Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn Công nghệ lớp 11 phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (780.47 KB, 78 trang )

MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của khoa Sư phạm Kỹ thuật – Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội và được sự đồng ý của Thầy giáo hướng dẫn PGS – TS Nguyễn
Văn Khôi, tôi đã thực hiện đề tài: “Vận dụng phương pháp dạy học trực quan
trong dạy học môn Công nghệ lớp 11 phổ thông”.
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy cô giáo
đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn
luyện ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đối với PGS.TS.
Nguyễn Văn Khôi – người thầy đã hướng dẫn, chỉ đạo tận tình cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài khóa luận này.
Xin gừi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã cổ vũ, động viên
và tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập và hoàn
thành khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học cũng như
những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh được những
thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được góp ý
của Thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2016
Tác giả
Đỗ Thị Cẩm Tú


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu của giáo dục trong đó hoạt động cơ bản là dạy học, là hình thành


và phát triển nhân cách học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần là cung cấp cho
các em những tri thức và kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được, mà
phải góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu
đào tạo. Học sinh càng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học
tập thì các phẩm chất và năng lực của cá nhân càng sớm được hình thành, phát
triển và hoàn thiện. Tính năng động, sáng tạo là những phẩm chất rất cần thiết
trong cuộc sông hiện đại.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 (Ban hành kèm theo Quyết định
số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ), ở mục 5.2
ghi rõ: “Đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ truyền thụ tri
thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy
trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy người học phương pháp tự học”, “tự thu
nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển
năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của HS trong
quá trình học tập…” [20].
Vấn đề cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học môn Công nghệ ở
trường phổ thông là làm cho HS có ý thức học tập với thái độ tích cực, chủ động
và sáng tạo. Trong quá trình dạy học, HS đóng vai trò là chủ thể của hoạt động
nhận thức để tích lũy kiến thức, kỹ năng… nhằm phát triển tư duy nhận thức của
mình.
Vì vậy PPDH trực quan rất cần thiết.
Hơn thế, Công nghệ là bộ môn mang tính ứng dụng; nó giữ vai trò quan
trọng trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta. Bộ môn Công
nghệ phổ thông có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những nguyên lý chung nhất
3


của các quá trình sản xuất chủ yếu, các phương tiện kỹ thuật chủ yếu và cách
thức sử dụng chúng trong quá trình công nghệ cơ bản. Đặc trưng của môn công
nghệ phổ thông là tính ứng dụng và tính thực tiễn. Bộ môn Công nghệ được hợp

thành từ nhiều phân môn khác nhau, mỗi phân môn có những đặc thù riêng của
nó. Do đó vấn đề đặt ra là đòi hỏi người GV phải biết lựa chọn phương pháp dạy
học sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Phương pháp dạy học trực quan là một trong những phương pháp dạy học
được ứng dụng nhiều trong giảng dạy ở phổ thông. Xuất phát từ nhiệm vụ, nội
dung của môn học cũng như đặc điểm của phương pháp dạy học trực quan; em
nhận thấy phương pháp dạy học trực quan là phương pháp rất phù hợp với nội
dung và đặc điểm của chương trình công nghệ 11 phổ thông. Phương pháp dạy
học trực quan là phương pháp dạy học có khả năng nâng cao chất lượng dạy học
của bộ môn Công nghệ, giúp cho HS có cơ sở để phát triển tư duy logic, tư duy
trìu tượng và năng lực sáng tạo kỹ thuật.
Ngoài ra, trong các trường THPT hiện nay, vấn đề sử dụng trực quan trong
dạy học nói chung và trong dạy học môn Công nghệ nói riêng của GV đang tồn
tại mâu thuẫn.
Từ những lý do trên, em lựa chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp dạy học
trực quan trong dạy học môn Công nghệ lớp 11 phổ thông”, mong rằng nội
dung này sẽ giúp thầy cô và các bạn thuận tiện hơn trong quá trình tìm kiếm
phương pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Công nghệ ở THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học
môn Công nghệ lớp 11 phổ thông” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của HS trong học tập, góp phần nâng cao chất lượng dạy học Công nghệ ở
THPT.

4


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc “Vận dụng phương pháp dạy
học trực quan trong dạy học môn Công nghệ lớp 11 phổ thông”

Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn Công nghệ
lớp 11 phổ thông.
Tiến hành thực nghiệm để kiểm chứng tính hiệu quả và tính khả thi cảu đề
tài nghiên cứu.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Công nghệ 11 phổ thông.
- Đối tượng nghiên cứu: Mức độ và tiến trình vận dụng phương pháp dạy
học trực quan trong môn Công nghệ 11 phổ thông.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài hướng tới việc: “Vận dụng phương pháp
dạy học trực quan trong dạy học môn Công nghệ lớp 11 phổ thông”.
Phạm vi tiến hành thực nghiệm tại trường THPT Bắc Thăng Long - Đông
Anh, Hà Nội
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, đề tài sử dụng kết hợp một số phương pháp
sau:
5.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu liên quan đến đề
tài.
5.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
5.2.1 Phương pháp quan sát:
Dự giờ, chủ động quan sát việc dỵ và học môn Công nghệ của GV và HS.
5.2.2 Phương pháp điều tra:

