Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ GIÁO dục học vận DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI NHẬN THỨC TRONG dạy học môn GIÁO dục học ở HVKTQS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.36 KB, 112 trang )

MỤC LỤC

Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP ĐÓNG VAI NHẬN THỨC TRONG DẠY HỌC

14

1.1. Các khái niệm công cụ của đề tài
1.2. Quy trình vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức
trong dạy học

14
22

1.3.

Vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy
học môn Giáo dục học ở Học viện Kỹ thuật quân sự

33

Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
ĐÓNG VAI NHẬNTHỨC TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC HỌC Ở HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ

42



2.1. Khái quát về Học viện Kỹ thuật quân sự

42

2.2. Thực trạng dạy và học môn Giáo dục học ở Học viện
Kỹ thuật quân sự

43

2.3. Thực trạng vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong
dạy học môn Giáo dục học ở Học viện Kỹ thuật quân sự

50

Chương 3. BIỆN PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG
VAI NHẬN THỨC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO
DỤC HỌC Ở HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ

61

3.1. Một số định hướng vận dụng phương pháp dạy học
phát huy tính tích cực nhận thức của người học

61

3.2. Biện pháp vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong
dạy học môn Giáo dục học

63


3.3. Thử nghiệm sư phạm

77

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

85
87
90


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo Việt Nam đang tiến hành đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương
trình, nội dung, đặc biệt là PPDH với mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ
áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học nhằm đào tạo con
người Việt Nam tự chủ, năng động, sáng tạo có năng lực phát hiện và giải quyết
vấn đề phục vụ cho thành công của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước” [1]. Vì vậy,
việc tìm tòi áp dụng những PPDH tích cực là góp phần quan trọng thực hiện
nhiệm vụ đó của các trường học nói chung và các trường quân sự nói riêng.

Phương pháp đóng vai nhận thức là một PPDH tích cực nhằm phát huy
cao độ tính tự giác, độc lập, sáng tạo của người học tạo ra môi trường học tập
tích cực. Trong đó, người học được tham gia vào quá trình học tập một cách tích
cực hơn, hứng thú học tập của người học được kích thích, hình thành ở người
học kỹ năng tự nghiên cứu và tự phát hiện và giải quyết tìm tòi tri thức mới. Đây
là PPDH thực hành tốt nhất để dạy về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nghề nghiệp,
kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn trong học tập và công tác … để học
viên hoạt động được trong tập thể, cộng đồng và chuẩn bị cho hoạt động nghề
nghiệp tương lai. PPDH này còn phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ, nội dung
trong dạy học môn GDH ở nhà trường quân sự.
Học viện KTQS là đại học trọng điểm quốc gia, là trung tâm nghiên cứu
khoa học quan trọng của Quân đội và đất nước, đào tạo nguồn nhân lực khoa học
3


kỹ thuật và công nghệ chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi Học viện KTQS phải không ngừng đổi
mới mọi mặt trong hoạt động giáo dục đào tạo cả về nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy, kiểm định đánh giá chất lượng ... mà trong đó đổi mới
về PPDH là quan trọng nhất. Nghị quyết Đảng bộ Học viện lần thứ IX nhiệm kỳ
2015 - 2020 đã chỉ rõ: “Tích cực triển khai đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực” [9], đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy “phù hợp với
đào tạo theo học chế tín chỉ nhằm chuyển quá trình đào tạo chủ yếu từ trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” và “Coi
trọng đổi mới phương pháp giảng dạy làm một nhiệm vụ trọng tâm cần đột phá”
[27]. Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực luôn được
quan tâm, đòi hỏi mỗi giáo viên trong đó giáo viên ở các Khoa khoa học xã hội
và nhân văn cần phải nỗ lực đổi mới tư duy, tích cực nghiên cứu, tìm tòi, bổ
sung phương pháp mới khắc phục những hạn chế của phương pháp cũ, tư duy
truyền thống đã lạc hậu. PPĐVNT là PPDH đáp ứng yêu cầu giáo dục, đào tạo

của Học viện trong tình hình mới hiện nay.
Giáo dục học là môn học trang bị cho học viên hệ thống kiến thức, kỹ
năng, về công tác huấn luyện và giáo dục quân nhân. Môn học có vai trò quan
trọng trong thực tiễn huấn luyện của quân nhân góp phần hình thành những
phẩm chất chỉ huy, năng lực lãnh đạo huấn luyện, giáo dục bộ đội, phát huy
sức mạnh của tập thể và cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ. Do đây là môn
không phải chuyên ngành nên việc học viên đầu tư thời gian và công sức học
tập còn ít, chưa thật sự hứng thú và chủ động trong học tập, còn có tâm lý là
môn phụ. Thực tiễn trong dạy học nói chung, dạy học môn GDH PPĐVNT ở
Học viện KTQS chưa được nghiên cứu, vận dụng trong các giờ giảng dạy. Vì
thế, việc tìm kiếm, vận dụng các PTDH mới tạo dựng môi trường học tập tích
cực cho học viên góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học đang là
4


nhiệm vụ cần quan tâm nghiên cứu. Điều đó đặt ra sự cần thiết đưa PPĐVNT
vào dạy môn GDH ở Học viện KTQS.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Vận dụng
phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học môn Giáo dục học ở Học
viện Kỹ thuật quân sự” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phương pháp đóng vai nhận thức có một lịch sử lâu đời nó là một
phương pháp nhằm tích cực hoá hoạt động dạy học. Trong phương pháp này,
người tham gia sắm những vai tương ứng với một dạng hoạt động đã được mô
hình hoá từ chính hoạt động của cuộc sống thực. Xuất phát từ những trò chơi
trong lịch sử loài người mà người ta vận dụng trong hoạt động dạy học, giáo
dục nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học. Việc vận dụng đóng vai
trong dạy học được thực hiện trong thực tiễn song nghiên cứu đi sâu để đề ra
một cách có hệ thống, quy trình với tư cách là PPDH thì chưa được nghiên
cứu đầy đủ.

