Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quản trị những rủi ro dưới tác động của môi trường chính trị đối với hoạt động của công ty Ford Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.09 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU:
Trong xu hướng quốc tế nền kinh tế thế giới diễn ra mạnh mẽ, các doanh nghiệp của
các quốc gia sẽ phải đối mặt với nhiều tác động từ mọi phía hay nói cách khác,
doanh nghiệp có thể bị rủi ro nhiều hơn trong kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp
đầu tư dự án tại nước ngoài, họ sẽ phải đánh giá rất nhiều rủi ro trong đó có rủi ro
từ tác động của môi trường kinh tế- chính trị. Trong bài viết này, chúng ta cùng đi
xem xét những rủi ro do môi trường kinh tế- chính trị tác động vào hoạt động kinh
doanh của doanh ngiệp và liên hệ với việc quản trị những rủi ro dưới tác động của
môi trường chính trị đối với hoạt động của công ty Ford Việt Nam.

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 1


I. Cơ sở lý thuyết
1. Khái niệm rủi ro và rủi ro trong kinh doanh
khái niệm rủi ro
Cho đến nay chưa có được định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái
khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Những
định nghĩa này rất phong phú và đa dạng, nhưng tập trung lại có thể chia thành hai
trường phái lớn: Trường phái truyền thống và Trường phái hiện đại.
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn
thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không tốt, bất ngờ
xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi
nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong
quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và
phát triển của một doanh nghiệp.Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những
thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn
hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro (risk) là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa


mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất
mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội.
Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa,
hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho
tương lai.
Rủi ro trong kinh doanh
Hầu như tất cả mọi việc chúng ta đang làm nhằm mục đích kinh doanh đều liên
quan đến một loạt rủi ro nào đó: thói quen của khách hàng thay đổi, sự xuất hiện
của đối thủ cạnh tranh mới, những yếu tố mới nằm ngoài tầm kiểm soát...nếu biết
cách phân tích và quản lý rủi ro, doanh nghiệp có thể quyết định nên thực hiện
những gì để giảm thiểu những nhân tố làm xáo trộn kế hoạch kinh doanh.
Ngoài ra, qua đó doanh nghiệp cũng đánh giá được cách thức quản lý rủi ro của
mình có hiệu quả hay không. Một rủi ro được xem là nhỏ đối với doanh nghiệp này
lại có thể làm phá sản một doanh nghiệp khác. Một trong những cách để lượng hóa
tác động rủi ro là sử dụng công thức: Mức độ rủi ro bằng khả năng xảy ra sự kiện
nhân với chi phí phát sinh liên quan đến sự kiện.
2. Rủi ro dưới tác động của môi trường kinh tế
2.1 Khái niệm.

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 2


Rủi ro kinh tế là những bất ổn của nền kinh tế tác động tiêu cực đến sản lượng tiêu
thụ hàng hóa trong nước làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm hơn hoặc giảm mức
tăng trưởng tác động không tốt đến hoạt động kinh doanh của công ty, xuất hiện các
tình huống dẫn đến việc suy giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp và trong tình
huống đặc biệt có thể làm doanh nghiệp phá sản.
2.2 Phân loại rủi ro dưới tác động của môi kinh tế

a) Rủi ro thanh khoản: là khi doanh nghiệp không có đủ tiền để thanh toán các
khoản nợ, có thể do nợ tăng lên quá nhiều hoặc không thể chuyển đổi tài sản thành
tiền để trả nợ.
b) Rủi ro tín dụng hay đối tác.
Rủi ro tín dụng nói chung là thiệt hại do tình trạng người nợ tiền hoặc các đối tác
không có khả năng trả nợ cho doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp, mức rủi ro tín dụng cao hay thấp phụ thuộc chủ yếu hoạt động
quản trị khoản phải thu của doanh nghiệp.
Bán chịu tăng giúp tăng doanh thu, tăng lợi nhuận nhưng lại làm mất chi phí cơ hội.
c) Rủi ro về lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng tổn thất từ việc biến động bất lợi về lãi suất.
Rủi ro lãi suất tác động đến tài chính doanh nghiệp khi doanh nghiệp có những hoạt
động liên quan đến vay vốn đầu tư hoặc đầu tư tài chính.
Tầm quan trọng của lãi suất: ảnh hưởng đến giá của vốn của doanh nghiệp và lợi
nhuận kỳ vọng các khoản đầu tư dài hạn.
d) Rủi ro tỷ giá hối đoái
Là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá làm ảnh hưởng đén giá trị kỳ vọng
trong tương lai, xảy ra bất cứ khi nào công ty có luồng tiền, hoạt động được ghi
bằng ngoại tệ.
e) Rủi ro về tỷ suất lợi nhận
Là sự sai biệt của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng.
Trái phiếu: tỷ suất lợi nhuận tương đối thấp, ít rủi ro.
Cổ phiếu: tỷ suất lợi nhuận tương đối cao, rủi ro cao.
Rủi ro tài sản riêng lẻ là rủi ro nhà đầu tư gặp phải khi trong tay chỉ nắm giữ một
loại tài sản so với nắm trong tay nhiều loại tài sản.

