảo đảm hiệu quả sử dụng
tài sản thuộc sở hữu toàn dân và tài sản thuộc sở hữu nhà nước đòi hỏi phải có cơ chế
quy định quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng và có một tổ chức thích hợp. Có như vậy,
mới tránh được tình trạng “Nhà nước vừa đá bóng, vừa thổi còi” và giành những ưu
đãi cho các yếu tố “của mình”, vi phạm nguyên tắc “đối xử bình đẳng”. Nhà nước
không nhất thiết phải giao tài sản thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân cho
người “của Nhà nước”, biến họ trở thành những công chức làm kinh doanh, mà cần
thực hiện nguyên tắc “giao tài sản cho chủ thể nào có thể bảo đảm sử dụng chúng một

Sở hữu tập thể
Theo quan niệm truyền thống ở các nước xã hội chủ nghĩa, sở hữu tập thể là
một hình thức của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Hình thức sở
hữu này được hình thành bằng cách người sản xuất hàng hóa nhỏ cá thể (nông dân,
thợ thủ công) tự nguyện đóng góp tài sản của mình để hình thành loại hình kinh tế tập
thể mà hình thức phổ biến nhất là các hợp tác xã. Qúa trình này còn gọi là thực hiện
“tập thể hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Do vậy, các đối tượng sở hữu từ chế độ sở
hữu tư nhân được chuyển thành sở hữu chung của tập thể.


cách có hiệu quả nhất”. Đây chính là cách thức vận dụng nguyên lý tách rời gữa

46

47

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************
Hộp 1.5: Sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa
Một hình thức của sở hữu xã hội chủ nghĩa. Sở hữu tập thể được hình thành bằng
cách xã hội hóa tư liệu sản xuất của nông dân lao động, thợ thủ công; họ tự nguyện

************************************************************************

thành viên trong tập thể đó, họ có thể ủy nhiệm việc thực hiện quyền này cho những
người được chính họ cử ra hoặc họ suy tôn là thủ lĩnh, không một cá nhân nào tự
quyền thực hiện quyền sở hữu tài sản chung của tập thể.

liên hợp thành những xí nghiệp tập thể xã hội chủ nghĩa để tiến hành kinh doanh tập

Theo phạm vi và tính chất của tập thể cộng đồng, hình thức sở hữu tập thể lại

thể. Sở hữu tập thể cũng bao gồm sở hữu của các tổ chức kinh tế liên doanh liên kết.

được chia thành các hình thức sở hữu khác nhau: sở hữu tập thể của doanh nghiệp; sở

Các tư liệu sản xuất và các tài sản khác cần thiết cho xí nghiệp để thực hiện các


hữu tập thể của cộng đồng dân cư theo dòng họ hay theo địa giới hành chính; sở hữu

nhiệm vụ đã đề ra, cũng như các sản phẩm đã thu được đều là đối tượng của sở hữu

tập thể của các tổ chức chính trị, xã hội và nghề nghiệp…

tập thể. Theo bản chất xã hội và kinh tế, sở hữu tập thể cùng loại với sở hữu toàn
dân. Cả hai hình thức đều biểu hiện tính chất xã hội của sản xuất và của chiếm hữu

Về mặt kinh tế, các hợp tác xã được hình thành từ sự đóng góp tài sản của

của cải vật chất, của quan hệ hợp tác đồng chí giữa những người lao động. Sự khác

những người nông dân hoặc thợ thủ công cá thể chỉ là một trong các loại hình tổ chức

nhau giữa chúng trước hết là ở trình độ xã hội hóa. Trình độ xã hội hóa trong sở hữu

chứa đựng hình thức sở hữu tập thể theo nghĩa rộng, không phải là hình thức duy nhất

tập thể thấp hơn sở hữu toàn dân. Cùng với sự phát triển của sản xuất tập thể, trình

và cũng không phải là hình thức điển hình nhất của sở hữu tập thể. Trong việc thực

độ xã hội hóa của sở hữu tập thể sẽ được nâng cao, sở hữu tập thể sẽ ngày càng

hiện các hoạt động kinh tế, hiệp tác tự nguyện giữa các chủ thể kinh tế cá biệt dưới

nhích gần đến sở hữu toàn dân. Phương hướng chủ yếu trong sự phát triển sở hữu


những hình thức khác nhau, trong đó có hình thức góp vốn và tài sản để hình thành

tập thể là sử dụng khả năng các hợp tác xã như là những xí nghiệp xã hội chủ nghĩa.

một tổ chức kinh tế, là yêu cầu tất yếu. Sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất ra đời trong

Trong các nước xã hội chủ nghĩa, sở hữu tập thể giữ vai trò quan trọng trong việc

điều kiện ấy. Sự hình thành này cũng được coi là một biểu hiện của xã hội hóa sở

xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội.

hữu: biến sở hữu của từng chủ thể riêng biệt thành sở hữu chung của một cộng đồng

Giải thích danh từ kinh tế. Trường Đại học Kinh tế kế hoach, 1983, trang 506 – 507

(tập thể). Và theo nghĩa đó, không chỉ những người chủ sở hữu tư nhân nhỏ (nông
dân, thợ thủ công, tiểu thương) mới có nhu cầu hiệp tác, mà tất cả các chủ thể sở hữu

Quan niệm truyền thống trên đây không thể hiện đầy đủ và toàn diện phạm trù
“tập thể” trên cả phương diện kinh tế và xã hội. Nếu coi tập thể là tập hợp những cá
thể trong một cộng đồng với những mục tiêu chung, thì hình thức sở hữu tập thể là sở

trong nền kinh tế thị trường đều có nhu cầu này.
Có hai cách xác định phạm vi đối tượng thuộc sở hữu tập thể:

hữu của một cộng đồng người có phạm vi nhỏ hơn cộng đồng dân cư một quốc gia.

Thứ nhất, chủ thể sở hữu tư nhân tham gia vào tổ chức tập thể mất quyền sở


Đó có thể là cộng đồng dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định của đất nước trong

hữu với tài sản đã đóng góp: tài sản trở thành đối tượng sở hữu chung; chủ thể sở hữu

một hình thức tổ chức nhất định (làng, bản; dòng họ…), cộng đồng các thành viên

này trở thành một thành viên đồng sở hữu với các chủ thể khác. Nói cách khác, sở

trong một tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội (doanh nghiệp, đoàn thể chính trị - xã hội,

hữu tư nhân đã được “tập thể hóa”.

các hiệp hội ngành nghề). Các đối tượng sở hữu của hình thức sở hữu này bao gồm:

Thứ hai, quyền của chủ sở hữu vẫn được bảo tồn; chủ sở hữu ủy quyền quản lý

những tài sản được hình thành từ đóng góp của các thành viên đã tự nguyện từ bỏ

và sử dụng tài sản cho một người hoặc một nhóm người mà họ bầu ra; sở hữu tập thể

quyền sở hữu của mình với những tài sản ấy; từ những kết quả sinh ra do sử dụng

sẽ chỉ được xác định với các đối tượng là kết quả hoạt động chung của cộng đồng.

những tài sản chung của cộng đồng; từ sự hỗ trợ về vật chất và tài chính của Nhà
nước; từ những tài sản hoặc tiền tệ do các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước
biếu tặng…Quyền sở hữu tài sản trong hình thức sở hữu tập thể thuộc về toàn thể các

48


Cách thứ nhất không tạo được động lực thu hút sự tham gia của các chủ thể
riêng lẻ vào tổ chức tập thể. Cách thứ hai được áp dụng phổ biến hơn vì thể hiện được
sự linh hoạt, mềm dẻo trong hoạt động của tổ chức. Đương nhiên, để bảo đảm tính ổn

49


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

định của tổ chức được thiết lập, người ta phải xây dựng một quy chế rõ ràng và chặt

những “vệ tinh” tham gia một số công việc của quá trình sản xuất ở những doanh

chẽ liên quan đến “gia nhập/rời bỏ” tổ chức của mỗi thành viên.

nghiệp lớn. Trong chừng mực nhất định, chúng có ưu thế trong tạo việc làm cho

1.3.2.2. Các hình thức sở hữu trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất

người lao động với chi phí nhỏ, đặc biệt là những lao động giản đơn với chi phí tài

Việc phân chia chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) về tư liệu sản xuất thành
các hình thức sở hữu khác nhau có thể đơn giản hơn rất nhiều so với xác định các hình
thức sở hữu của chế độ công hữu.

Với chế độ sở hữu này, chủ thể sở hữu là cá nhân, đối tượng sở hữu là tất cả
những gì không phải thuộc về hình thức sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và sở hữu
tập thể được pháp luật công nhận và bảo hộ.

chính và thời gian huấn luyện nhỏ. Tuy nhiên, ưu thế này chỉ có được khi chủ sở hữu
có năng lực quản lý điều hành và thiết lập các quan hệ ổn định với các chủ thể khác
trên thị trường.
- Hình thức sở hữu tư nhân gắn với loại hình “doanh nghiệp tư nhân”. Loại này
có thể tồn tại với những loại quy mô khác nhau, bao gồm cả quy mô nhỏ, vừa và quy
mô lớn. Quy mô kinh doanh hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực của chủ sở hữu: quy
mô sở hữu của bản thân họ và khả năng huy động các nguồn lực từ bên ngoài. Chủ sở

Ở Việt Nam hiện nay, tuy không chính thức xác định các tiêu chí cụ thể phân

hữu có thể trực tiếp thực hiện quyền sở hữu và điều hành quá trình sản xuất kinh

định các hình thức cấu thành chế độ tư hữu, nhưng sự phân chia được mặc định dựa

doanh hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện các công việc này dưới hình thức hợp

vào quy mô đối tượng sở hữu của mỗi chủ sở hữu và cách thức thực hiện quyền sở

đồng thuê quản lý điều hành. Qúa trình sản xuất kinh doanh do những người lao động

hữu gắn với loại hình tổ chức kinh doanh. Theo đó, chế độ sở hữu tư nhân có thể có

làm thuê thực hiện.

các hình thức sở hữu chủ yếu sau đây:


Ở Việt Nam hiện nay, hình thức sở hữu này được ngầm hiểu tương đồng với

- Hình thức sở hữu tư nhân gắn với loại hình tổ chức “hộ cá thể”. Loại này

hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (hình thức sở hữu tư bản tư nhân). Tuy

thường có quy mô nhỏ, chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sở hữu, đồng thời cùng

nhiên đến nay vẫn còn những vướng mắc về hình thức sở hữu này. Một số cho rằng,

trực tiếp tham gia với các thành viên trong gia đình thực hiện tất cả các khâu của quá

việc sử dụng phạm trù “hình thức sở hữu tư bản tư nhân” có thể gây nên mặc cảm

trình sản xuất kinh doanh. Hình thức này tồn tại phổ biến trong lĩnh vực sản xuất nông

hoặc e ngại về chính trị - xã hội của các chủ sở hữu có quy mô lớn, sử dụng nhiều lao

nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thương và các loại dịch vụ nhỏ, phân tán. Ưu điểm cơ

động làm thuê và khơi gợi những định kiến của xã hội với các chủ sở hữu này. Trên

bản của hình thức sở hữu này là tính cơ động trong thực hiện hoạt động kinh doanh và

thực tế, các chủ sở hữu này có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh

khả năng huy động các thành viên trong gia đình tham gia vào hoạt động ấy. Nhưng

tế - xã hội của đất nước, lợi ích hợp pháp mà họ thu được từ các tài sản được pháp


sở hữu này cũng là nét đặc trưng của nền sản xuất hàng hóa nhỏ, phân tán, kém năng

luật bảo vệ và, theo quy định của pháp luật, họ có trách nhiệm bảo đảm lợi ích của

lực cạnh tranh và tính tự phát cao.

những người lao động làm thuê. Cũng cần nói thêm là, ngay từ Đại hội Đảng lần thứ

- Hình thức sở hữu tư nhân gắn với loại hình tổ chức “hộ tiểu chủ”. Loại này

VI (1986) đã xác định kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế được hình

có quy mô vừa và nhỏ, chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sở hữu. Khác với sở hữu

thành từ hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nhưng từ đó

tư nhân quy mô nhỏ kinh doanh theo kiểu gia đình, trong hình thức sở hữu này, ngoài

đến nay, trong các thống kê chính thức của Nhà nước hoàn toàn không có dữ liệu

các thành viên gia đình, chủ sở hữu còn thuê mướn số lượng lao động nhất định thực

thống kê về bộ phận này mà được gộp chung vào kinh tế tư nhân.

hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Với quy mô sở hữu lớn hơn, nghĩa là khả năng

- Hình thức sở hữu tư nhân với những quy mô khác nhau được chủ sở hữu ủy

bảo đảm các nguồn lực sản xuất lớn hơn, hình thức sở hữu này có năng lực thị trường


quyền cho người khác thực hiện quyền sử dụng các đối tượng sở hữu của họ dưới các

cao hơn. Loại hình tổ chức này có ưu thế trên các thị trường “ngách” hoặc trở thành

hình thức khác nhau nhằm tìm kiếm lợi nhuận (tham gia công ty trách nhiệm hữu hạn,

50

51

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

mua cổ phiếu của công ty cổ phần, gửi tiền vào ngân hàng…). Chủ sở hữu được

doanh nghiệp không thể đạt được kết quả mong muốn khi các vấn đề về tổ chức quản

hưởng lợi và chịu trách nhiệm trong khuôn khổ quy mô tài sản và vốn mà họ sở hữu

lý ở phạm vi quốc gia không được thực hiện đồng bộ. Thực tế đã chỉ ra rằng, trong

trong hình thức tổ chức tương ứng.

nhiều trường hợp, chính sự trì trệ và lạc hậu trong tổ chức quản lý ở tầm vĩ mô lại trở


Phù hợp với tính chất của chế độ sở hữu tư nhân, trong tất cả các hình thức tư

thành yếu tố cản trở việc đổi mới tổ chức quản lý ở mỗi doanh nghiệp và mỗi tổ chức.

nhân, chủ sở hữu phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh và được

Hộp 1.6. Tầm quan trọng của quan hệ tổ chức quản lý ở tầm vĩ mô

hưởng lợi từ kết quả ấy tương ứng với phần sở hữu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ

Do sự tổ chức, quản lý và điều tiết các mặt chủ yếu của hoạt động sản xuất đối

với nhà nước.

với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mà tính chất quan trọng và ảnh hưởng của loại
nhân tổ này ngày một tăng lên. Những sai lầm trong tổ chức quản lý hoạt động sản

1.4.

