ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÁI NGUYÊN
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tâm của
các thầy cô giáo, đồng nghiệp, ngƣời thân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Hằng Phương,
ĐÀM THÙY LINH
ngƣời thầy đã nhiệt tình, tận tâm hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa sau
đại học và các thầy cô giáo khoa Ngữ văn của trƣờng ĐHSP Thái Nguyên,
HÁT QUAN LANG CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN CAO BẰNG TIẾP CẬN DƢỚI GÓC ĐỘ VĂN HỌC DÂN
GIAN
các thầy cô giáo trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, trƣờng Đại học KHXH &
NV, Viện Văn học Khoa Sau Đại Học đã giúp em hoàn thành khoá học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới nhà nghiên cứu Văn hoá Dân
gian Nguyễn Thiện Tứ và Thƣ viện tỉnh Cao Bằng đã cung cấp tƣ liệu và
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, ngƣời thân đã động viên
và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã đọc và chỉ ra
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
những thành công cũng nhƣ hạn chế của luận văn.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 11 năm 2009
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
Tác giả
TS. NGUYỄN HẰNG PHƢƠNG
ĐÀM THUỲ LINH
THÁI NGUYÊN – 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
1.2.3. Hát Quan lang trong đời sống tinh thần của ngƣời Tày ở
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 0
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................. 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ........................................................................................ 2
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .............................................. 6
3.1. Mục đích nghiên cứu ...................................................................... 6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 6
4. PHẠM VI ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ..................................................... 6
4.1. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6
Thạch An - Cao Bằng ....................................................................... 21
1.3. Nghi lễ đám cƣới và trình tự một cuộc hát Quan lang ở Thạch An – Cao
Bằng ................................................................................................................. 22
Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG LỜI HÁT QUAN LANG
Ở THẠCH AN - CAO BẰNG ............................................................................. 36
2.1. Lối thử thách bằng thơ ............................................................................. 36
2.2. Bài học về cách ứng xử và đạo lý làm ngƣời ........................................... 51
2.3. Sự trân trọng đối với ngƣời phụ nữ ......................................................... 62
2.4. Lời cầu chúc cho lứa đôi hạnh phúc và gia chủ an vui ........................... 67
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG LỜI
4.2. Đối tượng nghiên cứu..................................................................... 7
HÁT QUAN LANG ............................................................................................. 76
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................. 7
3.1. Nhân vật trữ tình ...................................................................................... 76
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN .................................................................... 7
3.2. Thời gian diễn xƣớng................................................................................ 77
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN .................................................................................... 8
3.3. Không gian diễn xƣớng ............................................................................ 79
NỘI DUNG ............................................................................................................ 9
3.4. Thể thơ ...................................................................................................... 80
Chƣơng 1: HÁT QUAN LANG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA
NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG ........................................................ 9
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ................................................................. 9
1.1.1. Cộng đồng ngƣời Tày Cao Bằng ............................................... 9
1.1.2. Cộng đồng ngƣời Tày Thạch An - Cao Bằng .......................... 10
1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Thạch An ........................... 10
1.1.2.2. Xã hội – Văn hoá.............................................................. 11
1.2. Một số vấn đề chung về hát Quan lang .................................................... 17
1.2.1. Khái niệm hát Quan lang ........................................................ 17
3.2.1. Thể thơ ngũ ngôn ...................................................................... 80
3.4.2. Thể thơ thất ngôn ...................................................................... 83
3.4.3. Thể thơ tự do.............................................................................. 85
3.5. Ngôn ngữ ................................................................................................... 90
3.5.1. Sự đan xen ngôn ngữ các dân tộc ............................................. 90
3.5.2. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh, giàu chất thơ ....... 94
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 109
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 113
1.2.2. Nguồn gốc của hát Quan lang................................................. 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
việc bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc. Đồng thời
MỞ ĐẦU
cũng là tìm hiểu và phát huy truyền thống nhân văn của dân tộc Tày qua loại
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
hình sinh hoạt văn hoá phong tục này.
1.1. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá đa dạng phong phú nhƣng
1.3. Đề tài này không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực nghiên cứu văn học
thống nhất. Đó là nền văn hoá đƣợc tạo bởi các dân tộc anh em cùng chung
và văn hoá dân gian của các dân tộc ít ngƣời mà còn mang ý nghĩa thiết thực
sống xen kẽ khắp dải đất hình chữ S của Tổ quốc. Do vậy, bên cạnh việc tìm
hơn đối với một giáo viên dạy văn đƣợc sinh ra và lớn lên ở Cao Bằng nhƣ
hiểu văn hoá của ngƣời Việt cần chú trọng tìm hiểu văn hoá của các dân tộc
tôi, muốn đóng góp một phần công sức rất nhỏ bé cho tỉnh nhà trong lĩnh vực
thiểu số, những bộ phận văn hoá làm nên vẻ đẹp phong phú đa dạng của văn
tìm hiểu khám phá các giá trị, văn hoá dân gian độc đáo của dân tộc Tày ở
hoá dân tộc.
Thạch An nói riêng và Cao Bằng nói chung.
Sau một thời gian chƣa đƣợc chú ý sƣu tầm, nghiên cứu đúng với tầm
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
vóc của nó, mấy thập kỷ gần đây một số hình thức văn hóa dân gian có chức
Nền văn hoá Việt Nam đƣợc cấu thành bởi văn hoá của 54 dân tộc, đó là
năng nghi lễ sinh hoạt thực hành của các dân tộc ít ngƣời nhƣ: Mo Mƣờng,
nền văn hoá kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của
hát cúng ma của ngƣời Mông, Then Tày, Hát Quan lang… đã đƣợc ngành văn
các dân tộc anh em trong đại gia gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong đó,
hoá, đặc biệt là ngành văn hoá dân gian chú ý khai thác.
văn hoá các dân tộc thiểu số góp phần quan trọng làm nên diện mạo phong
Đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu hát Quan Lang về nhiều
phú, đa dạng của bức tranh văn hoá Việt Nam. Việc nghiên cứu và khai thác
phƣơng diện: nguồn gốc, nội dung, hình thức nghệ thuật, phƣơng thức diễn
văn hoá Tày ở Việt Bắc sẽ không chỉ nhằm đi sâu khai thác những giá trị tƣ
xƣớng... Song chƣa có công trình nào nghiên cứu về hát Quan lang ở Thạch
tƣởng và thẩm mỹ về văn hoá của dân tộc, mà phần nào còn làm sáng tỏ diễn
An - Cao Bằng một cách toàn diện hệ thống.
trình văn hoá Việt Nam trong lịch sử.
1.2. Hát Quan lang là loại hình văn hoá, văn nghệ mang đậm tính sinh
Công tác sƣu tầm và nghiên cứu văn hoá dân gian Việt Bắc đã đƣợc nhen
hoạt quần chúng, nhƣng mặt khác nó còn là loại hình sinh hoạt văn hoá phong
nhóm từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Đặc biệt là từ sau Hội nghị
tục. Vì thế để giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở Thạch An nói riêng và ở
bàn về công tác sƣu tầm văn hoá dân gian ở Miền Bắc tháng 12 năm 1964.
Cao Bằng nói chung, chúng ta cần quan tâm khai thác nghiên cứu phong tục
Nhiều nhà sƣu tầm đã đi điền dã điều tra ở khu vực Việt Bắc, kết quả là đã sƣu
hát Quan lang một cách khoa học, nhằm phát huy thế mạnh của nó trong đời
tầm đƣợc một số thể loại của văn học dân gian nhƣ là Then, hát Quan lang của
sống hiện đại.
ngƣời Tày, hát cúng ma của ngƣời Mông.v.v... đóng góp cho kho tàng văn hoá
Hát Quan lang là loại hình dân ca độc đáo đƣợc hát trong lễ cƣới của
dân gian nói chung và văn hoá dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng một nguồn
ngƣời Tày Thạch An nói riêng và ngƣời Tày Cao Bằng nói chung. Tìm hiểu
tài liệu đặc biệt có giá trị. Trong thời gian này, công trình nghiên cứu về hát
hát Quan lang của ngƣời Tày ở Thạch An là công việc hữu ích góp phần vào
Quan lang chƣa nhiều, chỉ là một số bài viết đƣợc đăng trên báo chí.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
2
Đến năm 1973, trong cuốn “Dân ca đám cƣới Tày - Nùng”, Nông Minh
tƣ tƣởng, thái độ tình cảm của mình. Nhƣ vậy, dân ca đám cƣới không chỉ là
Châu đã tập hợp hơn 100 bài hát đám cƣới Tày – Nùng. Tác giả sƣu tầm và
những bài ca nghi lễ khô cứng mà còn bao hàm cả thành phần giao duyên.”
dịch từ nguyên văn thơ Tày - Nùng ra tiếng Việt. Bên cạnh giá trị sƣu tầm,
[33, tr.70]. Cũng trong sách này, tác giả Vi Hồng trong bài “Nội dung của
cuốn sách đã khá thành công trong việc dịch thơ: lời thơ, hình ảnh khá sát
lƣợn” có nhận xét: “Thơ Quan lang vừa cũ lại vừa mới, vừa lạ lại vừa quen,
thực, sinh động. Bởi vậy gần nhƣ không có khoảng cách đáng tiếc giữa thơ
vừa định hình mà lại linh hoạt biến đổi phù hợp... nhƣ vị khách du lịch... nhập
nguyên bản và thơ tiếng Việt. Cuốn sách là tƣ liệu quý giá cho tất cả những ai
gia tùy tục”.
muốn tìm hiểu về “Dân ca đám cƣới Tày - Nùng”. Tác giả Vi Quốc Bảo đã
Năm 1973, trong bà i “Và i suy nghĩ về hát Quan lang, lƣợn, Phong slƣ”
viết lời giới thiệu cho cuốn sách này. Bài giới thiệu có những nhận xét, đánh
[14, tr. 51-61 ], tác giả Vi Hồng đã giới thiệu khái quát về hát Quan lang và
giá, phát hiện xác đáng về diễn xƣớng, về nội dung và cả nghệ thuật của dân
nguồn gốc của nó.
ca đám cƣới Tày - Nùng: “Những bài hát đó kéo dài suốt quá trình đám cƣới
Nhƣ vậy, từ năm 1970 đến 1980, số lƣợng sách và các bài báo về hát
và chỉ kết thúc khi các nghi thức đám cƣới đã đƣợc thực hiện đầy đủ”, “Các
Quan Lang không nhiều nhƣng cũng đủ giúp ta hình dung bƣớc đầu về diện
bài hát đám cƣới là một yêu cầu về sinh hoạt văn hoá văn nghệ”, “giá trị của
mạo hát Quan Lang.
những bài hát đám cƣới là đã phản ánh, miêu tả xã hội và đời sống của dân
tộc Tày”. [5]
Đến những năm 80 của thế kỷ XX mặc dù trong văn kiện đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ V, Đảng ta đã khẳng định vị trí và vai trò của văn hoá dân
Nhƣ vậy, cuốn sách “Dân ca đám cƣới Tày - Nùng” của Nông Minh
Châu xuất bản đã cho ta những tƣ liệu quý giá và những hiểu biết ban đầu rất
cần thiết, đặc biệt là về phƣơng diện diễn xƣớng dân ca Tày - Nùng.
gian các dân tộc ít ngƣời trong nền văn hoá Việt Nam, nhƣng công tác sƣu
tầm, nghiên cứu lời hát Quan Lang vẫn còn hạn chế .
Năm 1995, trong cuốn “Tục cƣới xin của ngƣời Tày” [1], Triều Ân -
Năm 1974, trong cuốn “Bƣớc đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc”, [33 ]
Hoàng Quyết đã giới thiệu về tục cƣới xin và lễ cƣới của ngƣời Tày; thơ
có bài viết của Lƣờng Văn Thắng “Tìm hiểu nội dung của một số bài thơ
Quan Lang, Pả Mẻ đƣợc sƣu tầm ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Tuyên
Quan lang”, của Vi Quốc Bảo “Những bài hát đám cƣới - Những bài thơ trữ
Quang, Yên Bái, Hà Giang; phƣơng hƣớng bảo tồn, kế thừa, phát triển hát
tình”. Trong bài viết của tác giả Lƣờng Văn Thắng có đoạn nhận xét: “Thơ
Quan Lang.