* Trên thế giới
Ngay từ thời tiền sử, tổ tiên loài người đã dùng trò chơi đóng vai để
huấn luyện trẻ bước vào cuộc sống để kế tục sự nghiệp của cha anh. Lớp
người trước, muốn dạy con cháu nghệ thuật săn bắt đã chế tác những mô hình
công cụ săn bắt, rồi tổ chức tình huống săn bắt như thật với những con mồi
mà người lớn bắt được. Thông qua trò chơi, trẻ sẽ học được kinh nghiệm, kiến
thức và kỹ năng nhờ thực hành những vai mà nó đã tham gia trò chơi từ đó dễ
dàng chuyển hoá thành kiến thức và kỹ năng của cuộc sống thực.
Từ thế kỷ XVIII, Napôlêon đã sử dụng trò chơi quân sự để huấn luyện
chỉ huy binh sĩ. Nội dung trò chơi là những tình huống chiến đấu thực được
mô phỏng trên sa bàn hoặc ngoài thực địa, qua xử lý các bài toán tình huống
đó mà người lính hình thành kỹ năng chiến đấu.
5


Trong đại chiến thế giới lần II, để đánh bại bọn phát xít trên chiến trường.
Nguyên soái G.K Giucôp (Liên xô cũ) đã sử dụng trò chơi đóng vai giữa các nhà
lãnh đạo chiến lược quân sự trong bộ tổng tham mưu... Nội dung trò chơi là các
chiến lược quân sự, các tình huống diễn biến của chiến tranh, yêu cầu cách xử
lý... nhằm phát huy tối đa trí tuệ và kinh nghiệm chỉ huy của các tướng lĩnh.
Cùng một lúc trò chơi đóng vai đã đạt 3 mục tiêu: Huấn luyện nghệ thuật quân
sự; nghiên cứu và giải quyết các vấn đề chiến lược, chiến thuật quân sự; kiểm tra
đánh giá xác nhận trình độ của những người tham gia cuộc chơi.[32, tr.161]
Trong quá trình phát triển của loài người, thông qua các hoạt động
người chơi đóng các vai xác định giúp họ hoà nhập với cuộc sống xã hội. Có
thể kể các loại trò chơi đưa con người tham gia đóng các vai khác nhau như:
trò chơi của trẻ con, các trò chơi dân gian, trò chơi thể thao, trò chơi quân sự,
trò chơi đấu cờ, trò chơi nghiệp vụ, trò chơi quản lý, trò chơi mô phỏng, đặc
biệt là trò chơi dạy học được áp dụng trong quá trình tổ chức dạy học với mục
đích tổ chức chơi để truyền thụ và lĩnh hội nội dung dạy học vừa dạy học có

tác dụng kích thích, nâng cao nhận thức, tạo không khí cũng như cách tiếp cận
bài giảng một cách nhẹ nhàng tự nhiên.
Các nghiên cứu về PPĐVNT không nhiều. Các tác giả coi đây là một nội
dung trong PPDH tích cực, PPDH hiện đại, PPDH tiên tiến, ...Các tài liệu phương
Tây đã giới thiệu các PPDH mới: Động não, (brain storming); thảo luận nhóm
(buzz group) hoặc (group discussion); dạy nhóm nhỏ (small group teaching); đóng
vai ( role play); trò chơi (game); học theo vấn đề (problem based learning); học
độc lập, ( independent learning) ... các tài liệu giáo dục học quân sự Xô-viết đã
giới thiệu các PPDH hiện đại như sau: Khởi động sư phạm; đàm thoại với người
học trong khi giảng; trò chơi sư phạm quân sự; bàn tròn; động não.
Tác giả Iu.K. Babanxki đã đề xuất một hệ thống PPDH được phổ biến
rộng rãi ở Liên Xô trước đây. Trong hệ thống PPDH có các phương pháp tổ
chức và thực hiện hoạt động nhận thức, các phương pháp kích thích và xây dựng
6


động cơ học tập, các phương pháp kiểm tra. Trong đó phương pháp trò chơi
nhận thức nằm trong nhóm phương pháp kích thích hứng thú học tập.[34, tr.49]
Thời gian gần đây, trong báo cáo có nhan đề “Role Play as a Teaching
Method: A Practical Guide” của Tiến sĩ Kanokwan Manorom and Zoë
Pollock, được xuất bản với sự hỗ trợ từ Sáng kiến học giả Mekong (MLI) và
trung tâm nghiên cứu xã hội phân miền Mekong (do Lê Thị Ngọc Thương,
Trung tâm Đánh giá & Kiểm định Chất lượng Giáo dục - Viện Nghiên cứu
Giáo dục dịch và giới thiệu), đã hướng thiết kế như một chỉ dẫn cho giáo viên
có nhu cầu sử dụng đóng vai như là một công cụ giảng dạy, một phương pháp
giảng dạy hữu ích nhất cho các lớp khoa học xã hội. Bài báo cáo đã phác thảo
quy trình thiết kế và thực hiện PPĐV gồm 4 giai đoạn: Giai đoạn chỉ dẫn,
Giai đoạn tương tác, Giai đoạn diễn đàn, Giai đoạn phỏng vấn.
* Ở Việt Nam
Phương pháp đóng vai nhận thức ngày càng được sử dụng trong nhiều

lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Ngày nay, trong
nền giáo dục hiện đại, PPĐVNT trở thành một PPDH tích cực bên cạnh nhiều
PPDH hiện đại khác như: phương pháp thảo luận nhóm (tương tác nhóm),
PPDH trực quan, PPDH nêu vấn đề (xây dựng và giải quyết tình huống có
vấn đề), PPDH dự án,...
Trong thực tiễn dạy học ở nước ta, tất cả các cấp học, các ngành nghề,
lĩnh vực khoa học đều có sử dụng PPĐVNT ở những mức độ khác nhau. Đối
với các trường đại học, quá trình sinh viên đi thực tập (sinh viên sư phạm thực
tập - đóng vai giáo viên, sinh viên y khoa thực tập - đóng vai bác sĩ, sinh viên
luật thực tập - đóng vai luật sư,...) chính là việc sử dụng đóng vai một cách rõ
nét. Thực tiễn thì phong phú và phổ biến, nhưng cho đến nay mới có rất ít
những công trình nghiên cứu lý luận về PPĐVNT và chủ yếu nghiên cứu thông
qua hình thức đóng vai. Có rất ít công trình nghiên cứu lý luận về PPDH
thông qua hình thức đóng vai. Có một số công trình quan tâm đến PPĐVNT:
7


Năm 1996 giáo sư Đặng Vũ Hoạt đã giới thiệu một số PPDH mới như
sau: Phương pháp động não; phương pháp tìm tòi khảo sát; phương pháp
đóng vai; phương pháp xác định giá trị.
Tác giả Phan Trọng Ngọ và Trần Tuyết Oanh trong cuốn “Dạy học và
phương pháp dạy học trong nhà trường” [23] và “Giáo dục học” [25] gọi là
phương pháp đóng kịch và PPĐVNT được vận dụng chủ yếu ở việc giáo viên
xây dựng kịch bản và học sinh là người thực hiện kịch bản thông qua việc
“diễn” các vai có sẵn trong kịch bản.
Các giáo trình Giáo dục học quân sự đều có đề cập đến PPĐVNT trong
nhóm phương pháp kích thích nhận thức bao gồm 4 PPDH cụ thể: Phương
pháp khởi động trí tuệ; phương pháp tranh luận các vấn đề học tập; phương
pháp đóng vai nhận thức; phương pháp sử dụng trắc nghiệm khách quan trong
dạy học. Đã chỉ ra khái niệm, đặc điểm, phân loại, cấu trúc một cách hết sức cơ