MỐI QUAN HỆ GIỮA SỞ HỮU VỚI TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ PHÂN

xuất ở tầm vĩ mô thường dẫn đến những tổn thất kinh tế to lớn, nhưng những thành

PHỐI

công trong tổ chức quản lý, điều tiết sẽ mang lại phúc lợi và tăng trưởng to lớn về

1.4.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA SỞ HỮU VỚI TỔ CHỨC QUẢN LÝ

của cải vật chất. Chẳng hạn, các học giả phương tây cho rằng, sự suy thoái kinh tế

của các nước phương Tây trong những năm 30 của thế kỷ XX do một trong những

Quan hệ trong tổ chức quản lý là tổ hợp phức tạp các mối liên hệ và tác động

nguyên nhân quan trọng là chỉ có lý luận quản lý vi mô mà không có lý luận quản lý

qua lại của những con người trong một tập thể để thực hiện những nhiệm vụ nhất

vĩ mô. Sự xuất hiện lý luận quản lý ở tầm vĩ mô mà Keynes đưa ra có thể nói là sự

định. Bất kỳ một hoạt động chung nào có sự tham gia của nhiều người đều phải có sự

bổ sung quan trọng đối với nhân tố mang tính vận hành của lực lượng sản xuất của

phân công và hiệp tác theo những kiểu nhất định. Hoạt động tổ chức quản lý thực hiện

xã hội công nghiệp phương Tây đương thời. Sau khi xuất hiện nhu cầu điều tiết vĩ

chức năng tổ chức, điều hòa và phối hợp các hoạt động bộ phận nhằm thực hiện có

mô vận hành nền kinh tế, kinh tế phương Tây từng bước thoát khỏi tình trạng tiêu

hiệu quả mục tiêu chung. Trong lĩnh vực kinh tế, để thực hiện quá trình sản xuất

điều, bước vào thời kỳ phát triển, trình độ lực lượng sản xuất lại được nâng cao. Lý

không thể thiếu hoạt động tổ chức quản lý. Trình độ xã hội hóa sản xuất càng cao, vai

luận điều tiết vĩ mô của Keynes được gọi là “cuộc cách mạng Keynes”, bởi nó đã có


trò của hoạt động tổ chức quản lý càng quan trọng. Những điều nêu trên mới giới hạn
vào việc xem xét một quá trình sản xuất cụ thể. Mối quan hệ trong tổ chức quản lý
quá trình sản xuất còn cần được xem xét ở phạm vi rộng hơn nhiều. Đó là các quan hệ
trong tổ chức quản lý toàn bộ nền sản xuất xã hội, từ việc hình thành cơ cấu kinh tế,
phân bố lực lượng sản xuất xã hội, đến việc tổ chức, điều hòa và phối hợp hoạt động
của các chủ thể kinh tế thuộc các ngành và các thành phần kinh tế khác nhau, các
vùng lãnh thổ khác nhau trong phạm vi một quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và
xây dựng nền kinh tế mở, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất còn liên quan đến
hàng loạt vấn đề kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia. Điều này tồn tại ở tất cả các quốc
gia không phân biệt thể chế chính trị và trình độ phát triển.
Khi nói đến các quan hệ quản lý, người ta thường chỉ chú trọng đến các quan
hệ tổ chức quản lý nội bộ mỗi doanh nghiệp và mỗi tổ chức kinh tế. Điều đó đúng
nhưng chưa đủ. Bản thân việc hoàn thiện tổ chức quản lý trong mỗi tổ chức, mỗi

52

cống hiến đối với sự phát triển sản xuất ở phương Tây.
Cốc Thư Đường (chủ biên): Lý luận mới về kinh tế học xã hội chủ nghĩa. NXB
Chính trị quốc gia, 1997, trang 20 (bản dịch của Trần Khang và Lê Cự Lộc)

Trong mối quan hệ giữa quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý quá trình
sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý phụ thuộc trực tiếp vào quan hệ sở hữu. Chủ sở hữu
là người có thẩm quyền cao nhất trong việc lựa chọn và áp dụng kiểu tổ chức quản lý
có khả năng đem lại lợi ích lớn nhất cho họ. Trong trường hợp quyền sở hữu tách rời
quyền quản lý và quyền sử dụng tư liệu sản xuất, việc chủ sở hữu không trực tiếp thực
hiện quyền quản lý và sử dụng các đối tượng thuộc quyền sở hữu của mình, mà trao
các quyền đó cho người khác thực hiện, thì quyền của chủ sở hữu trong việc quyết
định các vấn đề về tổ chức quản lý có thể có giới hạn hơn. Thông thường, điều cuối
cùng và cũng là điều quan trọng nhất mà chủ sở hữu quan tâm không phải chỉ là bảo


53


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

toàn được các đối tượng sở hữu của mình cả về hiện vật và giá trị, mà còn là tăng lợi

xã hội cụ thể của mỗi giai đoạn, Nhà nước xác định mục tiêu và đường hướng chung

ích thu được từ các tài sản đó. Từ đó, tuy không trực tiếp thực hiện quyền quản lý và

về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để đạt được mục tiêu và đường hướng ấy,

sử dụng, nhưng họ thường đưa ra những ràng buộc chặt chẽ cả về pháp lý và về kinh

việc thực hiện các quan hệ tổ chức quản lý ở tầm vĩ mô của Nhà nước lại phụ thuộc

tế với người được trao quyền quản lý và sử dụng. Người được giao quyền quản lý và

vào các quan hệ sở hữu đang tồn tại:

sử dụng có quyền chủ động thực hiện các quan hệ tổ chức quản lý quá trình sản xuất,
đồng thời được hưởng lợi thỏa đáng trong việc quản lý và sử dụng tài sản thích ứng
với các điều kiện của môi trường, nhưng họ luôn phải tính đến và tuân thủ những ràng

buộc đó. Nếu ràng buộc quá khắt khe và lợi ích quá hạn chế, họ sẽ từ chối nhận sự ủy
quyền quản lý và sử dụng tài sản, hoặc họ sẽ sử dụng các “thủ thuật” để thu lợi thêm
ngoài phần có thể nhận được theo thỏa thuận. Suy đến cùng, dù trực tiếp thực hiện các
quan hệ tổ chức quản lý hay trao cho người được ủy quyền quản lý, sử dụng tài sản,
chủ sở hữu vẫn là người có quyền quyết định các quan hệ tổ chức và quản lý quá trình
sản xuất. Điều đó cũng thể hiện địa vị quyết định của người chủ sở hữu trong các
quan hệ kinh tế và trong xã hội.
Việc nghiên cứu quan hệ sở hữu với quan hệ tổ chức quản lý ở tầm vĩ mô liên
quan trực tiếp đến xác định vai trò của Nhà nước. Về nguyên tắc, việc tổ chức quản lý
và điều tiết toàn bộ nền kinh tế quốc dân là trách nhiệm và thẩm quyền của Nhà nước.
Theo đó, Nhà nước phải xuất phát từ yêu cầu và lợi ích của toàn bộ nền kinh tế, Nhà
nước cũng phải sử dụng hệ thống các công cụ để thực hiện trách nhiệm và thẩm
quyền đó.
Nếu theo quan niệm cũ về kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong đó chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể giữ vị trí thống
trị, thì quan hệ tổ chức quản lý ở tầm vĩ mô của Nhà nước được đề cao một cách tuyệt
đối. Nhà nước sử dụng các mệnh lệnh và các chỉ tiêu pháp lệnh làm công cụ chủ yếu
để tổ chức, quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế; các doanh nghiệp trở thành thể
thụ động thực hiện các nhiệm vụ pháp lệnh của Nhà nước giao cho. Còn với một nền
kinh tế tồn tại các chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu khác nhau trong khuôn khổ
phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (mô hình kinh tế hỗn
hợp), Nhà nước vẫn phải thực hiện trách nhiệm và thẩm quyền mang tính nguyên tắc
nêu trên, nhưng những quan hệ tổ chức quản lý ở tầm vĩ mô lại có sự khác biệt cơ bản
với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trên cơ sở yêu cầu và điều kiện kinh tế -

- Với sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người được giao quyền đại diện, Nhà
nước phải bảo đảm quản lý và sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phục vụ lợi ích của cả cộng đồng các dân
tộc. Cộng đồng xã hội cần có cơ chế giám sát chặt chẽ việc Nhà nước thực hiện quyền
đại diện.

- Với sở hữu thuộc sở hữu nhà nước, Nhà nước sẽ thực hiện quyền sở hữu chi
phối các quan hệ tổ chức quản lý, sử dụng chúng như một trong các công cụ để định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Khi trao quyền quản lý và quyền sử dụng cho
các chủ thể khác, Nhà nước phải có những quy định rõ ràng để vừa ràng buộc trách
nhiệm, vừa tạo động lực sử dụng các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước một cách có hiệu
quả nhất.
- Với các chế độ và các hình thức sở hữu khác, Nhà nước không thể lạm quyền
chủ thể quản lý toàn xã hội để ép buộc các chủ thể sở hữu trong các quan hệ tổ chức
quản lý sản xuất. Để thực hiện mục tiêu và đường hướng phát triển chung, trong quan
hệ tổ chức quản lý, Nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý, tạo môi trường và động lực
khuyến khích các chủ sở hữu góp phần thực hiện mục tiêu chung trên cơ sở bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp, tôn trọng quyền chủ động và tính tự chịu trách nhiệm của các
chủ sở hữu. Sự kết hợp hợp lý giữa lợi ích của từng chủ sở hữu và việc thực thi tốt vai
trò “người nhạc trưởng” sẽ là cơ sở để huy động sự nỗ lực của cả cộng đồng vào việc
thực hiện mục tiêu chung và bảo đảm các phần tử trong hệ thống kinh tế vận động
trong một quỹ đạo chung.
Quan hệ sở hữu có vai trò quyết định với quan hệ tổ chức quản lý, nhưng quan
hệ tổ chức quản lý cũng có tác động tích cực trở lại đến quan hệ sở hữu. Tự quan hệ
sở hữu không thể mang lại lợi ích cho chủ sở hữu. Lợi ích này chỉ có được khi chúng
được quản lý và sử dụng có hiệu quả; trong trường hợp ngược lại, không những lợi
ích của chủ sở hữu không được bảo đảm, mà quy mô sở hữu của họ sẽ bị thu hẹp, địa
vị xã hội của họ sẽ bị giảm thấp. Chính quan hệ tổ chức quản lý sản xuất là yếu tố

54

55

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10


************************************************************************

************************************************************************

quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, chất lượng và hiệu quả của quá trình phát

thu hẹp lại, thậm chí bị tước đoạt mất quyền sở hữu. Đó chính là một khía cạnh thể

triển kinh tế - xã hội. Vì vậy trong mọi trường hợp, chủ sở hữu phải luôn quan tâm

hiện tác động của quan hệ phân phối đến quan hệ sở hữu.

đến các quan hệ tổ chức quản lý. Việc quá nhấn mạnh đến quan hệ sở hữu, không
quan tâm đầy đủ đến quan hệ tổ chức quản lý sẽ không thể mang lại kết quả và hiệu

Sự tồn tại nhiều chế độ sở hữu và nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là
vấn đề kinh tế có tính chất phổ biến của tất cả các quốc gia đương đại. Thích ứng với

quả mong muốn.

mỗi chế độ và mỗi hình thức sở hữu sẽ tồn tại nhiều quan hệ phân phối cụ thể khác

1.4.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA SỞ HỮU VỚI PHÂN PHỐI

nhau. Nhưng suy đến cùng, trong phân phối lần đầu kết quả của quá trình sản xuất,

Giữa quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối cũng có quan hệ tương hỗ với nhau,
trong đó quan hệ sở hữu chi phối quan hệ phân phối và quan hệ phân phối cũng có


chỉ có hai hình thức phân phối chủ yếu: 1/ Phân phối theo lao động; 2/ Phân phối theo
sở hữu tư liệu sản xuất (tài sản và vốn).

ảnh hưởng trở lại đến quan hệ sở hữu. Đó là điều hiển nhiên vì chủ thể nào nắm giữ

Hình thức phân phối thứ nhất có liên quan đến quan hệ sở hữu sức lao động.

quyền sở hữu tư liệu sản xuất, chủ thể đó sẽ có quyền quyết định phân phối chính tư

Sở hữu sức lao động là phạm trù chung của nền kinh tế hàng hóa, là một yếu tố cấu

liệu sản xuất ấy, nghĩa là quyết định tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mình được

thành thị trường lao động. Cũng như trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong sở hữu sức

phân bổ vào làm việc gì và với mức độ bao nhiêu. Họ sẽ chỉ đưa ra quyết định khi

lao động có thể có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, quyền sử dụng.

tính toán rằng việc phân phối ấy sẽ mang lại lợi ích cho họ, khi lợi ích từ sử dụng tư

Quyền sở hữu sức lao động là yếu tố mang tính tự nhiên, khi người lao động bán sức

liệu sản xuất vào một việc gì đó càng lớn, động lực thúc đẩy chủ sở hữu phân phối tư

lao động của mình, họ vẫn sở hữu sức lao động, nhưng quyền quản lý và sử dụng lao

liệu sản xuất của mình vào làm việc đó càng mạnh. Đó là sự phân phối ở “đầu vào”

động lại thuộc về người thuê mướn lao động. Trong quá trình sản xuất, về nguyên tắc,


của quá trình sản xuất. Còn ở “đầu ra”, người chủ sở hữu tư liệu sản xuất cũng quyết

người lao động sẽ được trả công tương ứng với mức đóng góp sức lao động của họ

định đối tượng, hình thức và mức độ phân phối kết quả của quá trình sản xuất. Tuy

vào kết quả sản xuất. Nhưng trong thực tế, do những yếu tố khách quan của thị

nhiên, khi đưa ra quyết định, họ luôn phải tính đến hàng loạt ràng buộc: đóng góp vào

trường, của lĩnh vực ngành nghề, của điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và những yếu tố

kết quả lao động cuối cùng không phải chỉ là những tư liệu sản xuất thuộc quyền sở

chủ quan của người sử dụng lao động, mức thu nhập của người lao động lại thường có

hữu của họ, mà còn của những người quản lý điều hành được trao quyền quản lý và

sự khác biệt nhau. Với việc bảo tồn quyền sở hữu sức lao động, thị trường lao động sẽ

sử dụng những tư liệu sản xuất ấy, của những người lao động trực tiếp sử dụng các tư

làm chức năng điều tiết sức lao động để đáp ứng yêu cầu của người lao động tìm nơi

liệu sản xuất để sản xuất sản phẩm hoặc tạo ra dịch vụ. Điều này không có nghĩa việc

làm việc thích ứng hơn với nhu cầu của họ.

phân phối kết quả cuối cùng được thực hiện một cách hoàn toàn công bằng trên cơ sở

xác định mức đóng góp của một bộ phận vào kết quả cuối cùng của quá trình sản
xuất. Đòi hỏi công bằng một cách tuyệt đối trong phân phối kết quả sản xuất chỉ là
một ảo tưởng, bởi lẽ quyền quyết định cuối cùng trong phân phối vẫn thuộc về người
chủ sở hữu. Tuy nhiên, nếu chủ sở hữu duy trì sự phân phối bất bình đẳng quá lớn và
kéo dài thì chính họ sẽ gây nên những bất bình xã hội và sẽ phải đương đầu với sự
phản kháng của các chủ thể có liên quan dưới những hình thức khác nhau. Trong
trường hợp này, nền tảng quyền sở hữu của chủ sở hữu sẽ bị ảnh hưởng theo hướng bị

Quyền sở hữu tư liệu sản xuất là cơ sở của hình thức phân phối thứ hai. Mức
độ nắm giữ sở hữu trong một tổ chức là cơ sở xác định mức độ được nhận trong phân
phối kết quả của quá trình sản xuất. Trong điều kiện hiện nay, hình thức doanh nghiệp
cổ phần ngày càng phát triển. Người lao động không thuần túy chỉ là người làm thuê,
mà còn là người chủ một phần tài sản của doanh nghiệp, là người chủ sở hữu của
doanh nghiệp. Ngoài phần được phân phối theo lao động, người lao động – chủ sở
hữu doanh nghiệp còn được phân phối theo vốn đã góp. Mức độ nhận được từ phân
phối này phụ thuộc hoàn toàn vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp có lãi, chủ sở hữu được phân phối một phần lãi dưới dạng cổ tức, lãi càng cao,

56

57


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************


cổ tức càng lớn; ngược lại, nếu doanh nghiệp thua lỗ, chủ sở hữu cũng phải chịu lỗ

Trong phân phối các nguồn lực sản xuất, Nhà nước phải sử dụng những cách

tương ứng với phần vốn đã đóng góp của mình. Với dạng doanh nghiệp đa sở hữu

thức khác nhau sao cho các nguồn lực sản xuất được phân bổ theo đường hướng phát

này, người chủ sở hữu có thể không tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý nhưng họ

triển kinh tế - xã hội đã được hoạch định và góp phần tích cực nhất vào việc thực hiện

vẫn hết sức quan tâm đến công tác quản lý, giám sát hoạt động của bộ máy quản lý để

mục tiêu đã xác định.

bảo đảm lợi ích của họ ngày càng cao trong phân phối kết quả cuối cùng.
Trong một thời gian dài, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây chỉ nhấn mạnh

- Với các nguồn lực thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người được giao
quyền đại diện, Nhà nước phải bảo đảm phân phối chúng một cách có hiệu quả nhất

một chiều đến quan hệ phân phối theo lao động. Đặt trong điều kiện quan niệm cũ về

đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phục vụ lợi ích của cả cộng

chủ nghĩa xã hội với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất giữ địa vị

đồng xã hội. Cộng đồng xã hội cần có cơ chế giám sát chặt chẽ việc Nhà nước thực


thống trị, sự nhấn mạnh đó được coi là hợp lý. Điều bất hợp lý của quan niệm này lại

hiện quyền đại diện.

bắt nguồn từ chính quan niệm về chế độ đơn sở hữu về tư liệu sản xuất và áp đặt quan
hệ phân phối ở trình độ chủ nghĩa xã hội chín muồi cho những giai đoạn đầu của quá
trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Thật ra, quan hệ phân phối được thực hiện
trong thực tế lại không phải đúng theo thực chất của phân phối theo lao động, mà theo
kiểu cào bằng, bình quân chủ nghĩa với ảo vọng bảo đảm “sự công bằng xã hội”. Điều
đó đã dẫn đến triệt tiêu động lực lao động.