Quan Lang của dân tộc Tày chẳng qua cũng là một phƣơng thức phản ánh
Trong cuốn “Văn hóa truyền thống Tày - Nùng” [37], in năm 1996, Nhà
một quan niệm sống, một sự biết ơn, một sự ca ngợi, một sự khiêm tốn đáng
xuất bản Văn hóa Dân tộc cũng dành một chƣơng giới thiệu hát đám cƣới Tày
quý... phản ánh truyền thống đạo đức của dân tộc một cách kín đáo, duyên
- Nùng. Cả hai cuốn sách nói trên là nguồn tƣ liệu cần thiết cho ngƣời viết đề
dáng nhƣng đậm đà.” [33, tr. 83]. Nhận xét có tính khái quát, nếu triển khai
tài này.
ta sẽ thấy đúng với nội dung của dân ca đám cƣới Tày - Nùng. Vi Quốc Bảo
Năm 2001, trong cuốn “Thì thầm dân ca nghi lễ” [17], Vi Hồng đã đề
cũng thấy rõ: “Trong dân ca đám cƣới Tày - Nùng, đôi bên nam nữ giãi bày
cập đến sự chuyển hóa của một số hình tƣợng chính qua ba tiểu loại chính của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
4
Sli, Lƣợn: Lƣợn Quan Lang; Sli, Lƣợn lề lối và điệu lƣợn Phong Slƣ và một
phƣơng tiếp thu, sáng tạo và bổ sung. Vì thế, Hát Quan lang ở mỗi địa
số yếu tố nghệ thuật tạo ra phong cách riêng của Sli và Lƣợn nói chung “Đó
phƣơng có sắc thái riêng, nên vấn đề nghiên cứu hát Quan lang ở mỗi địa
là phong cách hài hòa giữa lý trí và tình cảm, giữa cảm xúc thi ca hồn nhiên
phƣơng, chính là đi khám phá sự đa dạng phong phú của hát Quan lang.
và sự thông minh linh hoạt về trí tuệ”.
Những bài viết và những công trình nghiên cứu ở trên là tiền đề gợi mở
Năm 2002, Hoàng Thị Cành với đề tài nghiên cứu “Phong tục hôn nhân
ngƣời Tày Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng” [6] cũng đã giới thiệu khá toàn diện
về phong tục hôn nhân của ngƣời Tày Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng và văn bản
thơ Quan Lang đƣợc ghi chép, sƣu tầm bằng chữ Nôm, phiên âm Tày và dịch
ra tiếng Việt.
Cũng trong thời gian này, ở Trƣờng đại học sƣ phạm Thái Nguyên có
một đề tài nghiên cứu khoa học cũng đã bƣớc đầu nghiên cứu về thơ Quan
giúp cho chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu phong tục tập quán, hiểu đƣợc đời sống vật chất và tâm tƣ
tình cảm của ngƣời Tày qua lời hát Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng.
- Để thấy đƣợc tài năng nghệ thuật của các nghệ sĩ dân gian và những giá
trị (nội dung và nghệ thuật) của Hát Quan lang .
lang ở xã Phƣơng Viên, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Năm 2004, Lộc Bích Kiệm với luận văn “Đặc điểm dân ca Tày - Nùng
- Qua đề tài nghiên cứu này chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé
xứ Lạng” [21] đã xác lập đƣợc những đặc điểm căn bản của dân ca đám cƣới
của mình vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Tày.
Tày - Nùng trên các phƣơng diện: diễn xƣớng, nội dung, thi pháp. Đặc biệt
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
ngƣời viết đi sâu vào phần thi pháp để thấy đƣợc sự độc đáo của bộ phận dân
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài.
ca này.
- Khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích và lý giải những vấn đề liên
Trong sách “Thơ Quan lang” [49] xuất bản năm 2008, Nguyễn Thiện Tứ
đã giới thiệu trình tự những lời thơ Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng, song
chƣa nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc nội dung và hình thức nghệ thuật
của văn bản ngôn từ.
Hát Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng hiện nay vẫn chƣa đƣợc khai
thác, nghiên cứu một cách triệt để trong một công trình khoa học nào.
quan đến hát Quan lang chủ yếu từ góc độ Văn học dân gian.
- Trong điều kiện có thể chúng tôi đi điền dã và sƣu tầm thêm đƣợc một
số lời hát Quan lang ở Thạch An – Cao Bằng chƣa đƣợc xuất bản.
4. PHẠM VI ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, hát Quan lang vẫn còn tồn tại trong đời sống văn hoá tinh thần
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Đề tài chú trọng vào phần lời hát Quan
của ngƣời Tày ở Việt Bắc nói chung và ở Thạch An - Cao Bằng nói riêng. Nó
lang, tuy nhiên có chú ý đặt yếu tố ngôn từ trong đặc trƣng nguyên hợp của
trở thành một nhu cầu sinh hoạt văn hoá của đồng bào dân tộc vào dịp đám
văn học dân gian, nghĩa là yếu tố ngôn từ đƣợc đặt trong môi trƣờng và nghệ
cƣới. Hát Quan lang vẫn tiếp tục đƣợc các thế hệ ngƣời Tày ở nhiều địa
thuật diễn xƣớng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
6
- Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu, khảo sát: Nguyễn Thiện Tứ, sƣu tầm,dịch
(2008), Thơ Quan Lang, Nxb Văn hóa dân tộc, H. và những lời hát Quan lang
đã sƣu tầm thêm đƣợc trong quá trình đi điền dã
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm
ba chƣơng:
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Chƣơng 1: Hát Quan lang trong đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở
Đối tƣợng nghiên cứu chính là lời hát Quan lang ở Thạch An – Cao Bằng
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thạch An - Cao Bằng
Chƣơng 2: Nội dung cơ bản trong lời hát Quan Lang ở Thạch An - Cao Bằng
- Trên bình diện phƣơng pháp luận là tiếp cận chủ yếu theo quan điểm
nghiên cứu ngữ văn (hay ngữ văn học), tức là dựa vào thành tố ngôn từ (lời
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật trong lời hát Quan lang ở
Thạch An - Cao Bằng
hát Quan lang) để phân tích.
- Tuy nhiên, hát Quan lang là một sinh văn hóa cộng đồng hiện vẫn còn
tồn tại trong đời sống văn hóa của ngƣời Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Vì vậy,
việc nghiên cứu hát Quan lang là nghiên cứu một hiện tƣợng văn hóa dân gian
đang tồn tại và phát triển trong môi trƣờng văn hóa. Cho nên, nghiên cứu hát
Quan lang không phải chỉ là nghiên cứu văn bản đã đƣợc sƣu tầm mà còn
phải đặt văn bản trong môi trƣờng diễn xƣớng của nó. Thực hiện đề tài này,
chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp cụ thể:
+ Phƣơng pháp điều tra điền dã.
+ Phƣơng pháp khảo sát thống kê.
+ Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hóa những vấn đề đã đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu.
- Làm sâu sắc hơn một số vấn đề mà ngƣời nghiên cứu trƣớc mới bắt đầu
tìm hiểu.
- Góp phần tìm hiểu những truyền thống văn hóa tốt đẹp của ngƣời Tày
qua lời hát Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
1.1.2. Cộng đồng người Tày Thạch An - Cao Bằng
NỘI DUNG
1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Thạch An
Chƣơng 1:
HÁT QUAN LANG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA
NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG
Huyện Thạch An nằm ở phía Đông nam tỉnh Cao Bằng cách trung tâm
thị xã Cao Bằng về hƣớng Nam theo đƣờng số 4, có toạ độ địa lý:
Từ 22021’,22’’ đến 22036’16’’ vĩ Bắc (Từ bản Nà Vài, xã Trọng Con đến
bản Pác Pẻn, xã Canh Tân).
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày
Từ 106005’40’’ đến 106034’02’’ Kinh Đông (từ Nà Pùng, xã Quang
1.1.1. Cộng đồng người Tày Cao Bằng
Cao Bằng là một tỉnh biên giới phía Bắc của Tổ quốc nơi cƣ trú của
nhiều dân tộc: Tày, Nùng, Mông, Dao... nhƣng số lƣợng lớn hơn cả là ngƣời
Tày, chiếm khoảng 43% dân số toàn tỉnh “Ngƣời Tày là dân cƣ bản địa giữ vị
trí quan trọng trong lích sử cổ đại, trung đại và hiện đại ở vùng biên giới
phía Bắc nƣớc ta. Ngƣời Tày là những cƣ dân sớm có mặt trong thành phần
Trọng đến Bản Mới, xã Đức Long).
Phía Nam giáp huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn. Phía Bắc giáp huyện
Hoà An. Phía Tây giáp huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Cạn. Phía Đông giáp huyện
Long Châu tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Huyện Thạch An hiện nay đƣợc
chia thành 16 đơn vị hành chính cấp xã: Kim Đồng, Thái Cƣờng, Vân Trình,
cƣ dân nƣớc Văn Lang xa xƣa và là một trong những dân cƣ sáng lập nên
Lê Lai, Thị Ngân, Thụy Hùng, Đức Long, Danh Sỹ, Thƣợng Pha, Đức Xuân,
nhà nƣớc Âu Lạc” [53, tr. 84].
Lê Lợi, Trọng Con, Đức Thông, Canh Tân, Minh Khai, Quang Trọng và Thị
Ngƣời Tày ở Cao Bằng đƣợc hình thành từ ba nhánh :
trấn Đông Khê.
- Nhánh ngƣời Tày gốc còn gọi là thổ, có nghĩa là thổ dân, là chủ nhân
Tổng diện tích tự nhiên: 683,03 km2 tƣơng đƣơng 68303 ha. Tổng dân
của địa phƣơng từ lâu đời, nhánh này là con cháu lâu đời của ngƣời Tày cổ.
số hiện nay của huyện Thạch An là 31.777 ngƣời (số liệu điều tra tháng 4 năm
Hát Quan lang là sản phẩm văn hoá của nhánh Tày này .
2009) gồm 6 dân tộc chính cùng chung sống là dân tộc: Tày (43,5%), Nùng
- Nhánh ngƣời Ngạn: Có nguồn gốc ở Quý Châu, Trung Quốc. Theo “Sơ
(39%), Mông (0,9%), Dao (13,6%), Kinh (2,6%), Hoa (0,12%). Ngoài ra còn
khảo lịch sử Cao Bằng”, trong các cuộc giao tranh giữa các tộc ngƣời, ngƣời
một số ít ngƣời dân tộc sống đan xen: Ngài, Chăm, Sán Chỉ, Ê Đê. [51, tr.
Ngạn đã dạt sang Cao Bằng sinh sống, sát nhập vào cƣ dân địa phƣơng trở
815-816].
thành ngƣời Tày .