5


Phương pháp điều tra nhằm tiếp cận tình hình thực tế, nắm được tình trạng
của việc sử dụng các phương pháp dạy học và phương tiện dạy học trực quan
trong quá trình giảng dạy ở trường THPT.
Nhiệm vụ điều tra quan sát là tìm hiểu thái độ, tình hình của GV và HS

thông qua việc trao đổi và phỏng vấn trực tiếp, dự giờ để đánh giá chính xác việc
sử dụng các phương pháp dạy học và phương tiện dạy học trực quan vào giờ học.
Trên cơ sở đó xem xét nhưng điều kiện cần và đủ, những thuận lợi cũng như
những hạn chế của việc vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học
– học lớp 11 phổ thông của GV và HS.
5.3 Phương pháp thống kê toán học:
Vận dụng lý thuyết xác suất và thông kê để phân tích, xử lý các kết quả thu
được sau khi thực nghiệm sư phạm nhằm xác định xu hướng phát triển của các
đối tượng và làm tăng tính khách quan cho kết quả nghiên cứu của đề tài.
5.4 Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Nhằm tiến hành kiểm nghiệm, kiểm chứng, điều tra, khảo sát lấy ý kiến,
đánh giá về tính khả thi thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học trực
quan.
Sử dụng phiếu điều tra để lấy thông tin nhanh về việc vận dụng phương
pháp dạy học trực quan trong dạy học.
Qua thực nghiệm rút ra những nhận xét cần thiết liên quan đến các giải
pháp đề xuất trong nội dung của đề tài. Kết quả thực nghiệm là cơ sơ để kiểm
chứng tính khả thi của đề tài.
5.5 Phương pháp chuyên gia:
Dùng phương pháp này để đóng vai trò là người vận dụng phương pháp dạy
học trực quan với đúng nguyên tắc, quy trình và nội dung chương trình, góp
phần phát triển năng lực của HS và nâng cao chất lượng dạy học trong nhà
trường phổ thông.
6


5.6 Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn, trò chuyện:
Trò chuyện, đàm thoại với HS nhằm tìm hiểu thực trạng dạy và học môn
Công nghệ.
5.7 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:

Trao đổi kinh nghiệm với các thầy, cô giáo, đồng nghiệp của chính bản
thân.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính
của khóa luận gồm 3 chương là:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy
học trực quan trong dạy học môn Công nghệ lớp 11
Chương 2:Vận dụng phương pháp dạy học trực quan vào trong dạy học
môn công nghệ lớp 11
Chương 3: Kiểm nghiệm và đánh giá

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC
MÔN CÔNG NGHỆ 11
1.1 TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Dạy học trực quan là vấn đề cần thiết và được các nhà khoa học quan tâm
và nghiên cứu
1.1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Đặt nền móng cho phương pháp dạy học trực quan Nhà giáo dục người
Pháp – Môngtenhơ, thay đổi cách dạy cũ đọc chép, thuyết trình bằng cách dạy
học mới tăng tính tích cực chủ động sáng tạo cho HS chính là sự tiếp xúc với sự
vật.
Tại một số nước Tây Âu khác, một số nhà khoa học xem trực quan là cơ sở
của mọi tri thức, JA.Coomenxki, nhà giáo dục kiệt xuất người Tiệp Khắc, người
đầu tiên xem nguyên tắc trực quan trong dạy học là “nguyên tắc vàng ngọc”.
Theo ông không có gì hết trong trí não nếu như trước đó không có gì trong cảm

giác. Từ đó ông rút ra kết luận: “Lời nói không bao giờ đi trước được sự vật”
[7,tr12].
G.pestalossi, nhà giáo dục Thụy Sỹ cho rằng: Số cơ quan cảm giác tham gia
vào QTNT lớn thì kiến thức của chúng ta càng chính xác, là điểm tựa để biến
những biểu tượng chưa rõ ràng thành những biểu tượng rõ ràng, chính xác. Như
vậy tri giác cảm tính gắn liến với quá trình tư duy.
Mức độ cao hơn, Nhà giáo dục Nga K.Đ. Usinxki, tính trực quan đã được
ông nâng len một trình độ mới cao hơn dựa trên cơ sở những thành tựu của tâm
lý học và sinh lý học, ông đã đưa cách giải thích mới trong dạy học trực quan.
Khi phát triển nguyên tắc trực quan về mặt tâm lý học. Theo ông, “tính trực quan
phải là cơ sở quan trọng nhất của việc dạy học”, “trực quan là cái bắt đầu và là
8


nguồn gốc của mọi tri thức, cảm giác cung cấp tài liệu cho hoạt động trí tuệ của
con người. Trực quan là cho quá trình lĩnh hội tri thức của hS trở nên dễ dàng, tự
giác, có ý thức và vững chắc hơn, tạo ra hứng thú học tập ở HS, kích thích tính
tích cực của HS, là phương tiện tốt nhất nhằm giúp GV gần gũi với HS và là
phương tiện quan trọng để phát triển tư duy HS” [11,tr7].
X.G.Sapovalenco cho rằng: “Chất lượng đồ dùng dạy học phải gắn chặt với
chất lượng sử dụng nó của thầy giáo để nó có thể đạt hiệu quả giảng dạy và giáo
dục cao”[21,tr2].
K.G.Nojko khẳng định “vấn đề không phải chỉ nằm ở chỗ sản xuất và cung
cấp cho nhà trường những đồ dùng dạy học mà chủ yếu là phải làm sao cho
những đồ dùng dạy học được giáo viên sử dụng với hiệu quả cao” và “đồ dùng
dạy học, các phương tiện kỹ thuật chỉ là những phương tiện hỗ trợ nằm trong tay
người thầy giáo”[22,tr52].
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam vấn đề nghiên cứu sử dụng PTTQ chưa nhiều. Một số tác giả
như: Nguyễn Cương, Trần Quốc Đắc, Võ Chấp, Đinh Quang Bảo, Vũ Trọng Rỹ,

Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn Đức Thâm… đã có những nghiên cứu về khái
niệm, cấu trúc, vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa PTDH với các thành tố của
QTDH, cũng như sử dụng một số PTTQ trong những môn học cụ thể.
Cụ thể dạy học môn KTCN đã có: Tác giả Nguyễn Văn Khôi với công trình
nghiên cứu luận án tiến sĩ [9] đã vận dụng phương pháp tiếp cận công nghệ vào
dạy học môn KTCN phổ thông. Tác giả đã xây dựng cơ sở lý luận của phương
pháp tiêp cận công nghệ và vận dụng phương pháp này vào đề xuất các phương
án dạy học các loại bài lý thuyết và thực hành môn KTCN phổ thông. Tác giả
Phan Long [12] đã nghiên cứu đề tài sử dụng đa phương tiện trong dạy học môn
công nghệ phổ thông. Tác giả đã đề xuất sử dụng đa phương tiện theo quan điểm
hệ thống trong dạy học nội dung về kỹ thuật và cấu tạo cơ khí thuộc chương
9


trình phổ thông. Trịnh Thị Phương Thùy[15] nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ
về phát triển tư duy cho học sinh phổ thông qua các bài dạy thực hành. Phùng
Tiến Sơn [13] nghiên cứu về thực hành ảo để khắc phục tình trạng thiếu thiết bị
thực hành ở phổ thông. Ngô Thị Thủy[14] nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy
học theo quan điểm tích hợp và vận dụng để xây dựng một số bài dạy tích hợp
trong môn công nghệ phổ thông lớp 12. Về đổi mới kiểm tra đánh giá môn công
nghệ phổ thông có các luận văn của Nguyễn Anh Đức và Lưu Thị Vân Anh
nghiên cứu áp dụng PP trắc nghiệm khách quan và PP Pisa. Nguyễn Ngọc
Tuấn[16] viết về đề tài: Dạy học môn công nghệ 11 theo hướng tích cự hóa hoạt
động học tập của HS với sự trợ giúp của máy chiếu đa phương tiện, Nguyễn Văn
Hiện[6] viết về đề tài: Sử dụng PTDH theo hướng tích cự hóa hoạt động nhận
thức của HS trong dạy học môn kỹ thuật lớp 11 - cơ khí, Trần Thị Mai Hương[8]
viết về đề tài: Vận dụng PPDH trực quan vào phần động cơ đốt trong môn công
nghệ lớp 11 theo hướng tích cự hóa hoạt động nhận thức của HS.
Từ những nghiên cứu lý luận và thực tiễn dạy học trong nước và ngoài
nước đã khẳng định vai trò của PTTQ. Hiệu quả của QTDH “Việc sử dụng có

kết quả trực quan trong giờ học luôn luôn là sự kích thích hoạt động tư duy tích
cực của HS”[23,tr10].
Tuy nhiên việc nghiên cứu vẫn còn mang tính chất lý luận, ít gắn với thực
tế dạy ở trường phổ thông. Vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
1.2 PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN
1.2.1. Khái niệm
Phương pháp dạy học chính là con đường, cách thức dạy học nhằm đạt
được mục đích dạy học. PPDH gắn liền với quá trình dạy học. Đây là một quá
trình bao gồm hai mặt hoạt động: hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của
trò. Do đó PPDH phản ánh mối quan hệ qua lại giữa hoạt động dạy và hoạt động

10


học. Trong đó, hoạt động dạy giữ vai trò chủ đạo, hoạt động học giữ vai trò chủ
động tích cực.
Dựa vào phương tiện giao tiếp giữa thầy và trò, hoặc dựa vào nguồn cung
cấp tri thức cho học sinh, Perôpxki, Golant ,… đã chia PPDH thành ba nhóm
chính: các PPDH dùng ngôn ngữ, các PPDH dùng trực quan (PPDH trực quan)
và các PPDH thực hành. Trong đó PPDH trực quan có nhiều ưu điểm nổ bật và
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đổi mới PPDH nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình nhận thức của học sinh trong giai
đoạn hiện nay.
Theo lý luận về PPDH, phương pháp dạy học trực quan chính là hệ thống
các phương pháp cụ thể mà giáo viên dùng khi sử dụng PTTQ nhằm xây dựng
cho học sinh những biểu tượng về sự vật, hiện tượng, hình thành khái niệm
thông qua sự tri giác trực tiếp bằng các giác quan của người học.[24]
1.2.2. Cơ sở khoa học của PPDH trực quan
1.2.2.1. Cơ sở triết học
Bản chất của quá trình dạy học là tổ chức hoạt động nhận thức cho HS

nhằm đạt đến mục đích dạy học, mà con đường nhận thức phải là: “từ trực quan
sinh động đến tư duy trìu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn”. Tuân
theo đúng quy luật duy vật biện chứng.
- Trực quan là xuất phát điểm của nhận thức, nhận thức này chỉ phản ánh
thuộc tính bên ngoài của sự vật hiện tượng. Để nhận thức bên trong, cần xử lý
trong óc -> tìm ra dấu hiệu cơ bản.
- Bản chất của sự vật hiện tượng được nắm vững nhờ tư duy thông qua hình
ảnh trực quan.
Quá trình nhận thức là sự thông nhất của trực quan sinh động và tư duy trừu
tượng.
11