- Với các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước, Nhà nước sẽ thực hiện quyền sở
hữu phân bổ chúng với hướng đích phát huy tốt nhất vai trò của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường. Nghĩa là, Nhà nước phân bổ các nguồn lực của mình vào việc tạo
lập các điều kiện thu hút đầu tư xã hội (cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thể chế…) và
đầu tư vào các lĩnh vực xã hội có nhu cầu nhưng các chủ sở hữu khác không muốn
hoặc không có khả năng đầu tư.

Trên đây là những nét khái quát về mối quan hệ giữa quan hệ sở hữu và quan
hệ phân phối ở phạm vi vi mô. Việc nghiên cứu quan hệ sở hữu với quan hệ phân phối
ở tầm vĩ mô liên quan trực tiếp đến phân phối (phân bổ) các nguồn lực sản xuất và
phân phối lại sản phẩm xã hội. Điều đó liên quan trực tiếp đến vai trò của Nhà nước.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây,
việc phân bổ các nguồn lực sản xuất và phân phối lại thu nhập quốc dân thuộc thẩm

- Với các nguồn lực thuộc các chủ sở hữu khác, Nhà nước không thể lạm
quyền chủ thể quản lý toàn xã hội để ép buộc các chủ thể sở hữu trong việc phân bổ
các nguồn lực sản xuất của họ. Để thực hiện mục tiêu và đường hướng phát triển
chung, Nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý, tạo môi trường và động lực khuyến khích

các chủ sở hữu phân bổ các nguồn lực của họ. Từ đó, Nhà nước và xã hội có lợi, chủ
sở hữu cũng thu được lợi ích thỏa đáng.

quyền của Nhà nước thông qua các kế hoạch mang tính pháp lệnh. Điều đó đã mang
lại những kết quả tích cực trong những điều kiện nhất định, đặc biệt là những tình
huống khẩn cấp, như thiên tai, chiến tranh…Trong điều kiện phát triển bình thường,
cách thức phân phối ấy không thể mang lại hiệu quả mong muốn.

Nói quan hệ sở hữu quyết định quan hệ phân phối không có nghĩa tuyệt đối hóa
vai trò của sở hữu. Sự “quyết định” này phải được thực hiện một cách linh hoạt và
mềm dẻo tuỳ thuộc vào từng quan hệ sở hữu cụ thể. Khi quan hệ phân phối được thực
hiện một cách hợp lý, nó sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình phát triển và tạo

Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chức năng và vai trò của

điều kiện để củng cố quan hệ sở hữu. Ngược lại, một sai lầm, thậm chí cực đoan,

Nhà nước được điều chỉnh một cách căn bản phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Trong

trong thực hiện quan hệ phân phối không những làm triệt tiêu động lực phát triển, mà

điều kiện tồn tại nhiều chế độ sở hữu và hình thức sở hữu, vai trò của Nhà nước trong

còn có thể làm tổn hại trực tiếp đến quan hệ sở hữu.

quan hệ phân phối cũng có những thay đổi cơ bản.

Từ những nội dung cơ bản về mối quan hệ giữa sở hữu với tổ chức quản lý và
phân phối đã nêu trên đây, có thể thấy rằng, chất lượng và tính hiệu quả của quản trị


58

59

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

phát triển kinh tế - xã hội không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu mà phụ thuộc ở
mức độ quan trọng vào tổ chức quá trình sản xuất xã hội và quan hệ phân phối.
Trong các quan hệ cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất có ý nghĩa quyết định với quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân
phối. Quan hệ sở hữu cũng quy định trực tiếp bản chất của quan hệ sản xuất và, qua
đó, bản chất của thể chế chính trị. Với quan niệm này, trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất thường được quan tâm theo hướng nỗ lực
mở rộng phạm vi và quy mô sở hữu của mỗi chủ sở hữu, qua đó củng cố và nâng cao
địa vị của chủ sở hữu trong đời sống xã hội, gia tăng phần được nhận trong phân phối
kết quả lao động. Trong những năm trước đây cũng tồn tại quan niệm cho rằng, sở
hữu toàn dân phải có hiệu quả hơn sở hữu tập thể và sở hữu tập thể có hiệu quả hơn
sở hữu tư nhân. Từ đó, trong chỉ đạo thực tiễn ở các nước xã hội chủ nghĩa, người ta
thường cố gắng bằng mọi cách gia tăng sở hữu xã hội dưới hai hình thức sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể, chưa chú ý thỏa đáng hoặc gặp nhiều lúng túng bất cập khi thực
hiện các quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối. Tất cả những điều
liên quan đến quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối

Trong quá trình phát triển, dù với thể chế chính trị nào và ở trình độ nào, điều

quan trọng hàng đầu phải quan tâm chính là chất lượng và hiệu quả của sự phát triển.
Trong khi đó, tự bản thân quan hệ sở hữu chỉ tạo được những điều kiện mang tính tiền
đề chứ không trực tiếp bảo đảm được yêu cầu đó, mà yêu cầu này phụ thuộc chủ yếu
vào trình độ tổ chức quản lý quá trình tái sản xuất ở cả phạm vi vĩ mô và phạm vi vi
mô. Chính điều này là cơ sở để lý giải tình trạng hiệu quả và chất lượng phát triển
thấp kém của khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tập thể so với khu vực kinh
tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không những ở Việt Nam, mà còn ở
nhiều nước trên thế giới. Đó cũng là một trong những cơ sở để lý giải trình độ phát
triển kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa cao hơn các nước xã hội chủ nghĩa dẫu
rằng ở những nước này, theo quan niệm truyền thống, có quan hệ sở hữu và thể chế
chính trị “lạc hậu” hơn.
1.5.

SỰ PHÁT TRIỂN CÁC CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG CÁC PHƯƠNG
THỨC SẢN XUẤT XÃ HỘI

1.5.1. SỞ HỮU TRONG CÔNG XÃ NGUYÊN THỦY

ấy, một mặt, thể hiện những quyết định thực tế không bảo đảm yêu cầu của quy luật

Khi mới xuất hiện loài người, do trình độ phát triển kinh tế còn rất sơ khai,

về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, mặt

phương kế sinh tồn là dựa vào săn bắn và hái lượm, nên con người sống thành bày

khác, thể hiện sự không tương thích giữa các bộ phận cấu thành quan hệ sản xuất.

đàn để chống chọi với thiên nhiên. Lúc này, mọi của cải vật chất từ đất đai, tài nguyên


Hậu quả tất yếu của tình trạng này là sự phát triển thấp kém cả về mặt kinh tế và mức

thiên nhiên đến sức lao động đều là của chung. Mọi người cùng săn bắn, hái lượm và

độ cải thiện đời sống của dân cư. Để khỏa lấp sự thấp kém này, người ta nỗ lực tăng

sinh tồn. Loài người lúc đó chưa có khái niệm tư hữu. Vì vậy, các nhà lý luận khái

đầu tư vào yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất nhưng chủ yếu thông qua đầu tư

quát xã hội đó dựa trên chế độ sở hữu công cộng.

theo chiều rộng, phát triển sản xuất theo chiều rộng trên cơ sở khai thác các nguồn lực
tự nhiên và sức lao động. Rõ ràng là các cách thức đó không thể mang lại kết quả
mong muốn.

Sản xuất phát triển, con người sống ổn định thành bộ tộc, bộ lạc, hình thành sở
hữu công xã. Mặc dù trong nội bộ công xã, phương tiện sản xuất, sức lao động và của cải
vẫn là của chung công xã, do đó, sở hữu công xã vẫn mang sắc thái của chế độ công hữu

Trong thực tế, việc quan tâm quá mức đến quan hệ sở hữu, phát triển các hình
thức sở hữu vượt quá trình độ xã hội hóa thực tế chính là việc “tạo ra quan hệ sản xuất
tiên tiến một cách giả tạo” so với trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Đó cũng là
một biểu hiện của sự không phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực

nguyên thủy, nhưng sở hữu công xã đã tách biệt quyền chiếm hữu giữa công xã này với
công xã khác. Đây là mầm mống đầu tiên tạo lên sự tách biệt về sở hữu.
1.5.2. SỞ HỮU TRONG XÃ HỘI CHIẾM HỮU NÔ LỆ
Sản xuất phát triển hơn, của cải dư thừa ngày càng nhiều, các tộc trưởng, lạc


lượng sản xuất.

trưởng chiếm hữu phần của cải dư thừa của bộ tộc, bộ lạc, biến chung thành của riêng.

60

61


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

Điều đó dần dần làm cho sở hữu công xã bị tan rã. Xã hội diễn ra sự phân hóa thành

Bên cạnh sự tồn tại của chế độ sở hữu phong kiến là hình thức sở hữu tư nhân

giai cấp. Các tộc trưởng, lạc trưởng nhờ việc chiếm đoạt tài sản, của cải của bộ tộc, bộ

của người sản xuất nhỏ và người buôn bán nhỏ. Những người hoạt động dựa trên tư

lạc trở thành người giàu có và trở thành chủ nô. Các thành viên khác trong bộ tộc, bộ

liệu sản xuất và sức lao động của bản thân họ.

lạc do đó mà trở thành nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ xuất hiện.


Trong thời kỳ phong kiến, kiểu tổ chức kinh tế xã hội phổ biến là kinh tế tự

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, mọi tài sản thuộc về chủ nô, kể cả người nô lệ

nhiên. Bản chất của nó là kiểu sản xuất tự túc, tự cấp. Mục tiêu sản xuất là để tiêu

cũng thuộc về chủ nô. Người nô lệ cũng chỉ là “công cụ biết nói”, cùng với các “công

dùng cho bản thân. Trong quá trình đó, họa may có sản phẩm thừa nên họ mang ra

cụ không biết nói” khác đều thuộc về chủ nô mà thôi. Chủ nô cho sống thì người nô lệ

trao đổi. Vì thế, sản xuất hàng hóa nhỏ (hay sản xuất hàng hóa giản đơn) xuất hiện.

được sống. Chủ nô bắt chết thì họ không thể sống. Chiếm hữu tư liệu sản xuất, của cải

1.5.4. SỞ HỮU TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

và nô lệ là phương thức tồn tại thống trị trong xã hội chiếm hữu nô lệ.
Cũng chính trong thời kỳ tan rã của sở hữu công xã, một số thành viên tách
khỏi các bộ tộc, bộ lạc, sống thành gia đình, làm xuất hiện sở hữu tư nhân của người
sản xuất nhỏ. Sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ là hình thức sở hữu mà tư liệu
sản xuất của bản thân người sản xuất và sức lao động của bản thân và gia đình họ.
Như vậy, lịch sử thời kỳ cổ đại là lịch sử của việc chuyển từ sở hữu công cộng
sang sở hữu công xã và cuối cùng là sở hữu tư nhân. Việc xuất hiện sở hữu tư nhân
cũng đánh dấu cho sự chấm dứt thời kỳ Cổ đại, chuyển sang thời kỳ Trung cổ.
1.5.3. SỞ HỮU TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN
Sản xuất tiếp tục phát triển đã làm thay đổi nhận thức của người nô lệ. Kết quả
của các cuộc chiến tranh và cách mạng thời kỳ Cổ đại dẫn đến sự tan rã của xã hội

chiếm hữu nô lệ. Xã hội phong kiến ra đời thay thế.
Trong suốt thời kỳ Trung cổ, sở hữu tư nhân của địa chủ, phong kiến là các
hình thức sở hữu thống trị. Trong chế độ sở hữu phong kiến, tư liệu sản xuất, chủ yếu
là đất đai, thuộc về nhà nước phong kiến, địa chủ, quan lại. “Đất của vua, chùa của

Sự phát triển ngày càng tăng của sức sản xuất làm cho nền kinh tế tự nhiên,
kinh tế hàng hóa giản đơn có sự chuyển biến mạnh mẽ về chất và dần chuyển thành
nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế với mục tiêu sản xuất ra để bán, để
trao đổi trên thị trường nhằm kiếm lời (lợi nhuận). Như vậy, nền kinh tế thị trường
không chỉ khác với nền kinh tế tự nhiên thuần túy mà còn khác với kinh tế sản xuất
hàng hóa giản đơn. Ngay từ đầu, mục tiêu của kinh tế thị trường là sản xuất ra sản
phẩm không phải để cho người sản xuất tiêu dùng mà là để bán trên thị trường thu lợi
nhuận. Mặc dù kinh tế hàng hóa giản đơn cũng có hàng hóa bán trên thị trường,
nhưng ngay từ đầu mục tiêu của sản xuất này không phải là để bán, kiếm lời. Kinh tế
hàng hóa giản đơn chỉ là trường hợp đặc biệt của nền kinh tế tự nhiên. Tính đặc biệt
đó là ở chỗ ngẫu nhiên sản phẩm dư thừa của kinh tế tự nhiên được mua bán trao đổi.
Trong lịch sử, giai đoạn chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa
giản đơn diễn ra từ thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII ở Anh và một số nước Châu Âu.
Đây cũng chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản.

bụt” là nguyên lý cho sự tồn tại của chế độ xã hội này. Nhà nước phong kiến, địa chủ,

Khác với nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp và nền kinh tế hàng hoá giản

quan lại thực hiện phương thức “phát canh thu tô”. Cho thuê ruộng đất thu địa tô là

đơn, nền kinh tế thị trường đòi hỏi có một tầng lớp các nhà kinh doanh, đó là những

phương thức tồn tại của chế độ sở hữu phong kiến.