Địa hình có dạng hình cánh cung, xen giữa các cánh cung là những dải
- Nhánh ngƣời Kinh hoá Tày là con cháu các viên quan và binh lính
trũng rộng và những dòng sông, dòng suối là điều kiện thuận lợi cho phát
ngƣời kinh dƣới xuôi lên cai quản bảo vệ biên giới, họ lấy vợ ngƣời Tày, con
triển nông nghiệp. Địa hình đồi thấp, thoải hay lƣợn đều có khả năng trồng
cháu họ lập nghiệp ở địa phƣơng lâu dần chuyển thành ngƣời Tày, Kinh dƣới
trọt hoặc chăn nuôi lớn. Khí hậu chia làm bốn mùa rõ rệt nên canh tác trồng
xuôi lên đồng hoá với ngƣời Tày nhiều nhất là khi nhà Mạc lên lập Vƣơng
trọt theo mùa. Giới động thực vật phong phú nhiều chủng loại.
triều ở Cao Bằng (1594-1677).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Từ xa xƣa, tộc ngƣời Tày chủ yếu sống dựa vào trồng trọt và cày cấy
sống đoàn kết quy tụ với nhau. Nhiều gia đình rất đông, có tới 4 - 5 thế hệ,
mùa màng. Là những cƣ dân với kinh nghiệm trồng trọt lâu đời, đồng bào Tày
song phổ biến là 2 - 3 thế hệ trong một mái nhà. Hầu hết các gia đình ngƣời
đã biết khai thác các thung lũng, đồi núi nơi sinh sống thành những cánh
Tày đều đƣợc xây dựng theo thể chế và tục lệ hôn nhân một vợ một chồng,
đồng, những thềm ruộng bậc thang, những vƣờn cây ăn trái màu mỡ xanh tốt.
mang tính phụ hệ. Trong gia đình, vai trò ngƣời đàn ông đƣợc khẳng định và
Với địa bàn cƣ trú chủ yếu là ở các thung lũng nhiều đồng ruộng nên ngƣời
đƣợc tôn trọng hơn so với đàn bà. Hai chữ “Phua – Mìa” và “ Pỏ - Mẻ” (có
Tày ít làm nƣơng.
nghĩa là chồng vợ và cha mẹ) tồn tại nhiều đời nay trong kho từ vựng cơ bản
Cơ cấu kinh tế hiện nay của Thạch An chủ yếu là kinh tế nhiều thành
của ngƣời Tày, là dấu ấn rõ nét về hiện tƣợng trên trong các gia đình Tày.
phần nông lâm kết hợp, chăn nuôi, kinh doanh thƣơng nghiệp và dịch vụ.
Theo các nhà nghiên cứu “Đây không phải là trật tự hình thức của từ, mà ẩn
Tiềm năng khai thác chủ yếu vẫn là sản phẩm nông nghiệp, sản xuất phụ
dấu bên trong một ý nghĩa xã hội âm vang một thời xác nhận vai trò ngƣời
thuộc nhiều vào thiên nhiên, do đó tốc độ tăng trƣởng của ngành các cây rau
chồng - ngƣời cha trong gia đình ngƣời Tày, ngƣời Nùng.” [44, tr. 2].
màu khác, mức tăng trƣởng bình quân hàng năm từ 3 - 6% đời sống của nhân
dân dần dần đƣợc ổn định.
Tuy nhiên, nếu đi sâu tìm hiểu mối quan hệ gia đình của ngƣời Tày,
chúng ta không thể phủ nhận “ở đó bao trùm một tinh thần tƣơng thân tƣơng
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, môi trƣờng tự nhiên cũng
ái, bình đẳng, dân chủ nội bộ khá sâu sắc giữa Chồng và Vợ, giữa Nam và
gây ra không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống con ngƣời. Chế độ mƣa
Nữ. Ngƣời Tày (...) trân trọng, yêu quý ngƣời đàn bà, ngƣời mẹ, ngƣời vợ và
theo mùa và mƣa nhiều dẫn đến tình trạng mƣa lớn gây ra quá trình rửa trôi
con gái. Vì lẽ, họ hiểu sâu sa rằng, ngƣời đàn bà đảm nhận vai trò vô cùng
xói mòn đất và lũ lụt.
quan trọng trong lao động sản xuất, quản lý kinh tế gia đình, và lớn lao hơn
Về mùa đông, Thạch An cũng chịu ảnh hƣởng của gió mùa Đông Bắc,
các hiện tƣợng thời tiết nhƣ sƣơng muối, băng giá đều gây ảnh hƣởng xấu đến
sản xuất và đời sống con ngƣời, nhất là ở thời xa xƣa khi cuộc sống của cƣ
cả là trong sinh nở con cái, nuôi dƣỡng chúng trƣởng thành.” [44, tr. 25]
* Về văn hoá:
Nhà ngƣời Tày, thƣờng là nhà sàn cao ráo, thoáng mát. Ngƣời Tày có tập
quán cấy lúa nƣớc trên những mảnh ruộng đƣợc khai phá dọc các con sông,
dân Tày còn lạc hậu, thiếu thốn.
Phải chăng hình thức hát Quan lang ra đời và tồn tại là để đáp ứng nhu
cầu thƣởng thức văn nghệ và gửi gắm những khát vọng tinh thần của họ.
suối, khe, lạch, sản xuất mang tính định canh, định cƣ lâu dài, sản phẩm chính
là: lúa, ngô và một số hoa màu khác.
Sinh sống bên cạnh ngƣời Nùng và các dân tộc khác, ngƣời Tày luôn có
1.1.2.2. Xã hội – Văn hoá
* Về xã hội:
ý thức cộng đồng, quan hệ gắn bó hoà hợp cả về đời sống vật chất và tinh
Thạch An là huyện có nhiều dân tộc anh em đang định cƣ và sinh sống,
thần. Cộng đồng các dân tộc Thạch An với những truyền thống bản sắc văn
trong đó đông nhất là dân tộc Tày, Nùng, Dao, còn lại là các dân tộc anh em
hoá riêng đã hình thành nên một vùng văn hoá rất đa dạng và phong phú, có
khác. Dân tộc Tày sống thành từng làng, bản có từ 40 - 60 gia đình trở lên
nhiều nét độc đáo và giàu bản sắc dân tộc. Sự giàu có, đa dạng của kho tàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
văn hoá nghệ thuật dân gian về cơ bản vễ đƣợc bảo tồn và lƣu truyền cho đến
mọi nhà, khắp bản mƣờng, ngoài đồng, trên rẫy, ra chợ… Không chỉ có thanh
ngày nay. Những nét độc đáo trong nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc
niên nam nữ mà ngƣời già, trẻ em đều Sli, Lƣợn, thích nghe Sli, Lƣợn.” [15]
trong huyện, đƣợc thể hiện qua các truyện cổ tích, thần thoại, ca dao, tục ngữ,
Quả thực đã có một thời, tiếng Lƣợn ngập tràn làng bản, đồi núi và hoà vào
câu đối, hát lƣợn... Những làn điệu dân ca trữ tình của dân tộc Tày, Nùng
tận tâm hồn, huyết mạch đồng bào:
cũng rất phong phú và đa dạng :
- Nửa đêm Nàng ới cháy lòng
“Sli - Lƣợn” là hai từ mà ngƣời Nùng và ngƣời Tày dùng để chỉ hầu hết
toàn bộ nền dân ca của mình” [22]
Khiến em dừng đƣờng kim dừng vá
Khiến anh vở giữa trang ngừng đọc
Sli là của ngƣời Nùng. Sli có nghĩa là thơ. Điệu Sli - hát Sli nghĩa là hát
thơ. Ngƣời xƣa làm thơ để hát và để hát nên làm thơ. Ngƣời Nùng dùng từ Sli
để chỉ hầu hết nền dân ca của họ. Sli là những bài văn vần, mỗi câu 7 chữ,
mỗi bài có từ 4 đến 8 câu hoặc dài tới hàng trăm câu. Sli là tiếng hát trữ tình
- Tiếng Then thành tiếng then phơi phới
Tiếng Cọi thành tiếng cọi thiết tha
- Ra chợ đƣợc nghe tiếng Hà lều
Bát phở không cần mỡ cũng ngon
của đồng bào Nùng, đƣợc sử dụng phổ biến vào những ngày hội, khi vui chơi,
Phong Slƣ là những bức thƣ tình, một thể thơ hết sức đặc sắc của trai gái
lúc khách vào bản… Ngƣời Nùng ai cũng biết Sli bởi đây là tiếng hát giao
Tày. Những bức thƣ này đƣợc viết bằng chữ Nôm Tày trên nền vải Sla đỏ.
duyên, tiếng lòng tiếng gọi tình yêu của họ. Sli đƣợc cất lên tự nhiên xoáy vào
Ngày xƣa con trai con gái Tày ít đƣợc học chữ, không biết chữ bởi thế thƣờng
lòng ngƣời. Hát Sli là hát đối đáp nên tham gia vào cuộc Sli bao gồm ít nhất 2
đến nhờ một ngƣời khác gọi là Slấy cá viết thƣ hộ. Slấy cá là một trí thức bình
ngƣời hoặc đông ngƣời (2 đám ngƣời), thƣờng là một bên nam và một bên nữ.
dân sống trong cộng đồng Tày. Phong Slƣ do Slấy cá viết ghi lại những tâm
Sli đƣợc ứng tác ngay tại chỗ nhƣng phải đảm bảo sự ăn khớp, cô đọng, hàm
tình thầm kín của trai gái Tày với giai điệu rất tha thiết. Vì vậy, những bức
súc. Ngƣời hát Sli vừa có thể sử dụng vốn hát truyền thống của dân tộc vừa có
thƣ đó trở thành một loại dân ca mang tính cộng đồng. Tình yêu của nam nữ
thể tự ứng tác theo cách riêng của mình. Những bài ứng tác hay đƣợc giữ lại
trong Phong Slƣ thƣờng là tình yêu trong xa cách, gặp trắc trở, tan vỡ. Bởi
làm phong phú thêm cho kho tàng hát Sli của dân tộc mình.
vậy, tiếng hát giai điệu Phong Slƣ thƣờng buồn da diết. Tuy nhiên không bi
Điệu hát Lƣợn, theo tác giả Vi Hồng, Lƣợn là luận, là lặp lại, là luyến, là
lụy, kêu than mà khuyên nhau vƣơn tới những ƣớc mơ lãng mạn, nhân văn.
ru… Ngƣời Tày dùng từ “lƣợn” để chỉ hầu hết nền dân ca của họ. Lƣợn
Phuối pác còn gọi là phuối rọi, là những lời nói có vần có điệu của nam
phong phú cả về nội dung và thể loại. Lƣợn có giai điệu vang xa tha thiết, lay
nữ Tày hằng ngày. Đây là lối nói tự do, sáng tạo thƣờng đƣợc diễn ra khi gặp
động lòng ngƣời, gợi cảm giác bâng khuâng thƣơng nhớ. Ngƣời Tày coi lƣợn
nhau trên đƣờng, ra chợ, đi hội… Nó cũng là một hình thức biểu hiện tình
nhƣ một nhu cầu tinh thần không thể thiếu trong đời sống của họ.
cảm, nó là những lời ƣớm hỏi, trêu ghẹo tình tứ thể hiện những sắc thái tình
“ Khắp các làng bản của ngƣời Tày, Nùng không mấy khi vắng tiếng hát,
cảm tình yêu. Trong quá trình diễn xƣớng, trong sự lặp lại nhiều lần của tình
tiếng Sli, tiếng Lƣợn. Chỉ trừ giấc ngủ và bữa ăn của họ, Sli, lƣợn vang lên từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
huống, lời nói tự nhiên đó đƣợc gọt giũa cao trở thành cô đọng, bóng bẩy,
cũng nhỏ để sao cho tôn những đƣờng nét của cơ thể phụ nữ, cài khuy bên
giàu chất thơ, mang tính xã giao lịch sự.
nách phải nhƣ áo dài của ngƣời Kinh.