1.2.2.2. Cơ sơ tâm lý, sinh lý
Theo thuyết nhận thức duy vật biện chứng,quá trình nhận thức được chia ra
3 giai đoạn:
+ Nhận thức cảm tính: Giai đoạn phản ánh trong đầu óc con người những
sự vật hiện tượng với các thuộc tính của chúng trong mối quan hệ qua lại. Nhận
thức cảm tính nảy sinh do kết quả tác động trực tiếp của sự vật hiện tượng lên
các giác quan như thị giác, thính giác,…Nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp
cảu quá trình nhận thức nhưng nó giữ vai trò quan trọng vì từ đó tạo ra chất liệu
cho quá trình tư duy trừu tượng.
+ Nhận thức lý tính: là sự phản ánh trừu tượng khái quát dưới dạng các khái
niệm, định luật, thuyết,…
+ Tái sinh cái cụ thể trong tư duy: Kiểm tra và vận dụng các tri thức mới
vào tình huống mới. Tổ chức quá trình nhận thức được thuận lợi chúng ta sử
dụng phổ biến các phương tiện trực quan, nhất là đối với HS phổ thông. Với đối
tượng học tập chính là HS phổ thông, giai đoạn này cần phải đảm bảo cho chúng
ta nắm vững các tài liệu trực quan, tức là thu nhận được càng nhiều tư liệu cảm
tình thì càng tốt.

Muốn có nhận thức lý tính sâu sắc -> phải có nhận thức cảm tính đầy đủ ->
giai đoạn nhận thức cảm tính rất quan trọng. Sử dụng phương tiện trực quan
nhằm giúp làm tốt giai đoạn này.
Theo nghiên cứu tâm lý, mỗi giác quan của con người có khả năng tri giác
một lượng thông tin khác nhau trong cùng một thời gian. Năng lực dẫn thông là
khả năng tiếp nhận thông tin trong một đơn vị thời gian:
+ Thị giác: 3.106 bit/s
+ Khứu giác: 10 ->100 bit/s
+ Thính giác: 3.104 -> 5.104 bit/s
+ Xúc giác: 2 -> 10 bit/s
12


-> Năng lực dẫn thông của thị giác = 100 lần thính giác -> Ưu điểm của
phương pháp dùng trực quan so với dùng ngôn ngữ.
Người ta đã tổng kết về mối quan hệ phương tiện trực quan và tư duy con
người như sau:
Trừu tượng hoá
Cái cụ thể hiện thực

Cái trừu tượng lý thuyết
Phương tiện
trực quan
Cụ thể hoá

1.2.2.3. Cơ sở của bản thân môn Công nghệ
* Về nghiên cứu vật phẩm kỹ thuật: Bộ môn nghiên cứu những vật phẩm kỹ
thuật khác nhau được dùng trong đời sống -> bản thân bộ môn đã có tính chất cụ
thể, trực quan. Vì thế phải sử dụng cụ thể trực quan mới hình thành cho HS
những tri thức về chúng.

* Về nghiên cứu diễn biến của các quá trình kỹ thuật công nghệ: Bộ môn
nghiên cứu cacs quá trình kỹ thuật công nghệ cơ bản: Quá trình gia công vật liệu,
biến đổi năng lượng…, chung biến đổi bên trong sự vật, máy móc ta không thể
quan sát trực tiếp -> muốn HS lĩnh hội được phải tìm cách trực quan hóa.
* Về nhiệm vụ phát triển tư duy kỹ thuật: Sử dụng trực quan sinh động, HS
có khả năng quan sát, nhận xét -> thực hiện được các thao tác phân tích, tổng
hợp,… rút ra dấu hiệu bản chất.
Trực quan sinh động giúp tạo ra 3 yếu tố: khái niệm – hình ảnh – thao tác
giúp cho tư duy của HS phát triển đồng thời giúp hình thành 3 khâu: lĩnh hội –
thiết kế - vận dụng kỹ thuật.

13


1.2.3 Bản chất của PPDH trực quan
* Về bản chất, PPDH trực quan: là phương pháp sử dụng những PTTQ,
phương tiện kỹ thuật dạy học trong quá trình giảng dạy bài mới trong khi ôn tập,
củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Về bản chất, PPDH trực quan chính là cách thức tổ chức các hoạt động dạy
và hoạt động học tương tác với các phương tiện trực quan mang thông tin về nội
dung dạy học, tùy thuộc vào cách tương tác giữa ba khách thể trên mà PPDH
mang tính tích cực (hiểu theo nghĩa là tích cực hóa hoạt động học) hay thụ động.
Muốn cho PPDH mang tính tích cực thì hoạt động học phải là chủ yếu: HS quan
sát các phương tiện trực quan, tư duy để rút ra các thông tin về bản chất các sự
vật và hiện tượng chứa đựng trong các PTTQ này. Khi đó hoạt động dạy chỉ
đóng vai trò điều khiển (đưa các PTTQ ra đúng lúc, hướng dẫn, gợi ý cho HS
quan sát). Sự can thiệp của việc dạy vào quá trình này càng ít thì tính tích cực
của PPDH càng cao và ngược lại. Ví dụ như, khi dạy cấu tạo máy biến áp, GV
cho HS quan sát máy nguyên và các bộ phận của một máy đã tháo rời để HS
quan sát và rút ra nhận xét về cấu tạo (các bộ phận chính và phụ) của máy biến