Khác với chế độ chiếm hữu nô lệ, người lao động trong xã hội phong kiến là
người tự do về thân thể. Thân phận của người nông dân không như người nô lệ trong
thời kỳ chiếm hữu nô lệ nữa. Họ là chủ của sức lao động của bản thân mình. Cùng với

người sản xuất ra hàng hóa để bán trên thị trường. Những người này phải có được
trong tay một lượng vốn nhất định để mua tư liệu sản xuất và mua sức lao động, xây
dựng các nhà máy, tiến hành sản xuất sản phẩm bán trên thị trường và thu lợi nhuận.
Số lượng vốn đó càng lớn thì hoạt động của nhà kinh doanh càng mạnh mẽ. Chính vì

ruộng đất thuê mướn của địa chủ, họ tiến hành sản xuất, tìm kế sinh tồn.

62

63

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

vậy, những nhà kinh doanh này cần có trong tay một lượng tiền lớn để tổ chức các

Nguồn vốn thu được từ hoạt động ngoại thương được đầu tư vào phát triển nông nghiệp,

doanh nghiệp của mình.

công nghiệp da và cuối cùng là phát triển công nghiệp nặng. Vì vậy khi Anh trở thành một


Trong thời kỳ đầu chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, từ sản xuất hàng hóa giản

cường quốc công nghiệp thì Hà Lan vẫn chỉ là một nước “cộng hoà thương nghiệp”.

đơn sang nền kinh tế thị trường, công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp còn rất lạc

Cùng với việc tích luỹ vốn, thị trường sức lao động cũng được hình thành. Đến

hậu. Muốn có tiền phải đẩy mạnh buôn bán, hoạt động thương nghiệp, đặc biệt là

thế kỷ XV phần lớn dân cư sống ở nông thôn. Muốn có sức lao động làm thuê cần

ngoại thương. Các nhà kinh tế học trường phái trọng thương đã góp phần quan trọng

thiết phải có sự phân hoá nông dân, tách sức lao động ra khỏi tư liệu sản xuất để hình

vào việc thúc đẩy sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường. Họ đưa ra các lý thuyết chỉ

thành giai cấp vô sản. Sự hoạt động của qui luật giá trị sẽ dẫn đến kết quả đó nhưng

đạo hoạt động kinh tế của các nhà kinh doanh thương nghiệp và Nhà nước tư sản lúc

rất lâu dài. Vì vậy trong thời kỳ suy đồi của chế độ phong kiến, sự phát triển của chủ

bấy giờ. Những đề xuất của họ có tác dụng rút ngắn thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ để

nghĩa tư bản không chỉ trong thương nghiệp mà còn mạnh dần sang cả lĩnh vực nông

cho nền kinh tế thị trường ra đời.


nghiệp. Diễn ra sự tước đoạt ruộng đất của nông dân, vô sản hoá nông dân, hình thành

Tích luỹ được lượng tiền tệ lớn, các nhà kinh doanh tập trung sức phát triển thị
trường dân tộc. Trong giai đoạn này, việc đầu tư phát triển lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng có ý nghĩa quyết định. Kinh nghiệm
lịch sử chỉ ra: Nếu không tìm cách tăng cường nguồn tích luỹ từ thị trường bên ngoài

thị trường sức lao động đông đảo, giúp cho sự phát triển của các doanh nghiệp tổ chức
theo kiểu kinh tế thị trường. Lịch sử ghi nhận rằng nước nào diễn ra cách mạng về
ruộng đất một cách nhanh chóng và triệt để thì ở đó kinh tế thị trường sẽ phát triển
sớm và mạnh mẽ.

thì rất khó phát triển kinh tế thị trường. Nhưng nếu không biết kết hợp vốn tích luỹ đó

Nguyên nhân làm cho nền kinh tế thị trường ở Đức phát triển chậm là do chế

vào phát triển nền kinh tế dân tộc, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nông nghiệp, công

độ phong kiến thống trị khá vững chắc và kéo dài cho tới nửa đầu thế kỷ XIX, do việc

nghiệp, xây dựng hệ thống khoa học công nghệ làm cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc

duy trì hệ thống phường hội, do phân tán về chính trị, do không có nguồn tích luỹ

dân thì nước đó cũng không thể phát triển kinh tế được. Tiềm lực của nền kinh tế dân tộc

nguyên thuỷ tư bản ở nước ngoài và sự chậm trễ của cuộc cách mạng phản phong.

quyết định trình độ phát triển của kinh tế thị trường, mà tiềm lực đó thể hiện ở sự phát


Trong khi đó ở Anh, ngay từ thế kỷ XV đã đẩy mạnh chính sách trọng thương, buôn

triển hệ thống các ngành kinh tế, ở hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống khoa học và

bán, cướp bóc thuộc địa, đồng thời đã tiến hành cách mạng ruộng đất, giải phóng

công nghệ. Thiếu hệ thống đó nền kinh tế thiếu chỗ dựa cho sự phát triển.
Chẳng hạn, ở thế kỷ XVII thì Hà Lan là cường quốc kinh tế. Theo C. Mác, “Hà
Lan là nước tư bản điển hình của thế kỷ XVII”. Nhưng đến thế kỷ XVIII thì kinh tế
Hà Lan bị suy sụp và phải nhường vị trí “nền kinh tế phát triển nhất” cho nước Anh.
Nguyên nhân chính của sự suy yếu này là ở chỗ, Hà Lan không có một nền công

nông dân khỏi xiềng xích phong kiến, biến người nông dân sinh sống bằng phương
thức thuê ruộng đất của địa chủ quan lại thành người nông dân không có tư liệu sản
xuất trong tay và muốn kiếm sống họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Như vậy,
kinh doanh ruộng đất kiểu phong kiến chuyển thành chế độ kinh doanh ruộng đất kiểu
tư bản chủ nghĩa.

nghiệp phát triển làm cơ sở bền vững cho nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, nền

Sự phát triển nền kinh tế dân tộc, tăng sức mạnh của khu vực nông nghiệp,

kinh tế thị trường của Anh lại có chỗ dựa mạnh mẽ là nền công nghiệp nhà máy, và

công nghiệp và các ngành sản xuất vật chất khác khẳng định sự chiến thắng của kinh

nhất là công nghiệp nặng. Ở Hà Lan, các nhà kinh doanh chủ trương phát triển kinh tế

tế thị trường đối với sản xuất nhỏ và cũng là sự chiến thắng của tư hữu lớn, tư bản đối


bằng con đường buôn bán, đầu cơ mà không chú trọng vào phát triển nền công

với tư hữu nhỏ. Tư hữu tư bản chủ nghĩa đã tập trung vào tay các nhà tư bản khối

nghiệp. Còn ở Anh, các nhà kinh doanh đã biết kết hợp vốn tích luỹ từ nước ngoài với

tượng lớn về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động, thực hiện tích tụ và tập trung cao

điều kiện tài nguyên, lao động trong nước, từng bước phát triển các lĩnh vực sản xuất.

độ về nguồn lực. Điều đó, một mặt, làm cho tư hữu lớn thắng thế và thay thế tư hữu

64

65


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

nhỏ trong vai trò thống trị nền kinh tế, mặt khác, làm cho lực lượng sản xuất được

lớn là rất khó khăn, và nếu có cạnh tranh thắng lợi thì sự phá sản cũng lớn. Trước thực


phát triển mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế có sự biến đổi to lớn, thị trường được mở rộng.

tế đó, các doanh nghiệp lớn dung hợp với nhau, hình thành lên tổ chức độc duyền. Sự

Nếu trước đây, lĩnh vực trao đổi còn hạn hẹp trong từng vùng, thì bây giờ thị trường

ra đời của độc quyền đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển kinh tế thị trường.

hình thành thống nhất trên phạm vi cả nước. Ngoài thị trường sản phẩm, đã có thêm

Bởi lẽ trong giai đoạn trước khi độc quyền xuất hiện, nền kinh tế tồn tại trong trạng

thị trường các yếu tố như lao động, đất đai, tư bản. Sự xuất hiện của thị trường sức lao

thái cạnh tranh tự do, cạnh tranh thuần túy hay hoàn hảo. Song khi có độc quyền xuất

động và đất đai đã phá vỡ quan hệ phong kiến trì trệ, kìm hãm sự phát triển của sức

hiện, cạnh tranh kinh tế không còn tồn tại được trong môi trường tự do, hoàn hảo nữa,

sản xuất. Sự xuất hiện thị trường tài chính, chứng khoán chứng tỏ nền kinh tế thị

mà đây là giai đoạn phát triển của cạnh tranh độc quyền. Độc quyền tồn tại cùng cạnh

trường đã phát triển đến trình độ cao.

tranh, không thủ tiêu cạnh tranh, làm cho cạnh tranh có sắc thái mới và sâu sắc hơn.

Như vậy, muốn cho nền kinh tế thị trường xuất hiện, cần thiết phải có các


Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bên cạnh sở hữu của nhà tư bản và sở hữu độc

chính sách khuyến khích tích luỹ nguyên thuỷ, đặc biệt là buôn bán với nước ngoài,

quyền tư bản, còn có sự tồn tại của hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Thực ra,

đảm bảo có xuất siêu, thực hiện cách mạng ruộng đất và tiến hành các biện pháp

sự phát triển của sở hữu doanh nghiệp Nhà nước gắn liền với sự ra đời của Nhà nước.

nhằm tạo ra thị trường sức lao động. Chính trong quá trình đó, chế độ tư hữu chuyển

Đầu tiên đó là những xưởng đúc tiền, sản xuất vũ khí phục vụ cho Nhà nước trong xã

biến mạnh từ tư hữu nhỏ thành tư hữu lớn theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Sở hữu tư nhân

hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Tuy nhiên, cho đến thời kỳ trung cổ vai trò của

tư bản chủ nghĩa chiếm vị trí thống trị trong nền kinh tế, làm cơ sở cho sự xuất hiện,

hình thức sở hữu này còn chưa phát triển mạnh.

tồn tại và vận động của nền kinh tế thị trường.

Sự phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp nhà nước diễn ra vào những năm 30

Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất, xuất hiện thêm những hình thức sở

đến những năm 70 của thế kỷ XX. Mục tiêu của nó là giải quyết những vấn đề bức


hữu khác. Chúng ta biết rằng sở hữu là quan hệ giữa người với người về sản vật tự

xúc về kinh tế xã hội như giải quyết việc làm, đồng thời qua đó để kích thích cầu,

nhiên. Đó là mối quan hệ xã hội của con người trong việc chiếm hữu, sử dụng và định

chống khủng hoảng, thất nghiệp. Nhà kinh tế học Anh là John Maynard Keynes là

đoạt các nguồn lực tự nhiên. Vì là quan hệ giữa người với người về sản vật tự nhiên,

người đề xướng ra tư tưởng đó. Ông chủ trương trích một phần ngân sách Nhà nước

nên các mối quan hệ ngày càng đa dạng, phong phú theo đà phát triển của sức sản

để phát triển các doanh nghiệp Nhà nước. Bằng nhiều con đường khác nhau, như

xuất. Sức sản xuất càng phát triển, phân công lao động càng sâu sắc, mối quan hệ giữa

thông qua quốc hữu hoá, xây dựng mới và liên kết với các chủ doanh nghiệp để hình

người với người về các sản vật của tự nhiên ngày càng đa dạng phong phú hơn. Điều

thành các doanh nghiệp Nhà nước.

đó làm cho quan hệ sở hữu ngày càng đa dạng hơn. Nói cách khác, sức sản xuất càng
phát triển, ngày càng có thêm những hình thức sở hữu mới.

Sự phát triển của hình thức sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước cũng trải qua
nhiều quá trình. Trong những năm 30 của thế kỷ XX, hình thức này phát triển mạnh


Một hình thức sở hữu mới xuất hiện trong thời kỳ chuyển từ chủ nghĩa tư bản

mẽ. Một xu hướng mà người ta gọi là nhà nước hoá các doanh nghiệp diễn ra trong

tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền là hình thức sở hữu tư bản độc

thời kỳ những năm 30 đến những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy vậy, có một quá trình

quyền. Tư bản độc quyền là hiện tượng một nhà tư bản cỡ lớn nắm trong tay phần lớn

diễn ra ngược với xu hướng nhà nước hoá là tư nhân hoá xí nghiệp nhà nước. Xu

việc sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hóa nào đó, nhờ đó mà quyết định giá cả và

hướng này diễn ra vào những năm 50 của thế kỷ XX. Xu hướng tư nhân hoá các xí
nghiệp nhà nước diễn ra ở Mỹ, Anh và các nước tư bản phát triển khác. Cơ sở của xu

thu lợi nhuận độc quyền.
Sự xuất hiện của sở hữu tư bản độc quyền do sản xuất phát triển cao, tích tụ và

hướng này là quan điểm cho rằng kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước là không có

tập trung tư bản làm cho quy mô tư bản lớn lên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp

hiệu quả, các xí nghiệp Nhà nước thường xuyên bị lỗ vốn. Nó tạo ra thâm hụt ngân sách

66

67


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

lớn, là gánh nặng cho nền kinh tế nói chung. Vì vậy cần thiết phải chuyển xí nghiệp Nhà
nước thành xí nghiệp tư nhân.

Với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, hệ thống xã
hội chủ nghĩa hình thành. Đặc điểm chung của hệ thống này là dựa trên chế độ sở hữu

Sản xuất ngày càng xã hội hoá cao độ, sự biến đổi cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải
có sự đầu tư lớn mà không một doanh nghiệp nào, dù đó là doanh nghiệp độc quyền,
có thể đủ nguồn lực để đáp ứng, đòi hỏi phải có sự tài trợ từ ngân sách Nhà nước. Do
tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng đã dẫn đến sự dung hợp
giữa Nhà nước với các tổ chức độc quyền, hình thành lên hình thức sở hữu các doanh
nghiệp tư bản độc quyền Nhà nước. Sở hữu tư bản độc quyền nhà nước là hình thức
sở hữu dựa trên cơ sở liên minh kinh tế giữa nhà nước với các tổ chức độc quyền, vừa
bảo vệ lợi ích cho tổ chức độc quyền, vừa phục vụ cho nhà nước tư sản. Như vậy sở

xã hội chủ nghĩa với hai hình thức thống trị là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Về
bản chất, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu. Các nhà kinh điển gọi
đây là công hữu xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng đó, các hình thức sở hữu tư bản
được cải tạo thông qua con đường quốc hữu hóa thành sở hữu toàn dân. Kết hợp với
việc nhà nước xây dựng mới các doanh nghiệp nhà nước, làm cho sở hữu toàn dân
ngày càng chiếm giữ một phạm vi rộng lớn trong nền kinh tế. Hình thức sở hữu tư
nhân của người sản xuất nhỏ được cải tạo thông qua con đường hợp tác hóa để hình

thành sở hữu tập thể. Theo nguyên lý này, sở hữu tư nhân lớn, nhỏ đều bị xóa bỏ.
Tuy nhiên, sự ra đời và tồn tại với vị trí thống trị của chế độ công hữu xã hội

hữu các doanh nghiệp tư bản độc quyền Nhà nước là sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước
với các tổ chức độc quyền. Nó là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Sự thống trị của tư bản độc quyền dẫn đến tăng nhu cầu về nguồn lực, lao
động, nguyên liệu và vốn. Điều đó thúc đẩy các tổ chức độc quyền vươn ra nước
ngoài, hình thành lên hình thức sở hữu độc quyền quốc tế. Lúc đầu là sự phát triển của

chủ nghĩa trong hệ thống kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa tồn tại và giữ vị trí thống
trị trong khoảng 70 năm. Đến những năm 90 của thế kỷ XX, sự khủng hoảng của hệ
thống kinh tế xã hội chủ nghĩa đưa đến những đổi mới về tư duy lý luận về chế độ
công hữu ở các nước này.

hình thức sở hữu độc quyền quốc tế của các tổ chức tư nhân. Thông qua các hình thức

Sự phát triển các chế độ và hình thức sở hữu do sự phát triển của lực lượng sản

xuất khẩu tư bản tư nhân (dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp), các tổ chức độc

xuất qui định. Các chế độ và hình thức sở hữu mới ra đời do yêu cầu phát triển cao

quyền tư nhân khai thác tài nguyên và nguồn lao động nước ngoài để thu lợi nhuận.
Do các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa diễn ra mạnh
mẽ, đe dọa quyền lợi của các độc quyền tư nhân, nhà nước ở các nước tư bản phát
triển đã liên minh với các quốc gia thuộc địa hình thành lên hình thức sở hữu quốc tế
giữa các nhà nước. Thêm nữa, do sản xuất và trao đổi quốc tế ngày càng mạnh lên, vì
nhu cầu lợi ích của các nước, nhiều nước trong khu vực liên minh lại, hình thành lên

hơn của trình độ phát triển sức sản xuất. Sức sản xuất càng cao, xã hội hoá càng cao,

quan hệ giữa người với người càng mở rộng thì quan hệ giữa họ trong chiếm hữu, sử
dụng, hưởng thụ các điều kiện vật chất càng phong phú và đa dạng...Do vậy, sẽ là hợp
lý nếu cho rằng trong tương lai theo đà phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng có
thêm nhiều hình thức về sở hữu mới. Điều này là cơ sở cho sự kết luận, sự tồn tại và
phát triển nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu là vấn đề tính tất yếu khách quan, tồn

các khối liên minh kinh tế khu vực và quốc tế.

tại lâu dài theo sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất xã hội.

