Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Lê Quảng Chí, Kỳ Anh, Hà Tĩnh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.19 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm

Giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục
công dân ở trường THPT Lê Quảng Chí, Kỳ Anh, Hà Tĩnh.

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Nguyễn Anh Tuấn
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A


Hà Tĩnh, tháng 4/ 2015

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất
lượng giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói chung, mảng
kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn
giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt, trong điều kiện phát
triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với trình độ phát triển cao của
hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp dụng các phương pháp dạy học
tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình huống) là việc làm cần thiết đối với giáo
viên dạy môn Giáo dục công dân.
Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường


phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến phương pháp
cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ
thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, phương pháp dạy
học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học chay,
truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng, cho ghi chép.
Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm tăng
tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các vấn đề
thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân là môn học có ý
nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc áp dụng phương
pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn:“Sử dụng phương pháp dạy
học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông qua dạy học

2


môn Giáo dục công dân ở trường THPT Lê Quảng Chí, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh”
làm tiểu luận khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu việc áp
dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn Giáo dục công
dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ, hành vi
đúng đắn cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường THPT
Lê Quảng Chí -Kỳ Anh- Hà Tĩnh.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục

công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
Giáo dục công dân.
5. Nhiệm vụ, giới hạn phạm vi nghiên cứu:
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THPT Lê Quảng ChíKỳ Anh-Hà Tĩnh.
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THPT Lê Quảng Chí -Kỳ Anh- Hà Tĩnh
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục
công dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường THPT Lê Quảng Chí- Kỳ Anh- Hà Tĩnh.
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
3


6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết
lý thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều
tra, đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như phỏng vấn
sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. Những đóng góp của đề tài:
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo
viên GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học

sinh.
8. Cấu trúc của đề tài:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học
bằng tình huống nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn GDCD.
Chương II: Xây dựng tình huống trong dạy học môn GDCD nhằm giáo dục cho
học sinh trường THPT Lê Quảng Chí.
Phần III: Kết luận.
II.NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong dạy
học môn GDCD ở trường Trung học.
4


1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới
mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của giáo
viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo cho trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò lĩnh

hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học có
mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác động
qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất này
phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương đối,
chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở lại đối
với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng lôgic
của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh giá) sự
học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó hữu cơ với
nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên chỉ chăm lo
việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai chức năng trên
5


đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa
truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học của trò. Vì
vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả
các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải tự
điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội dung
do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực chỉ đạo
sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra - đánh giá ).
Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của bài giảng của
thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong phương pháp

học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau,
bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học, và
đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền đạt và
chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối ưu phải là
sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc ba phép biện
chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó thành
học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
6


Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong cả
ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn xung
đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải quyết

khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt truyện,
nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng một vấn
đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những tình huống
thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình huống
về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư
duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích cực
đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến thức và
cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
7


Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là: tình
huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức được
vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì hy vọng
có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống
đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và giải quyết vấn
đề đã đề xuất.

Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ
cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu và
giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức hành
động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không đòi
hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó giáo
viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách quan của
bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có khả
năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là họ giành được
kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các em
thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng thời
cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng thiếu sót
này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
8


Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu

thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh. Từ
những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt được)
học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương pháp
dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về lý
luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra được
những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không sát thực
tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình huống, hoặc
giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm,
dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình trạng
“học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp giảng
dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với quá trình
giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá trình
9


tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong đó giáo
viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì phương

pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương tác giữa
học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được đặt vào trong
một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ phải dùng hết
khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ không
bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể
mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình
huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những
ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức của
họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải vận
dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của nhiều
môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả năng
phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao giờ.
Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy độc lập,
sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng người
học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho cả người học
lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể rèn
luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình”.
Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong tương lai.
Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn chế của bản
thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác trong quá trình
giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận
10



và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp
người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch
lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng
linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm
cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt,
biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức
của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể đạt
được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của học
sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc phân tích
và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề khác nảy
sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có thể tự định hướng
học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của phần
lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học sinh là
người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên cứu và
học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học vì nó kích
thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải
pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Sau khi thảo
luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả lời những câu
hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng tình
huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời họ
cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên để làm
giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học sinh có tư
duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình huống, giáo
11



viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có
những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống còn
có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng tình
huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau tùy
thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm của
người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con đường
và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là trong những
lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác nhau, và giáo
viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái độ
làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên, hiện
nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ không
có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu quả của
phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định, giáo
viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic cho học
sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học sinh phải tự
mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so
với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng
viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới.
Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi một
cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây
dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì trong

khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý kiến sai
12


lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp hơn trong
giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến
khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện… Đây thật sự là
những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng tình
huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết giảng
hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng bối cảnh
sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng các
ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ khoảng 4
- 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của giáo viên
nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và (2) kích thích
học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm gợi
mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này cần được
giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các tình huống
không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu và ghi nhớ
những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất và
được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp dụng
các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực tiễn và
qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không những phải

nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị theo yêu cầu của
giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình huống, trong đó học sinh
là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình
13


huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt
trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo viên
cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ mở
của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng các tình
huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó lời giải để
ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong việc kích thích
khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý các tình huống
thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là cách thức để đi
đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một kết quả cố
định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho
học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm
cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề nào
đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây dựng bài
tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải quyết bài
tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt tới
học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn học sinh

nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là một
nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào thực
tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà thông
thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp thu. Việc
giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề nhỏ khác và
14


nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn đề và tiểu vấn
đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình huống hoàn chỉnh.
Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự kiện. Thứ
nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết một cách
sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung kiến thức mà giáo viên
đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó rồi điều
chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ hai, nếu không tìm được
vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình huống giả định. Trong
trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân tích trên đây phải được
tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn GDCD ở
trường Trung học.
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Trường THPT Lê Quảng Chí đóng trên địa bàn khu kinh tế Vũng Áng, trường
thành lập đã được 10 năm. Hầu hết học sinh nhà trường xuất phát từ nông thôn và đến từ
nhiều xã miền núi, ven biển và nhiều vùng quê khác trong huyện nên có điều kiện kinh tế
khó khăn, một bộ phận học sinh xa trường phải trọ học.
Địa bàn trường đóng cũng khá phức tạp cùng với sự phát triển khu công nghiệp,
sự giao thoa văn hóa vùng miền, mặt trái cơ chế thị trường, vấn đề an ninh trật tự, an toàn
xã hội thiếu ổn định, hiện tượng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật vẫn thường xuyên

xẩy ra….điều đó đã có tác động không nhỏ đến công tác giáo dục của nhà trường và đến
lối sống của một bộ phận học sinh.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh
trong dạy học môn GDCD ở trường THPT Lê Quảng Chí.
Những năm vừa qua, việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong nhà trường nói chung và
dạy học nội dung pháp luật trong môn GDCD nói riêng đã được quan tâm, chú và đạt
được những thành tựu nhất định nhưng nhìn chung chất lượng và hiệu quả còn chưa cao.
15


Điều đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về phía học sinh, về phía xã
hội về phía nhà trường. Trong các nguyên nhân về phía nhà trường, có nguyên nhân do
các phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng để dạy pháp luật.
Từ thực tế nhà trường cho thấy: Các giáo viên bộ môn GDCD còn chưa tích cực
trong việc đổi mới phương pháp dạy học, còn ngại thay đổi thói quen dạy học cũ, vẫn
thiên về sử dụng phương pháp thuyết trình, trang bị kiến thức là chính, khiến cho các giờ
học pháp luật trở nên khô cứng, nặng nề, không lôi cuốn được học sinh. Có giáo viên
thực hiện đổi mới phương pháp dạy học còn mang tính hình thức, chiếu lệ, đối phó. Có
giáo viên tuy đã có ý thức đổi mới song việc sử dụng các phương pháp dạy học, kĩ thuật
dạy học còn chưa linh hoạt và nhuần nhuyễn hoặc quá lạm dụng một phương pháp cụ thể
nào đó(ví dụ như thảo luận nhóm, vấn đáp,…) trong một tiết học dẫn đến hiệu quả dạy
học chưa cao.
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công:
Trong thời gian qua việc giáo dục PL trong môn GDCD của nhà trường đã đạt
được cơ bản những kết quả tốt, hằng năm tỉ lệ học sinh khá tốt về hạnh kiểm tăng, số học
sinh hạnh kiểm yếu giảm và đa phần học sinh không vi phạm pháp luật.
Tỉ lệ hạnh kiểm Khá ,Tốt hàng năm trên 95%
Ý thức kỉ luật trong học sinh được nâng lên góp phần cho việc nâng cao chất
lượng văn hóa .