Sẽ khó có thể kể hết đƣợc các loại dân ca Tày - Nùng, nó phong phú và
Màu sắc của áo dài Tày là màu vải chàm sậm đen ánh sắc hay màu tím,
muôn hình muôn vẻ. Tất cả hợp lại thành một kho tàng dân ca Tày - Nùng đồ
hồng. Xƣa kia cũng nhƣ hiện nay, một số phụ nữ Tày dùng vải lụa hay nhƣng
sộ và giàu bản sắc. Trong vốn cổ văn hóa quý báu đó có một bộ phận là dân
đen để may áo dài, càng tôn thêm vẻ đẹp duyên dáng của phụ nữ.
ca đám cƣới Tày – Nùng (Hát Quan lang). Hát Quan lang là bộ phận dân ca
Cùng màu sắc với xống áo là chiếc thắt lƣng: thắt lƣng không phải cắt
vừa có chức năng nghi lễ vừa bao hàm cả thành phần giao duyên, vừa theo
khâu từ bất cứ mảnh vải nào, mà đã đƣợc phụ nữ Tày dệt nguyên bằng sợi
hình thức Lƣợn vừa theo hình thức Sli và cả Phuối Pác nữa. [21, tr. 20-21]
bông hay bằng tơ tằm nhuộm chàm phụ nữ Tày thắt lƣng ra ngoài áo dài, để
Hằng năm, đồng bào các dân tộc ở Thạch An tổ chức những ngày hội lớn
xoã mối ra phía sau. [56, tr. 66-67]
nhƣ lễ hội Nàng Hai (Nàng Trăng) vào ngày 2/2 âm lịch, tổ chức biểu diễn
Ngƣời Tày giao tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tày – Thái.
văn nghệ, các hoạt động thể thao nhƣ võ cổ truyền, cờ tƣớng, tung còn... tạo
Đây là nhóm ngôn ngữ rất gần với tiếng Việt về hệ thống ngữ pháp và thanh
không khí thân tình, đầm ấm gắn bó giữa các dân tộc. Trong ngày hội, đồng
âm. Tuy nhiên, chỉ những từ ngữ về thiên nhiên, về sự vật hiện tƣợng trong
bào nơi đây ăn mặc theo trang phục truyền thống của dân tộc mình.
sinh hoạt giao tiếp mới là của ngƣời Tày, số còn lại thƣờng vay mƣợn của
Trang phục nam giới ngƣời Tày cũng nhƣ nhiều dân tộc miền núi khác
tiếng Việt, tiếng Hán hoặc từ Hán Việt.
gồm áo cánh ngắn (slửa cỏm) là trang phục mặc thƣờng ngày của nam giới,
Về chữ viết: Ngƣời Tày không có chữ viết riêng nên lịch sử thành văn
áo dài năm thân bằng vải chàm hay vải lụa đen, gấu áo phủ quá đầu gối, áo
của dân tộc Tày rất ít ỏi và gần nhƣ không có. Có thể chia lịch sử chữ viết của
cài cúc bên ngực trái, loại áo dài này mang tính nghi lễ chỉ mặc trong dịp lễ
tộc ngƣời Tày ra thành ba giai đoạn:
tết, hội hè... loại áo này có nguồn gốc từ các tộc ngƣời vùng Đông Á, quần
(khoá) khăn đội đầu (khân) đƣợc may bằng vải sợi bông hay sợi tơ tằm và tất cả
đều đƣợc nhuộm màu chàm.
- Giai đoạn cổ đại: Không có chữ viết , chủ yếu giao tiếp bằng phƣơng
thức truyền miệng.
- Giai đoạn trung đại: Có chữ Nôm Tày. Chữ Nôm Tày là thứ chữ phỏng
Bộ nữ phục Tày gồm: áo cánh ngắn, áo dài, váy quần, thắt lƣng, khăn
theo chữ Hán của ngƣời Trung Quốc mà đặt ra. Theo nhiều nhà nghiên cứu,
đội đầu, giày vải, và các đồ trang sức khác nhƣ nón, ô, vòng cổ, vòng tay, dây
nhìn từ góc độ văn tự, thứ chữ này cũng có một vài nét khác với chữ Nôm
xà tích, túi thổ cẩm... về phƣơng diện loại hình, hai loại áo của nữ giới Tày là
Việt. Theo học giả Nguyễn Văn Huyên “chữ Nôm Tày do ảnh hƣởng chữ
áo cánh ngắn và áo dài 5 thân không khác gì mấy so với hai loại áo của nam
Nôm Việt mà ra và có cấu tạo tƣơng tự chữ Nôm Việt”.
giới nhƣ đã trình bày áo ngắn may từ vải bông nhuộm chàm hay để trắng, xẻ
Chữ Nôm Việt xuất hiện ở khoảng thế kỷ XIII đến XV. Đến cuối thế kỷ
tà... áo dài dài của phụ nữ may vừa vặn cơ thể hơn: hơi nhấn thêm eo, ống tay
XVI đầu thế kỷ XVII khi Mạc Kính Cung chuyển vƣơng triều lên Cao Bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
16
đã để lại dấu ấn về chữ Nôm Tày. Do đó, có thể khẳng định chữ Nôm Tày ra
Quan lang ở đây lại chỉ nhiệm vụ dẫn chàng rể đi đón dâu, Quan lang thƣờng
đời không muộn hơn chữ Nôm Việt thế kỷ XVI.
chỉ ngƣời có trách nhiệm chính trong đoàn ngƣời đƣa chàng rể đến nhà gái.
- Giai đoạn hiện đại: Vừa dùng chữ Nôm vừa dùng chữ Latinh. Do vốn
Ngƣời này thƣờng đƣợc gọi là ông Quan Lang. Đi đến nhà gái, ông Quan lang
từ tiếng Tày còn nghèo nàn trong các hoạt động hành chính, cũng nhƣ các
thƣờng phải ngâm các bài thơ làm mọi nghi thức của việc hôn nhân, nên các
ngành khoa học, thêm nữa do phải sử dụng vốn từ Hán hoặc Nôm khiến cho
bài thơ này đƣợc gọi là thơ Quan lang [37, tr. 76].
việc sử dụng chữ viết cũng nhƣ ngôn ngữ Tày gặp rất nhiều khó khăn. Năm
Hai là: Hát Quan lang là hát trong đám cƣới, cuộc vui của đám cƣới có
1954, lớp trí thức mới đã tự sáng tạo ra chữ Latinh Tày nhƣng không đƣợc
say sƣa, tƣng bừng hay không là nhờ ở tài thơ ca và giọng hát của ông Quan
phổ biến. Năm 1960, nhà nƣớc đã giúp dân tộc Tày xây dựng hệ thống chữ
lang. Có lẽ chính vì thế mà ngƣời ta thƣờng gọi dân ca này là hát Quan lang
viết mới theo lối chữ Quốc ngữ bằng chữ cái Latinh. điều này thể hiện rõ sự
và cũng có ngƣời gọi là “dân ca đám cƣới” hay “thơ lẩu” (thơ đám cƣới ),
quan tâm và chủ trƣơng của nhà nƣớc trong việc gắn kết tính cộng đồng 54
dân tộc. Trong văn kiện Đại hội Đảng bộ toàn quốc cũng ghi rõ: “Sự phát
triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố phát triển của cộng
đồng các dân tộc trên đất nƣớc ta.” [48, tr.15]
“lƣợn lẩu” (lƣợn rƣợu, Lƣợn đám cƣới ). [14, tr. 203].
Ba là: Thơ vấn đáp hát khi cƣới còn gọi là thơ “Quan lang” “Pả Mẻ”
vì ngƣời diễn xƣớng chủ yếu là các vị đại diện cho hai đoàn nhà trai (rể)
nhà gái (dâu) hát khi đón dâu, đƣa dâu, đó là Quan lang (đàn ông) Pả mẻ
1.2. Một số vấn đề chung về hát Quan lang
(đàn bà) [6, tr. 42].
Bốn là: Thơ Quan lang là loại thơ dân gian truyền miệng của đồng bào
1.2.1. Khái niệm hát Quan lang
Trong kho tàng văn nghệ cổ truyền các dân tộc Việt Bắc, “Hát Quan
Tày đƣợc thể hiện qua lối hát đối đáp trong khi xin dâu và đƣa dâu giữa hai
lang” (Hát đám cƣới) là loại hình nghệ thuật có từ lâu đời của dân tộc ở huyện
bên: Quan lang (đại diện nhà trai) và Pả mẻ slống lùa (đại diện nhà gái).
Thạch An nói riêng và ở Cao Bằng nói chung, đƣợc quần chúng nhân dân ƣu
“Quan lang” là cách phát âm theo phƣơng ngữ Tày vùng Cao Bằng, còn nhiều
thích, hát Quan lang khác với các loại hình dân ca khác nhƣ Phong Slƣ, Sli,
vùng Tày khác có cách phát âm là “Quan làng”. Thời gian diễn ra thơ Quan
Lƣợn, Then... nó cũng có tính chất sinh hoạt văn nghệ quần chúng, nhƣng mặt
lang đƣợc tính từ khi nhà trai bƣớc chân đến cổng làng nhà gái. [49, tr. 5]
khác nó cũng là loại hình sinh hoạt theo phong tục nghi lễ cƣới xin của ngƣời
Tày. Cho đến nay nhiều ngƣời vẫn chƣa định nghĩa đƣợc rõ ràng về loại hình
Trên cơ sở tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu và qua khảo sát
thực tế, chúng tôi thấy có thể hiểu về hát Quan lang nhƣ sau:
nghệ thuật này. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau nhƣng tất cả các cách giải
Hát Quan lang là hệ thống các bài ca đƣợc sử dụng trong đám cƣới của
thích đều đi đến khái niệm chung gần thống nhất về “Hát Quan lang” nhƣ sau:
ngƣời Tày. Hệ thống những bài ca này có thể kéo dài tới hàng ngàn câu, hàng
Một là: Thơ Quan lang là loại thơ hôn lễ của dân tộc Tày. Theo nghĩa cổ
trăm bài, chia thành các phần cụ thể. Trong đó các phần mục tƣơng ứng với
“Quan” là ngƣời con trai đã lớn tuổi mà chƣa có vợ “Lang” là con rể. Nhƣng
từng hành động - lễ thức cụ thể trong đám cƣới (Nói cách khác nó là một thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
18
tài riêng dân ca nghi lễ đám cƣới). Quan lang (đại diện nhà trai) là ngƣời có
xƣớng theo nghi lễ truyền thống nên nó cũng không nằm ngoài nhu cầu về
vai trò chính nên hát Quan lang bắt nguồn từ tên nhân vật này. Nội dung
tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ của ngƣời Tày. [21]
chính của các bài hát này là cách chỉ bảo, răn dạy, lối ứng xử tinh tế, tao nhã
1.2.2. Nguồn gốc của hát Quan lang
của con ngƣời trong đời sống. Trong đám cƣới, lời hát thay cho lời chào xã
giao, lịch sự và thể hiện tình cảm trân trọng nhau.
Thơ Quan lang là một loại dân ca trữ tình của dân tộc Tày đƣợc lƣu
truyền lâu đời trong dân gian. Những bài thơ vấn đáp hát khi cƣới lƣu truyền
Chúng tôi thấy cần phân biệt hai khái niệm “Quan lang” và “Quan làng”.
qua nhiều nơi, nhiều thế hệ đã dân gian hoá, đến nay cũng khó nhận bài nào
Theo nhân dân và các cụ ở Thạch An và Cao Bằng thì từ “Quan làng” chỉ
có tác giả, bài nào của dân gian lƣu truyền, bổ sung, sửa chữa...
dùng để gọi ông chủ đám ma. “Quan làng” là một ngƣời đàn ông đứng tuổi,
Tƣơng truyền những bài thơ vấn đáp hát khi cƣới, đƣợc một thầy dạy học
có uy tín trong vùng. Quan làng có nhiệm vụ giúp gia chủ “sai khiến” các con
giỏi tên là Lê Thế Khanh ghi chép lại bằng chữ Nôm biên soạn bổ sung truyền
cháu trong bản làng tổ chức đám ma cho thật tốt, nhằm đảm bảo hồn ngƣời
cho các đời sau, đến ngày nay. Lê Thế Khanh ngƣời Tày ở Thạch Lâm - Cao
chết “đi đến nơi về đến chốn” một cách êm đẹp! Vì vậy ở Cao Bằng có sự
Bằng, khi còn trẻ đã từng về học ở Kinh đô Giao Châu (đất nƣớc ta lúc đó) là
phân biệt khá rõ hai từ “Quan lang” và “Quan làng”.
Long Biên (nay thuộc Bắc Ninh). Ông mở trƣờng dạy chữ Hán ở nhiều nơi,
Lâu nay có những bài viết thƣờng gọi ông “Chủ hôn” ngày xƣa là
học trò đến học rất đông, có ảnh hƣởng lớn đến mở mang dân trí, nâng cao
“Quan làng” đây là một sự nhầm lẫn khá cơ bản, nhiệm vụ ông Quan lang
đời sống văn hoá. Ông còn dạy cả lễ nghi ma chay, cƣới xin, dạy làm thơ bảy
giao thiệp bằng những lời dịu dàng làm ấm bụng họ hàng cô dâu, để họ đồng
chữ vốn có của dân tộc...