1.5.5. SỞ HỮU TRONG MÔ HÌNH XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA KIỂU CŨ

1.6.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, cuộc Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng 10
Nga đã đánh dấu một thời kỳ mới trong sự phát triển của xã hội loài người. Các nhà
cách mạng gọi là thời kỳ chuyển biến cách mạng từ chế độ tư bản chủ nghĩa sang chế
độ xã hội chủ nghĩa.

CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRÊN CƠ SỞ CÁC HÌNH THỨC SỞ
HỮU TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.6.1. PHÂN CHIA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
Theo lý thuyết hệ thống, toàn bộ nền kinh tế quốc dân là một hệ thống lớn
được cấu thành từ những phân hệ (hoặc hệ thống nhỏ) khác nhau. Mỗi phân hệ giữ vị
trí nhất định trong trong hệ thống kinh tế và giữa chúng luôn có quan hệ tương hỗ với

68

69



Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

nhau. Sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân phụ thuộc trực tiếp vào sự phát

tế - xã hội với tốc độ nhanh, hiệu quả cao và bền vững. Nguyên tắc chung cần quán

triển các phân hệ và vào tổ chức hợp lý mối quan hệ giữa các phân hệ ấy. Nhằm

triệt là các bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân không phân biệt hình thức sở hữu

những mục tiêu cụ thể trong hoạch định và điều hành các chính sách phát triển kinh tế

đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật, chúng có quan hệ tương hỗ với

- xã hội, các phân hệ cấu thành hệ thống kinh tế quốc dân được xác định theo những

nhau trong một hệ thống thống nhất và đều có những đóng góp vào thực hiện mục tiêu

tiêu chí khác nhau. Trong thực tế, có ba cách phân chia hệ thống kinh tế thành các

chung của cả cộng đồng quốc gia. Đó cũng là một trong các nguyên tắc của nền kinh


phân hệ (hệ thống nhỏ) được sử dụng một cách phổ biến: 1/ Theo tiêu chí ngành kinh

tế thị trường. Nhà nước và xã hội không thể có sự phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình

tế; 2/ Theo tiêu chí lãnh thổ; 3/ Theo tiêu chí quan hệ sản xuất, chủ yếu là quan hệ sở

thức nào, phải tạo lập môi trường bình đẳng, minh bạch, thông thoáng và ổn định để

hữu về tư liệu sản xuất.

huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất

Ở Việt Nam, trong các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước, theo quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, các phân hệ cấu thành hệ thống kinh tế quốc dân được
gọi là các “thành phần kinh tế”. Dẫu chủ trương “phát triển nền kinh tế nhiều thành

nước. Theo tinh thần đó, trong báo cáo này, chúng tôi sẽ không bàn tới việc sử dụng
thuật ngữ thành phần kinh tế hay thuật ngữ khu vực kinh tế, mà vẫn mặc nhiên sử
dụng thuật ngữ thành phần kinh tế như các văn bản chính thức hiện nay.

phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” đã được khẳng định một cách nhất quán và

Ở Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định chủ trương phát

được triển khai trong gần 25 năm qua, nhưng đến nay vẫn còn có những ý kiến khác

triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở

nhau về thuật ngữ “thành phần kinh tế”. Chương trình khoa học cấp nhà nước “Kinh


hữu. Tính từ đó, qua các kỳ Đại hội của Đảng, chủ trương này tiếp tục được khẳng

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (mã số KX 01) được thực hiện trong giai

định một cách nhất quán, nhưng số lượng và tên gọi của các thành phần kinh tế lại

đoạn 2001 – 2005 và một số nhà khoa đề xuất thay tên gọi “thành phần kinh tế” bằng

được điều chỉnh ở mức độ nhất định.

tên gọi “khu vực kinh tế”1. Cũng có ý kiến đề xuất dùng thuật ngữ “loại hình kinh

Hộp 1.7: Các thành phần kinh tế qua các kỳ Đại hội Đảng

tế”2. Thậm chí, còn có ý kiến đề xuất không dùng cả thuật ngữ “thành phần kinh tế”,

Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986):

“khu vực kinh tế” và “loại hình kinh tế”, mà gọi trực tiếp tên của mỗi bộ phận (chẳng

- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể,

hạn, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân…). Cuộc tranh luận dường như

cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần kinh tế đó.

chưa đến hồi kết thúc, mỗi loại ý kiến đều có lập luận riêng minh chứng đề xuất của

- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công,


mình là hợp lý.

nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản

Thiết nghĩ, không nên quá câu nệ về tên gọi mà cần quan tâm đến nội hàm của

tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư

mỗi bộ phận cấu thành hệ thống kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã

hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu

hội chủ nghĩa, vị trí của chúng trong hệ thống kinh tế trên cơ sở xem xét quan hệ biện

số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.

chứng giữa các bộ phận và xu hướng vận động của mỗi bộ phận. Đó là những cơ sở

Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991):

quan trọng để hoạch định và thực thi các chủ trương chính sách nhằm phát triển kinh

- Kinh tế quốc doanh.
1

GS.TS. Vũ Đình Bách (chủ biên): Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. NXB
Chính trị quốc gia, 2008.
2
GS.TSKH. Lương Xuân Qùy (chủ biên): Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay – Lý luận,
thực trạng và giải pháp. NXB Chính trị quốc gia, 2001.

PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh (chủ biên): Bàn về phát triển kinh tế (Nghiên cứu con đường dẫn tới giàu
sang). NXB Chính trị quốc gia, 2005…

- Kinh tế tập thể.
- Kinh tế cá thể.
- Kinh tế tư bản tư nhân.

70

71

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

lý kinh tế - xã hội chưa cao và chưa thật sự thiết thực. Cụ thể hơn, có thể nêu một số

- Kinh tế tư bản nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ VIII (7/1996):

điểm chưa hợp lý trong phân định các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, sự không rõ ràng và nhất quán về tiêu thức phân định các thành phần

- Kinh tế nhà nước.
- Kinh tế hợp tác, nòng cốt là các hợp tác xã.


kinh tế.
Dẫu rằng cơ sở để phân định các thành phần kinh tế là quan hệ sở hữu về tư

- Kinh tế tư bản nhà nước.

liệu sản xuất1, nhưng trên thực tế, sự phân chia này không thuần túy xuất phát từ chế

- Kinh tế cá thể, tiểu chủ.

độ sở hữu hay hình thức sở hữu, mà còn xuất phát từ quy mô, nguồn gốc sở hữu và

- Kinh tế tư bản tư nhân.

quan hệ lao động nữa. Chẳng hạn, nếu thành phần kinh tế nhà nước được xác định

Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001):

trên cơ sở cả hình thức sở hữu toàn dân và hình thức sở hữu nhà nước, thì thành phần
kinh tế tư nhân cấu thành từ kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân

- Kinh tế nhà nước.

được phân chia không những theo hình thức sở hữu, mà còn theo quy mô sở hữu và

- Kinh tế tập thể.

mức độ sử dụng lao động làm thuê. Trong khi đó, thành phần kinh tế có vốn đầu tư

- Kinh tế cá thể, tiểu chủ.


nước ngoài (bao gồm cả loại hình tổ chức kinh tế liên doanh giữa các chủ sở hữu
trong nước với các chủ sở hữu nước ngoài và loại hình tổ chức kinh tế hoàn toàn của

- Kinh tế tư bản nhà nước.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

chủ sở hữu nước ngoài) lại được xác định theo nguồn gốc xuất sứ của sở hữu.
Thứ hai, sự bất tương thích trong phạm vi đối tượng sở hữu trong sự phân định

Đại hội Đảng lần thứ X (4/2006):

các thành phần kinh tế.

- Kinh tế nhà nước.

Các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, bao gồm kinh tế tập thể, kinh tế tư

- Kinh tế tập thể.
- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).
- Kinh tế tư bản nhà nước.

nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chỉ bao hàm các tài sản hữu hình và vô hình
đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và mang lại lợi ích cho các
chủ sở hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. Đó là các tài sản vật chất, tiền vốn

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, 2005;
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, 2006

Sự thay đổi về số lượng và tên gọi của các thành phần kinh tế nêu tóm tắt trên

đây không phải chỉ là vấn đề từ ngữ, mà phản ánh ở mức độ nhất định nhận thức chưa
thật sự rõ ràng và chưa thống nhất về cơ sở, nội dung và bản chất của các bộ phận cấu
thành hệ thống kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cũng cần
nói thêm rằng, sự phân định hiện tại còn đậm nét lý thuyết, tính ứng dụng trong quản

72

và các tài sản vô hình khác mà các chủ sở hữu đã huy động được và đang được sử
dụng trong các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau, tức là các yếu tố “doanh
nghiệp”. Trong khi đó, phạm vi đối tượng sở hữu của thành phần kinh tế nhà nước
không chỉ bao gồm tất cả các đối tượng thuộc hình thức sở hữu nhà nước, mà còn cả
các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, từ các đối tượng hiện hữu đang được sử dụng
vào những mục đích khác nhau (mang lại các lợi ích kinh tế và phi kinh tế), đến các
1

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể và tư
nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế…” (NXB Chính trị quốc gia,
2006, trang 83). Thật ra, mệnh đề này chưa hoàn toàn chính xác, còn có sự lẫn lộn giữa chế độ sở hữu
và hình thức sở hữu, nhưng về cơ bản có thể hiểu quan hệ sở hữu là cơ sở phân định các thành phần
kinh tế.

73


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************


************************************************************************

yếu tố hiện hữu nhưng chưa được sử dụng và chưa biết đến bao giờ mới có thể huy

Trường hợp thứ hai liên quan đến tiêu chí xác định phạm vi của kinh tế tư bản

động vào sử dụng để đem lại những lợi ích cụ thể. Nói cách khác, thành phần kinh tế

tư nhân trong thành phần kinh tế tư nhân. Theo sự phân định của Văn kiện Đại hội

nhà nước được quy định bao gồm cả các yếu tố “doanh nghiệp” và các yếu tố “phi

Đảng lần thứ X, thành phần kinh tế tư nhân bao gồm “cá thể, tiểu chủ và tư bản tư

doanh nghiệp”. Và với phạm vi rộng lớn này, ngay trong thời điểm hiện tại chứ không

nhân”. Sự phức tạp chính là ở chỗ phân tách thành ba bộ phận ấy, đặc biệt là bộ phận

phải đến thời điểm xây dựng xong chủ nghĩa xã hội, kinh tế nhà nước đã giữ vị trí nền

kinh tế tư bản tư nhân. Trong thực tế, “cá thể và tiểu chủ” là những bộ phận kinh tế

tảng của nền kinh tế quốc dân rồi, đã tạo ra những điều kiện cơ bản để phát triển các

thuộc sở hữu tư nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh theo phạm vi hộ gia đình,

thành phần kinh tế khác rồi !

gọi là “hộ cá thể” và “hộ tiểu chủ”, không sử dụng hoặc sử dụng với mức độ nhỏ lao


Vấn đề không phải là “so đọ” phạm vi rộng hẹp các đối tượng sở hữu của mỗi
thành phần kinh tế và vai trò của các thành phần trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, mà chủ yếu là phải bảo đảm tính khoa học trong xác định tiêu chí phân định các
thành phần kinh tế. Từ đó, việc đánh giá vai trò đích thực của mỗi thành phần kinh tế
sẽ rõ ràng hơn và bảo đảm tính thuyết phục hơn.
Thứ ba, gây nên những khó khăn trong việc xác định tiêu chí phân biệt phạm vi
của một số thành phần kinh tế.

động làm thuê. Bộ phận kinh tế này tiêu biểu cho nền sản xuất nhỏ, phân tán và tính
tự phát cao. Các thống kê của Nhà nước thường không bao quát hết được quy mô và
sự biến động của bộ phận này. Nếu dùng phương pháp loại trừ, thì dường như bộ
phận còn lại được coi là “tư bản tư nhân”. Song trong thực tế, với những lý do cả về
kinh tế, chính trị và xã hội, lại không thể sử dụng phương pháp loại trừ giản đơn này
được. Đã có thời kỳ, người ta muốn nghiên cứu đề xuất tiêu chí xác định “tư bản tư
nhân” căn cứ vào quy mô kinh doanh (vốn, doanh thu), mức độ sử dụng lao động làm
thuê, sự tham gia của chủ sở hữu trong quá trình lao động…Đến nay vẫn chưa có một

Có những thành phần kinh tế mà phạm vi đối tượng sở hữu có thể được xác
định một cách rõ ràng ranh giới so với các thành phần kinh tế khác. Chẳng hạn, cơ sở
xác định thành phần kinh tế tập thể (theo nghĩa truyền thống của phạm trù “tập thể”)
sẽ bao hàm bộ phận tài sản thuộc sở hữu tập thể, trong đó có cả phần đóng góp của
các thành viên. Song với các thành phần kinh tế khác, việc xác định tiêu chí phân định
lại hết sức khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả thi.
Xin đơn cử hai trường hợp sau đây:

xác định cụ thể nào về các tiêu chí này. Bản thân việc xác định chúng là không khả thi
vì chắc chắn sẽ vấp phải hai khó khăn không dễ vượt qua:
- Các tiêu chí phân định kinh tế tư bản tư nhân (nếu muốn xác định và để có
thể sử dụng thiết thực trong công tác quản lý thực tế chứ không phải cho những
nghiên cứu mang tính lý thuyết) phải có tính ổn định trong những khoảng thời gian

nhất định. Song điều kiện kinh doanh luôn thay đổi, chủ sở hữu tư nhân phải điều
chỉnh hoạt động kinh doanh, trong đó có điều chỉnh quy mô vốn chủ sở hữu cho thích

Trường hợp thứ nhất liên quan đến việc quy định phạm vi hệ thống doanh

ứng với các điều kiện của môi trường: nếu điều kiện kinh doanh thuận lợi, họ sẽ

nghiệp nhà nước. Theo quy định hiện hành, hệ thống doanh nghiệp nhà nước bao gồm

không ngừng mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu; ngược lại, nếu tình hình kinh doanh

hai bộ phận: 1/ Các doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn và tài sản; 2/ Các

khó khăn, họ sẽ điều chỉnh giảm quy mô vốn chủ sở hữu; thậm chí, có thể chủ sở hữu

doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối. Bộ phận thứ hai

sẽ phân tán tài sản của mình cho những người khác lập các tổ chức kinh doanh độc

thực chất là tổ chức kinh doanh có sở hữu hỗn hợp và được quy định là doanh nghiệp

lập về pháp lý nhưng chính họ vẫn là người nắm sở hữu của các tổ chức kinh doanh

nhà nước. Bao hàm cả bộ phận này, thành phần kinh tế nhà nước không còn thuần

ấy. Từ tình hình đó, cơ quan quản lý nhà nước không thể chạy theo sự điều chỉnh của

khiết là sở hữu nhà nước nữa. Trong quá trình phát triển, sự phát triển đan xen giữa

các nhà kinh doanh để xác định phạm vi kinh tế tư bản tư nhân được.


các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế trở thành một xu hướng có tính phổ

- Về chính trị - xã hội, tương ứng với kinh tế tư bản tư nhân là giai cấp tư sản.

biến. Theo đó, việc phân định các thành phần kinh tế chỉ có ý nghĩa hết sức tương đối.