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 3



f) Rủi ro lạm phát
Lạm phát hay còn gọi là vật giá leo thang, trong một lúc thời điểm kinh tế phát triển
thịnh vượng, giá nhà cửa, đồ ăn, đồ dùng cùng nhau lên giá. Đồng tiền không còn đủ
giá trị để mua những vật dụng cần thiết trong cuộc sống hằng ngày.
Rủi ro lạm phát thường đi liền với những món tiền đầu tư vào quỹ tiết kiệm, và
CD( chứng chỉ tiền gửi) với một số tiền lời quá khiêm nhượng. Là vì, quĩ tiết kiệm và
CD có phân lời quá thấp, nhiều khi không vượt quá chỉ số lạm phát.
Nhà cung cấp và khách hàng: doanh nghiệp cần tìm hiểu và nắm bắt được cơ cấu chi
phí của nhà cung cấp và khách hàng để có thể dự đoán được cách thưc mà nhà cung
cấp và khách hàng đối phó được với lạm phát để có thể sẵn sàng ứng phó lại.
2.3 Quản trị rủi ro kinh tế.
- Rủi ro thanh khoản:
Các tỷ số cần quan tâm:
Tỷ số thanh toán ngắn hạn: (tài sản ngắn hạn)/(nợ ngắn hạn)>1.5
Tỷ số thanh toán nhanh: (tài sản ngắn hạn tồn kho)/(nợ ngắn hạn)>=1
Tỷ số thanh toán bằng tiền: (tài sản ngắn hạn)-(tồn kho+khoản sẽ thu))/(nợ ngắn
hạn)>=0.5
Nếu giá trị các tỷ số này đều nằm trong khoản không an toàn, đặc biệt là tỷ số thanh
toán nhanh thì doanh nghiệp cân phải xem xét lại các vấn đề sau:Chính sách tồn kho
của doanh nghiệp, Chính sách khoản phải thu,Các khoản vay dài hạn khi đến hạn,
Hoạt động vay nợ.
- Rủi ro tín dụng hay đối tác.
Để kiểm soát rủi ro tín dụng, ngân hàng khi quyết định cho khách hàng vay thường
đánh giá điểm tín dụng của các doanh nghiệp vay vốn bằng mô hình Z, Z’, Z” của giáo
sư Edward Altman.
- Rủi ro về lãi suất
Hoạt động giảm thiểu rủi ro lãi suất: Chính sách tài chính hợp lý, kết hợp giữa vay
vốn ngắn hạn và dài hạn cũng như tăng vốn chủ sở hữu. chính sách tài chính tối ưu
phụ thuộc cơ bản vào bản chất tài sản của doanh nghiệp. tài sản càng dễ đổi ra tiền

mặt thì vay ngắn càng khả thi.

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 4


Đối với các hoạt động đầu tư trái phiếu, cổ phiếu, gửi tiết kiệm ngân hàng cũng cần
cân nhắc thời gian đáo hạn nhằm có được khoản thu nhập cao nhất.
- Rủi ro tỷ giá hối đoái.
Biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro tỷ giá: Sử dụng hợp đồng xuất nhập khẩu song
hành, quỹ dự phòng rủi ro tỷ giá, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng
tương lai và hợp đồng quyền chọn.
- Rủi ro về tỷ suất lợi nhận
Trong một danh mục đầu tư( có thể là cổ phiếu, trái phiếu) được chia thành hai
phần:
Rủi ro có thể đa dạng hoặc được giảm thiểu bằng cách đa dạng hóa đầu tư, các nhà
đầu tư có thể theo đuổi chiến lược đa dạng hóa đầu tư.
Rủi ro thị trường: trừ phi các tài sản đó có tỷ suất lợi nhuận cao tương ứng để bù
đắp rủi ro.
- Rủi ro lạm phát.
Các biện pháp hạn chế rủi ro lạm phát: doanh nghiệp nên thực hiện các hợp đồng
dài hạn.
3. Rủi ro dưới tác động của môi chính trị
3.1.Định nghĩa
Rủi ro trong chính trị là những chính sách của chính phủ áp dụng mà giới hạn cơ hội
kinh doanh của các nhà đầu tư ,là khả năng mà các cơ quan chính phủ có thể tạo
nên sự thay đổi trong môi trường kinh doanh của quốc gia mà tác động đến lợi
nhuận và những mục tiêu khác của công ty kinh doanh.Mặt khác những rủi ro về
chính trị như vậy cũng làm ảnh hưởng tới các nhà mảketing quốc tế ,những nhà đầu

tư quốc tế.
3.2. Phân loại rủi ro
- Rủi ro về quốc hữu hóa và sung công
- Rủi ro về môi trường ,an toàn , sức khỏe :những quy định liên quan tới kiểm soát

chất thải,quy trình sản xuất để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
- Rủi ro về giấy phép và độc quyền: sự bảo trợ hoặc tài trợ cho một nghành nào đó
quyền phát triển hoặc khai thác tài nguyên hoặc cơ hội kinh doanh
- Rủi ro về lãi suất : chính phủ đưa ra nhiều biện pháp sử dụng lãi suất để quản lý
và kiểm soát lạm phát và những vấn đề lien quan tới tiền tệ quốc gia.
- Rủi ro về kiểm soát ngoại hối và tiền tệ không có khả năng chuyển đổi

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 5


- Rủi ro về chính sách tuyển dụng lao động : là những quy định về quản lý và tuyển

dụng lao động như các vấn đề về mức lương tối thiểu ,lao động nữ ,hạn chế lao
động nước ngoài…
3.3. Quản trị rủi ro chính trị
Quản trị rủi ro chính trị được đề cập ở 3 giai đoạn : giai đoạn tiền đầu tư ,giai đoạn
đầu tư và hậu sung công
- Giai đoạn tiền đầu tư
Trước khi ra quyết định đầu tư vào một dự án ở một quốc gia , mọi công ty đều phải
tìm hiểu thật kỹ thông tin có liên quan để đánh giá rủi ro chính trị của đầu tư.Từ đó
công ty phải thiết lập 4 chính sách riêng lẻ để có thể quản trị những rủi ro chính trị
có thể xảy ra ở quốc gia dự định đầu tư.
+ Chính sách đề phòng

Đây là cách dễ nhất để quản trị rủi ro chính trị ,tức là các công ty chỉ cần tránh né
những rủi ro này bằng cách xem xét đầu tư ở những quốc gia có nền chính trị không
ổn định .Những rủi ro về chính trị là ngoài tầm kiểm soát của mình do đó mỗi công
ty sẽ chấp nhận một mức độ rủi ro chính trị nhất định mà tại đó vẫn đảm bảo mức
thu hồi vốn cao và có thể khống chế được các rủi ro này .
+ Chính sách bảo hiểm
Bằng cách bảo hiểm tài sản trong các khu vực có rủi ro chính trị ,các công ty có thể
tập trung vào việc quản lý kinh doanh của mình và bỏ qua rủi ro chính trị nếu có
xảy ra .
+ Chính sách hội đàm về môi trường
Các công ty sẽ cố gắng tiếp cận với các quốc gia chủ nhà trước khi cam kết đầu tư
,xác định quyền hạn và cam kết của 2 bên .
+ Chính sách cơ cấu đầu tư
Khi một công ty đã quyết định đầu tư vào một quốc gia thì họ sẽ cố giảm đến mức
thấp nhất những nguy cơ về rủi ro chính trị bằng cách tăng chi phí của chính phủ
nước sở tại trong việc gây trở ngại hoạt động của công ty .
- Giai đoạn đầu tư
Ở giai đoạn này ,có tối thiểu là 5 chính sách mà công ty có thể áp dụng để đem lại cơ
hội kinh doanh thành công
+ Kế hoạch phân tán
+ Tối đa hóa lợi nhận ngắn hạn
+Thay đổi tỷ số lợi nhuận /chi phí
+ Phát triển cổ động địa phương
+ Thích ứng
- Giai đoạn hậu sung công
Có 4 giai đoạn cơ bản mà chính phủ và công ty phải đối mặt là :
+ Thương lượng
+ Áp dụng quyền lực