bản và khẳng định: “Đóng vai nhận thức là một phương pháp dạy học tích
cực, nó phù hợp với tính chất đào tạo những chuyên gia quân sự, những nhà
chuyên môn trong các trường đại học quân sự” [ 32, tr.161].
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu đổi mới PPDH, Cục nhà trường
Bộ Tổng Tham mưu đã triển khai xây dựng “Kế hoạch bồi dưỡng giáo viên
của các nhà trường trong quân đội”(Năm 2004). Kết quả đã xây dựng
chương trình, biên soạn tài liệu về đổi mới PPDH, tiến hành thử nghiệm sư
phạm ở một số trường trong quân đội, trong đó có dạy học bằng PPĐV.
Trong đó xác định vai trò, mục tiêu học tập, điều kiện áp dụng, trường hợp
vận dụng và cách tiến hành buổi dạy học bằng PPĐV. Theo đó, ở Học viện
Chính trị đã tổ chức lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục có tập huấn
chuyên đề về dạy học bằng PPĐV.[3]
Tác giả Trịnh Quang Từ đã có bài viết “PPĐV mô hình hóa hoạt động
nghề nghiệp trong dạy học các môn khoa học kỹ thuật” trên Tạp chí Giáo dục số
100 (Tháng 3/2004) đã bàn về phương pháp trò chơi, phương pháp đóng vai,
8


phương pháp dạy học đóng vai mô hình hoá hoạt động nghề nghiệp. Trong đó
tác giả đã chỉ ra trong PPĐV trọng tâm là kịch bản đóng vai, tình huống đóng vai
mô hình hóa hoạt động nghề nghiệp. Quá trình thực hiện đóng vai, học viên
tương tác, ràng buộc với nhau theo một kịch bản nhất định phù hợp với mục đích
và nhiệm vụ dạy học. Kịch bản đó cho phép và đòi hỏi học viên phải chủ động
thể hiện hành động, suy nghĩ của mình như trong một trò chơi chứ không phải
như các vai diễn của kịch bản nghệ thuật. Chính do học viên được chủ động,
sáng tạo thể hiện vai diễn như thế nên họ lĩnh hội được nội dung dạy học đã thiết
kế trong tình huống với sự hứng thú và nỗ lực rất cao.[35]
Tác giả Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier trong cuốn “Lý luận dạy
học hiện đại. Cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học”, coi
đóng vai là một PPDH thông qua mô phỏng và thường có tính chất trò chơi

hay còn gọi là trò chơi đóng vai. Đồng thời chỉ ra khái niệm, tiến trình, ưu
nhược điểm của trò chơi đóng vai [5, tr.141].
Trong các học viện, nhà trường đại học quân sự PPĐVNT thường được
sử dụng trong dạy học các bộ môn như quân sự (chiến thuật, chiến dịch...), Công
tác đảng, công tác chính trị, thể thao quân sự và các môn nghiệp vụ khác. Trong
diễn tập chiến thuật và chuyên môn nghiệp vụ, người ta xây dựng (mô phỏng)
các tình huống, sự cố để nghiên cứu phản ứng của người học, từ đó rút ra bài học
để huấn luyện cho họ chuẩn bị đối phó có hiệu quả với tình huống thực. Khoa
CTĐ, CTCT (Học viện KTQS, 2009) đã nghiên cứu đề tài cấp Tổng cục Chính
trị: “Nghiên cứu giải pháp xây dựng bài tập thực hành môn Công tác đảng, công
tác chính trị trong đào tạo sĩ quan chỉ huy, tham mưu kỹ thuật quân sự bậc đại
học” [17] trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp
cơ bản của việc xây dựng bài tập thực hành môn CTĐ, CTCT trong đào tạo sĩ
quan chỉ huy, tham mưu kỹ thuật quân sự bậc đại học.
Năm 2012 - 2014 ở Học viện KTQS, PGS. TS. Trịnh Quang Từ đã xây
dựng và thực hiện đề án đổi mới PPDH môn Phương pháp nghiên cứu khoa
9


học với hai phương án: Phương pháp “Tổ chức tự nghiên cứu kết hợp thảo
luận tập thể” và “Phương pháp tổ chức thảo luận nhóm luân phiên đóng vai”
đã được thử nghiệm và đạt được kết quả rất tốt trong việc phát huy tính chủ
động, tích cực, độc lập tạo hứng thú trong học tập của người học.
Khi nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực, nhiều tác giả đã
phân tích rất sâu sắc đặc điểm, nội dung và những cơ sở để vận dụng phương
pháp tình huống, phương pháp đóng vai trong dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường trung học phổ thông. Điển hình là các công trình: “Một số
phương pháp dạy học tích cực” của Vũ Hồng Tiến [31]: “Đổi mới phương
pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa” của Trần Bá Hoành [12]…
Ngoài ra, các chuyên đề thay sách giáo khoa, chương trình bồi dưỡng thường

xuyên, tài liệu hướng dẫn dạy học bộ môn cũng đề cập đến PPĐVNT trong
dạy học môn Giáo dục công dân.
Đã có mộ t số học viên cao học nghiên cứu việc sử dụng PPĐVNT
trong các môn học khác nhau. Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Hồng Quế với
đề tài “Qui trình sử dụng phương pháp dạy học đóng vai kết hợp với
phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn đạo đức” (Bậc tiểu học)
[30]; Luận văn thạc sĩ của Đỗ Khánh Năm với đề tài “Sử dụng phương
pháp đóng vai kết hợp thảo luận nhóm trong dạy học môn khoa học nhằm
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học”[22]. Luận văn thạc sĩ của
Đào Thị Hường với đề tài “Sử dụng phương pháp tình huống kết hợp với
phương pháp đóng vai trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp
12”[15]; Luận văn thạc sĩ của Mai Thị Kim Chi “Vận dụng phương pháp
đóng vai trong dạy học lịch sử Việt Nam (Thế kỷ X-giữa thế kỷ XIX),
Lớp 10 Trung học phổ thông - Chương trình chuẩn” [4].
Từ những công trình nghiên cứu trên đây có thể thấy rằng PPĐVNT đã
được quan tâm nghiên cứu để ứng dụng vào giảng dạy. Tuy nhiên, các công trình
đó mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra khái niệm, cách thức tiến hành cụ thể và được
10


thực nghiệm trên một phạm vi cụ thể mà chưa có một công trình nào nghiên cứu
lý luận và vận dụng PPĐVNT vào dạy học môn GDH. Bởi vậy, chúng tôi quyết
định chọn vấn đề: “Vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học
môn Giáo dục học ở Học viện Kỹ thuật quân sự” làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn tiến hành xây dựng quy trình, đề xuất
biện pháp vận dụng PPĐVNT phát huy tính tích cực nhận thức, kỹ năng giải
quyết tình huống thực tiễn của học viên góp phần nâng cao chất lượng trong
dạy học môn GDH ở HVKTQS.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vận dụng PPĐVNT trong
dạy học môn GDH. Khảo sát đánh giá thực trạng vận dụng PPĐVNT trong
dạy học môn GDH ở Học viện KTQS. Xây dựng quy trình, biện pháp vận
dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH ở Học viện KTQS. Tổ chức thử
nghiệm kiểm chứng tính hiệu quả của quy trình, biện pháp đã đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Giáo dục học ở Học viện Kỹ thuật Quân sự.
* Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học môn Giáo
dục học ở Học viện Kỹ thuật Quân sự.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đề xuất quy trình và biện pháp vận dụng PPĐVNT
trong dạy học môn GDH ở Học viện KTQS, trong đó nghiên cứu vận dụng
PPĐVNT trong dạy học môn GDH ở hình thức bài giảng trên lớp . Phạm vi
địa bàn khảo sát và tiến hành thử nghiệm sư phạm được giới hạn chủ yếu giáo
viên dạy môn Tâm lý - Giáo dục học và học viên khóa 50 đào tạo kỹ sư quân
11