Các năm qua nhà trường đều đạt tập thể lao động tiên tiến.
1.2.3.2 Những hạn chế:
Công tác giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn GDCD của nhà trường
còn một số hạn chế.
- Hình thức tổ chức giáo dục pháp luật cho học sinh chưa phong phú, đa dạng, nội
dung khô khan, khó nên chưa thu hút học sinh tham gia học tập.
- Hiệu quả công tác giáo dục pháp luật còn thấp, vẫn còn học sinh vi phạm pháp
luật đặc biệt là pháp luật về ATGT.

16


- Chưa thường xuyên tổ chức được các hoạt động ngoại khóa, các buổi nói chuyện
chuyên đề về pháp luật cho học sinh.
- Nhà trường chưa quan tâm đầu tư mua đầy đủ sách báo, tài liệu về pháp luật để
phục vụ cho đội ngũ giáo viên dạy GDCD sử dụng trong qúa trình tuyên truyền phổ biến
pháp luật.
- Việc khai thác tài liệu pháp luật ở trường học còn hạn chế, đội ngũ giáo viên
GDCD nhà trường ít cập nhật thông tin những văn bản mới bổ sung, sửa đổi, thay thế
những văn bản cũ để phục vụ dạy học.
- Việc ứng dụng CNTT vào dạy học pháp luật của đội ngũ giáo viên GDCD chưa
được đầu tư, chú trọng.
1.2.3.3 Nguyên nhân:
*Nguyên nhân thành công:
- Nhà trường luôn thực hiện nghiêm túc công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, kịp
thời phổ biến các quy định pháp luật đến với giáo viên, học sinh.
- Hàng năm có tổ chức các cuộc thi tìm hiểu kiến thức pháp luật, các buổi học
ngoại khóa, tạo môi trường cởi mở, thân thiện giúp học sinh dễ dàng tiếp thu các kiến
thức pháp luật, tham gia các câu lạc bộ, thông qua các bản tin, hệ thống loa truyền
thanh...

- Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân, pháp luật cơ bản được đào
tạo đúng chuyên ngành, tâm huyết với nghề nên chất lượng giảng dạy trong các tiết học
được nâng cao. Vì vậy ý thức chấp hành pháp luật của giáo viên, học sinh vi phạm pháp
luật được hạn chế ở mức thấp nhất.
*Nguyên nhân chưa thành công:
+Khách quan:
- Các kiến thức pháp luật nhiều, khó, lại khô khan nên học sinh không có hứng thú
để học tập, tìm hiểu.
- Sách giáo khoa hiện hành chủ yếu nội dung vẫn còn chung chung, chưa đề cập
đến một số luật cụ thể.
- Sách, tài liệu pháp luật để giáo viên tham khảo còn ít.
17


- Giáo viên GDCD ít được tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật mới.
- Đối tượng học sinh trong vùng tuyển sinh của trường nhìn chung chất lượng đầu
vào còn thấp.
*Chủ quan:
- Môn GDCD được giảng dạy trong trường THPT vẫn chưa được sự quan tâm của
các bậc phụ huynh, nhà trường và đặc biệt là người học.
- Không nằm trong các môn thi tốt nghiệp, CĐ,ĐH, do đó học sinh không ưa thích
học môn GDCD.
- Giáo viên dạy GDCD chưa đầu tư, tìm tòi, nghiên cứu để nâng cao chất lượng
giời lên lớp; Kiến thức khó, khô khan, đặc biệt là phần pháp luật..nên học sinh không có
hứng thú học tập.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài
nghiên cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và Việt
Nam, giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt, tác giả đã trình
bày làm nổi bật các nội dung liên quan đến PPNCTH trong dạy học như khái niệm, cấu

trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương pháp và khả năng vận dụng vào
giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các nhà trường phổ thông hiện nay. Tác giả cũng
đã đi sâu nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc dạy học pháp luật trong môn GDCD hiện
nay ở trường THPT.
CHƯƠNG 2:
XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD NHẰM GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THPT LÊ QUẢNG CHÍ.
I. Xây dựng một số tình huống dạy học:
1 Tình huống 1.