ý cho rƣớc dâu. Ông Quan lang không có quyền tối cao quyết định mọi việc
trong cuộc hôn lễ. Về thực chất ông chỉ là “Nhà ngoại giao” là “cây văn
nghệ” của nhà trai - văn nghệ cũng là để thực hiện nhiệm vụ ngoại giao với
Hát Quan lang có cách gọi khác nhau nhƣng tựu chung đó là những bài
hát dành riêng cho đám cƣới, chỉ cất lên trong đám cƣới, chủ yếu là ngƣời
Quan lang (đại diện cho nhà trai) hát đối với ngƣời Pả mẻ (đại diện cho nhà
gái) nên ngƣời ta gọi là hát Quan lang. Đây là điểm khác với những bài ca
xuất hiện ở chợ phiên, trên những con đƣờng vào bản, nƣơng rẫy hoặc trong
lễ hội. Những bài hát Quan lang mang chức năng trao đổi tình cảm, lại diễn
19
Bằng năm 1978 cũng đã ghi tổng hợp đầy đủ về lời hát Quan lang .
Nhƣng hiện nay, chúng ta chƣa thể biết chính xác hát Quan lang xuất
hiện vào thời kỳ nào. Nhƣng qua nội dung và hình thức của các bài thơ, chúng
mục đích đón đƣợc cô dâu về nhà chồng. [13, tr. 50-51]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trong cuốn “Thực lục Cao Bằng” Bế Văn Cung là Đốc trấn tỉnh Cao
ta có thể phỏng đoán, thơ Quan lang bắt nguồn từ một loại dân ca trữ tình của
dân tộc Tày, và chỉ có thể xuất hiện vào thời kỳ chế độ kinh tế cá thể đã phát
triển khá cao và chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thịnh hành trong xã
hội. Ở thời kỳ này, địa bàn hôn nhân của nam nữ thanh niên cùng một dân tộc
đã đƣợc mở rộng, tức là một thanh niên nam ở địa phƣơng này có thể xin cƣới
một cô gái ở địa phƣơng khác về làm vợ. Tất nhiên việc cƣới xin này chủ yếu
là do cha mẹ và họ hàng hai bên thoả thuận, xếp đặt. Tƣơng truyền thơ Quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
lang ở Thạch An - Cao Bằng gồm có 56 bài nhƣng hiện nay rất ít nghệ nhân
Ngƣời ta mê hát Quan lang vì nhiều lẽ, nhƣng trƣớc hết là ở sự hiểu biết,
còn biết trọn vẹn về nó.
văn minh, trang trọng, lịch sự và đặc biệt là tài đối đáp thơ của ông Quan lang
1.2.3. Hát Quan lang trong đời sống tinh thần của người Tày ở Thạch An -
hay bà Pả mẻ. Hơn nữa, hát Quan lang phù hợp với phong tục tập quán và nhu
Cao Bằng
cầu thƣởng thức văn nghệ của ngƣời dân miền núi. Cuộc sống với những lo
Hát Quan lang là một loại dân ca trữ tình của dân tộc Tày, cho đến nay
toan vất vả, thiếu thốn thông tin từ những phƣơng tiện hiện đại, nên đám cƣới
loại “Dân ca đám cƣới” này vẫn đƣợc lƣu truyền ở hầu hết các xã trong huyện
là ngày vui sƣớng nhất đời của đôi cô dâu chú rể và cũng là ngày vui mừng
Thạch An nói riêng và tỉnh Cao Bằng nói chung. Trƣớc đây, ở khắp các làng
của họ hàng, dân bản, của hai họ nhà trai và nhà gái, là dịp để mọi ngƣời có
bản ngƣời Tày sinh sống không có đám cƣới nào là thiếu đƣợc thơ Quan lang,
thể xem, nghe và trổ tài văn nghệ của mình, đây là lúc mọi ngƣời đƣợc thƣ
không có loại văn hoá đám cƣới nào có thể lay chuyển và thay thế đƣợc thơ
giãn vui vẻ nhất. Theo phong tục tập quán của ngƣời Tày xƣa trong lễ cƣới,
Quan lang. Trong lễ cƣới của ngƣời Tày nơi đây, thật không sao nói hết nỗi
đồng bào thể hiện lòng vui mừng phấn khởi bằng những bài hát. Ngay cả việc
vui mừng của họ khi đƣợc nghe hát những bài “thơ Quan lang” (thơ lẩu).
thực hiện những nghi lễ trang trọng, ngƣời ta cũng đem lời ca tiếng hát thay
Xƣa kia, khi đến dự một đám cƣới, câu đầu tiên của khách hỏi chủ là: có
thế cho những câu đối thoại giữa hai họ. Thông qua đó, hát Quan lang gắn kết
“Thơ lẩu” không? Nếu không có “Thơ lẩu” thì rƣợu sẽ nhạt lắm! Ngày cƣới là
mối quan hệ cộng đồng, làng bản dòng họ đôi lứa. Nhiều thuần phong mĩ tục
ngày vui mừng nhất trong một đời ngƣời, cho nên cần phải có lời ca tiếng hát,
của dân tộc đƣợc phát huy và đặc biệt là tính giáo dục lòng hiếu khách, sự
cần có “Thơ Lẩu”. Đám cƣới dù đang ồn ào đến đâu, hễ tiếng hát “thơ Lẩu”
khiêm tốn, tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ, lòng thành kính với tổ tiên, tình vợ
cất lên, thì mọi ngƣời đều say sƣa lắng nghe. Nhất là họ nhà trai thƣờng đến
chồng thuỷ chung …
nhà gái vào buổi chạng vạng tối, sau khi khách khứa đã ăn cơm chiều. Mọi
Vì vậy, những bài Quan lang hát mừng đám cƣới đã đƣợc đồng bào Tày tập
ngƣời lúc đó đã tƣơng đối rỗi rãi, chỉ chờ họ nhà trai đến. Bởi vậy, vừa nghe
hợp lại thành một kho tàng văn học lƣu truyền mãi hết đời này sang đời khác.
tiếng “Pả mẻ” hoặc phù dâu chất vấn nhà trai ngoài cổng mọi ngƣời đã ùa cả
1.3. Nghi lễ đám cƣới và trình tự một cuộc hát Quan lang ở Thạch An –
ra, vây kín lấy đoàn ngƣời đang hát đối đáp nhau. Đối với dân tộc Tày “Thơ
Cao Bằng
Lẩu” là một hình thức sinh hoạt văn nghệ quần chúng đặc sắc và rộng rãi
Cũng nhƣ các thể loại văn học dân gian khác, hát Quan lang đƣợc lƣu
trong đám cƣới: các bài hát ấy quả là chất “muối”, chất “thơ” của đám cƣới,
truyền theo phƣơng thức truyền miệng trong cộng đồng Tày ở nhiều địa
đám cƣới nào không có thì thật “nhạt” và buồn. [2. tr. 7]
phƣơng khác nhau nên không tránh khỏi những dị bản. Trong đó dung lƣợng
Có thể nói, hát Quan lang đã in sâu vào đời sống sinh hoạt của ngƣời
về số bài, về câu chữ… khác nhau song đều tuân thủ theo tiến trình nghi lễ
dân. Thơ Quan lang thuộc loại văn vần nên tất cả mọi ngƣời từ cụ già cho đến
của một đám cƣới cổ truyền từ lúc đoàn nhà trai sang nhà gái cho đến lúc
em nhỏ đều có thể đọc thuộc lòng vanh vách.
rƣớc dâu về tới nhà.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Trong đời sống sinh hoạt của đồng bào Tày ở Thạch An – Cao Bằng, hôn
bƣớc đƣờng) tiếp tục đi đến gia đình bên cô dâu hoặc chú rể để làm thủ tục
lễ chiếm một vị trí quan trọng. Nó liên quan trực tiếp đến đời sống vật chất và
xin tám chữ “Slƣ mỉnh” (tức họ tên, ngày giờ sinh của đôi nhân duyên) về
tinh thần của mỗi con ngƣời trong cộng đồng. Ở mỗi dân tộc, việc cƣới xin
bên gia đình mình, để xem duyên số đôi nam nữ. Thủ tục xin tám chữ “Slƣ
đƣợc tiến hành theo những nghi lễ, phong tục riêng. Cũng nhƣ các phong tục
mỉnh” chỉ là ít tiền lệ phong bao giấy đỏ. Thủ tục xem số hiện nay đã giảm.
khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Tày ở Thạch An cũng rất
Bƣớc ba: Ăn ghánh báo mệnh hợp là khi thủ tục sau khi đã xem duyên số
coi trọng hôn lễ, vì nó thể hiện ý thức trách nhiệm với tổ tiên giống nòi. Có
nếu không có gì trở ngại, nhà trai báo cáo cho gia đình nhà gái biết định ngày
thể nói, trƣớc đây đám cƣới của ngƣời Tày không chỉ là công việc riêng của
ăn gánh báo mệnh hợp. Gia đình nhà gái đi mời anh em họ hàng và láng giềng
mỗi nhà mà còn đƣợc coi là công việc của cộng đồng, làng bản. Vì thế mỗi
đến dự bữa cơm thân mật để cùng bàn thống nhất mọi lễ vật, thời gian làm lễ
khi có đám cƣới, làng bản lại rộn lên nhƣ ngày hội. Ngƣời Tày trƣớc đây tổ
thành hôn… Lễ vật để tổ chức gồm xôi, hai đôi gà thiến, mƣời lít rƣợu, ăn
chức đám cƣới với đầy đủ các nghi thức nhƣ :
gánh báo mệnh hợp trƣớc đây tổ chức hai lần nay gộp làm một.
Bƣớc một: Dạm hỏi là khi đôi nam nữ yêu nhau, nguyện xây dựng mái
Bƣớc bốn: Ăn hỏi là khi những bƣớc trƣớc đó cơ bản xong, đến lễ ăn hỏi
ấm gia đình với nhau, báo cáo với gia đình bên nhà trai chủ động cho ngƣời
vật lễ ăn hỏi do hai bên gia đình họ hàng bàn bạc thống nhất: tiền sắm đồ cƣới
sang dạm ngõ (chạm ngõ), bỏ qua bƣớc thăm dò. Bên nhà trai nhờ ngƣời thân
là bao nhiêu, bên nhà trai, nhà gái phải sắm thứ gì, ngày cƣới nhà trai phải
thuộc trong họ mang theo một lít rƣợu, một kilôgam thịt lợn đến gia đình nhà
mang những thứ gì sang, số lƣợng là bao nhiêu rồi thƣa lại cho nhà trai. Riêng
gái làm thủ tục dạm hỏi (đó là tục lệ đi hỏi vợ, ngƣợc lại nếu đón rể về nhà thì
tiền mặt thì đƣa ngay ngày hôn đó. Ngày xƣa, mỗi thứ đều tính một trăm
bên nhà gaí phải làm thủ tục đó). Đại diện nhà trai đặt vấn đề với cha mẹ cô
gồm: Thịt lợn, gạo nửa nếp nửa tẻ, rƣợu hai chum. Trƣớc lễ cƣới một ngày,
gái bằng những lời lẽ rất tế nhị, ví von, tôn trọng. Nhà gái cũng đáp lại rất tôn
nhà trai đƣa các lễ vật sang và có một ngƣời đại diện đi cùng gọi là “đệ đám”
trọng, đại ý là: cha mẹ tuỳ theo ý con, con ƣng thì cha mẹ cũng chiều, con
(nộp lễ vật). Nhà gái nhận xong nếu còn thiếu thứ nào chƣa đủ theo nhƣ đã
không ƣng thì cha mẹ cũng không ép và nói câu ví “Vài bấu kin nhả, pjạ bấu
thách cuới thì đến hôm sau nhà trai phải mang sang đủ.