Quản trị rủi ro – nhóm 2


Page 6


+ Sử dụng pháp luật
+ Từ bỏ quản lý
II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY FORD VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ RỦI RO DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA MÔI CHÍNH TRỊ MÀ CÔNG TY GẶP PHẢI
1. Lịch sử hình thành, tầm nhìn sứ mạng.
a. Lịch sử hình thành.

Được thành lập vào tháng 9/ 1995, Công ty Ford Việt Nam là liên doanh giữa
Tập đoàn Ô tô Ford có trụ sở ở Michigan, Hoa Kỳ ( 75%) và Công ty Diesel Sông Công
( 25%) với tổng số vốn đầu tư đến nay là 125 triệu USD. Nhà máy lắp ráp của Ford
Việt Nam ở tỉnh Hải Dương được khai trương vào tháng 11/1997 với công suất là
14.000 xe một năm.
Ford là công ty sản xuất ô tô đầu tiên ở Việt Nam nhận các chứng chỉ ISO 9001,
ISO 14001 và QS 9000 và chứng chỉ ISO/TS16949 – 2002 về quản lý chất lượng.
Tổng số nhân viện tại Ford Việt Nam là hơn 600 nhân viên với các trụ sở ở Hà Nội,
văn phòng TP Hồ Chí Minh và Nhà máy ở Hải Dương.
Trong gần 20 năm hoạt động tại Việt Nam, Ford Việt Nam (FVL) đã đạt được nhiều
thành công và ngày càng chiếm được sự tin tưởng, yêu mến của khách hàng với các
sản phẩm được công nhận về độ an toàn, chất lượng cao, luôn đổi mới và đáp ứng
đúng nhu cầu thị trường cùng hệ thống 25 đại lý và dịch vụ rộng khắp trên cả nước
(tính đến tháng 7/2014) và ngày càng được mở rộng về số lượng và chất lượng.
Từ vị trí thứ 7 trên thị trường khi bắt đầu hoạt động tại Việt Nam năm 1997,
Ford Việt Nam đã phát triển vững chắc và vào tháng 7 năm 2014, Ford Việt Nam
đứng ở vị trí thứ 3 trên thị trường với 10.4% thị phần, được dẫn dắt bởi mức tăng
trưởng 3.1% so với cùng kỳ năm trước và mức tăng 70% của năm 2013.
b. Tầm nhìn sứ mạng.


Chiến lược kinh doanh của Ford được thể hiện tiêu biểu nhất trong kế hoạch Một
Ford ( One Ford). Một Ford trải rộng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của công ty
bao gồm Một Đội ngũ thống nhất, Một Kế hoạch, Một Mục tiêu, nhằm xây dựng một
đội ngũ nhân viên toàn cầu chất lượng cao, cộng tác hiệu quả, và mang lại những

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 7


sản phẩm toàn cầu chất lượng đồng đều và ổn định tại các thị trường của Ford trên
toàn thế giới.
Tại Việt Nam, việc mở rộng các dòng sản phẩm toàn cầu đã giúp Ford tiếp cận
được nhiều đối tượng khách hàng mới và sự thành công của các dòng xe trong chiến
lược Một Ford như Fiesta , Ranger, Focus, EcoSport và sắp tới là Everest đã cho thấy
nhu cầu tiêu dùng đã được đáp ứng và vượt trên cả mong đợi của khách hàng bởi
các dòng xe Ford năng động tại Việt Nam.

1.2.

Sản phẩm của Ford.

Các sản phẩm của Ford hiện có mặt tại Việt Nam.


Ford All-New EcoSport chính thức ra mắt vào 7 năm 2014.




Ford All New Fiesta ra mắt chính thức vào tháng 7 năm 2011 và phiên bản
mới nhất ra mắt vào tháng 10 năm 2013.



Ford Everest ra mắt vào tháng 3 năm 2005 và phiên bản mới New Everest ra
mắt vào tháng 6 năm 2013.



Ford Transit ra mắt năm 1997 và phiên bản mới nhất New Transit ra mắt vào
tháng 9 năm 2013.



Ford Focus ra mắt vào tháng 8 năm 2005 và phiên bản mới All-New Focus ra
mắt tháng 9 năm 2012



Ford Ranger ra mắt tháng 6 năm 2001 và phiên bản All New Ranger
Wildtrack 3.2L ra mắt tháng 7 năm 2014.

1.3.

Tình hình phát triển của Ford Việt Nam.

Trong 3 năm gần đây, Ford là một trong những thương hiệu ô tô có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất ở thị trường Việt nam với mức tăng trưởng 71% trong 2 năm
liên tiếp 2013, 2014 và tiếp tục tăng trưởng 70% trong 6 tháng đầu năm 2015. Ba

dòng xe Ford Ranger, Ford Transit và Ford Ecosport liên tục dẫn đầu thị trường. Thị