18


Ví dụ: Khi dạy Bài: Công dân với các quyền tự do cơ bản. Giáo viên phân công
cho mỗi nhóm 1 tình huống được chuẩn bị sẵn ở nhà. Giáo viên chia lớp thành 5 nhóm
ứng với mỗi đơn vị kiến thức trong bài học
Nhóm 1: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân
thể của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 2: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi
phạm ?
Nhóm 3: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 4: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được bảo đảm an toàn và bí
mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 5: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền tự do ngôn luận của công
dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Như vậy với yêu cầu trên học sinh sẽ phải dành thời gian chuẩn bị trước ở nhà. Tư
liệu tham khảo có thể là sách báo, Iternet, hay có thể lấy những tình huống mà các em đã
bắt gặp trong cuộc sống. Học sinh sẽ chủ động làm việc theo nhóm. Kết quả chuẩn bị bài

của mỗi nhóm sẽ được giáo viên phân tích, đánh giá và cộng vào điểm miệng nhằm động
viên khích lệ tinh thần học tập của các em. Khi giảng tới mỗi phần kiến thức đó, học sinh
đại diện cho nhóm mình trình bày trước lớp kết quả chuẩn bị bài của nhóm mình. Sau đó
giáo viên sẽ phân tích, giảng giải và yêu cầu học sinh rút ra nội dung chính của bài học.
Bản thân tôi đã áp dụng phương pháp này khi giảng dạy ở một số lớp và kết quả là các
nhóm đều đưa ra được các tình huống phù hợp với nội dung, ví dụ khi giảng dạy ở lớp 12A.
* Tình huống của nhóm 1: “Do nghi ngờ Anh lấy cắp xe máy của mình nên
Minh đã trình báo với công an xã yêu cầu giải quyết. Dựa vào lời khai của Minh nên
công an xã đã ngay lập tức bắt An”.
Trong tình huống trên công an xã đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân. Cụ thể: Công an xã bắt người khi không có căn cứ chứng tỏ Anh là người lấy
cắp điện thoại.
19


*Tình huống của nhóm 2: “Phong và Mai cưới nhau đã 2 năm. Nhưng Phong
vốn là người hay nhậu nhẹt. Nay tuy đã có con nhưng Phong hầu như không làm gì
để phụ vợ nuôi con mà vẫn thói nào tật ấy, say xỉn tối ngày. Đã thế, rượu vào là Phong
chửi vợ, có khi Phong còn đánh đập và đuổi vợ ra khỏi nhà. Nhiều lần Phong còn đe
dọa giết vợ”.
Như vậy, Phong đã xúc phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của
vợ mình.
Đây là những hành vi trái với quy định của pháp luật về quyền được pháp luật bảo
hộ và tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Điều 71 Hiến pháp năm
1992 đã ghi rõ và quy định thành nguyên tắc trong bộ luật hình sự nước ta.Quyền này có
nghĩa là: Công dân có quyền được pháp luật bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm mà không ai được xâm phạm tới.
+ Không ai được đánh người, đặc biệt nghiêm cấm những hành vi hung hãn, côn
đồ, đánh người gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe của người khác…
+ Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác như giết

người, đe dọa giết người, làm chết người.
+ Không ai ,dù ở bất cứ cương vị nào có quyền xâm phạm tới danh dự và nhân
phẩm của người khác.Trong xã hội ta, danh dự và nhân phẩm của cá nhân được tôn trọng
và bảo vệ.
Mọi hành vi xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng, danh dự, và nhân phẩm của công
dân đều vừa trái với đạo đức xã hội,vừa vi phạm pháp luật, phải bị xử lí theo pháp luật.
*Tình huống của nhóm 3: “Bị một tên trộm ăn cắp điện thoại, hai người đàn ông
đuổi theo, được một lúc rồi bỗng mất hút, không biết tên trôm chạy đi đâu.

Một

người nói: Chắc nó chạy vào nhà ông Tài rồi, ta vào đó xem đi. Đến trước nhà ông
Tài, hai người yêu cầu ông Tài cho vào khám nhà để tìm tên trộm. Ông Tài không
thấy đứa nào chạy vào đây nên không đồng ý cho hai người vào nhà. Nhưng hai
người cứ xông vào nhà ông Tài khám xét khắp nơi trong nhà.
Trong tình huống trên, hai người đàn ông đã vi phạm pháp luật. Vì pháp luật quy
định không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu như không được người đó đồng ý.
20