đé coóc” (Trâu không ăn cỏ, không lấy dao đè sừng ép ăn). Trƣớc những năm
Ngày nay, thực hiện nếp sống văn hoá, các lễ vật kể trên đã giảm nhiều,
60 của thế kỷ xx, ngoài những đôi lứa tìm hiểu nhau có tình yêu đi đến hôn
không còn khắt khe về số lƣợng. Một hình thức mới trong việc tổ chức cƣới là
nhân, thành vợ thành chồng thì tình trạng ép duyên, hay cha mẹ đặt đâu con
nhà trai lo “giúp” nhà gái bằng tiền mặt rồi mỗi bên lo tổ chức riêng, không
ngồi đấy còn rất phổ biến. Tình trạng tảo hôn trƣớc những năm 1970 vẫn xảy
mang lễ vật sang nữa. Đây là một nét mới vừa thuận tiện, vừa văn minh.
ra. Ngày nay vấn đề hôn nhân tự do đã đƣợc ý thức rõ ràng cho nên việc tự do
tìm hiểu và kết hôn đã trở thành phổ biến.
Bƣớc năm: Tổ chức cƣới và các thủ tục khác nhà gái tổ chức vào buổi tối
hôm trƣớc, nhà trai đón dâu vào ngày hôm sau, hoặc là tổ chức cùng một
Bƣớc hai: Xin tám chữ “Slƣ mỉnh” là khi đó đƣợc sự nhất trí của hai gia
ngày, nhà gái tổ chức vào buổi sáng, nhà trai đón dâu vào buổi chiều. Chú rể
đình và hai họ, ngƣời đƣợc gia đình nhờ làm thủ tục dạm hỏi (gọi là ngƣời
phải sang nhà gái trƣớc, đoàn nhà trai đi đón dâu gồm có: Ngƣời đại diện thay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
24
mặt gia đình gọi là “Quan lang”, chú rể, phù rể, một bà mối, hai cô thiếu nữ
đóng cửa lại, túi nhốt mèo và đó đơm cá treo trên cửa, lấy chổi đặt ngang cửa,
để gánh đồ lễ. Tổng số đoàn đón dâu bao giờ cũng là số chẵn, là tám, mƣời
trải chiếu lệch,…
hoặc mƣời hai ngƣời. Ngƣời trong đoàn, cả già trẻ, đều có cuộc đời hạnh
phúc, êm đẹp, đƣợc xóm làng quý mến.
Sau khi hát ứng xử tình huống xong phải hát trình tổ tiên, họ hàng rồi
mới đƣợc ngồi. Sau bữa cơm tối, chú rể phải ra bái lạy tổ tiên, mời rƣợu, mời
Bƣớc sáu: Trở lại nhà gái làm thủ tục trình rể, đón dâu. Quan lang xƣớng
thuốc ông bà, bố mẹ vợ và họ hàng nội ngoại. Lúc đó Quan lang phải hát
văn trình tổ tiên họ hàng, tổ chức mời nƣớc, rƣợu, thuốc lá họ hàng và giới
trình, hát mời, hát cảm ơn. Đến khi cô dâu sắp ra cửa (vu quy) sang nhà trai
thiệu quan hệ họ hàng anh em. [51, tr. 660].
thì Quan lang phải hát báo cáo cha mẹ họ hàng xin đƣợc rƣớc dâu và hát giục
Hiện nay, đám cƣới dân tộc Tày đƣợc tổ chức giản dị nhƣng trang trọng,
cô dâu ra cửa để về đến nhà trai đúng giờ tốt đã chọn. Khi qua cầu hoặc lội
ngoài những ngƣời thân thích, họ hàng gần đến trƣớc, dùng bữa cơm tiễn con
suối, bà đón phải đặt tiền xuống trƣớc mặt cô dâu, bà đƣa nhận lấy rồi cô dâu
cháu ra cửa gọi là “oóc háp”, khách đến mừng chỉ dự một bữa cơm thân mật,
mới đi qua gọi là “Dèn quá cấu” (tiền qua cầu). Khi về nhà trai, Quan lang lại
gửi tiền mừng cƣới rồi ra về.
phải hát một số bài nữa nhƣ trình tổ tiên, mời cha mẹ họ hàng ra mừng cô
Về trang phục: cô dâu, chú rể ngày trƣớc mặc áo dài vải chàm. Áo cô dâu
dâu, nhƣng số lƣợng bài hát thƣờng ít hơn ở bên nhà gái. Những ngƣời đƣợc
thắt lƣng bằng vải màu đen hoặc chàm, bằng tấm vải xếp đôi rộng khoảng
mời làm Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng hầu nhƣ vẫn còn giữ đƣợc sách,
mƣời phân thắt về phía sau buông xuống đến khoảng giữa ống quần hoặc
chép lƣu truyền trong dân gian các bài hát này.
chấm gót. Cô dâu vấn khăn, chú rể đội mũ hoặc khăn xếp. Hiện nay phần lớn
cô dâu, phù dâu mặc áo dài, váy kiểu tân thời. Chú rể mặc quần áo complê.
Trong đoàn nhà trai, chọn ngƣời làm Quan lang là quan trọng. Quan lang
phải biết mọi lễ nghi, phong tục lễ cƣới của ngƣời Tày và hoạt bát để giải quyết
Đám cƣới truyền thống nào của ngƣời Tày ở Thạch An - Cao Bằng cũng
đều có diễn xƣớng thơ vấn đáp hát khi cƣới. Hát Quan lang là hình thức sinh
hoạt văn hóa mang tính đặc thù, đƣợc hình thành do yêu cầu của cuộc sống
con ngƣời, nó gắn với hôn lễ, phục vụ hôn lễ.
mọi tình huống trong công việc cƣới xin, đặc biệt là phải biết “Lƣợn lẩu”. Ông
Hát Quan lang vừa mang chức năng trao đổi tình cảm, vừa thể hiện chức
Quan lang đƣợc coi nhƣ linh hồn của đám cƣới. Quan lang (nam), Pả mẻ (nữ)
năng nghi lễ trong hình thức truyền thống. Hát Quan lang cũng không nằm
là trƣởng đoàn, phó đoàn cho gia đình hai họ đón dâu, đƣa dâu vô cùng quan
ngoài nhu cầu về tinh thần trí tuệ, thẩm mỹ của ngƣời Tày.
trọng. Các bƣớc đi đứng, trình thƣa của trƣởng đoàn đại diện đều phải có thơ.
Thơ đó có sẵn hoặc gặp tình huống cụ thể là phải ứng tác (Phuối rọi).
Khi sang nhà gái làm lễ đón dâu, Quan lang phải hát một số bài ứng xử
tình huống nhƣ: Nhà gái căng dây ngang đƣờng, đặt một khay rƣợu trƣớc cửa,
Cho nên trong dân gian có nhu cầu sƣu tầm, ghi chép hoặc sáng tác
sẵn một số bài thơ mẫu về đám cƣới, để khi gặp cảnh ngộ có thể “Xuất khẩu
thành thơ”.
Lễ đón dâu của ngƣời Tày xƣa bắt đầu từ ngày hôm trƣớc trải qua đêm
đến ngày hôm sau. Hát Quan lang trên địa bàn Thạch An - Cao Bằng và ở các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
tỉnh nhƣ Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái thì có tới hơn mƣời
- Những bài ca mừng phù dâu, phù rể
chặng (cuộc). Những chặng (cuộc) so tài thử trí này vừa mang tính sinh hoạt
- Những bài ca chia tay, nhắn gửi
vừa là hình thức nghi lễ đƣợc diễn ra từ khi đoàn đón dâu đặt chân tới nhà gái,
Nội dung, dung lƣợng của bài ca tuỳ thuộc vào các đề tài, tình huống cụ
đến lúc kết thúc xin phép nhà gái đón dâu. Ứng với mỗi sự thử thách và các
thể và tài ứng đối của ngƣời đại diện nhà trai và nhà gái. Trong diễn trình diễn
nghi thức là những bài ca. Các bài ca có thể sắp xếp theo trình tự sau:
xƣớng của những bài ca đám cƣới (Hát Quan lang) nêu trên ta thấy mọi sự
* “Giai đoạn thử thách” gồm:
dẫn dắt, giao tiếp giữa hai họ đều đƣợc thực hiện bằng thơ ca, do ông Quan
- Những bài ca mở cổng
lang là ngƣời cầm trịch. Đây là đặc điểm độc đáo trong đám cƣới của dân tộc
- Những bài ca chăng dây
Tày. Nó cho thấy hình thức tổ chức đã có nề nếp, quy củ tuân theo các luật
- Những bài ca rửa chân
tục mang tính chất truyền thống. Những lời đối - đáp ở giai đoạn đầu làm tăng
- Những bài ca lên cầu thang
thêm không khí vui nhộn của lễ cƣới, thu hút mọi ngƣời vào cuộc, đồng thời
- Những bài ca mở cửa chính
kích thích khả năng ứng tác của các nghệ nhân dân gian, góp phần làm phong
- Những bài ca cất chổi
phú thêm vốn dân ca đám cƣới Tày.
Mặc dù diễn xƣớng những bài ca đám cƣới có kéo dài nhƣng nó đƣợc
- Những bài ca xin cất đó đơm cá
- Những bài ca cất nhốt mèo
sắp xếp theo trình tự lôgíc, đặt trong không gian rộng, có cảnh huống, gắn
- Những bài ca xin rải chiếu
chặt với nghi thức hôn lễ nên có sức thuyết phục. Tập trung vai trò của ngƣời
diễn xƣớng là ông Quan lang và bà Pả mẻ.
* “Giai đoạn thủ tục” gồm:
- Những bài ca mời nƣớc
Lễ hồi ròi, slam nâƣ (Nhị hỷ): Đây là lễ của ngƣời con gái đã đi nhà
- Những bài ca mời rƣợu
chồng bƣớc vào ngày thứ ba nay “hồi ròi” (trở về theo lối cũ) để con rể cùng
- Những bài ca mời cơm
con gái về thăm quê, cha mẹ và họ hàng thân thích.
Bên cha mẹ vợ tổ chức một bữa cơm sang trọng vui vẻ không kém ngày
- Những bài ca bái tổ
- Những bài ca nạp gánh
cƣới để tỏ ra vui lần hai (Nhị hỷ) mời đầy đủ các vị thân nhân nội ngoại…
- Những bài ca đáp ơn cha mẹ
Trong bữa tiệc cũng có bình thơ chúc tụng, hát xƣớng…
- Những bài ca nhận rể
Đến đây, một đám cƣới đƣợc coi là hoàn tất.
- Những bài ca xin đón dâu
Dân ca đám cƣới Tày thực chất là cuộc đối đáp giữa nhà trai và nhà gái,
- Những bài ca lễ bố mẹ chồng
giữa nam với nữ, giữa những ngƣời đến dự đám cƣới đều có thể tham gia hát
- Những bài ca mừng rƣơng, hòm, màn
đối đáp. Vì thế ngoài những bài ca nghi lễ đã thuộc, Quan lang cũng nhƣ mọi
- Những bài ca mừng thông gia bằng hữu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
ngƣời phải ứng đối nhanh, trả lời giỏi. Mặc dù vậy nhƣng câu hát vẫn đầy
chất thơ:
Đám cƣới là dịp để mọi ngƣời mang tới những lời đẹp, lời hay góp
thêm vào cho ngày vui càng trọn vẹn. Sau mỗi tiếng hát là ánh mắt, nụ cƣời,
Tôi hỏi ngƣời khách là thời lƣơng
những lời trầm trồ thán phục. Một không khí văn hoá thật hấp dẫn:
Chốn này chốn én ƣơng mở hội
Gần chắc lƣợn gằm đây gằm mjảc
Có hai cây chuối sinh tiêu
Gần ké thỉnh lùm lẩu tềnh bôm
Gió quạt đi quạt lại mát mẻ
Dịch: Ngƣời biết hát câu hay câu đẹp
Xem nhƣ bút vẽ văn thƣ
Ngƣời già nghe quên rƣợu trên mâm [27]
Xem nhƣ bàn cờ cửa trùng
Có những cặp phù dâu, phù rể đã lấy chén rƣợu làm đề tài tạo nguồn
Ngƣời ta đem về làm gì?
cảm hứng:
Xin hỏi khách hiền nhân quân tử
- Thƣa cùng các bạn đƣờng xa
Biết thì nói rõ phân minh
Gốc rƣợu ở đâu ra
Đem về cửa xinh mà cất
Ngọn rƣợu ở đâu đến
Đem vào vƣờn hoa mà trồng
Rƣợu ngƣời ủ gạo nếp mấy đêm
Không biết thì hãy đi đã nhé.