áp thì các em đã tự chiếm lĩnh kiến thức mới về cấu tạo của máy biến áp. Nếu sự
dạy chủ yếu dùng trực quan với mục đích minh họa cho bài giảng của mình thì
PPDH mang tính thụ động truyền thống. Ví dụ, sau khi giảng giải xong cáu tạo
máy biến áp, GV chỉ cho HS xem các bộ phận của máy. Hoạt động của HS ở đây
chỉ là nghe và xem không cần tư duy tích cực.
Một số cách sử dụng PPDH trực quan theo dạy học tích cực:
* Dùng khi đặt vấn đề bài dạy: tạo ra tình huống ngạc nhiên, trái với suy
nghĩ thông thường của HS và cho các em lý giải bằng kiến thức đã có của mình
-> bế tắc -> cần học kiến thức mới. Ví dụ: làm thí nghiệm cho HS dự đoán trước
kết quả xảy ra -> làm thí nghiệm -> quan sát thấy người với suy nghĩ (dự đoán)
của các em.
14


* Trình chiếu trực quan -> HS quan sát -> HS rút ra kết luận. Trong trường
hợp này GV chỉ giúp đỡ bằng gợi ý, sửa kết luận của HS cho chính xác. Đây là
phương án dễ làm và có thể làm thường xuyên.
* HS tự làm thí nghiệm -> quan sát -> rút ra kết luận mới.
* Ra bài tập cho HS quan sát các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên (liên
quan tới nội dung cần học) -> thảo luận ở lớp (HS phát biểu các quan sát được,
các nhận xét rút ra và cả lớp thảo luận, bình luận).
* Ưu điểm và hạn chế của nhóm PPDH trực quan
Các PPDH trực quan nếu được sử dụng khéo léo sẽ làm cho các các PTTQ,
phương tiện kỹ thuật dạy học tạo nên nguồn tri thức. Chức năng đó của chúng
chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện tượng, sự kiện với phương pháp
nhận thức quy nạp. Chúng cũng là phương tiện minh họa để khẳng định những
kết luận có tính suy diễn và còn là phương tiện tạo nên những tình huống vấn đề
và giải quyết vấn đề. Vì vậy PPDH trực quan góp phần phát huy tính tích cực
nhận thức
- Với PPDH trực quan sẽ giúp HS huy động sự tham gia của nhiều giác

quan kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu, làm phát
triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tò mò khoa học của họ.
- Tuy vậy, nếu không rý thức rõ PTTQ chỉ là một phương tiện nhận thức
mà lạm dụng chúng thì dễ làm cho HS phân tán chú ý, thiếu tập trung vào những
dấu hiệu bản chất, thậm chí còn làm hạn chế sự phát triển năng lực tư duy trừu
tượng của HS.
* Những yêu cầu cơ bản của việc sử dụng PPDH trực quan
- Lựa chọn thận trọng các PTTQ, phương tiện kỹ thuật dạy học sao cho phù
hợp với mục đích, yêu cầu của tiết học.
- Giải thích rõ mục đích trình bày những PTTQ, phương tiện kỹ thuật dạy
học theo một trình tự nhất định tùy theo nội dung bài giảng.
15


- Các phương tiện đó cần phải chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo, tìm mọi biện pháp
giải thích rõ ràng nhất những hiện tượng, diễn biến quá trình và kết quả của
chúng, những biện pháp hướng dẫn HS quan sát để phát hiện nhanh những dấu
hiệu bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Cần tính toán hợp lý số lượng PTTQ, phương tiện kỹ thuật dạy học phù
hợp với nôi dung của tiết học. Không tham lam trình bày nhiều phương tiện để
tránh kéo dài thời gian trình bày làm ảnh hưởng đến tiết học.
- Để HS quán sát có hiệu quả cần xác định mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ
quan sát, hướng dẫn quan sát, cách ghi chép những điều quan sát được. Trên cơ
sở đó giúp họ rút ra những kết luận đúng đắn, có tính khái quát và biểu đạt
những kết luận đó dưới dạng văn nói hoặc văn viết một cách rõ ràng.
- Bảo đảm cho tất cả HS quan sát sự vật, hiện tượng rõ ràng, đầy đủ, nếu có
thì phân phát các vật thật cho họ. Để các đồ dùng trực quan dễ dàng các thiết bị
có kích thước đủ lớn, bố trí thiết bi ở nơi cao, chú ý tới ánh sáng, tới những quy
luật cảm giác, tri giác.
- Chỉ sử dụng các phương tiện dạy học khi cần thiết. Sau khi sử dụng xong

nên cất ngay đi để tránh làm mất sự tập trung chú ý của HS.
- Đảm bảo phát triển năng lực quan sát chính xác của HS.
- Đảm bảo phối hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện trực quan và
phương tiện kỹ thuật dạy học. Có bốn hình thức phối hợp như sau:
+ Hình thức phối hợp thứ nhất: Dưới sự chỉ đạo bằng lời của GV, HS quan
sát trực tiếp các sự kiện, hiện tượng. Từ đó, chính họ rút ra những thuộc tính,
những mối quan hệ của chúng, những kết luận không caanfsuy lý.
+ Hình thức phối hợp thứ hai: Trên cơ sở quan sát và dựa trên các đối tượng
và dựa vào tri thức đã học của HS, GV dẫn dắt họ biện luận, nêu ra các mối liên
hệ giữa những hiện tượng bằng các biện pháp quy nạp, từ đó rút ra kết luận.