Chỉ trong những trường hợp được pháp luật cho phép và phải có quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền mới được khám xét chỗ ở của một người.
2. Tình huống 2:
Ví dụ: Khi giảng bài 2: Thực hiện pháp luật. Mục: “Vi phạm pháp luật và trách
nhiệm pháp lý” giáo vin yêu cầu học sinh giải quyết tình huống sau:
“ Nam (19 tuổi) đi xe mô tô đến một ngã tư, mặc dù có báo hiệu đèn đỏ nhưng vẫn
không dừng lại. Do không tuân theo chỉ dẫn của tín hiệu đèn nên đã bị cảnh sát giao
thông bắt dừng lại và yêu cầu xuất trình giấy tờ. Nam đã xuất trình đầy đủ giáy tờ cần
thiết nhưng cảnh sát giao thông vẫn lập biên bản và yêu cầu nộp phạt. Nam cho rằng
cảnh sát giao thông xử phạt không có tình, có lý. Vì thực tế đường vắng, Nam không

gây tai nạn cho ai và xuất trình đầy đủ giấy tờ hợp pháp.
Hỏi: a. Hành vi của Nam có vi phạm pháp luật không? Vì sao?
b. Nếu là hành vi vi phạm pháp luật thì đó là vi phạm pháp luật gì?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo luận, đưa ra ý
kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận. Như vậy việc tạo ra tình huống để học
sinh tự giải quyết, học sinh sẽ hứng thứ hơn, không lệ thuộc vào sách vở sẽ phát huy
được tính tích cực của học sinh. Tiết học sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh đó, cũng bằng phương pháp tình huống được sử dụng một cách sáng tạo hơn,
kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm tôi phát huy tính chủ động, tự giác, sáng
tạo từ phía học sinh bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Như vậy, qua việc tự tạo ra các tình huống ta thấy rõ sự hứng thú của học sinh
trong việc vận dụng kiến thức vào việc giải quyết vấn đề thực tiễn. Đây là một phương
pháp rất hiệu quả trong vấn đề giảng dạy. Qua đó, học sinh không những tìm ra được mối
liên hệ giữa lí luận và thực tiễn mà còn tăng thêm tính chủ động, sự tìm tòi, khám phá
nhằm lĩnh hội tri thức một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh việc tự tạo ra tình huống và giải quyết tình huống của nhóm mình thì
mỗi nhóm có thể tham gia giải quyết tình huống với các nhóm còn lai bằng việc bổ sung

21


những vấn đề còn thiếu. Như vậy tất cả các nhóm có thể tham gia được công việc một
cách hiệu quả nhất.
II. Đề xuất một số giải pháp:
Để dạy tốt phương pháp tình huống nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh trong
dạy học môn GDCD ở trường THPT hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp sau:
1) Tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 32-CT/TW, các văn bản chỉ sạo của Đảng và Nhà
nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm
quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong trường học;
2) Đổi mới phương pháp dạy học trong các giờ giáo dục công dân, tăng cường ứng

dụng công nghệ thông tin để cung cấp các hình ảnh, sự việc, con người thật, liên quan
đến bài dạy để tránh sự nhàm chá, khô khan cho học sinh;
3) Tổ chức cho học sinh tham quan, quan sát các vụ xử án của Tòa án liên quan
đến kiến thức pháp luật hình sự, dân sự, học sinh, sinh viên;
4)Giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, pháp luật phải thường xuyên cập nhật
thông tin pháp luật thông qua các kên thông tin như truyền thanh, truyền hình, sách, báo,
mạng Enternet...;
5) Các trường nên thành lập ban chỉ đạo tuyên truyền phổ biến pháp luật. Tổ chức
các câu lạc bộ pháp luật, tuyên truyền pháp luật bằng những hình thức hấp dẫn các em
tham gia như thi đua giải quyết các tình huống pháp luật có thưởng; trình bày tiểu pháp
về pháp luật; tổ chức phiên tòa giả định...Hàng năm nên mời các báo cáo viên đến trường
để thuyết trình về kiến thức pháp luật cho giáo viên.
Tổ chức hội thi tìm hiểu pháp luật với các nội dung phù hợp; sân chơi cuối tuần;
rung chuông vàng... Lồng ghép phổ biến pháp luật thông qua các tiết chào cờ, chương
trình phát thanh của trường.
KẾT LUẬN
Phương pháp dạy học bằng tình huống là một trong những phương pháp phát huy
được tính tích cực, kích thích được sự hứng thú tìm tòi của người học. Trong dạy học
pháp luật trong môn GDCD nếu áp dụng sáng tạo phù hợp với từng đối tượng, từng nội
22


dung bài học, đặc biệt nếu người dạy biết phát huy những mặt tích cực, hạn chế được
những khuyết điểm của phương pháp này thì sẽ mang lại hiệu quả dạy học, nâng cao chất
lượng giờ lên lớp, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa GDCD lớp 10,11,12.
2. Sách dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng GDCD lớp 12.
3. Tình huống GDCD 12.
4. Phương pháp dạy học môn GDCD.

5. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình SGK lớp 10,11,12(nhà xuất bản
giáo dục)
6. Phương pháp nghiên cứu khoa học.

23



×