sự tương ứng đang học năm thứ 3 tại Học viện KTQS. Nghiên cứu hoạt động
đổi mới PPDH đối với môn GDH ở Học viện KTQS từ năm 2012 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Phương pháp đóng vai nhận thức có tác dụng kích thích tính tích cực
nhận thức và khả năng giải quyết tình huống thực tiễn của người học
nhưng trong dạy học môn GDH ở Học viện KTQS PPDH này chưa được sử
dụng một cách hiệu quả. Nếu xây dựng quy trình, biện pháp phù hợp, lựa
chọn đúng nội dung, xây dựng được tình huống và kịch bản phù hợp, tiến
hành tổ chức ĐVNT trên lớp hiệu quả thì chất lượng dạy học môn GDH sẽ

được nâng cao hơn.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, quán triệt các quan điểm
phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Trong quá
trình nghiên cứu, tác giả tiếp cận vấn đề theo quan điểm: hệ thống - cấu trúc;
đối chiếu - so sánh, lịch sử - lôgíc; quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa
học làm cơ sở xem xét và phân tích những vấn đề có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá,
hệ thống hoá các tài liệu về lý luận PPĐVNT của các tác giả trong và ngoài
nước; các nghị quyết, chỉ thị về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo của
Đảng, quân đội có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để phục vụ trực tiếp giải
quyết các nhiệm vụ dựng cơ sở lý luận của đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp quan sát: Tiến hành dự giờ và quan sát các giờ học có
vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH, nhằm giúp thu thập thông tin
12


góp phần khẳng định tính chính xác và độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
+ Phương pháp toạ đàm, trao đổi: Trao đổi với giáo viên và học viên
về việc vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH, nhằm thu thập những
thông tin cần thiết phục vụ cho nghiên cứu của đề tài.
+ Phương pháp điều tra: Xây dựng bảng hỏi đối với giáo viên và học
viên nhằm tìm hiểu thực trạng về vận dụng PPDHĐVNT trước và sau khi tiến
hành thử nghiệm.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm giáo dục: Phân tích kết quả kiểm

tra, điều tra của học viên trong vận dụng PPDHĐVNT trước và sau thử
nghiệm nhằm nâng cao tính khách quan trong thử nghiệm sư phạm.
+ Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Xin ý kiến chuyên gia về khoa
học giáo dục về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến luận văn.
+ Phương pháp thử nghiệm sư phạm: Tổ chức giảng dạy thử nghiệm 2
tiết học trên lớp bằng PPĐVNT môn GDH nhằm kiểm chứng quy trình, biện
pháp đã xây dựng của luận văn.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp toán học
thống kê để tổng hợp kết quả điều tra, xử lý số liệu trong quá trình nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài đã bước đầu làm rõ về PPĐVNT và vận dụng PPĐVNT trong
dạy học môn GDH ở Học viện KTQS. Xây dựng quy trình, biện pháp vận
dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH góp phần đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả dạy học môn GDH ở Học viện KTQS hiện nay. Luận văn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu ứng dụng PPĐVNT vào
giảng dạy môn GDHQS cũng như các môn Khoa học xã hội và nhân văn ở nhà
trường quân đội.
8. Kết cấu của đề tài
Phần mở đầu; phần nội dung gồm 3 chương (9 tiết), phần kết luận, kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục kèm theo.
13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
ĐÓNG VAI NHẬN THỨC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC

1.1. Các khái niệm công cụ của đề tài
1.1.1. Phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học
* Phương pháp dạy học

Dạy học là một lĩnh vực hoạt động đặc trưng, bởi cả chủ thể và đối
tượng của hoạt động đều là con người. Hoạt động dạy học là quá trình giảng
dạy của người thầy (giáo viên) và học tập của người học (học viên) - quá trình
xử lý, chuyển giao thông tin, định hướng của giáo viên và thu nhận, xử lý
thông tin, ứng dụng, phát triển của học viên. Trong quá trình đó nhất thiết
phải được thực hiện thông qua các phương pháp đặc thù gọi là phương pháp
dạy học. Như vậy, bản chất của QTDH chính là việc sử dụng hệ thống
phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập nhằm thực hiện mục đích,
yêu cầu đặt ra về trang bị, cung cấp và tiếp thu, lĩnh hội (chiếm lĩnh), ứng
dụng kiến thức, kỹ năng của giáo viên và học viên. Để đạt hiệu quả cao trong
quá trình đó, phải xuất phát từ phương pháp dạy của giáo viên vì phương
pháp dạy quyết định và tác động đến phương pháp học của học viên.
Khi định nghĩa về PPDH, các tác giả đã xét trên nhiều mặt khác nhau
của QTDH, có tác giả chú trọng tới cách thức tương tác giữa giáo viên và học
sinh, có tác giả lại xét về mặt điều khiển học…Tuy nhiên, các tác giả đều chỉ ra
rằng PPDH có những dấu hiệu đặc trưng sau: PPDH phản ánh sự vận động của
nội dung học vấn đã được nhà trường quy định; PPDH phản ánh sự vận động
của quá trình nhận thức của học viên nhằm đạt được mục đích đề ra; PPDH
phản ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò; PPDH phản ánh cách
thức điều khiển nhận thức, kích thích và xây dựng động cơ, tổ chức hoạt động
nhận thức kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động. Nói chung khi định nghĩa về
PPDH, tuy các tác giả đề cập tới nhiều mặt của QTDH nhưng sự tương tác giữa
14


thầy và trò được nhiều tác giả quan tâm và đi sâu nghiên cứu nhất. Hiện có nhiều
cách hiểu khác nhau về PPDH xét trên mặt tương tác giữa thầy và trò nhưng tựu
chung lại, có ba cách hiểu sau:
Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của người giáo viên để
truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng và giáo dục học viên theo mục đích