16


+ Hình thức phối hợp thứ ba: là các biện pháp minh họa đối với những hiện
tượng đơn giản. Bằng lời nói GV thông báo trước những hiện tượng, sự kiện, kết
luận rồi sau đó trình bày PTTQ nhằm minh họa điều đã trình bày. Hình thức này
ngược với trường hợp thứ nhất.
+ Hình thức thứ tư là hình thức có tính chất suy diễn. Với nội dung phải
nghiên cứu phức tạp thì GV bằng lời nói mô tả diễn biến của hiện tượng, kích
thích HS tái hiện những tri thức đã học có liên quan đến hiện tượng để giải thích
hiện tượng đó. Tiếp đó, GV trình bày PTTQ để minh họa nhằm khẳng định
những điều đã trình bày của mình. Hình thức phối hợp này ngược với hình thức
thứ hai. Hình thức phối hợp đầu đòi hỏi HS phải tiến hành hoạt động nhận thức
tích cực hơn hai hình thức phối hợp sau. Song phải căn cứ vào tính chất nội
dung, trình độ tri thức và trình độ phát triển của HS mà lựa chọn.
1.3 PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN
1.3.1 Một số khái niệm cơ bản
1.3.1.1. Phương tiện trực quan
Phương tiện là cái dùng để làm một vệc gì, để đạt một mục đích nào đó.

(theo Từ điển Tiếng Việt – trang 793).
Theo lý luận dạy học, phương tiện trực quan là các phương tiện dạy học
(vật thật, vật tượng trưng, môt hình, tranh vẽ, sơ đồ…) diễn ra một đối tượng nào
đó. Nói cách khác, phương tiện trực quan là những phương tiện (công cụ) mà
giáo viên và học sinh sử dụng trong quá trình dạy học nhằm cung cấp tri thức,
rèn luyện kỹ năng cho HS thông qua sự tri giác trực tiếp bằng các giác quan.
Các PTTQ có thể là :



Vật phẩm, sản phẩm mẫu… gọi chung là vật phẩm kỹ thuật.
Mô hình, hình vẽ, sơ đồ (tĩnh hoặc động)… gọi chung là các vật



tượng hình.
Các thí nhiệm biểu diễn hoặc chứng minh.
17




Các hành động, thao tác kỹ thuật

1.3.1.2. Phân loại
* Phân loại theo tính chất của phương tiện dạy học
a. Nhóm truyền tin: cung cấp cho các giác quan của người học dưới dạng
tiếng hoặc hình ảnh hoặc cả hai cùng một lúc. Những phương tiện truyền tin
trong giáo dục phần lớn là các thiết bị dùng trong sinh hoạt gồm có:
1. Máy chiếu qua đầu

2. Máy ghi âm
3. Máy thu thanh
4. Máy thu hình
5. Máy chiếu phim
6. Phòng dạy tiếng
7. Máy tính
8. Các phương tiện ghi chép
b. Nhóm mang tin: là nhóm mà bản thân mỗi phương tiện đều chứa đựng
một khối lượng tin nhất định. Những tin này được bố trí trên những vật liệu khác
nhau và dưới các dạng riêng biệt.
Những phương tiện mang tin gồm có các loại như sau:
* Những phương tiện mang tin thính giác: là các phương tiện mang tin dưới
dạng tiếng gốm có:
+ Đĩa âm thanh
+ Băng âm thanh
+ Chương trình phát thanh
* Những phương tiện mang tin thị giác: là các phương tiện được trình bày
và lưu trữ tin dưới dạng hình ảnh gồm có:
+ Tranh tường, bản đồ, biểu bảng, đồ thị
+ Ảnh đen trắng và màu
18


+ Phim dương bản
+ Slide
+ Phim câm
+ Phim vòng
* Những phương tiện mang tin nghe nhìn: là nhóm hỗn hợp mang tin cả
tiếng lẫn hình gồm có:
+ Phim có tiếng

+ Slide có băng âm thanh kèm theo
+ Các buổi truyền hình
+ Các buổi ghi hình
+ Video
+ Phương tiện đa chức năng (mutilmedia)
* Những phương tiện mang tin dùng cho việc hình thành khái niệm hay tập
dượt gồm có:
+ Các nguyên vật liệu độc đáo (đồ vật, chế phẩm,bộ sưu tầm…)
+ Mô hình (tĩnh và động)
+ Tranh lắp ghép hoặc dán
+ Phương tiện và vật liệu thí nghiệm
+ Các thiết bị luyện tập
+ Các phương tiện sản xuất
* Phân loại theo cách sử dụng
Các phương tiện dạy học được chia làm hai nhóm
a. Phương tiện dùng trực tiếp để dạy học
Nhóm này lại chia thành hai nhóm nhỏ:
* Các phương tiện truyền thống là các phương tiện đã được sử dụng từ lâu
đời và ngày nay từng lúc, từng nơi vẫn còn được sử dụng.

19


* Các phương tiện nghe nhìn được hình thành do sự phát triển của các
ngành khoa học kỹ thuật, đặc biệt là ngành điện tử. Do có hiệu quả cao trong
truyền thống dạy học nên phương tiện nghe nhìn được sử dụng ngày càng nhiều
trong quá trình dạy học.
b. Phương tiện dùng để chuẩn bị và điều khiển lớp học
Nhóm này gồm có các phương tiện hỗ trợ, phương tiện ghi chép và các
phương tiện khác.