Mới thành rƣợu thơm ngon đám cƣới
Ngƣời đáp lại cũng rất lãng mạn, thể hiện tâm hồn văn chƣơng:
- Thƣa cùng các bạn phù dâu
Tôi là khách Châu - Trần thời trƣớc
Gốc rƣợu ở gốc rềnh
Bây giờ về kết nghĩa Tƣờng - Lƣơng
Slá rƣợu ở quả men
Thấy có én ƣơng mở hội
Thóc tốt đem phơi sàn
Có hai cây chuối sinh tiêu
Thóc vàng đem phơi nắng
Gió quạt đi quạt lại mát mẻ
(...) Mới chảy thành rƣợu quý ngƣời dùng. [27]
Hƣơng nó thơm nhƣ quế ngàn sơn
Bài ca đám cƣới thực sự là bài ca đối - đáp. Có những bài ca đối – đáp
Chuối này thật quý nhiều hơn
chia tay giữa kẻ ở ngƣời về khi kết thúc đám cƣới:
Từ ngày xƣa phân khai vạn đại
- Bên nam hát:
Lá chuối gói bánh gai đƣờng
Giờ đây chúng tôi về quê bản
Lƣu truyền khắp bốn phƣơng thiên hạ. [27]
Bƣớc đi xa chào ngƣời ở lại
Bẻ hoa còn cài lên trên cành
Mong hoa mãi tƣơi xanh chớ héo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Mai sau còn đƣợc đón tìm hoa
Đón luôn cả phù dâu - phù rể thành đôi. [26]
- Bên nữ hát:
Những cuộc hát đối đáp trong đám cƣới là những dịp tốt nhất để nam nữ
Từ nay khó mà gặp đƣợc nhau
Tày chọn bạn đời. Tuy không giống nhƣ những bài hát tình yêu đôi lứa tổ
Mong các bạn đƣờng xa hãy nhận
chức trong những đêm trăng, lúc hội hè… nhƣng những bài hát đám cƣới vẫn
Gửi bạn hai chén rƣợu đi đƣờng
làm nảy nở những cuộc tình duyên. Trong lễ cƣới trai gái tìm đến nhau, để ý,
Cùng nhau gửi lời thƣơng lời nhớ
để tình. Họ yêu nhau về lời ăn tiếng nói, cảm nhau về tiếng hát lời thơ, phục
Xuân nào hoa mới nở hai lần
nhau về tài đối đáp.
Ƣớc gì gặp đƣợc nhau hai bận. [27]
Cuộc hôn lễ của đôi vợ chồng trẻ đã đánh thức tình yêu đôi lứa, khơi lên
Mọi ngƣời đến đám cƣới không chỉ “cơm no rƣợu say” mà còn đƣợc
khát vọng xây dựng hạnh phúc của những trai làng, gái bản đến dự cƣới, trong
thƣởng thức giọng ca của ông Quan lang, bà Pả mẻ và của những trai tài gái
đó có tiếng hát yêu thƣơng của cặp phù dâu phù rể. Nhân lễ cƣới này, họ có
sắc. Tâm hồn hoà quyện trong những tâm hồn. Ngƣời già nghe tiếng hát thấy
dịp tỏ bày tình cảm và vì thế cuộc hát ra đời:
mình nhƣ sống lại cái tâm trạng trẻ trung một thời cũng đựợc làm cô dâu chú
rể. Ngƣời trẻ nghe tiếng ca thì háo hức mong ngày vui nhanh đến với mình.
- Bên nam hát:
Đáng trách lệ đời xƣa đã đặt
Cô dâu, chú rể e lệ, thẹn thùng nhƣng trong lòng họ lại tràn trề hạnh phúc.
Đáng trách lệ Bàn Cổ đã ban
Bài ca đám cƣới nhƣ “chất muối”, “chất men”, “chất tình”, thiếu vắng nó
Đặt ra lệ cƣới xin không hợp
đám cƣới sẽ tẻ nhạt biết bao!
Đặt ra lệ ăn hỏi không minh
Hát đám cƣới không chỉ có ở đồng bào Tày mà nó là hình thức ca hát gắn
Đón riêng mình cô dâu về bản
liền với nghi lễ cƣới xin của nhiều dân tộc. Ngƣời Mƣờng có hát Xƣờng,
Đón riêng mình chú rể về nhà
ngƣời H’mông có Gầu xống, ngƣời Kơtu có Ca lới, ngƣời Dáy có Vƣơn té
Sao không đặt thêm ra phép nữa
pầu, ngƣời Thái có Cải puông… tuy nhiên về mặt tên gọi và diễn xƣớng mỗi
- Bên nữ đáp lời:
dân tộc có những điểm khác.
Đáng trách lệ đời xƣa đã đặt
Hát đám cƣới của ngƣòi Mƣờng không gắn trực tiếp với nghi thức đám
Đáng trách lệ Bàn Cổ đã ban
cƣới. Trong đám cƣới, họ mời một ngƣời hát chuyên nghiệp đến để hát những
Đặt ra lệ cƣới xin không hợp
bài hát chúc mừng cô dâu chú rể, chúc mừng hai họ:
Đặt ra lệ ăn hỏi không minh
Đón riêng mình cô dâu về bản
Ta nói Xƣờng nói rạng cho vui
Sao không đặt thêm ra phép nữa
Trai anh gái em nhà ta nên cửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Hát đám cƣới của dân tộc Kơtu mang tính chất đối đáp rõ nét. Đây là
Trai anh gái em nhà ta nên nhà
Con gái đánh cá vui cả khoang trong
điểm giống với hát đám cƣới của ngƣời Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Tuy
Săn mong vui cả đồi bãi
nhiên, ta cũng nhận thấy điểm khác của dân tộc Tày trong đám cƣới là cha
mẹ, cô dâu chú rể không hát mà việc hát do ông Quan lang giữ vai trò trung
Đằng trai gái vui đằng dâu rể vui vào
Những bài hát Xƣờng này mang tính chất tự do ở chỗ lời hát không bắt buộc
gắn liền với nghi thức, có thể thêm bớt câu, đoạn. Chẳng hạn trong bài chúc mừng
chung có thể thêm lời cảm ơn sự đón tiếp ân cần chu đáo của gia chủ:
Cảm ơn chú đã ba bề bốn bên
gian đảm nhiệm.
Đối với dân tộc H’mông hát đám cƣới gắn liền với nghi lễ thủ tục đám
cƣới do các ông mối đại diện cho nhà trai và nhà gái đảm nhiệm, cuộc hát
cũng mang tính chất ứng đối.
Ông mối nhà gái hát :
Có lòng thƣơng dọn cỗ ăn trên khung cửa
Mình bảo mình lấy củi lấy nƣớc về nấu
Có trầu, có nang, có vàng, có bạc
Nƣớc chè mới tức khắc về đây
Có rƣợu cần ngọt, có đọt hƣơng thơm
Vậy thì chè mẹ chè bố từ đâu tới
Có thúng gạo, quan tiền, mâm thau nhắc lên.
Chè bố chè mẹ từ đâu ra?
Đối với dân tộc Kơtu, trong đám cƣới, bố vợ và con rể có thể hát đối đáp. Khi bố vợ cất lời hát:
Ông mối nhà trai đáp:
Chè này giồng ở đầu ngõ
Tôi có một đứa con gái xinh đẹp
Bố giang chân đạp cành chè
Tôi muốn có trâu to
Mẹ vƣơn tay hái búp chè
Tôi muốn có bò lớn
Mẹ đem chè về nhà
Tôi muốn heo đầy vƣờn
Mẹ xao đảo trong chảo
Tôi muốn đồng la đầy gian
Mẹ vò bóp trong mẹt
Tôi muốn cái gì cũng có
Đặt lên trên gác bếp
Lời con rể đáp:
Hơ sấy phơi giòn khô
Đời cha tôi rất nghèo
Bố đem chè cho vào siêu đồng…
Cho nên tôi phải gieo neo thế này
Sự khác nhau trong phƣơng thức diễn xƣớng của dân ca đám cƣới các
Lấy đâu ra của đƣợc ngay
dân tộc nói lên tính chất tự nhiên của sự hình thành các hình thức nghệ thuật
Lấy đâu đồ kể ra ngay bây giờ.
dân gian, đồng thời nó cho ta thấy quá trình vận động sinh hoạt dân ca từ chỗ
là bộ phận hữu cơ trực tiếp gắn liền với đời sống (nghi lễ phong tục) đến chỗ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
trở thành một sinh hoạt văn hoá tinh thần cũng vẫn mục đích là phục vụ đời
sống nhƣng đã mang tính nghệ thuật, chuyên nghiệp cao hơn (ở dân tộc Kơtu
bố vợ và con rể cùng hát, đến dân tộc Tày Quan lang là ngƣời trung gian hát,
cho đến ngƣời Mƣờng đã mời một ngƣời có tính chất chuyên nghiệp đến hát).
Chƣơng 2:
NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG LỜI HÁT QUAN LANG
Ở THẠCH AN - CAO BẰNG
2.1. Lối thử thách bằng thơ
[21, tr. 43-46]
Ngƣời Tày xƣa quan niệm rằng “Lời nói đẹp”, ấy là thơ ca đƣợc dùng
Tiểu kết:
Ngƣời Tày là cƣ dân lâu đời nhất ở Thạch An – Cao Bằng. Tự nhiên ƣu
trong lúc trang trọng hoặc khi thổ lộ tâm tình. Trong lễ cƣới không chỉ trang
đãi đã tạo điều kiện cho cƣ dân Tày phát triển kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp
trọng mà còn vui vẻ và cũng là dịp thử tài ứng xử qua thơ văn của hai họ nhà
lúa nƣớc. Họ sống gắn bó bên cạnh một số dân tộc ít ngƣời khác: Nùng,
trai và nhà gái, là thể hiện tình cảm, sự trân trọng của nhà trai đối với nhà gái
Mông, Dao, Sán Chỉ... Với ý thức cộng đồng cao, quan hệ hoà hợp cả về đời
vì “Con gái ngƣời ta nuôi khó nhƣ vậy không bỗng nhiên lại rƣớc đi một
sống vật chất và tinh thần. Vì vậy, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tín ngƣỡng.
cách dễ dàng đƣợc”. Vì thế phải chăng nhà trai đón đƣợc cô dâu phải trải qua
tôn giáo, văn hoá... cũng phần nào bị ảnh hƣởng. Tuy nhiên, văn hoá Tày vẫn
nhiều thử thách đến nhƣ vậy. Nhƣng cuộc so tài thử trí này vừa mang tính
có những nét riêng, độc đáo. Hát Quan lang là loại hình văn hoá, văn nghệ
sinh hoạt, vừa là hình thức nghi lễ đƣợc diễn ra theo trình tự thời gian từ khi
mang đậm tính sinh hoạt quần chúng, nhƣng mặt khác nó còn là loại hình sinh
đoàn nhà trai đặt chân tới nhà gái đến lúc kết thúc xin phép đón dâu về. Ở mỗi
hoạt văn hoá phong tục độc đáo của ngƣời Tày ở Thạch An – Cao Bằng. Hát
địa phƣơng sự thử thách có những mức độ và tình huống khác nhau.
Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng là bộ phận dân ca tồn tại song hành với
phong tục nghi lễ cƣới xin của ngƣời Tày. Qua tục hát Quan lang ta thấy đƣợc
hình thức tổ chức lễ cƣới của dân tộc mang tính truyền thống độc đáo, tuân
theo những trật tự nghi thức có tính quy củ, nền nếp, trật tự trƣớc sau.