của nhà trường.
Phương pháp dạy học là sự kết hợp các biện pháp và phương tiện làm
việc của giáo viên và học viên trong quá trình dạy học nhằm đạt tới mục đích
của giáo viên.
Phương pháp dạy học là cách thức hướng dẫn và chủ đạo của giáo viên
nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành của học viên, dẫn
tới việc học viên dễ dàng lĩnh hội vững chắc nội dung học vấn, hình thành thế
giới quan và phát triển năng lực nhận thức.
Cách hiểu thứ nhất phản ánh quan niệm cũ về vai trò của người giáo
viên trong QTDH: Giáo viên là nhân vật trung tâm giữ vai trò chủ đạo, hoạt
động tích cực, còn học viên thì thụ động thực hiện và tiếp thu, lĩnh hội kiến
thức do giáo viên truyền đạt. Quan niệm này dẫn tới chỗ coi các PPDH đều là
phương pháp của giáo viên. Cách hiểu thứ hai dung hoà hơn, coi PPDH là
một sự phối hợp của hai hoạt động dạy và học. Nhiệm vụ truyền đạt tri thức
của thầy cũng quan trọng như việc lĩnh hội tri thức của trò. Cách hiểu thứ ba
là cách tiếp cận dạy học tích cực, nhấn mạnh vai trò của người học trong quá
trình học tập và giáo viên được coi là người hỗ trợ hướng dẫn. Người học tự
xây dựng việc học tập của mình, còn nhiệm vụ của người dạy là tạo môi
trường học tập thuận lợi, thường xuyên khuyến khích tư duy. Trong luận văn
này chúng tôi nghiên cứu vận dụng theo cách hiểu này.
* Đóng vai
Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê: “Đóng vai là thể hiện nhân vật
trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh bằng cách hành động, nói năng như
15


thật” [26, tr.377]. Khi một vấn đề, một chủ đề nào đó trong cuộc sống hiện
thực được xây dựng thành một vở kịch thì đó được gọi là kịch bản, nhưng để
thể hiện nội dung kịch bản đó, người diễn viên phải đảm nhận sắm vai một
nhân vật và biểu diễn vai diễn đó. Quá trình đó được gọi là đóng vai.

Thuật ngữ “đóng vai” là một thật ngữ không còn xa lạ với chúng ta và
trên thực tế nó được ứng dụng, thể hiện rất phổ biến. Tuy nhiên, trong nhận thức
và quan niệm của nhiều người, từ xa xưa cho đến nay vẫn thường đồng nghĩa
đóng vai với hoá thân thành các vai diễn trong các loại hình nghệ thuật (sân
khấu, chèo, tuồng, ca kịch, cải lương…), thông dụng và phổ biến nhất đóng vai
là đóng kịch. Trong xã hội, mỗi cá nhân hay mỗi nhóm đều đảm nhận những vai
trò nhất định. Điều này giống như các vai diễn trên sân khấu, nhưng khác biệt ở
chỗ những vai diễn trên sân khấu thì hoá thân thành người khác, còn trong sân
khấu cuộc đời và sân khấu xã hội, mỗi người tự thể hiện chính mình với những
vị trí, vai trò khác nhau. Chính vì thế mà W. Shakespeare đã từng nói: “Toàn thế
giới là nhà hát. Trong nhà hát có đàn ông, đàn bà. Tất cả đều là diễn viên. Ở họ,
đều có lối ra sân khấu và lối rời sân khấu của mình” [ 18, tr.99].
Cũng có thể hiểu, đóng vai là bất cứ hoạt động nói nào trong đó hoặc
là bạn đang mượn vai trò của người khác, hoặc là bạn vẫn là mình nhưng
tưởng tượng mình đang ở trong một tình huống không có thật nào đó. Đóng
vai được áp dụng trong hoạt động dạy học nhằm mục đích nâng cao hiểu
biết về tri thức, kỹ năng, thái độ của người học để đạt đến mục tiêu dạy học
thì được gọi là ĐVNT.
Đóng vai thông qua trò chơi hay đóng vai theo các nhân vật trong các
câu chuyện được thực hiện trên lớp hoặc ở nhà của trẻ chính là những hoạt
động đơn giản đầu tiên - bước đầu làm quen và thể hiện PPĐVNT. Sự nhập
vai đó, khi được vận dụng vào QTDH, nó trở thành một phương pháp tương
đối phổ biến và mang lại hiệu quả cao đó chính là PPĐVNT hay một số tác
giả còn gọi là PPDH bằng hình thức đóng kịch. Trên cơ sở đóng vai, người
16


học thực hiện những vai diễn mà người học có thể hiểu được hành động của
mình tốt hơn và còn có tác động lên tư duy, tình cảm, thái độ và hành động
của các vai diễn khác, của người quan sát và của giáo viên.

Từ đó, có thể hiểu ĐVNT là sự thể hiện những vai diễn thông qua các
tình huống, kịch bản học tập được tổ chức trong hoạt động dạy học nhằm giúp
người học hiểu biết sâu rộng hơn các nội dung học tập đặt ra.
* Phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học
Có nhiều cách hiểu khác nhau về PPĐVNT trong dạy học. Các quan
niệm coi ĐVNT là phương pháp đóng kịch trong dạy học như tác giả Phan
Trọng Ngọ quan niệm: “Phương pháp đóng kịch trong dạy học là giáo viên cung
cấp kịch bản và đạo diễn, học viên hành động theo các vai diễn. Qua đó họ học
được cách suy nghĩ, thể hiện thái độ và hành động cũng như các kỹ năng ứng xử
khác của các nhân vật trong kịch bản” [23, tr.283]. Hay tác giả Trần Thị Tuyết
Oanh cho rằng: "Đóng kịch là PPDH, trong đó giáo viên tổ chức quá trình dạy
học bằng cách xây dựng kịch bản và thực hiện kịch bản đó nhằm giúp học sinh
hiểu sâu sắc nội dung học tập" [25, tr.227]. Các tác giả trên đều nhấn mạnh
PPĐVNT là PPDH trong đó giáo viên hình thành kịch bản có nội dung học tập,
yêu cầu người học đóng các vai diễn sẵn có. Bản chất của nó là sự gia công sư
phạm của giáo viên, chế biến nội dung dạy học thành kịch bản phù hợp để người
học sử dụng kịch bản đó và nhập vai.
Trong tài liệu Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo
khoa lớp 10 THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006) có viết: “Đóng vai là
phương pháp tổ chức cho người học thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử
nào đó trong một tình huống giả định” [2, tr.17]. Trong định nghĩa này, các
tác giả đã tiếp cận theo hướng giáo viên nên cho tình huống mở, không cho
trước “kịch bản” và người học sẽ tự sáng tạo kịch bản, lời thoại liên quan đến
nội dung kiến thức, thái độ, kỹ năng cần đạt được của bài học để đóng vai.
17