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 8


phần của Ford liên tục tăng trưởng và hiện đang đứng ở vị trí thứ 3 trên thị trường
ô tô Việt nam
Tháng 8/2015 Ford Việt Nam công bố kết quả kinh doanh với mức tăng trưởng
5% so với cùng kì năm ngoái, tương đương 1.353 xe được bán ra. Kết quả tích cực
này giúp doanh số 8 tháng năm 2015 của Ford tại Việt Nam tăng tới 49%, tương
đương 11,7100 xe và hãng tiếp tục là một trong những hãng ô tô phát triển nhanh
nhất của năm nay.
Tháng 9/2015 Ford Việt Nam vừa công bố kết quả kinh doanh tháng 9 tốt nhất từ
trước đến nay với mức tăng trưởng 36% so với cùng kì năm ngoái, tương đương
1.888 xe được bán ra. Tính từ đầu năm, tổng doanh số bán cộng dồn của hãng đạt
13,598 xe, tăng 47% so với cùng kì năm ngoái, đưa Ford trở thành một trong những
thương hiệu ôtô phát triển nhanh nhất Việt Nam. Lý do bởi ngày càng nhiều các
doanh nghiệp hoạt động trong đa dạng ngành nghề đánh giá cao sự bền bỉ, tính đa
dụng và giá trị mà dòng xe thương mại cao cấp này mang lại.
Thành tựu đạt được.
Hiện nay, Ford Việt Nam đã phát triển được mạng lưới gồm 29 đại lý ủy quyền
và trung tâm dịch vụ tại 15 tỉnh thành trên cả nước. Nếu năm 1997, Ford Việt Nam
bán được 300 xe/năm thì năm 2014 đã bán được gần 14.000 xe.
Tính từ năm 2010 đến tháng 4/2015, Ford Việt Nam đã đóng góp cho ngân sách nhà
nước gần 7.400 tỷ đồng. Giới thiệu ra thị trường 9 dòng xe với nhiều phiên bản khác
nhau. Mỗi phiên bản sau lại có những cải tiến về thiết kế cũng như chất lượng so với
phiên bản trước.
Đặc biệt, 3 năm gần đây, Ford là một trong những thương hiệu ô tô có tốc độ tăng

trưởng nhanh nhất ở thị trường Việt Nam.Từ vị trí thứ 7 (năm 1997), hiện nay, thị
phần của Ford liên tục tăng trưởng và đang đứng ở vị trí thứ 3 trên thị trường.
Hoạt động kinh doanh hiệu quả của Ford Việt Nam cũng được ghi nhận bằng
những giải thưởng mang tầm quốc gia như Cờ thi đua của Bộ Công Thương; Giải
Rồng Vàng liên tục 12 năm liền.
Tháng 9 vừa qua, công ty Ford Việt Nam cũng đã nhận Huân chương Lao Động
hạng Nhì từ Chính phủ Việt Nam cho thành tích kinh doanh bền vững và đóng góp
thiết thực của hãng với cộng đồng địa phương.
2. Định hướng phát triển của Ford Việt Nam

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 9


Trong 5 năm qua, Ford Việt Nam đã vượt qua những khoảng thời gian khó khăn để
đi đến thành công.Làm được điều đó thật không dễ với bất cứ một doanh nghiệp
nào, đối với doanh nghiệp sản xuất ôtô lại càng khó hơn, nhất là trong khi ngành
công nghiệp ôtô còn quá non trẻ như ở Việt Nam.
Ngay từ đầu năm 2014, Ford đã đầu tư để mở rộng năng lực sản xuất các dây
chuyền tại nhà máy tại Việt Nam tăng lên 14.000xe/năm, gấp đôi so với cuối năm
2013, nhằm đón đầu sự phát triển trong năm 2015 và những năm tới nữa. Ford đã
đưa ra những sách lược như tiếp tục mở rộng và áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn
mới của cho hệ thống đại lý và dịch vụ trên toàn quốc.Có thể thấy các dòng xe hàng
đầu của Ford đang hướng đến những giá trị về chất lượng, an toàn, tiết kiệm nhiên
liệu và thông minh, đáp ứng tốt các mong đợi của khách hàng.
Song song với các hoạt động kinh doanh, Ford còn là một trong những doanh nghiệp
đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường tại Việt Nam với sự hỗ trợ cho các chương
trình xã hội.
3. Một số rủi ro mà công ty gặp phải

3.1 Những bất cập trong chính sách thuế Việt Nam
Chính sách thuế được xem là công cụ quản lý hỗ trợ quan trọng cho sụ phát triển
ngành công nghiệp ô tô.Tuy nhiên thời gian qua công cụ này đã được sử dụng không
hiệu quả, khiến cho Việt Nam vẫn chưa có nền công nghiệp ô tô đúng nghĩa.Pháp
luật vẫn chưa thực sự chặt chẽ, nhiều khe hở và còn nhiều hạn chế trong việc thực
thi khiến cho doanh nghiệp kinh doanh gặp nhiều khó khăn nhất là đối với các
doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào có nền công nghiệp ô tô Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước có mức thuế bảo hộ ô tô cao nhất châu Á. Tính
trung bình, giá xe tại Việt Nam thường cao hơn từ 2-3 lần so với xe cùng loại trên thị
trường thế giới do phải chịu thuế, phí.
Danh sách những loại thuế áp dụng trên một chiếc ôtô:
- Thuế nhập khẩu linh kiện với xe lắp ráp trong nước (doanh nghiệp đóng, tính vào
giá xe): 10 – 30%; hoặcthuế nhập khẩu nguyên chiếc (đơn vị nhập khẩu đóng, tính
vào giá xe): 50 – 70% tùy loại.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: 40-60%, tùy theo dung tích xe.
- Thuế Giá trị gia tăng (VAT): 10%. - Thuế thu nhập doanh nghiệp (doanh nghiệp
đóng, tính vào giá xe): 22%.

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 10


Các loại phí phải đóng khi xe lăn bánh trên đường:
- Phí trước bạ: 10 – 15%, tùy thành phố. - Phí cấp biển số: 2 – 20 triệu đồng (HN và
Tp.HCM). - Phí đăng kiểm: 240.000 đồng – 560.000 đồng (một lần kiển định).
- Phí cấp giấy chứng nhận đảm bảo an toàn kỹ thuật: 50.000 đồng – 10.000 đồng
(một lần cấp).
- Phí sử dụng đường bộ: Có 2 loại phí sử dụng đường bộ, là phí thu qua trạm thu phí
BOT để hoàn vốn xây dựng các công trình giao thông khi ôtô lưu hành qua, và phí