- Phương tiện hỗ trợ: Các loại bảng viết, các giá cố định và lưu động dùng
đặt các phương tiện trình diễn, thiết bị thay đổi cường độ ánh sáng trong lớp.
- Phương tiện ghi chép: Các phương tiện giúp cho việc chuẩn bị bài giảng,
lưu trữ số liệu và kiểm tra kết quả học tập của người học được nhanh chóng và
dễ dàng.
* Phân loại theo nguồn gốc
- Dựa vào nguồn gốc, người ta chia PTTQ thành hai nhóm cơ bản: nhóm
PTTQ nhân tạo và nhóm PTTQ tự nhiên.
- Nhóm phương tiện trực quan nhân tạo: Nhóm này gồm có mô hình, hình
vẽ, sơ đồ nguyên lý, đồ thị, sơ đồ khối, sơ đồ lắp ráp. Những phương tiện trực
quan này dùng để phác họa bản chất, cấu tạo chính của vật phẩm kỹ thuật hay
một quá trình sản xuất công nghiệp. Nó dùng để phản ánh những mối liên hệ
giữa các hiện tượng vật lý, kỹ thuật và các thao tác thực hành kỹ thuật.
- Nhóm phương tiện trực quan tự nhiên: Nhóm này bao gồm vật thật, sản
phẩm kỹ thuật. Loại phương tiện này có tác dụng giới thiệu cấu tạo, quá trình
hoạt động của các thiết bị, máy móc.
Ngoài ra các thao tác (hành động mẫu) của GV cũng là phương tiện trực
quan sinh động trong việc giới thiệu các hành động, thao tác kỹ thuật.
* Phân loại theo mức độ chế tạo phức tạp
Các loại phương tiện cũng được chia làm hai nhóm:
20


a. Loại chế tạo không phức tạp:
Loại này có các tính chất sau:
- Do thầy giáo tự nghiên cứu, phát triển
- Cần ít thời gian chế tạo
- Sản phẩm của mỗi thầy giáo làm ra chỉ thích hợp riêng với thầy giáo đó
khi dạy học
- Giá thành chế tạo không quá cao

- Có thể dễ dàng cải tiến
- Tuổi thọ sử dụng thường ngắn
b. Loại chế tạo phức tạp
Loại này có các tính chất sau:
- Cần nhiều thời gian để chế tạo.
- Sản phẩm làm ra được dùng phổ biến cho nhiều thầy giáo và ở nhiều nơi,
thường là các phương tiện dùng cho nhóm người học có kèm theo các tài liệu
hướng dẫn cho thầy và trò.
- Giá thành chế tạo tương đối cao.
- Thường là sản phẩm hoàn hảo (được thẩm định cẩn thận).
- Tuổi thọ sử dụng thường dài.
1.3.2 Vai trò của PTTQ trong dạy học
- PTTQ có vai trò thúc đẩy giúp nội dung và phương pháp dạy học có kết
quả, chất lượng cao hơn nhằm giúp HS tăng tính tích cực, chủ động sáng tạo.
- Việc sử dụng phương tiện dạy học đem lại hiệu quả càm xúc, thẩm mĩ cho
HS.
- Hiệu quả của việc điều khiển quá trình nhận thức của HS sẽ được nâng
cao.
Ngoài ra còn nhiều vai trò khác.
21


Cùng với sự phát triển của khoa học thì PTTQ càng hiện đại hơn.Do vậy nó
còn có vai trò to lơn trong việc thúc đẩy quá trình dạy học.
1.3.3 Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học
Tăng hiệu quả sử dụng PTTQ, cần có một số yêu cầu chung sau:
1.3.3.1 Yêu cầu với các phương tiện trực quan
a. Tính sư phạm:
- PTTQ đảm bảo cho HS tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với
yêu cầu của chương trình học, giúp GV truyền đạt một cách thuận lợi những tri

thức phức tạp làm cho HS phát triển khả năng nhận thức.
- Nội dung, cấu tạo của PTTQ phải đma bảo các đặc trưng của dạy lý thuyết
và thực hành.
- PTTQ phải phù hợp với nhiệm vụ sư phạm và PPDH.
- PTTQ hợp thành một số bộ phận có liên hệ chặt chẽ với nội dung và hình
thức dạy học.
- PTTQ phải thúc đẩy việc sử dụng các PPDH hiện đại, các hình thức dạy
học tiến tiến.
b. PTTQ:
Đảm bảo cả lớp quan sát được, phù hợp với tâm lý HS, màu sắc phù hợp
với vật thật.
c. Tính thẩm mỹ:
PTTQ đảm bảo tính thẩm mỹ để GV thích dùng, kích thích, nâng cao sự
cảm thụ chân, thiện, mĩ.
d. Tính khoa học kỹ thuật:
- Chất liệu chế tạo PTTQ đảm bảo tuổi thọ cao, vững chắc.
- PTTQ phản ánh chính xác tri thức, không sai lệch với bản chất sự vật hiện
tượng, áp dụng những tiến bộ KHKT tiên tiến.
- PTTQ phải có kết cấu thuận lợi cho việc chuyên chở và bảo quản.
22


e. Tính kinh tế:
Số lượng ít nhưng hiệu quả, tuổi thọ cao, chi phí bảo quản thấp.
1.3.3.2 Những yêu cầu khi sử dụng PTTQ
a. Biểu diễn đúng lúc, đúng chỗ, dùng đến đâu đưa ra đến đó.
b. Sử dụng số lượng vừa phải, nên kết hợp với các PPDH
c. Phải xác định rõ nhiệm vụ của bị trên bài học
d. Định hướng nhiệm vụ của thiết bị. (nhằm tạo ra mâu thuẫn, kích thích,
hứng thú của HS, minh họa những vấn đề phức tạp, củng cố, vận dụng kiến thức,