Theo Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier đưa ra khái niệm: “Đóng vai
là một PPDH trong đó người học thực hiện những tình huống hành động được
mô phỏng (theo các vai) về một chủ đề gắn với thực tiễn, thường mang tính

chất trò chơi, trong đó các tình huống cuộc sống, các vấn đề hoặc xung đột
được thể hiện. Đóng vai nhằm phát triển năng lực hành động thông qua sự trải
nghiệm của chính bản thân người học và thông qua thông tin phản hồi từ
những người quan sát” [5, tr.142].
Theo quan điểm của các nhà giáo dục học quân sự thì quan niệm: “Đóng
vai là một phương pháp dạy học tích cực, trong đó giảng viên tái tạo lại nội dung
của hoạt động nghề nghiệp tương lai, mô hình hoá các hành động đặc trưng cho
hoạt động đó, tổ chức cho học viên sắm vai thực hiện những hành động, thao tác
phù hợp với chuẩn mực hành vi có thực đó; qua đó hình thành kỹ năng và kinh
nghiệm hoạt động nghề nghiệp tương lai” [32, tr.163]. Hay nói một cách ngắn
gọn: ĐVNT là một PPDH, trong đó giáo viên đặt học viên vào các tình huống
giả định, yêu cầu học viên phải xử lý thông qua đó đạt được các mục tiêu dạy
học. Qua đó, PPĐVNT được sử dụng trong dạy học ở nhiều môn học khác nhau,
đặc biệt là các môn quân sự, y học,… bản chất của phương pháp này là người
dạy đặt người học vào các tình huống giả định và yêu cầu người học giải quyết.
Theo chúng tôi, Phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học là
phương pháp tổ chức cho người học thực hiện những vai diễn gắn với nội
dung tình huống học tập nhằm đạt được các mục tiêu dạy học đã đề ra.
Phương pháp đóng vai nhận thức được sử dụng như là một phương pháp
được sử dụng trong dạy học nhiều môn học, trước hết là các môn khoa học xã
hội. Đây là phương pháp thực hành mang tính chủ động, gây sự chú ý và thu hút
người học tham gia vào bài giảng, giúp phát triển kỹ năng thực hành và kiến
thức học thuật chuyên môn. Đồng thời, hướng đến nhu cầu của người học đó là
họ thường thích cách tiếp cận thực hành để học và mở rộng hiểu biết về cuộc
đàm phán của các bên liên quan thông qua quá trình mô phỏng kinh nghiệm.
18


Đây cũng là PPDH tạo bầu không khí sôi nổi cho lớp học, người dạy và người
học trở nên thân thiện, gần gũi với nhau hơn, tác động tích cực để giờ giảng đạt

hiệu quả cao. Trong PPĐVNT được giảng viên lựa chọn, xây dựng hoàn cảnh có
thực của đời sống, của thực tiễn quân sự thành kịch bản. Học viên được phân vai
phải sử dụng tổng hợp các tri thức, kỹ năng đã học và kinh nghiệm thực tế để thực
hiện các hành động, thao tác theo nội dung kịch bản dưới sự chỉ đạo, đạo diễn của
giảng viên. Dạy học vừa mô phỏng tổng hợp các tình huống thực tế nhưng lại
chứa đựng các tri thức, kỹ năng học viên phải lĩnh hội.
Cần phân biệt dạy học đóng vai và đóng kịch có sự khác nhau. Mục
tiêu của đóng kịch là diễn viên còn dạy học đóng vai là người học có thể vừa
tham gia đóng vai vừa là người quan sát. Đóng kịch cần có kịch bản chặt chẽ
nhưng dạy học đóng vai chỉ có tình huống đóng kịch. Vai diễn trong đóng
kịch cần phải trung thành, tuân thủ chặt chẽ kịch bản nhưng trong dạy học
đóng vai đòi hỏi sự sáng tạo để đạt mục tiêu dạy học. Trong dạy học đóng vai,
mọi thành viên đều có nhiệm vụ và đặc biệt phải thảo luận nội dung vai diễn
để tìm ra tri thức, thể hiện thái độ, rút ra kinh nghiệm học tập.
Phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học có thể đóng vai không
có kịch bản được sử dụng trong xử lý các tình huống đơn giản, ít phức tạp, ít
nhân vật tham gia. Ở dạng này, học viên tự sáng tạo ra các lời thoại, các hành
động của các vai diễn, không tuân theo kịch bản có sẵn. Hoặc đóng vai có
kịch bản được dùng trong những tình huống quy mô, phức tạp nhiều nhân vật
tham gia. Dạng này, các lời thoại và các hành động của các vai diễn được
thực hiện theo một kịch bản đã được chuẩn bị trước.
Như vậy, dạy học thông qua đóng vai là một PPDH giúp học viên tích cực
tham gia, sáng tạo, thể hiện bản thân, hoà nhập vào QTDH, vào môi trường học
tập linh hoạt, năng động. Đóng vai, phân tích tình huống, cách ứng xử, giải quyết
vấn đề, truyền tải thông tin, thông điệp về kiến thức, thái độ, kỹ năng sẽ tác động
sâu sắc tới suy nghĩ và hành động của cả người dạy và người học. Song để ứng
19


dụng và phát huy giá trị, hiệu quả của PPĐVNT, đòi hỏi phải có những yêu cầu

nhất định đối với nhà trường, giáo viên và học viên.
1.1.2. Vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học môn
Giáo dục học
Theo Từ điển tiếng Việt vận dụng là: "Đem tri thức lý luận dùng vào thực
tiễn" [37, tr.1105]. Như vậy, vận dụng là một khái niệm chỉ quá trình hoạt động
của chủ thể nhằm mục đích đem lý luận dùng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn theo
hướng mà lý luận đã chỉ ra. Vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH với tư
cách là một PPDH tích cực nhằm nâng cao hứng thú, khả năng thực hành giải
quyết các tình huống, nhiệm vụ dạy học đặt ra.
Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ đề cập đến việc vận dụng PPĐVNT
vào trong dạy học môn GDH. Từ cách tiếp cận đó thì: Vận dụng phương pháp
đóng vai nhận thức trong dạy học môn Giáo dục học là quá trình giáo viên
xây dựng bài giảng, tổ chức bài giảng trên lớp theo lí thuyết phương pháp
đóng vai nhận thức một cách linh hoạt, sáng tạo thông qua giải quyết các
tình huống dạy học trong giảng dạy môn Giáo dục học nhằm đạt được mục
đích, nhiệm vụ dạy học đã đề ra.
Vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH là một khái niệm dùng để chỉ
quá trình hoạt động, nhằm đem lý thuyết PPĐVNT áp dụng vào thực tiễn quá
trình dạy học môn GDH một cách linh hoạt, sáng tạo, đạt hiệu quả cao. Quá trình
này bao gồm nhiều hoạt động đan xen, thâm nhập vào nhau, với mục đích cuối
cùng là tổ chức quá trình dạy học môn GDH có sử dụng PPĐVNT.
Nội dung vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH bao gồm: thiết kế
các mục tiêu, nội dung dạy học môn GDH có sử dụng PPĐVNT. Trên cơ sở phân
tích nội dung, xây dựng và lựa chọn tình huống, kịch bản và tổ chức thực hành
trên lớp theo đúng quy trình vận dụng PPĐVNT trong dạy học giải quyết các
nhiệm vụ, mục tiêu dạy học môn GDH.
20