bảo trì đường bộ với mức 130.000 đồng đến 1.430.000 đồng một tháng tùy theo tải
trọng xe. - Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
- Phí bảo hiểm vật chất (không bắt buộc).
- Phí xăng dầu.
- Phí thử nghiệm khí thải.
- Phí thử nghiệm mức tiêu thụ nhiên liệu.
- Phí cấp giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng.
Nghị định số 45/2011/NĐ - CP được ban hành, quy định, kể từ ngày 1/9/2011, mức
trần lệ phí trước bạ đối với ôtô chở người dưới 10 chỗ ngồi sẽ được nâng lên 20%
thay cho mức 15% hiện đang áp dụng. Căn cứ quy định này, các thành phố trực
thuộc trung ương sẽ quyết định mức thu cụ thể phù hợp với điều kiện địa phương.
Theo nội dung dự thảo, sẽ có hai mức phí thử nghiệm tiêu thụ nhiên liệu đối với ô tô
từ 7 chỗ ngồi trở xuống. Cụ thể, xe sử dụng nhiên liệu xăng chịu mức phí 16 triệu
đồng/phép thử/lần; xe sử dụng nhiên liệu dầu diesel chịu mức phí 16,5 triệu
đồng/phép thử/lần. Như vậy, bên cạnh phí thử nghiệm khí thải đã được quy định
trước đây tại, các loại ôtô chở người từ 7 chỗ ngồi trở xuống sẽ phải chịu thêm phí
thử nghiệm mức tiêu thụ nhiên liệu và lệ phí cấp giấy chứng nhận dán nhãn năng
lượng.Bấy nhiêu thông tin, cộng với việc lãi suất ngân hàng cao ngất trong bối cảnh
siết chặt tín dụng tiêu dùng khiến cho thị trường ô tô càng thêm ảm đạm.Trong
tháng 5/2011, chỉ riêng Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA) sản lượng
bán hàng đã giảm gần 20% so với cùng kỳ.
Phí cấp biển số tại Hà Nội lên 20 triệu đồng/xe bắt đầu từ 1/1/2012 đã làm cho các
DN ô tô thất vọng.
Mâu thuẫn chính sách là hồi quí 3-2014, Chính phủ ban hành quy hoạch và chiến
lược phát triển ngành ô tô Việt Nam định hướng đến năm 2030, đặt ra lựa chọn
phát triển dòng xe chiến lược là xe phục vụ nông nghiệp, xe tải, xe khách và xe buýt,
sau mới đến xe dưới 9 chỗ ngồi. Chiến lược này là kịch bản đảo ngược hoàn toàn so

Quản trị rủi ro – nhóm 2


Page 11


với chiến lược phát triển ngành đến năm 2020 là phát triển dòng xe dưới 9 chỗ ngồi,
đã bị thất bại.
Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu Bộ Công Thương đến tháng 11-2014 phải
công bố dự thảo một số chính sách để hiện thực hóa mục tiêu cho các dòng xe chiến
lược này. Song từ đó đến nay, không có một thông tin dự kiến gì về chính sách được
đưa ra.
Sự không thống nhất quan điểm giữa Bộ Công Thương và Bộ Tài chính về chính sách
thuế 2015. Bộ Công Thương muốn bảo vệ cho các nhà sản xuất trong nước nên đề
nghị duy trì thuế nhập khẩu 50% đến đúng năm 2018 mới dỡ bỏ hoàn toàn. Bộ Tài
chính muốn giảm thuế theo lộ trình từng năm để tránh giảm đột ngột về 0% vào
năm 2018.Bộ Tài chính cho biết đã và đang thực hiện lộ trình giảm thuế theo cam
kết (theo lộ trình giảm thuế nhâp khẩu ôtô từ khu vực ASEAN tới năm 2018 sẽ còn
0%; còn theo cam kết WTO, thuế suất nhập khẩu ôtô trên thế giới sẽ giảm còn 70%
vào năm 2014 và 47% năm 2017). Tuy nhiên, với những loại xe hạn chế tiêu dùng,
chủ yếu là xe dưới 9 chỗ ngồi, quan điểm của Bộ là duy trì mức thuế suất cao bằng
mức cam kết WTO, năm 2013 thuế nhập khẩu là 74% và sẽ giảm dần xuống 47% và
52% vào năm 2019.
Hoặc như việc Bộ Công Thương ban hành Thông tư 20 nhằm mục tiêu là siết chặt
nhập khẩu, nhưng sau khi vấp phải sự phản ứng từ phía doanh nghiệp vì một số quy
định bất hợp lý và phải dỡ bỏ, thì thông tư này lại tạo ra hướng mới cho các nhà sản
xuất trong nước có tiềm lực mạnh chuyển hướng sang nhập khẩu. Tính đến hết
tháng 10/2014, doanh số bán hàng của xe lắp ráp trong nước tăng 30% trong khi xe
nhập khẩu tăng 69% so với cùng kì năm 2013.Để hạn chế tình trạng doanh nghiệp
ôtô chỉ nhập khẩu thay vì sản xuất, Bộ Tài chính cho biết vẫn sẽ đánh thuế nhập
khẩu sẽ vẫn duy trì ở mức cao nhất
Còn với linh kiện, phụ tùng ô tô nhập khẩu, mức thuế nhập khẩu bình quân cho cả bộ
linh kiện đối với xe dưới 9 chỗ ngồi hiện ở mức 18 - 20%. So với thuế suất thuế nhập

khẩu xe nguyên chiếc mới là 74%, thì khoảng cách còn khá xa. Tuy nhiên, khoảng
cách này đã giảm đáng kể so với 5 năm trước (thuế nhập khẩu bộ linh kiện ở mức
15%, trong khi thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc là 100%).
Sự thiếu ổn định về chính sách đã khiến các doanh nghiệp ngành ô tô không biết
đường nào mà hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh, bởi vì bất kể là dòng xe
nào cũng cần ít nhất từ 3-5 năm chuẩn bị đầu tư. Vì vậy, thật dễ hiểu vì sao nhiều
doanh nghiệp chọn phương án nhập khẩu xe thay vì lắp ráp tại Việt Nam, vì đó là
phương án kinh doanh an toàn, giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận.
3.2. Ảnh hưởng của rủi ro từ môi trường chính trị đối với nhà sản xuất ô tô Ford