Trong điều kiện thực tế Việt Nam, điều đó sẽ vấp phải cản trở cả về tâm lý, lẫn về

74

75

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

chính trị - xã hội: nhà kinh doanh “tư bản tư nhân” e ngại mình trở thành bộ phận đối

nước để có thể sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích kinh tế tư bản tư nhân; 3/ Thể

lập với định hướng xã hội chủ nghĩa; định kiến của xã hội với nhà tư sản không dễ

hiện thái độ chính trị của Đảng Cộng sản cầm quyền trong việc coi trọng trong nhận

thay đổi. Chính những điều này lại gây nên những cản trở trọng việc huy động các


thức và sử dụng trong hành động thực tế kinh tế tư bản phù hợp với điều kiện thời kỳ

nguồn lực vào đầu tư phát triển. Để có sự thông thoát từ cả phía Nhà nước, cộng đồng

quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

xã hội và các nhà đầu tư tư nhân, cần có nhận thức hợp lý và sâu sắc hơn về đặc điểm
và yêu cầu kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Yêu cầu quan
trọng hàng đầu trong giai đoạn này là huy động được nguồn lực của toàn bộ xã hội để
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để đạt được yêu
cầu này, dưới sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền, Nhà nước không phải chỉ tạo
môi trường kinh tế và pháp lý ổn định, thông thoáng, minh bạch, mà còn phải tạo
những điều kiện về chính trị - xã hội, trong đó có sự đồng thuận về mặt xã hội, để các
nhà đầu tư yên tâm và hăng hái mang hết khả năng về tài chính và trí tuệ thể hiện
trách nhiệm của người công dân với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đồng thời, Nhà nước cần quan tâm tới việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao
động làm thuê, chú trọng bảo đảm an sinh xã hội. Đó chính là những việc cần làm để
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc sử dụng kinh tế tư nhân phù hợp với
đặc điểm và yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với điểm xuất phát ban
đầu còn hết sức thấp kém.

Ngoài các hình thức “tô nhượng”, “liên kết” giữa các chủ thể kinh tế nhà nước
và chủ thể kinh tế tư bản tư nhân trong việc thực hiện hoạt động đầu tư,…còn có
nhiều hình thức khác để Nhà nước sử dụng kinh tế tư bản tư nhân phục vụ công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cũng cần nói thêm rằng, các quan hệ liên kết
này không chỉ được thực hiện với các chủ thể kinh tế tư bản tư nhân, mà còn với cả
các chủ thể kinh tế khác nữa hoàn toàn không có yếu tố “nhà nước”.
Như vậy, trong quá trình phát triển kinh tế, việc thiết lập quan hệ liên kết giữa
các chủ thể kinh tế thuộc các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế khác nhau là

một tất yếu khách quan. Việc xác định kinh tế tư bản nhà nước như một thành phần
kinh tế là không cần thiết và không có cơ sở thực tế.
Thứ năm, chưa thể hiện xu hướng phát triển đan xen giữa các hình thức sở hữu,
các thành phần kinh tế.
Trong thực tế, dưới sự tác động của nhiều nhân tố, như sự phát triển khoa học

Thứ tư, sự không rõ ràng trong xác định “thành phần kinh tế tư bản nhà nước”.
Tuy được đề cập khá nhiều trong các nghiên cứu lý luận ở Việt Nam và hiện
diện trong tất cả các cách xác định thành phần kinh tế qua các kỳ Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam, nhưng đến nay vẫn còn những cách hiểu và giải thích khác nhau về
phạm trù “chủ nghĩa tư bản nhà nước”, “kinh tế tư bản nhà nước” và “thành phần kinh
tế tư bản nhà nước”. Tuy nhiên, theo tư tưởng của V. I. Lê nin, đó là sản phẩm của
việc Nhà nước sử dụng kinh tế tư bản tư nhân dưới những hình thức khác nhau nhằm
huy động vốn, tài sản, kỹ thuật và kỹ năng quản lý của họ cho mục đích xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Về cơ bản, việc coi kinh tế tư bản nhà nước là ¾ xã hội chủ nghĩa được
hiểu theo nghĩa: 1/ Phát triển lực lượng sản xuất lên trình độ “đại sản xuất”, “nền sản
xuất tiên tiến”, “nền sản xuất cơ khí hóa”…là cái mà chủ nghĩa xã hội cần và đang rất
thiếu; 2/ Nâng cao trình độ quản lý ở cả tầm vi mô và vĩ mô vừa bằng cách sử dụng
kỹ năng quản lý hiện đại của nhà tư sản, vừa bằng cách tự hoàn thiện quản lý của Nhà

76

công nghệ, tình trạng cạnh tranh trên thị trường, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế,
cách thức chia xẻ rủi ro trong đầu tư kinh doanh, sự phát triển các quan hệ liên kết
dưới các hình thức khác nhau là một xu hướng mang tính khách quan. Việc phân định
các thành phần kinh tế, mỗi thành phần kinh tế có những đặc trưng riêng, chỉ mang
tính chất quy ước. Trong thực tế, không có thành phần kinh tế nào, loại hình doanh
nghiệp nào có thể tồn tại một cách biệt lập. Hơn nữa, các hình thức sở hữu luôn có sự
vận động và biến đổi, trong đó có cả sự biến đổi từ hình thức sở hữu này sang hình
thức sở hữu khác. Ngoài sự đan xen liên kết giữa các hình thức sở hữu và các thành

phần kinh tế, còn có sự chuyển hóa một bộ phận của thành phần kinh tế này thành
một bộ phận của thành phần kinh tế khác, loại hình doanh nghiệp này thành loại hình
doanh nghiệp khác.
Đó là điều mà trong sự phân định các thành phần kinh tế hiện nay chưa thể
hiện được.

77


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

Những bất cập trên đây thể hiện trong cả căn cứ, nội dung và định vị các thành

Hộp 1.8. Kết cấu nền kinh tế Trung Quốc theo quan hệ sở hữu

phần kinh tế trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

Hiện nay, nền kinh tế sở hữu của Trung Quốc chủ yếu gồm nền kinh tế nhà

nghĩa ở Việt Nam.

nước, nền kinh tế tập thể, nền kinh tế tư doanh, nền kinh tế cá thể, nền kinh tế liên
doanh, nền kinh tế cổ phần, nền kinh tế thương nhân nước ngoài đầu tư, nền kinh tế


Có lẽ cần đặt lại một vấn đề tưởng chừng như đơn giản nhưng lại chưa được

thương nhân Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan đầu tư.

chú ý luận giải một cách rõ ràng với tính thuyết phục cao: mục tiêu của việc phân
định các thành phần kinh tế là gì? Trên góc độ nghiên cứu, mục tiêu này thường được

Nền kinh tế nhà nước là loại hình kinh tế mọi tư liệu sản xuất thuộc về Nhà

luận giải theo cách: nếu khẳng định tính tất yếu của sự tồn tại các hình thức đa dạng

nước. Nền kinh tế tập thể là loại hình kinh tế mọi tư liệu sản xuất thuộc về tập thể

trong thời kỳ quá độ (và gắn liền với điều này là việc phát triển nền kinh tế thị trường

công dân. Nền kinh tế tư doanh là loại hình kinh tế mọi tư liệu sản xuất thuộc về
công dân tư hữu và cơ sở là lao động thuê mướn. Nền kinh tế cá thể là loại hình kinh

có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng cơ chế thị

tế mọi tư liệu sản xuất thuộc về người lao động cá thể, cơ sở là lao động cá thể, do

trường như một phương thức để xây dựng chủ nghĩa xã hội), thì tất yếu phải hình

người lao động cá thể chiếm hữu và chi phối thành quả lao động. Nền kinh tế liên

thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, từ đó cần xác định những thành phần kinh tế

doanh là loại hình kinh tế do các xí nghiệp có chế độ sở hữu khác nhau hoặc xí


tương ứng với các hình thức sở hữu đó, xác định vai trò của mỗi thành phần và mối

nghiệp và đơn vị sự nghiệp cùng đầu tư. Nền kinh tế cổ phần là loại hình kinh tế do

quan hệ giữa các thành phần để có định hướng phát triển và quản lý phù hợp. Thiết

các cổ đông cùng góp vốn và đầu tư xây xí nghiệp bằng hình thức cổ phần. Nền kinh

nghĩ, việc phân định nền kinh tế quốc dân theo những tiêu chí khác nhau là điều cần

tế thương nhân nước ngoài đầu tư là loại hình kinh tế do thương nhân nước ngoài

thiết để có những biện pháp và phương thức quản lý phù hợp, nhưng cần chú ý hai

đầu tư với hình thức liên doanh, hợp tác hoặc độc doanh xây xí nghiệp tại địa phận

điểm hết sức cơ bản:

Trung Quốc theo pháp luật và pháp quy hữu quan của Trung Quốc, nền kinh tế này
gồm 3 hình thức: xí nghiệp liên doanh vốn giữa Trung Quốc và nước ngoài; xí

1/ Các bộ phận ấy là những “mảnh” riêng rẽ với những đặc trưng riêng, nhưng

nghiệp hợp tác vốn giữa Trung Quốc và nước ngoài; xí nghiệp độc doanh (tức 100

lại luôn có quan hệ tương hỗ và hợp thành một hệ thống thống nhất. Cơ cấu kinh tế

% vốn nước ngoài). Nền kinh tế thương nhân Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan đầu

của mỗi quốc gia không phải là con số cộng giản đơn các bộ phận ấy, mà điều quan


tư là loại hình kinh tế do thương nhân Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan đầu tư và

trọng là thể hiện rõ quan hệ tương tác giữa chúng.

xây xí nghiệp tại nội địa với hình thức liên doanh, hợp tác và độc doanh theo luật

2/ Với những đặc trưng riêng ấy, trong quá trình tồn tại và phát triển, mỗi bộ

pháp và pháp quy về kinh tế của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nền kinh tế

phận có sự vận động riêng mang tính quy luật tự nhiên. Điều quan trọng trong quản lý

này tham khảo nền kinh tế thương nhân nước ngoài đầu tư, cũng chia làm 3 hình

kinh tế vĩ mô là đưa ra những quyết định quản lý phù hợp với tính quy luật tự nhiên

thức: xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp hợp tác và xí nghiệp độc doanh.

ấy và hướng sự vận động của từng bộ phận vào quỹ đạo chung của cả hệ thống (tạo

Nguồn: China ABC – Kết cấu chế độ sở hữu. Vietnamese.cri.cn/…/30302.htm

hành lang hợp lý cho sự vận động), nhằm góp phần vào thực hiện mục tiêu chung của
Ở Việt Nam, việc phân định thành phần kinh tế hiện nay còn khá phức tạp và

cả hệ thống.
Ở Trung Quốc, dường như sự phân chia các bộ phận cấu thành nền kinh tế căn
cứ vào quan hệ sở hữu được xác định một cách đơn giản và rõ ràng hơn, gắn hơn với
đặc điểm các loại hình tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường.


tính ứng dụng trong thực tiễn quản lý vĩ mô là không cao. Đơn cử một ví dụ: các
thống kê chính thức của Nhà nước Việt Nam về thành phần kinh tế chưa bao giờ thể
hiện tương thích với nội dung phân định thành phần kinh tế trong các văn kiện của
Đảng.
Hộp 1.9: Phân định thành phần kinh tế và thống kê theo thành phần kinh tế

78

79

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

Theo văn kiện Đại hội Đảng

Theo Niên giám thống kê

Nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986 – 1990)
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa: khu vực quốc - Trong hệ thống tài khoản quốc gia:

- Kinh tế cá thể, tiểu chủ.

- Kinh tế hỗn hợp.


- Kinh tế tư bản tư nhân.

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

(theo Văn kiện Đại hội VIII)

doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ không có thống kê theo thành phần kinh tế.

(theo Niên giám thống kê 2000)

Nhiệm kỳ Đại hội IX (2001 – 2005)

phận kinh tế gia đình gắn liền với thành - Thống kê nông nghiệp: không có thống
phần kinh tế đó.
kê theo thành phần kinh tế.

- Kinh tế nhà nước.

- Kinh tế nhà nước.

- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế - Thống kê công nghiệp: quốc doanh, chia
tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư ra trung ương và địa phương; ngoài quốc

- Kinh tế tập thể.

- Kinh tế ngoài nhà nước

- Kinh tế cá thể, tiểu chủ.

Trong đó: + Kinh tế tập thể


nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều doanh, chia ra tập thể và tư nhân, hộ thủ
hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp công nghiệp và cá thể.

- Kinh tế tư bản nhà nước.

+ Kinh tế tư nhân

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

+ Kinh tế cá thể

- Thống kê thương mại: quốc doanh và

(theo Văn kiện Đại hội IX)

doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc.
(theo Văn kiện Đại hội VI)

hợp tác xã mua bán; tư nhân.

(theo niên giám thống kê 2005)

(theo Niên giám thống kê 1990)
Nhiệm kỳ Đại hội VII (1991 – 1995)
- Kinh tế quốc doanh.

- Trong hệ thống tài khoản quốc gia:

- Kinh tế tập thể.


không có thống kê theo thành phần kinh tế.
- Thống kê nông nghiệp: không có thống

- Kinh tế cá thể.

kê theo thành phần kinh tế.

- Kinh tế tư bản tư nhân.

- Thống kê công nghiệp: quốc doanh, chia

- Kinh tế tư bản nhà nước.
(theo Văn kiện Đại hội VI)

- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

Nhiệm kỳ Đại hội X
- Kinh tế nhà nước.

- Kinh tế nhà nước.

- Kinh tế tập thể.

- Kinh tế ngoài nhà nước

- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản

Trong đó: + Kinh tế tập thể


tư nhân).

+ Kinh tế tư nhân

- Kinh tế tư bản nhà nước.

+ Kinh tế cá thể

ra trung ương và địa phương; ngoài quốc

- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

doanh, chia ra tập thể, tư nhân, hỗn hợp,

(theo Văn kiện Đại hội X)

(theo Niên giám thống kê 2008)

hộ và cá thể.
- Thống kê thương mại: quốc doanh và

theo loại hình tổ chức kinh tế: doanh nghiệp nhà nước (gồm cả doanh nghiệp kinh tế

(theo Niên giám thống kê 1996)

Đảng, đoàn thể do Nhà nước cấp vốn); doanh nghiệp tập thể (thành lập theo Luật Hợp

Nhiệm kỳ Đại hội VIII (1996 - 2000)

- Kinh tế nhà nước.