Chủ thể vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH bao gồm cả

người dạy và người học. Trong đó hoạt động của người dạy biể u hiện chủ
yếu ở việc xây dựng lựa chọn tình huống, xây dựng kịch bản, tổ chức cho
người học thực hành đóng vai trên lớp và tổ chức thảo luận, kết luận rút ra
kiến thức học tập. Hoạt động của người học biểu hiện ở việc chủ động,
độc lập, sáng tạo thể hiện vai diễn, thảo luận đóng góp ý kiến nhận xét ...
dưới sự điều khiển, “trọng tài”, cố vấn của người dạy để rút ra kết luận về
nội dung học tập.
Vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH là một hệ thống các thao
tác, hành động được sắp xếp theo một trình tự thống nhất, logic, chặt chẽ, có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau mà người dạy và người học phải thực
hiện từ việc chuẩn bị đến tiến hành, thảo luận, đánh giá, kết luận định hướng
nội dung học tập của PPĐVNT trong dạy học môn GDH.
Điều kiện, yêu cầu để vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH cần
chú ý, đó là: Tình huống phải thật rõ ràng, tình huống nên để mở, không nên
cho trước “kịch bản”, lời thoại. Mọi học viên đều được tham gia vào quá trình
thảo luận, xây dựng kịch bản, được đóng vai hoặc phục vụ cho công việc
đóng vai của các bạn trong nhóm. Giáo viên nên khích lệ học viên nhút nhát
tham gia vào các vai diễn. Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn
bị đóng vai. Giáo viên hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời cho học viên trong đóng vai.
Định hướng cho học viên xây dựng kịch bản phải có kịch tính (các xung đột,
các mâu thuẫn giữa các nhân vật) để gây hứng thú, gây sự chú ý và mang tính
thuyết phục cao về tư tưởng, hành vi. Người đóng vai phải hiểu rõ vai của
mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề và kết hợp - tương tác với các
bạn diễn. Sau khi diễn, cần thực hiện đàm thoại để rút ra những kiến thức,
những kết luận cần nhớ. Việc bình luận sau cảnh diễn phải tạo bầu không khí
thân thiện, cởi mở, cầu thị và xây dựng. Ngoài ra cũng cần chú ý đến điều
kiện vật chất, phương tiện hỗ trợ dạy học.
21



Phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học môn GDH có vai trò hết
sức quan trọng. Đây là phương pháp nhằm giúp học viên suy nghĩ sâu sắc về một
vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà họ vừa thực hiện hoặc quan
sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều
quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Như vậy, vận dụng PPĐVNT trong dạy học môn GDH là một khái
niệm chỉ quá trình hoạt động của chủ thể, với mục đích dạy học giúp học viên
có điều kiện ứng dụng lý thuyết, nội dung, nguyên tắc đã học, kinh nghiệm
của bản thân vào thực tiễn sinh động, đa dạng mà họ sẽ tiếp xúc sau này một
cách linh hoạt, sáng tạo.
1.2. Quy trình vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học
1.2.1. Bản chất, đặc điểm của phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học
Đặc điểm bản chất nhất của phương pháp này là người dạy đặt người
học vào các tình huống giả định và yêu cầu người học giải quyết.
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành, “làm thử” một
số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm
giúp học viên suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc
cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là
phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn
ấy. Do vậy, bản chất là sự gia công sư phạm của giáo viên, chế biến nội dung dạy
học thì kịch bản phù hợp để học viên sử dụng kịch bản đó để nhập vai. Qua sự nhập
vai đó, học viên tự khám phá, lĩnh hội được tri thức mới một cách nhanh chóng và
đem lại hiệu quả ghi nhớ rất cao. Bởi trong đóng vai, người học được làm, quan sát
và do vậy nắm chắc được bài học. Mặt khác, trong quá trình nhập vai, học viên sẽ
được học cách phản ứng như thế nào trong những điều kiện cụ thể nhất định. Đóng
vai được tổ chức trong dạy học thông qua các kịch bản, tình huống, trò chơi dạy
học, mô phỏng các vấn đề thực tiễn cuộc sống, các vấn đề học tập.
22



Mục đích của PPDH ĐVNT nhằm giúp người học nắm được những nội
dung dạy học qua đó hình thành những kỹ năng, năng lực nghề nghiệp, thể
hiện được tình cảm, thái độ trong học tập. Ở đây, kiến thức không chỉ được
tiếp nhận qua các vai diễn mà còn thông qua sự quan sát, ý kiến của người
khác và của giáo viên. Trong PPĐVNT giáo viên là người định hướng, nêu
chủ đề đóng vai có điều khiển (có kịch bản) hoặc đóng vai mở (không có kịch
bản). Còn người học là chủ thể của quá trình học tập, có trách nhiệm thực
hiện tốt vai diễn của mình và quan sát, giúp đỡ các học viên khác học tập.
Đóng vai nhận thức trong dạy học là một PPDH tích cực, một PPDH thực
hành. Thông qua nhập vào các vai trong những tình huống học tập giúp người học
được đóng những vai sẽ phải làm trong thực tế và những gì học được ở đó sẽ gắn
bó mật thiết với họ trong hoạt động nghề nghiệp tương lai. Nó diễn ra trong nhóm,
tập thể như một yếu tố, một áp lực sư phạm; vì học viên phải cố gắng và chỉ có thể
hoàn thành công việc cá nhân dưới sự hợp đồng, phối hợp với tập thể, nhóm.
1.2.2. Tình huống dạy học
Trong thực tiễn dạy học, giáo viên có thể tổ chức cho người học giải quyết
các tình huống thực tiễn, qua đó giúp họ lĩnh hội, củng cố hoặc vận dụng kiến thức.
Tình huống bao gồm các dữ kiện, các yếu tố liên kết với nhau để diễn
tả một hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nào đó có chứa đựng vấn đề cần giải
quyết. Khi con người ở trong tình huống đó mà chấp nhận giải quyết vấn đề
đặt ra sẽ làm xuất hiện trạng thái tâm lí tích cực. Tình huống bao giờ cũng
chứa đựng mâu thuẫn do các yếu tố, các dữ kiện thiết lập nên hoàn cảnh tạo
ra. Khi chủ thể bắt tay vào gải quyết tình huống, họ ý thức được mâu thuẫn,
tức là họ nhận ra sự đối lập giữa các yếu tố, các dữ kiện trong hoàn cảnh và
thấy mình có trách nhiệm phải giải quyết.
Tình huống là những sự kiện, vụ việc, hoàn cảnh có mâu thuẫn, có vấn
đề cần được giải quyết. Dạy học theo tình huống là PPDH, trong đó việc dạy
học được tổ chức theo những chủ đề phức hợp gần với các tình huống thật của
23