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 12


Chính sách thuế của Việt Nam đang ở quá trình thay đổi và điều chỉnh thích hợp.
Trong tình hình kinh tế hiện nay, Chính phủ bắt buộc phải sử dụng các biện pháp
thích hợp để cải thiện nền kinh tế và đó là ưu tiên hàng đầu.Tuy nhiên, mức thuế
đánh vào ôtô ở Việt Nam là một trong những mức cao nhất trong khu vực.
Và điều băn khoăn nhà sản xuất ô tô Ford hiện nay là liệu các loại thuế, đặc biệt là
thuế tiêu thụ đặc biệt. Bởi vì việc tiếp tục tăng thuế có thể ảnh hưởng xấu đến hệ
thống cung cấp và những đầu tư lâu dài của công ty tại thị trường.Hơn nữa thuế
nhập khẩu bình quân cho cả bộ linh kiện đối với xe dưới 9 chỗ ngồi tăng từ 15% lên
18 - 20%. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến các công ty cung cấp phụ tùng, linh kiện, đặc biệt là các
doanh nghiệp Việt Nam cung cấp phụ tùng cho Ford. Là một công ty chuyên lắp ráp
ô tô Ford càng lo ngại trước những biến đổi không ngừng từ việc tăng thuế nhập
khẩu kinh kiện bởi hầu hết các sản phẩm của Ford vẫn nhập linh kiện từ nước ngoài,
tốn chi phí và đẩy giá thành lên cao.Hơn nữa, về mặt ngắn hạn và trung hạn thì thuế
áp dụng lên mặt hàng ôtô là khá cao.Điều đó ảnh hưởng trực tiếp lên giá thành cũng

như các chi phí của khách hàng.Hướng đi của DN thời gian tới là tập trung vào lắp
ráp những mẫu xe có sản lượng lớn, có lợi thế cạnh tranh, còn những mẫu nào
không có lợi thế sẽ ngừng lại và chuyển sang nhập khẩu. Ford có các kế hoạch phát
triển đầy tham vọng tại châu Á - Thái Bình Dương. Năm 2010 Ford đã đầu tư 1 tỷ
USD vào nhà máy sản xuất ô tô thứ 3 tại Thái Lan. Tháng 9/2011, Ford đã khởi công
xây dựng nhà máy sản xuất thứ hai trị giá 1 tỷ USD tại bang miền Tây Gujarat (Ấn
Độ). Hãng đang xây dựng 7 cơ sở sản xuất mới tại châu Á. Tuy nhiên trong kế hoạch
của Ford không có dự án nào tại Việt Nam.
Việc tăng phí trước bạ và cấp mới biển xe nhằm hạn chế xe ô tô cá nhân tại Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục cho thấy sự không ổn định trong chính sách phát
triển ngành công nghiệp ô tô. Trước những động thái đó Ford Việt Nam không có kế
hoạch đầu tư nào trong năm 2012 tại Việt Nam.Dây chuyền lắp ráp của Ford tại Việt
Nam nếu hoạt động 1 ca/ngày có sản lượng 9.000 xe/ năm, nếu làm 2 ca /ngày, sản
lượng 16.000 xe/năm. Năm 2011, doanh số bán ra của Ford đạt cao nhất cũng mới
hơn 8.000 xe vì vậy không cần đầu tư nâng công suất.Năm 2012 theo dự kiến Ford
sẽ chỉ ra mắt 1 sản phẩm mới tại thị trường Việt Nam là mẫu xe Pick up Ranger mới
Năm 2012 trong khi các thị trường khác trong khu vực chứng kiến sự tăng trưởng
và mở rộng đầu tư thì tại Việt Nam, sản lượng ô tô sụt giảm đến gần 40% - một con
số mà nếu ở các nền kinh tế khác, đã gây ra sự hoảng sợ. Kết quả bán hàng của
ngành trong năm 2012 sẽ ở mức khoảng 93.000 xe, giảm sâu so với hơn 138.000 xe
của năm 2011. Các rào cản về thuế quan là một tác động quan trọng góp phần làm
sụt giảm doanh số của ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam trong thời điểm
này.Tính khó đoán và nhanh thay đổi của các chính sách liên quan đến ô tô không
chỉ làm khó khăn cho các doanh nghiệp hoạch định kế hoạch sản xuất mà còn khiến

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 13



người tiêu dùng hoang mang.Không tránh khỏi sự tác động của chính sách thuế ford
Việt Nam có lượng xe bán ra năm 2012 đạt 4.790 chiếc, giảm 45% so với năm 2011.
Chỉ riêng tháng 12 - 2011, với 1.100 xe bán ra, đã gần bằng ¼ lượng xe bán ra trong
cả năm 2012.Trước tình hình khó khăn, Ford Việt Nam cũng có những tháng phải
cắt giảm sản lượng để giải quyết hàng tồn kho trong năm 2012
Ông Laurent Charpentier, Tổng giám đốc Công ty Ford Việt Nam cho rằng mục tiêu
lớn nhất của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) là xây dựng ngành
công nghiệp ô tô phát triển chứ không chỉ theo hướng lắp ráp ô tô. VAMA muốn
hướng tới sự phát triển bền vững, lâu dài cho toàn bộ ngành công nghiệp ô tô Việt
Nam, đó là đáp ứng được nhiều nhu cầu của người dân, kêu gọi được nhiều nhà
cung cấp linh kiện đầu tư vào sản xuất tại Việt Nam. Do cầu trong nước thấp, trong
khi vốn đầu tư cho dây chuyền sản xuất ôtô rất lớn, công nghệ luôn thay đổi. Do đó
dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không chú trọng việc tăng tỷ lệ nội địa hóa như đã
cam kết và có xu hướng chuyển sang lắp ráp giản đơn, nhập xe nguyên chiếc để kinh
doanh thương mại.
Năm
Tính đến cuối năm 2013, toàn ngành đã tiêu thụ hơn 110 nghìn xe, tăng 19% so với
năm 2012. Tuy nhiên, con số khiến chúng ta giật mình là sự chênh lệch đáng kể giữa
tăng trưởng dòng xe lắp ráp trong nước và xe nhập khẩu. Cụ thể, tính đến hết tháng
12/2013, doanh số xe lắp ráp trong nước tăng 18%, xe nhập khẩu tăng 23%. Như
vậy, thành tích 19% có được, chủ yếu là nhờ vào dòng xe nhập khẩu. Sản lượn bán ra
của Ford là 8.166 chiếc trong năm 2013, Ford đã đạt tỷ lệ tăng trưởng 70% so với
năm 2012, sở dĩ có được mức tăng đáng mừng như vậy là do Ford cho ra mắt dòng
xe mới. Tuy nhiên với xu thế ngoại nhập như hiện nay thì rủi ro đối với dòng xe lắp
ráp như Ford vẫn còn khá lớn trong khi ngày càng có nhiều hãng xe gia nhập thị
trường.
Năm 2014, mặc dù thị trường ôtô khó khăn và lộ trình giảm thuế nhập khẩu xuống
0% đã gần kề nhưng Ford Việt Nam vẫn tiếp tục đầu tư 6,1 triệu USD để tăng cường
các dây chuyền sản xuất xe và chuẩn bị cho kế hoạch lắp ráp dòng xe đa dụng cỡ nhỏ
EcoSport. Tuy nhiên nếu như giá của oto được lắp ráp trong nước không thể cạnh