- Kinh tế nhà nước.

- Kinh tế hợp tác, nòng cốt là hợp tác xã.

- Kinh tế tập thể.

- Kinh tế tư bản nhà nước.

- Kinh tế cá thể.

80

Trong các thống kê những năm gần đây, còn có nội dung xác định các số liệu

hợp tác xã mua bán; tư nhân.

tác xã); doanh nghiệp tư nhân; công ty hợp danh; công ty trách nhiệm hữu hạn; công
ty cổ phần; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài. Trong những số liệu thống kê chính thức ấy, không hề có số liệu thống kê về
kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước.

81


Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10


************************************************************************

************************************************************************

Ở quốc gia nào và với thể chế chính trị nào, những số liệu thống kê bao giờ

- Nhóm các yếu tố vật chất mà Nhà nước sử dụng vốn ngân sách, kể cả các

cũng là một trong những cơ sở quan trọng cho hoạch định và chỉ đạo thực thi các

nguồn vốn mà Nhà nước huy động (trái phiếu chính phủ, công trái, vốn hỗ trợ phát

chính sách kinh tế vĩ mô. Với những quốc gia ở đó Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh

triển chính thức – ODA…), để đầu tư phát triển (đường xá và một số yếu tố hạ tầng

đạo toàn diện các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, Nhà nước có trách nhiệm cụ thể

cứng khác). Nhóm này cũng có vai trò là điều kiện phát triển các thành phần kinh tế

hóa và tổ chức triển khai thực hiện các quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của

khác. Sự phát triển nhóm này thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc tạo điều kiện

Đảng. Với việc phân định thành phần kinh tế trong các Văn kiện của Đảng nêu trên,

vật chất để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

rõ ràng là Nhà nước đã không thể thực thi được trách nhiệm của mình. Nói một cách
thẳng thắn, việc phân định các thành phần kinh tế ở Việt Nam còn đậm nét lý thuyết

kinh tế chính trị và chưa thật sự gắn với yêu cầu thực tiễn hoạch định chính sách tạo
động lực huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”. Mặt khác, sự
phân định các thành phần kinh tế cũng phải tạo ra một trong những cơ sở để định
hướng “phân vai” trong phân bổ các nguồn lực quốc gia vào đầu tư phát triển và quản
lý sử dụng kết quả đầu tư một cách có hiệu quả nhất: Nhà nước tập trung đầu tư vào
phát triển cơ sở hạ tầng cứng và mềm, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế xã hội và đầu tư vào những công trình trọng điểm quốc gia, đặc biệt là những công
trình liên quan trực tiếp đến quốc phòng – an ninh; các thành phần kinh tế ngoài nhà

- Nhóm các doanh nghiệp nhà nước được hình thành trên cơ sở đầu tư của Nhà
nước, kể cả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước (thường được coi là đầu tư có
nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước). Về nguyên tắc, các doanh nghiệp này chỉ được
phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế. Các
doanh nghiệp này hoạt động theo các nguyên tắc thị trường và bình đẳng với các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, Nhà nước chỉ can thiệp vào hoạt
động của chúng trong những trường hợp đặc biệt. Theo tinh thần đó, cũng có thể gọi
nhóm này là kinh tế quốc doanh, bởi lẽ đây là biểu hiện cụ thể của việc Nhà nước
thực hiện hoạt động kinh tế.
Với những nhóm này, có ba điểm cần chú ý:

nước đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất hàng hóa thông thường phù hợp với nhu cầu thị

Thứ nhất, phải có những quy định rõ ràng, công khai và minh bạch về quyền

trường, đồng thời được huy động tham gia đầu tư vào phát triển một số yếu tố của cơ

hạn và trách nhiệm của Nhà nước với tư cách chủ thể của kinh tế nhà nước để ngăn

sở hạ tầng dưới những hình thức thích hợp. Cách phân định thành phần kinh tế hiện


ngừa hai khuynh hướng tiêu cực có thể xảy ra: 1/ Tình trạng vô chủ khi có nhiều cơ

nay cũng không đạt được yêu cầu này.

quan trong bộ máy quản lý nhà nước coi mình là chủ thể của kinh tế nhà nước; 2/ Nhà

Từ những phân tích trên đây, chúng tôi đề nghị chỉ nên phân chia nền kinh tế
thành ba thành phần: 1/ Kinh tế nhà nước; 2; Kinh tế tư nhân; 3/ Kinh tế hỗn hợp.
Thành phần kinh tế Nhà nước
Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước. Thành phần kinh tế Nhà nước
sẽ bao quát toàn bộ các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn
dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu. Trong các yếu tố này lại được
chia cụ thể hơn thành ba nhóm:

nước lạm quyền sử dụng các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân và các yếu tố được hình
thành từ sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác để phát triển các doanh nghiệp
nhà nước.
Thứ hai, các nhóm yếu tố thứ nhất và thứ hai thể hiện sự ủy quyền của xã hội
cho Nhà nước để thực thi vai trò “người nhạc trưởng” và “bà đỡ” cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Qua những yếu tố này thể hiện vai trò của kinh tế nhà
nước, nhưng về bản chất chúng thể hiện rõ nét hơn vai trò của Nhà nước trong việc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Nhóm các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân, ví dụ đất đai và tài nguyên gắn với
đất đai đó, vùng biển và tài nguyên gắn với vùng biển…Nhóm này có vai trò như điều
kiện để phát triển tất cả các thành phần kinh tế.

Thứ ba, khi xem xét mối tương quan giữa thành phần kinh tế nhà nước với các
thành phần kinh tế khác và qua đó xác định vai trò của các thành phần kinh tế trong


82

83

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

nền kinh tế thị trường, cần bảo đảm “tính tương đương” (cũng có thể gọi là “đồng

phép riêng của chính quyền, phục vụ cho nhau hay cho các xí nghiệp tư nhân chính

đẳng”). Điều này liên quan trực tiếp đến xác định vị trí và vai trò của hệ thống doanh

thức.

nghiệp nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Đó là điều cần thiết để có sự
nhìn nhận đúng về vai trò của các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế
thị trường và có những quyết sách hợp lý về mức độ phát triển chúng.

d/ Bất kể việc sử dụng hữu ích của tài sản tư nhân hay tiết kiệm tư nhân, kể từ
việc thuê nhà sở hữu tư nhân, đến việc vay mượn giữa các tư nhân với nhau.
Kornai Janos: Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do. NXB Tri thức, 2007,
trang 27 – 28

Thành phần kinh tế tư nhân

Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân về vốn và tài sản,

Việc phát triển kinh tế tư nhân thể hiện sự tôn trọng quyền tự chủ của các chủ

không phân biệt quy mô sở hữu, quy mô kinh doanh và quan hệ lao động. Phạm vi

sở hữu trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ luật pháp nhà

của thành phần kinh tế tư nhân là tất cả các yếu tố đã và đang được huy động cho hoạt

nước. Quyền tự chủ kinh doanh của các chủ sở hữu tư nhân được tôn trọng cùng với

động kinh tế, bao gồm cả các yếu tố hữu hình và các yếu tố vô hình. Về mặt tổ chức,

việc đề cao tính tự chịu trách nhiệm với kết quả kinh doanh. Do quyền lợi và trách

thành phần kinh tế tư nhân chủ yếu bao gồm loại hình tổ chức kinh doanh một chủ sở

nhiệm gắn liền với chủ sở hữu, nên người chủ thường luôn quan tâm đến hiệu quả sử

hữu (đơn sở hữu), như doanh nghiệp tư nhân, hộ tiểu chủ và hộ cá thể, trang trại trong

dụng tài sản của họ. Chính điều đó tạo nên động lực thúc đẩy hoạt động đầu tư và

nông, lâm, ngư nghiệp. Các hộ kinh doanh cá thể này không phải chỉ tính đến các hộ

kinh doanh của các chủ sở hữu kinh tế tư nhân. Việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư

thủ công nghiệp và kinh doanh dịch vụ, mà còn phải tính cả các hộ nông dân cá thể.


nhân, khuyến khích các chủ sở hữu tư nhân làm giàu hợp pháp và góp phần làm giàu

Kornai Janos có một quan niệm rộng hơn về thành phần kinh tế tư nhân. Ngoài

cho xã hội là cách thức quan trọng giải phóng sức sản xuất, góp phần giải quyết các

bộ phận thực hiện các hoạt động sản xuất và dịch vụ, ông còn đưa cả bộ phận kinh tế

vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước. Việc phát huy vai trò của kinh tế tư nhân trong

tư nhân tự cung tự cấp và tất cả các hoạt động sử dụng tài sản tư nhân nhằm tìm kiếm

cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một mặt,

lợi nhuận (gửi tiền tiết kiệm, cho vay mượn giữa các tư nhân với nhau theo các kênh

phụ thuộc vào năng lực và động cơ kinh doanh của các chủ sở hữu tư nhân, mặt khác,

tài chính phi chính thức, cho thuê nhà thuộc sở hữu tư nhân…) vào khu vực kinh tế tư

quan trọng hơn, phụ thuộc vào năng lực, hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước về

nhân. Trong khi đó, ở Việt Nam chỉ tính đến các chủ sở hữu tư nhân hoạt động trong

kinh tế. Khi quản lý nhà nước về kinh tế còn yếu kém, Nhà nước luôn e ngại sự phát

lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực dịch vụ, trực tiếp cung cấp các sản phẩm hàng hóa hoặc

triển kinh tế tư nhân có thể vượt quá khả năng kiểm soát và điều tiết của mình; ngược


các dịch vụ cho thị trường.

lại, một Nhà nước có năng lực, bản lĩnh chính trị, hoạt động có hiệu lực hiệu quả sẽ

Hộp 1.10. Một quan niệm khác về phạm vi của kinh tế tư nhân
“Để tránh hiểu lầm, cần làm rõ rằng tôi coi những gì thuộc khu vực tư nhân:
a/ Hộ gia đình, như một đơn vị kinh tế; sự sản xuất và dịch vụ trong nội bộ hộ
gia đình cho nhu cầu bản thân của họ.
b/ Xí nghiệp tư nhân chính thức, hoạt động theo những quy định của luật pháp,
bất kể ở mức độ nào, từ việc kinh doanh của một cá nhân đến xí nghiệp lớn.

hoàn toàn có khả năng đưa kinh tế tư nhân hoạt động trong quỹ đạo đã vạch ra và sử
dụng kinh tế tư nhân vào việc thực hiện mục tiêu của cả xã hội. Cũng cần nhấn mạnh
rằng, trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước, vừa là người
quản lý toàn bộ nền kinh tế, tất cả các thành phần kinh tế đều là đối tượng quản lý của
Nhà nước, vừa là người chủ sở hữu các doanh nghiệp nhà nước. Trong điều kiện này,
việc tạo lập một môi trường bình đẳng cho các doanh nghiệp, không phân biệt thành
phần kinh tế và hình thức sở hữu là trách nhiệm cao cả của Nhà nước. Mọi sự thiên vị

c/ Xí nghiệp tư nhân phi chính thức, tức là một đơn vị của “kinh tế ẩn”. Loại này

và phân biệt đối xử ở mọi mức độ và dưới mọi hình thức đều trái với nguyên tắc thị

bao gồm mọi hoạt động sản xuất và dịch vụ do các cá nhân thực hiện, không có giấy

trường và là biểu hiện cụ thể việc Nhà nước không làm tròn bổn phận của mình. Nói

84

85



Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

điều đó hoàn toàn không phủ nhận mọi ưu đãi và khuyến khích mà Nhà nước cần và

- Tài sản ấy, về nguyên tắc, được chia thành hai loại: 1/ Một loại vẫn thuộc

có thể sử dụng trong quá trình thực thi chức trách. Nếu có những ưu đãi, thì chúng chỉ

quyền sở hữu của người đóng góp tài sản, nhưng được trao quyền quản lý và quyền sử

có thể mang tính thời đoạn và ngắn hạn để tạo nền tảng ban đầu cho mỗi chủ thể đầu

dụng cho người đại diện tổ chức kinh doanh để phục vụ thực hiện nhiệm vụ của tổ

tư vào lĩnh vực mà Nhà nước và xã hội mong muốn, sự ưu đãi đó cũng phải tuân thủ

chức đó; 2/ Một loại được hình thành từ những nguồn khác ngoài phần đóng góp của

nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử.

các thành viên sẽ thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức.
- Sự tách rời giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và quyền sử dụng được thể


Thành phần kinh tế hỗn hợp
Sự giống nhau cơ bản của doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân là các loại hình đơn sở hữu và đơn chủ sở hữu. Tuy các loại
hình tổ chức kinh doanh chứa đựng các hình thức sở hữu này có những ưu thế nhất
định, nhưng với yêu cầu mở rộng quy mô kinh doanh, nghiên cứu và ứng dụng những

hiện rõ nét: người đóng góp tài sản ủy quyền quản lý và quyền sử dụng tài sản cho
những người đại diện được chính họ bầu ra theo những nguyên tắc nhất định. Trong
tổ chức có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những người được ủy quyền
với kết quả và hiệu quả hoạt động của tổ chức.

thành tựu mới của khoa học công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh trước áp lực

- Tính đa dạng về quy mô của tổ chức được thành lập. Quy mô ấy phụ thuộc

cạnh tranh ngày càng gay gắt, các loại hình tổ chức ấy lại bộc lộ nhiều khiếm khuyết

vào số lượng và quy mô của các thành viên liên kết. Ngày nay, bên cạnh các tập đoàn

và bấp cập. Sự phát triển các loại hình tổ chức kinh doanh trên cơ sở liên kết các chủ

kinh tế đa quốc gia (TNC), cũng tồn tại và phát triển nhiều tổ chức kinh tế hỗn hợp

sở hữu khác nhau được khẳng định như một tất yếu khách quan. Đó là cơ sở để hình

với quy mô nhỏ. Sự cơ động về quy mô cũng tạo ra ưu thế của các loại hình tổ chức

thành thành phần kinh tế hỗn hợp.


của thành phần kinh tế này trong việc tập hợp các chủ thể sở hữu khác nhau với năng

Thành phần kinh tế này bao gồm các tổ chức kinh tế được hình thành từ sự liên

lực và ý nguyện khác nhau.

kết các chủ sở hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế nhà nước và chủ thể kinh

Với những điều đã trình bày trên đây, thành phần kinh tế hỗn hợp có phạm vi

tế tư nhân trong nước; giữa chủ thể kinh tế nhà nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước

rộng hơn nhiều so với “thành phần kinh tế tập thể” theo cách hiểu hiện nay. “Thành

ngoài; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư

phần kinh tế tập thể” hiện nay tương ứng với cách hiểu về “hình thức sở hữu tập thể”,

nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài…Hình thức biểu hiện của bộ

mà hình thức sở hữu này chỉ liên quan đến sự liên kết các chủ sở hữu tư nhân nhỏ

phận kinh tế này là các loại hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ 2

trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại. “Thành phần kinh tế hỗn hợp”

chủ sở hữu trở lên, hợp tác xã. Tuy mỗi loại hình tổ chức kinh doanh này có quy chế

theo đề xuất trên đây bao quát tất cả các hình thức liên kết giữa các chủ sở hữu khác


hoạt động cụ thể riêng, nhưng giữa chúng có một số điểm chung:

nhau được phát triển trên cơ sở xu hướng phát triển đan xen các hình thức sở hữu.