cuộc sống và nghề nghiệp. “Tình huống dạy học là tình huống thực tiễn, được
giáo viên lựa chọn và sử dụng nhằm đạt mục tiêu dạy học” [38, tr.143].
Tình huống dạy học có thể được lựa chọn từ tình huống thực của cuộc
sống, cũng có thể được hư cấu. Để tình huống trở thành tình huống dạy học
cần phải đáp ứng những yêu cầu đó là: Nó phải hàm chứa nội dung học tập và
giúp đạt được mục tiêu dạy học. Tình huống có tính chất điển hình mà việc
giải quyết chúng giúp người học lĩnh hội được tri thức khái quát. Trong tình
huống phải hàm chứa những vấn đề buộc người học phải vận dụng kiến thức,
kỹ năng đã có hoặc cấu trúc lại để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả nhất.
Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện
kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối quan hệ xã hội của việc học tập.
Phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học sử dụng tình huống học
tập được lựa chọn trong nội dung học tập, tình huống phải ăn nhập với nội
dung bài học, ngắn gọn dễ hiểu, kích thích hứng thú học tập, không nên đưa
ra quá nhiều tình huống trong một buổi học. Tình huống phải ngắn gọn, cụ
thể, khuyến khích sự sáng tạo của học viên trong khi đóng vai.
1.2.3. Kịch bản vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học
* Các nguyên tắc xây dựng kịch bản đóng vai nhận thức trong dạy học.
Yếu tố quyết định thành công của phương pháp đóng vai là kịch bản.
Do vậy, khi xây dựng kịch bản cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo được hiệu quả của phương pháp này.
Trước tiên, kịch bản phải được xây dựng căn cứ theo mục tiêu, nội dung
của bài học nhằm đảm bảo tính đúng lúc, đúng chỗ của việc sử dụng PPDH.
Thứ hai, kịch bản phải có tính chất tích cực, mang lại hiệu quả giáo dục
cao. Đồng thời, bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ của người học. Trong kịch bản
phải có kịch tính (các xung đột, các mâu thuẫn giữa các nhân vật) để gây
hứng thú, gây sự chú ý và mang tính thuyết phục cao về tư tưởng và hành vi.
Kịch bản, một mặt phải được soạn thảo chi tiết các đối thoại và hành
24



động của các nhân vật (biên kịch và đạo diễn), mặt khác, không nên ép buộc
học viên nhất thiết phải khuôn theo các chi tiết đó (diễn xuất của diễn viên).
Nói cách khác, các vai diễn phải có tính mở để tạo điều kiện cho người diễn
sáng tạo. Nên tránh đưa vào trong kịch bản những nhân vật đơn điệu.
* Kịch bản vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học
Kịch bản liên kết, ràng buộc các vai diễn với nhau, quy định cho vai
diễn những chức năng, nhiệm vụ, cách ứng xử, phạm vi quan hệ, cách thức
tương tác và cả trạng thái tâm lí - tinh thần của các nhân vật. Người đóng vai
buộc phải hoá thân thành nhân vật, quên chính mình. Họ sẽ phải nói, làm và
cư xử đúng như nhân vật, như vai diễn họ đảm nhiệm. Kịch bản có thể dài
hay ngắn nhưng phải chứa đựng tương đối trọn vẹn một vấn đề cuộc sống và
hoạt động có tính chất điển hình, nhưng các kết luận không phải được khái
quát sẵn, gọn gàng mà ẩn chứa trong toàn bộ nội dung kịch bản và được thể
hiện ra qua các nhân vật. Để nắm được vấn đề, phải nắm vững toàn bộ nội
dung kịch bản để rồi suy ngẫm, chiêm nghiệm, đối chiếu với kiến thức kinh
nghiệm đã có, từ đó dần dần rút ra vấn đề.
Kịch bản là các thiết kế tương lai mô tả những sự kiện sống đối với con người
và một thời điểm nhất định hay để ngỏ. Trong dạy học, kịch bản là việc lập kế hoạch,
tiến trình của hoạt động dạy học phù hợp với các hành động cụ thể của giáo viên và
học viên nhằm thực hiện tiến trình dạy học theo đúng kế hoạch đã đặt ra.
Khi vận dụng PPĐVNT trong dạy học tuân theo kịch bản như sau:
- Phần chuẩn bị: Giáo viên giao nhiệm vụ tình huống học tập. Giải
thích các vai diễn, những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, nội dung học tập cho
các bộ phận: các nhóm thực hiện, cá nhân học viên khác.
Các nhóm, cá nhân làm công tác chuẩn bị. Các nhóm tự thảo luận phân
công trong nhóm. Nghiên cứu vai diễn và chuẩn bị phần kiến thức, kỹ năng.
Tự tổ chức tập luyện, nghiên cứu.
- Thực hành đóng vai: Giáo viên tổ chức buổi thực hành.

25


Các nhóm, cá nhân đóng các vai đã quy định.
Các cá nhân khác theo dõi.
- Thảo luận, đánh giá nhận xét, rút ra những kiến thức cần đạt được.
Giáo viên điều khiển thảo luận sau đóng vai. Người tham gia đóng vai
tự nhận xét, đánh giá về và cảm nhận vai diễn của mình. Người quan sát đóng
góp ý kiến thảo luận về vai diễn, tiến trình, nội dung kiến thức, kỹ năng, thái
độ thông qua vai diễn. Giáo viên kết luận, định hướng và rút ra những kiến
thức học tập từ các vai diễn đóng vai nhận thức.
1.2.4. Quy trình vận dụng phương pháp đóng vai nhận thức trong dạy học
Theo cuốn từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, “quy trình” được
hiểu là trình tự phải tuân theo để tiến hành một việc nào đó[26]. Như vậy, quy
trình dạy học là sự kết hợp hữu cơ giữa quy trình dạy của thầy và quy trình
học của trò bao gồm các giai đoạn, các bước từ khi bắt đầu cho đến khi kết
thúc một tiết giảng, bài giảng được tiến hành theo một trình tự lôgic xác định
nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học đề ra.
Từ các khái niệm cơ bản nêu trên, có thể hiểu: Quy trình vận dụng phương
pháp đóng vai trong quá trình dạy học là trình tự lôgic các giai đoạn, các bước
mà giáo viên và học viên phải thực hiện trong quá trình dạy học nhằm tổ chức,
điều khiển, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động của các nhóm và các cá nhân
tham gia đóng vai để giải quyết tốt các nhiệm vụ học tập đề ra.
Căn cứ vào bản chất, mục đích của PPĐVNT chia làm ba giai đoạn:
Chuẩn bị, tổ chức thực hiện và thảo luận đánh giá nội dung học tập. Chúng tôi
khái quát quy trình của PPĐVNT trong dạy học gồm 5 bước cụ thể như sau:
Bước 1: Biên soạn kịch bản
Xác định mục đích đóng vai.
Xác định tình huống để tiến hành đóng vai.
Dự kiến việc giao nhiệm vụ cho từng học viên, nhóm học viên.

Soạn thảo kịch bản (Dạng có kịch bản).
26


×