tranh được với giá oto nhập khẩu thì mọi cố gắng từ Ford cũng có nhiều khả năng
trở thành vô ích. Có nhiều khả năng các hãng sẽ chuyển qua quảng cáo bán các sản
phẩm nhập khẩu.
Đến 2015 con số đầu tư của Ford vào Việt Nam trong năm 2015 đã không quá 5
triệu đô la Mỹ. Hầu hết đầu tư mới trong thời gian gần đây được các doanh nghiệp
tập trung cho việc phát triển hệ thống đại lý phân phối và dịch vụ.Khó đoán biết các

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 14


định hướng chính sách của chính phủ Việt Nam. Đây là thời điểm Ford đang lên kế
hoạch cho bốn năm tới, từ đây cho đến 2018, nhưng vì có những thay đổi chưa rõ
ràng, không chắc chắn về những gì sẽ xảy ra hoặc thay đổi trong những năm tới, nên
việc thực thi và hoàn thành kế hoạch bốn năm này là một sự thử thách khá lớn cho
Ford Việt Nam.
4. một số giải pháp quản trị rủi ro cho công ty Ford
4.1 Giải pháp từ phía công ty Ford
Chuyển dịch lắp ráp sang nhập khẩu
Để phát triển công nghiệp ô tôViệt Nam từ nay đến 2020, Bộ Công thương cùng các
DN sảnxuất ô tô đã xây dựng một lộ trình giảm thuế khác. Theo đó, đề nghị Bộ Tài
chính giữ nhịp cao đến năm 2017. Cụ thể năm 2014 giảm còn 50%, năm 2015 giữ
50%, năm 2016 giảm còn 40%, năm 2017 giảm còn 30% và năm 2018 giảm về 0%
-

Sự thiếu ổn định về chính sách đã khiến các doanh nghiệp ngành ô tô không biết khó
mà hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh, bởi vì bất kể là dòng xe nào cũng cần
ít nhất từ 3-5 năm chuẩn bị đầu tư. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp chọn phương án
nhập khẩu xe thay vì lắp ráp tại Việt Nam, vì đó là phương án kinh doanh an toàn,

giảm thiểu rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận.
Hướng đi của doanh nghiệp thời gian tới là tập trung vào lắp ráp những mẫu xe có
sản lượng lớn, có lợi thế cạnh tranh, còn những mẫu nào không có lợi thế sẽ ngừng
lại và chuyển sang nhập khẩu.
- Tăng tỷ lệ nội địa hóa
Tuy ngành công nghiệp phụ trợ vẫn còn yếu nhưng từ nhiều năm nay, các doanh
nghiệp sản xuất ô tô đã tăng cường đầu tư để tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm. Bởi,
có tăng tỷ lệ nội địa thì mới có thể giảm chi phí sản xuất và giảm giá thành xe.
Theo đại diện Công ty Ford Việt Nam, thực hiện cam kết làm ăn lâu dài và phát triển
bền vững tạiViệt Nam cũng như mong muốn đóng góp vào sự phát triển của ngành
công nghiệp ô tôViệt Nam, Ford Việt Nam đã luôn nỗ lự để gia tăng tỷ lệ nội địa hóa
của các linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước nhằm tăng cường cạnh tranh. Bởi
đây chính là điều kiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của Ford Việt Nam, khi Việt
Nam mở cửa hoàn toàn cho thị trường xe nhập khẩu vào năm 2018.
Tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn
Công ty cần giảm chi phí để tăng lợi nhuận trên mỗi đơn vị sản phẩm mà vẫn giữ
nguyên giá sản phẩm. Ford đã không sử dụng quy trình sản xuất chuẩn, với những
người thợ lành nghề chế tạo theo kiểu thủ công từ công đoạn bắt đầu cho đến kết
thúc. Thay vào đó Ford ứng dụng dây chuyền sản xuất mới, thay thế những người
thợ lành nghề bằng những công nhân bình thường, mỗi người chỉ thực hiện một
công đoạn nhỏ nhưng nhanh hơn và hiệu quả hơn, giảm thời gian chế tạo loại xe
Model T từ 21 ngày xuống còn 4 ngày và giảm thời gian lao động xuống 60%. Nếu
-

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 15


Ford không đưa ra sự cải tiến này thì họ không thể bán sản phẩm với mức giá chiến