- Tài sản và vốn của tổ chức kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của
các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được
hưởng lợi tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp khi tổ chức kinh doanh này hoạt động
có hiệu quả và chịu trách nhiệm tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp khi tổ chức kinh
doanh này bị thua lỗ. Sự tuân thủ nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi là cơ sở bảo
đảm tính bền vững của tổ chức kinh doanh chung.

Trong các loại hình tổ chức của thành phần kinh tế hỗn hợp, các tổ chức liên kết giữa
những người sản xuất hàng hóa nhỏ có vị trí đặc biệt quan trọng không những về kinh
tế, mà còn cả về xã hội. Chính vì lẽ đó, tuy không giữ được vị trí trọng yếu trong nền
kinh tế, nhưng các hợp tác xã đều được phát triển rộng rãi ở tất cả các quốc gia và đều
được nhận những ưu đãi và hỗ trợ từ phía Nhà nước.
Tóm lại, nếu dựa trên cơ sở các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường,
nền kinh tế quốc gia sẽ được phân định thành ba thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước,
kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp. Khi nghiên cứu đánh giá kinh tế nhà nước cần đặt

86

87

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************


************************************************************************

trong mối quan hệ với việc thực thi vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường:

thể hiện qua đánh giá vai trò của các doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần

1/ Với tư cách là người quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, Nhà nước có trách

thứ 3 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IX về “Đổi mới và phát triển doanh

nhiệm bảo đảm những điều kiện vật chất cơ bản cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế

nghiệp nhà nước” đã xác định vai trò của doanh nghiệp nhà nước là “làm công cụ vật

quốc dân; 2/ Với tư cách chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước tổ

chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế” và “đi đầu

chức lực lượng kinh tế của mình và, về nguyên tắc, phải bảo đảm các doanh nghiệp ấy

trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng

hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật”.

1.6.2. VỊ TRÍ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Một vấn đề quan trọng của phân định các bộ phận cấu thành nền kinh tế theo


Xin nêu một số ý kiến về vấn đề này.
Thứ nhất, để định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước phải sử dụng
nhiều công cụ khác nhau trong mối quan hệ tương hỗ với nhau. Trong điều kiện phát

quan hệ sở hữu ở Việt Nam là xác định vai trò của mỗi thành phần kinh tế trong hệ

triển nền kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hệ

thống kinh tế quốc dân, trong đó lớn nhất là vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.

thống luật pháp phải được coi là công cụ chủ yếu và quan trọng hàng đầu, ngoài ra

Đảng ta đã xác định “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” và giải thích vai
trò này “không phải thể hiện ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỷ trọng đóng góp
vào tổng sản phẩm xã hội cao hay thấp, mà ở chỗ nó là lực lượng vật chất quan trọng
để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện để các
thành phần kinh tế cùng phát triển”1. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều ý kiến
khác nhau về vai trò này.
Nếu với phạm vi được quy định như hiện nay, thì rõ ràng thành phần kinh tế
nhà nước giữ vai trò quyết định với sự phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bởi lẽ
nó tạo ra những điều kiện mang tính chất nền tảng cho sự phát triển các thành phần
kinh tế. Không một chủ sở hữu nào, một thành phần kinh tế nào có thể phát triển nếu
thiếu những điều kiện về đất đai và về hạ tầng kinh tế - xã hội. Song nếu xem xét như
vậy dường như có sự lầm lẫn giữa kinh tế nhà nước - một bộ phận cấu thành hệ thống
kinh tế quốc dân thống nhất - với Nhà nước - chủ thể có trách nhiệm tạo điều kiện
phát triển hệ thống kinh tế quốc dân. Nếu lấy lực lượng doanh nghiệp của các thành
phần kinh tế để xem xét, thì vai trò của các thành phần kinh tế trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước sẽ bảo đảm sự “công bằng” và chính xác hơn.
Trong khi coi doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của thành phần
kinh tế nhà nước, thì việc đánh giá vai trò của thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu

1

còn nhiều công cụ chính sách khác nữa (như thuế, tài chính, tiền tệ, kế hoạch…).
Công cụ vật chất mà Nhà nước có thể sử dụng sẽ là lực lượng dự trữ quốc gia, hệ
thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội…Việc tạo ra một môi trường pháp lý tin cậy cho
các chủ thể kinh tế phát huy tối đa năng lực vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của quản
lý nhà nước về kinh tế. Nghĩa vụ cơ bản nhất của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường là cung cấp “hàng hóa công”, những hàng hóa mà các chủ thể kinh tế khác
tham gia thị trường không cung ứng được hoặc cung ứng không đầy đủ, đặc biệt là
các yếu tố của hạ tầng kinh tế - xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế là làm cho thị
trường vận hành có hiệu quả, tránh những can thiệp làm méo mó các quan hệ thị
trường. Nếu coi doanh nghiệp nhà nước, bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước, là
công cụ vật chất quan trọng sẽ khó tránh khỏi khuynh hướng Nhà nước tiếp tục đầu tư
nhiều hơn phát triển doanh nghiệp nhà nước với sự biện minh là tạo cho mình một
công cụ vật chất mạnh. Điều này lại là nguyên nhân trực tiếp của việc phát triển phân
tán và quá mức các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, dẫu rằng các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang chiếm giữ các
khâu then chốt, trọng yếu của nền kinh tế và đóng góp phần quan trọng vào tổng sản
phẩm quốc dân, nhưng những kết quả đạt được không tương xứng với lượng phần vốn
và mà các doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ và những ưu đãi mà Nhà nước giành
cho chúng. Chưa bao giờ doanh nghiệp nhà nước được đánh giá là đi đầu về ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, là tấm gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và

Văn kiện Đại hội lần thứ X đã dẫn, trang 337.

88

89



Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

chấp hành pháp luật. Những yêu cầu đặt ra với các doanh nghiệp nhà nước là những

Nếu nhận thức “vai trò chủ đạo” theo nghĩa định hướng phát triển các thành

mong muốn, nhưng đáng tiếc là những mong muốn đó lại hoàn toàn không thực tế.

phần kinh tế, dẫn dắt và thúc đẩy các chủ thể kinh tế hoạt động theo mục tiêu chung

Nếu đặt các chủ thể kinh tế trong quá trình vận động và phát triển, trong điều kiện

thống nhất trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, tất cả các doanh nghiệp đều phải quan

nghĩa, thì vai trò ấy phải thuộc về Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản –

tâm đổi mới công nghệ, cải thiện năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao khả

chính đảng lấy lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu của mình. Việc đổi

năng cạnh tranh. Do nhiều lý do, trong đó có lý do sinh tồn, các doanh nghiệp ngoài


mới và tăng cường vai trò của Nhà nước phù hợp với các nguyên tắc thị trường được

nhà nước dường như có sự năng động hơn trong việc đưa ra các quyết định kinh

coi là yếu tố quyết định trong việc thực hiện yêu cầu định hướng phát triển, dẫn dắt và

doanh và đổi mới công nghệ.

thúc đẩy các thành phần kinh tế trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định

Thứ ba, tạo nên mâu thuẫn (xung đột) với luận điểm “Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh” và chủ trương “Hoàn thiện cơ chế, chính sách
để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công
khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước có quyền tài sản, thực sự
1

tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật” .
Được coi là một chủ thể kinh tế của nền kinh tế thị trường, cũng như các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước phải
hoạt động thích ứng với các điều kiện của thị trường trong khuôn khổ pháp luật của
Nhà nước. Việc Nhà nước sử dụng doanh nghiệp nhà nước như lực lượng vật chất của
mình để đối phó với những biến động thị trường và để điều tiết các cân đối kinh tế vĩ
mô chỉ có thể thực hiện trong những tình huống đặc biệt và hãn hữu, còn nếu được sử
dụng thường xuyên thì cũng có nghĩa là Nhà nước đã can thiệp trực tiếp vào hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước và đã làm méo mó các quan hệ thị trường. Điều này
mang dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung và trái với các nguyên tắc thị trường.
Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự phát triển đa dạng các

hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức kinh doanh là một
tất yếu. Các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân đều có vai trò quan trọng với sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và có quan hệ tương hỗ với nhau,
không nên đặt cho một bộ phận này có vai trò quan trọng hơn bộ phận khác.
1

hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
thức hiện “vai trò kép”: một mặt, Nhà nước là người quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc
dân; mặt khác, Nhà nước là chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước. Trong điều
kiện ấy, vấn đề mang tính nguyên tắc đòi hỏi phải quán triệt là: Nhà nước phải đối xử
bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp không phân biệt loại hình tổ chức, thành phần
kinh tế và hình thức sở hữu. Cụ thể hơn, Nhà nước phải đối xử với các doanh nghiệp
thuộc sở hữu của mình (doanh nghiệp nhà nước, trước hết là doanh nghiệp mà Nhà
nước sở hữu 100% vốn và tài sản), bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp của các
chủ sở hữu trong và ngoài nước khác.
1.7. MỐI QUAN HỆ GIỮA SỞ HỮU VỚI CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC KINH
DOANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.7.1. LOẠI HÌNH TỔ CHỨC KINH DOANH – HÌNH THỨC CHỨA ĐỰNG CÁC
QUAN HỆ SỞ HỮU
Các chủ sở hữu thuộc các hình thức sở hữu thể hiện quyền và nghĩa vụ của
mình qua các hình thức tổ chức kinh tế nhất định. Các hình thức kinh tế này còn được
gọi là loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Đó là những kiểu tập hợp các yếu tố sản
xuất dưới những hình thức nhất định được pháp luật quy định để tiến hành quá trình
sản xuất kinh doanh. Nếu hình thức sở hữu là biểu hiện bên ngoài của chế độ sở hữu,
thì loại hình tổ chức kinh doanh lại là hình thức pháp lý chứa đựng các quan hệ sở
hữu khác nhau. Một loại hình tổ chức kinh doanh có thể chứa đựng một hoặc nhiều
hình thức sở hữu, là cơ sở pháp lý để chủ sở hữu thực hiện mục đích của mình. Thông

Văn kiện Đại hội X, trang 83 và 84.


90

91

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – KX04.09/06-10

************************************************************************

************************************************************************

qua các loại hình tổ chức kinh doanh, các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế

chủ sở hữu nhằm trợ giúp họ thực hiện mục tiêu đã định và đưa hoạt động của các

phát huy được vai trò trong nền kinh tế.

loại hình tổ chức kinh doanh vào hành lang pháp lý đã quy định, nhưng không được

Các loại hình tổ chức kinh doanh là một trong những biểu hiện của quan hệ

can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của chúng.

giữa người và người trong tổ chức và quản lý sản xuất. Quan hệ này chịu sự chi

Việc lựa chọn các loại hình tổ chức kinh doanh có liên quan đến ý nguyện

phối của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và có ảnh hưởng tương hỗ với quan hệ


của chủ sở hữu trong việc thực thi các quyền sở hữu. Trong một số trường hợp, chủ

phân phối. Quan hệ sở hữu phản ánh bản chất kinh tế trong quan hệ xã hội giữa

sở hữu trực tiếp thực hiện các quyền sở hữu của mình. Nghĩa là, họ trực tiếp thực

người và người, trong đó có các quan hệ nội bộ của một loại hình tổ chức kinh

hiện các công việc để hình thành loại hình tổ chức kinh doanh được lựa chọn và trực

doanh cụ thể. Từ đó, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất được coi là cơ sở kinh tế để

tiếp điều khiển quá trình sử dụng các đối tượng sở hữu của mình, thậm chí họ còn

xác định sự khác biệt giữa các loại hình tổ chức kinh doanh. Việc hình thành và phát

trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ. Trong những

triển các loại hình tổ chức kinh doanh không trực tiếp thể hiện những khía cạnh

trường hợp khác, chủ sở hữu không trực tiếp thực hiện, mà ủy quyền cho người

chính trị - xã hội, nhưng cũng có ảnh hưởng ở mức độ nhất định tới những khía

khác thực hiện các công việc trên đây dưới những hình thức thích hợp được pháp

cạnh chính trị - xã hội của quá trình sản xuất kinh doanh qua quan hệ giữa những

luật thừa nhận. Trong nền kinh tế thị trường, khi phạm vi và quy mô kinh doanh


người lao động trong quá trình sản xuất, quan hệ giữa người quản lý và người bị

ngày càng mở rộng, tình trạng cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, các

quản lý, quan hệ giữa chủ sở hữu và người sử dụng vốn và tài sản trong mỗi loại

quan hệ quản lý ngày càng phức tạp, những trường hợp này ngày càng phổ biến.

hình tổ chức. Do vậy, việc hình thành và quản lý một loại hình tổ chức kinh doanh

Chủ sở hữu nhà nước hoặc chủ sở hữu tư nhân không trực tiếp thực hiện quyền sở

nào đó phải xuất phát từ đặc trưng mỗi lĩnh vực kinh doanh, yêu cầu tổ chức quá

hữu với các doanh nghiệp nhà nước, mà giao cho một cá nhân hoặc một tập thể thực

trình kinh doanh, từ khả năng, điều kiện và mục tiêu của chủ sở hữu, nghĩa là từ các

hiện các quyền này. Nhiều chủ sở hữu tư nhân không muốn hoặc không có khả năng

đặc trưng và yêu cầu kinh tế - kỹ thuật, chứ không thể xuất phát từ những yêu cầu

thực hiện quản lý điều hành cũng ủy quyền cho người khác do họ thuê hoặc họ bầu

chính trị - xã hội, nhưng vẫn phải tính đến những yêu cầu và tác động về chính trị -

ra để thực hiện các quyền sở hữu của mình. Như vậy, với những loại hình tổ chức
kinh doanh thích hợp, chủ sở hữu không thực hiện quyền sử dụng các đối tượng sở


xã hội nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với quy định của pháp luật, chủ sở hữu
có quyền lựa chọn loại hình tổ chức kinh doanh mà với nó họ có khả năng thực hiện
tốt nhất mục tiêu của mình, thu được lợi ích (kinh tế và phi kinh tế) cao nhất cho
mình. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường không phải là áp đặt các

hữu của mình, quyền đó được giao cho người không phải chủ sở hữu thông qua hợp
đồng hoặc các quy định của pháp luật. Pháp luật về các loại hình tổ chức kinh doanh
phải quy định rõ những điều này. Trong trường hợp này, giám đốc đã thực sự được
coi là một nghề.

chủ sở hữu phải khuôn cứng vào một loại hình tổ chức kinh doanh cố định, mà là

Trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh tế, các chủ sở hữu có quan hệ

tạo ra khuôn khổ pháp lý về các loại hình tổ chức kinh doanh đa dạng, xác định đặc

liên kết với nhau nhằm tăng cường sức mạnh trên thị trường. Ngoài loại hình tổ

trưng pháp lý và điều kiện áp dụng mỗi loại hình để các chủ sở hữu lựa chọn thích

chức kinh doanh một chủ (đơn sở hữu), như doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước

ứng với điều kiện và ý nguyện của họ. Trên cơ sở đó, Nhà nước thực hiện hành vi

nắm giữ 100% vốn và tài sản, doanh nghiệp tư nhân, hộ tiểu chủ và cá thể,…sẽ hình

pháp lý là công nhận loại hình tổ chức kinh doanh mà chủ sở hữu đã đăng ký qua

thành ngày càng nhiều loại hình tổ chức kinh doanh nhiều chủ với hình thức sở hữu


nghiệp vụ cấp đăng ký kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, Nhà nước thực hiện

hỗn hợp (đa sở hữu) và trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển các hình thức sở

các hình thức kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các loại hình kinh doanh của các

hữu và các loại hình tổ chức kinh doanh. Trong loại hình tổ chức này, tùy theo mối

92

93


×