tạo tính tịch cực, chủ động cho HS…)
e. Nên kết hợp nhiều loại PTTQ
f. PTTQ phải góp phần tăng tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS
1.4.THỰC TRANG CỦA VIỆC SỬ DỤNG PTTQ TRONG DẠY HỌC MÔN
CÔNG NGHỆ PHỔ THÔNG
1.3.1. Thực trạng dạy học môn Công nghệ phổ thông
Chất lượng môn Công nghệ chưa cao chưa đáp ứng được mục tiêu môn học
cũng như đòi hỏi, yêu cầu của xã hội.
Vì nguyên nhân sau:
- Thứ nhất đối với HS: Nhiều học sinh xem môn Công nghệ là môn học phụ
do đó các em chưa thực sự hứng thú đối với môn học. Các em còn học vẹt, lười
tư duy trong quá trình học tập.
Nhiều học sinh rất chăm học nhưng chưa có phương pháp học tập phù
hợp, chưa tích cực chủ động chiếm lĩnh kiến thức nên hiệu quả học tập chưa cao.
Chưa xác định đúng rõ động cơ, mục đích học môn Công nghệ nên trong
quá trình học qua loa, không nắm được cấu tạo, nguyên lý làm việc. Sau khi học
xong không xác định mục đích để làm gì.
- Thứ hai đối với nhà trường: đánh giá chưa đúng, còn coi là môn phụ bố trí
GV chưa hợp lí kiêm nhiệm cắt giảm tiết.
23


- Thứ ba đối với GV: vô hình chung từ những đánh giá của nhà trường và
HS coi là môn phụ nên trong quá trình dạy học,người GV cũng truyền tải kiến
thức đến HS không nhiều hào hứng, dạy đủ thời gian.
Và còn nhiều nguyên nhân khác dẫn đến thực trạng môn công nghệ có chất
lượng chưa đạt hiệu quả cao.
Qua quá trình điều tra, khảo sát và thực tập tại trường phổ thông, em rút ra
những kết luận sau:
- Đội ngũ GV dạy môn Công nghệ còn thiếu trầm trọng.

Như vậy phần lớn GV môn Công nghệ là GV kiêm nhiệm nên chất lượng
không đồng đều, hiệu quả dạy còn hạn chế.
- Phương pháp giảng dạy, hầu hết các GV vẫn sử dụng các phương pháp
giảng dạy nặng về thuyết trình, giảng giải, ít sử dụng phương tiện trực quan, ít
liên hệ kiến thức với thực tế,…
Trong thực tế, khoa học và công nghệ đang thay đổi từng ngày từng giờ,
các hiện tượng thực tế HS phải tiếp xúc vô cùng phong phú. Nhưng việc đào tạo
lại bồi dưỡng thêm cho GV không được chú ý đúng mức, vì thế trong giảng dạy,
nhiều GV được đào tạo đúng chuyên ngành vẫn tỏ ra lúng túng chứ chưa nói đến
những GV trái môn. Do vậy, nhiều khi GV dạy không đúng kiến thức cho HS,
dẫn tới tình trạng HS học mà đôi khi không hiểu được bản chất của vấn đề.
Nói tóm lại, đội ngũ GV môn Công nghệ hiện nay chưa đáp ứng được yêu
cầu môn Công nghệ ở các trường phổ thông.
Môn Công nghệ là một môn mang tính ứng dụng cao. Hầu hết các nội dung
môn học đều gắn với những ứng dụng trong thực tiễn. Vì vậy, dạy học môn
Công nghệ có hiệu quả đòi hỏi phải có đầy đủ trang thiết bị cần thiết: Mô hình,
vật thật, nhà xưởng,… Môn Công nghệ là phân môn có khá nhiều nội dung trìu
tượng, nhiều khi giải thích HS cũng không hiểu được nhưng nếu được quan sát

24


bằng phương tiện trực quan kết hợp với lời giảng của GV thì HS có thể hiểu và
nắm bài rất nhanh.
1.3.2 Thực trạng các phương tiện trực quan hiện có dùng cho dạy học môn
công nghệ
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổng danh mục thiết bị dạy học
tối thiểu cấp THPT là 648 mục dành cho 18 môn học. Cụ thể đối với môn Vật lý
có 161 thiết bị bao gồm cả thiết bị dùng chung cho nhiều lớp và thiết bị dùng
chung cho các phân môn; Toán có 8 bộ thiết bị; Tin học và môn tiếng Trung

Quốc có 3 loại; các môn tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh đều có 2 loại thiết bị;
môn Thể dục có 26 loại; Sinh học: 71; Ngữ văn: 21; Lịch sử: 58; Hóa học: 162;
Địa lý: 50; CÔNG NGHỆ: 58; Giáo dục công dân: 5; Giáo dục hướng nghiệp: 3;
giáo dục ngoài giờ lên lớp: 2; thiết bị dùng chung 11 bộ. Môn học có nhiều loại
thiết bị nhất là Hóa học với 162 loại, tiếp đến là môn Vật lý với 161 loại. Ngoài
ra các thiết bị cụ thể dùng riêng cho từng môn học, Bộ cũng quy định 12 loại
thiết bị cụ thể dùng chung cho tất cả các môn.
* Theo quy định trên tối thiểu có 58 thiết bị dành cho môn Công nghệ
Chúng ta đều thấy rõ vai trò của PTTQ trong dạy học là yếu tố quan trọng
giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh. Nó kích thích quá trình học tập,
tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
Tuy nhiên qua quá trình thực tập tại trường THPT Bắc Thăng Long, dự giờ
các thầy, các cô, các bạn và qua tìm hiểu em thấy PTTQ ở các trường còn thiếu
nhiều, không đủ đáp ứng yêu cầu dạy và học.
1.3.3 Thực trạng sử dụng phương tiện trực quan và phương pháp dạy học
trực quan trong môn Công nghệ 11 phổ thông
* Qua điều tra (Phiếu điều tra, phần Phụ lục), em thấy rằng việc sử dụng
PTTQ để giảng dạy môn Công nghệ là quá ít (chỉ sử dụng tranh giáo khoa, sơ đồ
khối tự vẽ,…..) do:
25


×