lược mà vẫn thu được lợi nhuận.
4.2 Giải pháp từ phía nhà nước
- Cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng
Đường sá giao thông thuận lợi là một yếu tố kích thích nhu cầu sử dụng ô tô. Hiện
nay cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn kém, việc phát triển lĩnh vực này chủ yếu vẫn
dựa vào nguồn vốn ngân sách và vốn ODA. Do đó để thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, nhà nước cần khuyến khích tham gia của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Thời gian vừa qua chúng ta đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiên hệ
thống cơ sở hạ tầng. một mặt nhằm đáp ứng cho yêu cầu của phát triển kinh tế, mặt
khác nhằm tạo điều kiện phát triển cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Chính sách về vốn và các ưu đãi đầu tư
Đối với ngành công nghiệp non trẻ như ngành ô tô ở Việt Nam thì chính sách hỗ trợ
của nhà nước là rất cần thiết cho giai đoạn đầu phát triển. nhà nước có thể thực
hiện chính sách ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô của Việt Nam như:
+ Chính sách giảm giá thuế đất cho các doanh nghiệp sản xuất ô tô.
+ Chà nước hỗ trợ kinh phí để giải phóng mặt bằng tạo cơ sở vật chất kỹ thuật ban
đầu cho các nhà máy sản xuất ô tô
+ Có chính sách cho vay ưu đãi thuộc quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình
sản xuất ô tô được khuyến khích sản xuất trong nước như sản xuất cácloại xe phổ
thông và chuyên dụng phù hợp với nhu cầu kinh tế Việt Nam.
- Mở rộng mối quan hệ kinh tế quốc tế với các tổ chức trong và ngoài nước
Để tìm kiếm, phát triển thị trường đồng thời tạo điều kiện hợp tác giữa các doanh
nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài nhằm chuyển giao công nghệ, hợp
tác cùng phát triển ngành ô tô Việt Nam.
- Chính sách bảo hộ về thuế quan và phi thuế quan
Việt Nam đã gia nhập WTO việc giảm dần mức độ bảo hộ về thuế là điều cần thiết và
bắt buộc. Kinh nghiệm của các nước cho thấy trong giai đoạn đàu phát triển cần có
sự bảo hộ của nhà nước đối với ngành công nghiệp còn non trẻ như ô tô, điện tử…
tuy nhiên với chính sách bảo hộ quá cao như hiện nay làm cho ngành công nghiệp ô
tô không phát triển được, không tạo được xung lực cho ngành ô tô trong nước mà

còn làm nghèo người tiêu dùng, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước., làm lợi cho

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 16


nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, nhà nước cần có kế hoạch giảm dần mức độ bảo hộ
đối với các liên doanh ô tô cũng như với cả các doanh nghiệp nhà nước quen được
bảo hộ, thậm chí là bao tiêu đầu ra, tiếp tục thực hiện chương trình cắt giảm thuế
quan đối với mặt hàng ô tô theo lộ trình cam kết AFTA/CEPT
+ Nghiên cứu giảm một cách thích hợp thuế suất thuế nhập khẩu các loại ô tô cao
cấp để xóa bỏ dần việc người Việt Nam phải mua ô tô với giá quá cao như hiện nay.
Hơn nữa việc giảm thuế giúp các doanh nghiệp ô tô Việt Nam trụ được khi tham gia
hội nhập AFTA đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát triển nội địa hóa. Giá
ô tô giảm sẽ kích thích nhu cầu mua sắm ô tô cho sản xuất và sinh hoạt, dẫn đến
lượng ô tô tiêu thụ được tăng lên và thúc đẩy sản xuất ô tô phát triển.
+ Nâng cao mức thuế nhập khẩu đối với các loại xe phổ thông và xe chuyên dùng với
mức thích hợp và tiến trình thích hợp tỏng giai đoạn đầu đi vào sản xuất nhằm
khuyến khích sản xuất xe phổ thông và xe chuyên dùng trong nước( trừ các loại xe
chuyên dụng đặc biệt trong nước chưa sản xuất hoặc không sản xuất được như xe
cứu hỏa, xe cứu thương đặc biệt, xe truyền hình).
Cùng với chính sách thuế nhập khẩu, các cơ quan chức năng cần sớm phối hợp
nghiên cứu đưa ra các chính sách thuế khác tạo điều kiện tăng sức mua trong nước
nhằm hỗ trợ các nhà sản xuất tăng sản lượng đủ lớn để đảm bảo đầu tư nội địa hóa
có hiệu quả.

KẾT LUẬN
Qua những nghiên cứu của ngành ô tô nói chung và của công ty Ford nói riêng,
nhóm xin rút ra một số bài học cho ngành sản xuất ô tô như sau. Chính lỗ hổng của

chính sách bảo hộ sản xuất ô tô trong nước khiến nhà nước và nhân dân cùng thiệt.
Bởi vì ban đầu háo hức muốn nhanh chóng phát triển ngành công nghiệp ô tô của
đất nước, Chính phủ đã cho phép 11 liên doanh sản xuất lắp ráp ô tô từ nước ngoài
cùng vào Việt Nam. Quy mô nhỏ của thị trường khiến họ không hào hứng với việc
đầu tư vào các ngành phụ trợ, đơn giản vì sẽ không có hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó,
sự thiếu sự đồng bộ giữa khao khát phát triển ngành công nghiệp ô tô và vấn đề
chưa có chiến lược phát triển ngành phụ trợ phục vụ cho công nghiệp ô tô. Ngoài ra
chúng ta đã dành những chính sách ưu đãi và bảo hộ quá mức cho các liên doanh
lắp ráp ô tô ở nước ta mà thiếu sự theo dõi, giám sát,thúc đẩy họ thực hiện những
cam kết như nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, cung cấp sản phẩm có giá cả cạnh tranh. Hệ

Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 17


quả là sau hơn một thập kỷ, không có một liên doanh nào đạt mức nội địa hóa đã
cam kết, giá bán xe lắp ráp trong nước thì cao ngất ngưởng, ngành ô tô Việt Nam
phát triển ì ạch.
Từ những bài học đắt giá ở trên, nhóm nghiên cứu và nhận định thì cả doanh nghiệp
và chính phủ nên có những thay đổi theo hướng tích cực. Doanh nghiệp nên dự báo,
đo lường rủi ro có thể xảy ra dưới tác động của các nhân tố bên ngoài để từ đó có
những biện pháp phòng tránh, và hạn chế tốt nhất rủi ro cho doanh nghiệp mình.
Còn về phía chính phủ, nên đưa ra các cơ chế chính sách phù hợp đặc biệt là giảm
dần các mức độ bảo hộ về thuế nhập khẩu là điều cần thiết và bắt buộc, bảo hộ theo
hướng kích thích sản xuất trong nước phát triển, kích thích cạnh tranh và từng bước
tự do hóa thị trường trong nước. Chỉ có tiến hành những cải cách kịp thời và nhanh
chóng mới có thể giúp nhà nước và các doanh nghiệp trong ngành hạn chế được
những rủi ro về chính trị ở mức thấp nhất. Đây là cơ sở giúp ngành ô tô sẽ phát triển
hơn trong tương lai.


Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 18


Tài liệu tham khảo:
1. Bài giảng quản trị rủi ro
2. />3. />
ro-ve-chinh-tri-cho-cong-ty-ford-viet-nam-12688/
4. />
Quản trị rủi ro – nhóm 2

Page 19



×