Hát Quan lang là sinh hoạt văn hoá tinh thần lành mạnh. Nó in sâu vào
đời sống sinh hoạt và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong lễ cƣới
của ngƣời dân Tày Thạch An. Nhờ đó mà đám cƣới thêm vui vẻ, đời sống
tinh thần của đồng bào thêm phong phú. Nó còn gắn kết mọi thành viên trong
cộng đồng với nhau. Đây chính là môi trƣờng giúp cho hát Quan lang tồn tại
và phát triển.
Theo phong tục tập quán truyền đời, ngƣời Tày không bao giờ bƣớc qua
một thứ đồ dùng nào ở trong nhà. Vì thế nên trong đám cƣới hễ thấy vật
chƣớng ngại gì ở giữa đƣờng, giữa cửa, vị Quan lang hát bài xin cất vật ấy.
Những bài hát chăng dây, cất chổi, cất đó… thể hiện phong tục này. Những
bài hát ở phần này còn mang một ý nghĩa khác. Ở đây, nhà gái không phải là
muốn gây khó dễ, làm phức tạp, rắc rối cho nhà trai, mà cũng không phải
thách đố tranh giành thua, đƣợc cuộc. Ngƣời ta bày trò theo tập quán và cũng
hát mừng theo tập quán. Đám cƣới là ngày hội của cả bản, cho nên đồng bào
cũng nhân dịp trổ tài hát đối đáp. Do vậy việc tạo ra những tình huống có tác
dụng kích thích sự say mê, nhiệt tình, hứng khởi, nếu gặp đƣợc ngƣời hát hay,
hát giỏi thì cuộc hát càng vui. Kho tàng hát Quan lang nhờ thế mà ngày một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
dầy thêm lên, đồng thời là dịp truyền lại vốn hát truyền thống cho mọi ngƣời.
Lời hát của Quan lang có sức lôi cuốn kỳ lạ:
Dịch:
Thôi xin lỗi là tôi không rõ
Ngƣời khéo hát câu hay câu đẹp
Không biết có duyên cớ gì chăng
Ngƣời già nghe quên rƣợu trên mâm
Xin nàng gỡ chỉ hồng cho qua
Trai gái nghe quên cất mâm dọn bát
Để chú rể vào nhà trình lễ
[49, tr. 12-13]
Nghe câu đẹp quên bƣớc đứng nghe.
Thử thách bắt đầu từ khi họ nhà trai đến cổng nhà gái, họ phải trải qua
các chặng đƣờng đầy thử thách của nhà gái. Đến cổng nhà gái, mọi ngƣời tụ
Bài hát quá ngắn, mọi ngƣời họ nhà gái vẫn muốn nghe hát và muốn
thấy đƣợc tài ứng đối thơ của họ nhà trai nên không chịu mở cổng làng, nhà
gái lại cất lên tiếng hát:
tập rất đông. Một ngƣời thiếu phụ cất tiếng hát chào đoàn nhà trai:
Mây nẩy làn bấu đảy quá pây
Xo chiềng thâng mọi gần puôn pản
Gần rại rụ gần đây xam nỏ
Khảu bản bấu chắc lƣợn sắc gằm
Dử Quan lang mà nẩy rẳp lùa
Khỏi đảy phép bản mƣờng dú nẩy
Gạ chăn khỏi hẩƣ mừa thâng slóa
Dửc gần lạ bấu đảy quá pây.
Gạ ngày khỏi khay ảng khay tu, gà nỏ!
Dịch:
Dịch:
Chỉ ngang chắn cấm ngƣời qua đây
Thƣa các nàng cửa rộng nhà cao
Ngƣời thật hay ngƣời ngay xin hỏi
Chân mòn mỏi bƣớc vào đến cổng
Hỏi hƣ thực có phải Quan lang?
Nhìn thấy đủ mọi cánh chắn đƣờng
Nói thật xin mở đƣờng mở lối
Nhìn thấy sợi chỉ hồng ngăn lối
Mở cổng cho qua chẳng khó gì.
[49, tr. 14-15]
Muốn nhà gái mở cổng cho vào, Quan lang phải cất lên tiếng hát tuy có
chút lúng túng lúc ban đầu trƣớc sự thử thách của nhà gái:
[49, tr. 11]
Những duyên cớ mà nhà gái đƣa ra thì ngay lập tức Quan lang đáp lời
bằng những lý lẽ thấu tình đạt lý để nhà gái mở cổng cho vào:
Khỏi là gần xiên quây bấu rọ
Sloong họ slim rẩp nả thuận lòng
Bấu chắc răng duyên cớ mì răng
Pỏ mẻ cắp họ hàng thuận ý
Khỏi xo nàng dò lần khay ảng
Hoằn nẩy hoằn đại lệ rẳp lùa
Rẳp khƣơi mấƣ khảu bản khảu rƣờn
Boong khỏi tải khƣơi mà lệ thản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Lệ vật mì lai đoạn tháp tham
Các nàng Slao ấy không phải là đòi tiền. Cái chính là muốn thử tài hát
Lủc khƣơi pjá công tình vỏ mẻ
đối của Quan lang. Nếu không biết hát, Quan lang phải nộp phạt ba nén bạc
Đảy pjom nhở noọng á khay tàng
hoặc tiền mãi lộ (nay là phong bao lì xì) theo tục lệ hoặc phạt uống rƣợu.
Quan lang một lần nữa lại phải đáp lời để chứng tỏ mình là ngƣời hiểu biết:
Dịch:
Hai bên đã hợp ý tâm đồng
Boong khỏi dú mƣờng quây páy rụ
Nội ngoại thân họ hàng đồng ý
Boong khỏi mà thông sự hẩƣ gần
Hôm nay ngày đại lễ nghinh hôn
Khỏi xo nổp kim ngần khỏi quá
Đƣa rể trình tổ tiên có lễ
Dịch:
Lễ vật đủ mọi thứ có đây
Chúng tôi ngƣời ở nơi quê khác
Con rể xin tỏ bày ơn nghĩa
Chƣa ai nói cho biết đầu đuôi
Trƣớc tiên nhờ các á mở đƣờng
Có việc cử về đây đại sự
[49, tr. 16-17]
Xin nộp tiền mãi lộ cho qua
Nhƣng sự thử thách của nhà trai vẫn chƣa dứt, cổng vẫn bị đóng, nhà gái
lại cất tiếng hát:
[49, tr. 9-10]
Bên nhà gái giúp nhau cất những cành gai, dải lụa, dây đỏ ngáng đƣờng.
Dử gạ nẩy là gần đây nỏ
Đoàn nhà trai đi đầu là Quan lang, tiếp tục vào bản, vào sân nhà cô dâu. Quan
Boong khỏi gỏi khay quảng hẩƣ pây
lang cùng đoàn đón dâu của mình lại gặp phải những thử thách tiếp theo của
Dèn tàng nổp đo xày dẳng đảy
nhà gái.
Slam pẻng ngần lạy tạ quá tu
Ngƣời Tày thƣờng sống ở nhà sàn, lên bằng cầu thang. Theo lệ thƣờng
Nổp dèn đo là dùa căn quá
chân cầu thang có máng nƣớc rửa chân. Muốn lên sàn nhà phải rửa chân cho
Boong noọng rèo tục lệ phép quan
sạch, nhƣng hôm nay máng nƣớc cạn khô. Nhà trai đƣợc mấy cô gái mang
Dịch:
Nếu nói rõ thực thà ngƣời tốt
khay rƣợu để mời khách rửa chân. Bài hát “Quan lang xo củ lẩu rào kha”
Chúng tôi xin châm trƣớc mở đƣờng
(Quan lang xin cất rƣợu rửa chân) đƣợc ra đời, nói lên điều hay lẽ phải, giá trị
Nhƣng phải nổp đủ tiền lệ phí
quý báu của những giọt rƣợu, không thể lấy rƣợu thay nƣớc rửa chân, làm vậy
Ba nén bạc mãi lộ không nhiều
là trái với lẽ thƣờng, coi thƣờng công lao động và vật phẩm quý là lúa gạo:
Nộp cho đủ cổng cao rộng mở
Tẻo mì lẩu rào kha boong khỏi
Chúng tôi làm theo lệ phép quan.
Nẳm mà lao thất lội bân đin
[49, tr. 18-19]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Quét cả cung vua quan cửa đại
Dịch:
Lại có rƣợu rửa chân chúng tôi
Mọi ngƣời đƣợc hƣởng mát không quên
Nghĩ mà thất lỗi với trời đất
Cớ sao để chổi ngang ngáng cửa
Lên đƣợc cầu thang thì lại cài cửa kín then cài, chổi ngáng cửa, phía trên
Chúng tôi tự suy nghĩ khó thông
đeo đó đơm cá, trên cánh cửa có cái túi vải chàm nhốt con mèo bên trong, giẻ
Xin gửi cho các nàng các á
lót tay treo bên cánh cửa... những vật đó bỗng trở nên những bức tƣờng thành
Cất chổi không ngáng cửa vấn vƣơng. [27]
sừng sững trƣớc mặt ông Quan lang và đoàn phù rể. Nếu bƣớc qua sẽ bị nhà
Trong những “vật thử thách” chúng ta để ý đến hai thứ rất có ý nghĩa đó
gái chê cƣời là bất lịch sự. Ông Quan lang, lần lƣợt phải cất tiếng hát, mà phải
là con mèo và cái chổi rơm. Phải chăng con mèo là biểu tƣợng của con hổ;
thắng các cô gái trẻ bên nhà gái thì họ mới lần lƣợt cất những vật đó đi bằng
chổi rơm là biểu tƣợng của mùa màng. Con hổ tƣợng trƣng cho sức mạnh của
những bài hát: “Quan lang xo củ nhù quét khoáng tu” (Quan lang xin cất chổi
núi rừng, sức mạnh tự nhiên. Chổi rơm tƣợng trƣng cho sự vất vả cực nhọc
ngáng cửa), “Quan lang xo củ gộc thảng pja” (Quan lang xin cất đó đơm cá),
trong việc sản xuất lúa gạo. Khuất phục và đại thắng đƣợc hại biểu tƣợng trên
“Quan lang xo củ tẩy xăng mèo” (Quan lang xin cất túi nhốt mèo), “Quan
là ƣớc mơ của ngƣời Tày cổ đại. Con ngƣời vƣợt đƣợc hai thử thách ấy là con
lang xo củ táp héc táng tu” (Quan lang xin cất giẻ lót tay canh cửa)... Ví dụ
ngƣời lý tƣởng của thời đại ấy... [14, tr. 207-208]
nhƣ bài ca xin cất chổi quét ngáng cửa:
Khi Quan lang xin cất từng thứ ở cửa đi thì bên nhà gái đã giải thích có
Nhù quét hƣa chủa rƣờn tằng tởi
lý lẽ, nghe có vẻ xuôi tai:
Quét thuổn tằng cung nội rƣờn chƣơng
Nhù quét nẩy vằn vằn quét lảng
Quét thuổn tằng tu rƣờn đâƣ slóa
Bấu vửa tầƣ luổn quẻng xảng tàng
Hẩƣ chủa rƣờn đảy dú đàng hoàng
Nạy ngám quét hỏng chang náo dá
Lăng tả sle hơn tàng vận nẩy
Đếch tầƣ ke mà tả hơn tàng
Hẩƣ boong khỏi nẳm ngậy bấu thông
Dịch:
Khỏi xo thâng gia tung các á
Chổi này ngày ngày để quét nhà
Củ pây boong khỏi quá khảu rƣờn
Không cho phép quẳng bừa mọi chỗ
Dịch:
Mới rồi quét gian giữa vừa xong
Cả đời chổi luôn luôn để quét
Trẻ nào nghịch để ngang chắn cửa
Quét cung nội quét hết gia môn
Còn cái đó đơm cá trẻ con đi đánh cá về mải mừng đón chú rể quá nên
Quét nhà trên nhà dƣới sạch sẽ
treo tạm lên ấy. Cái túi nhốt con mèo vì nhà hôm nay có cỗ sợ mèo vụng trộm
Nhà cửa đƣợc mát mẻ phong quang
nên phải nhốt lại... Từng vật cản đƣợc cất đi nhƣng cánh cửa nhà chính vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
đóng. Quan lang một lần nữa trình bày nhiệm vụ quan trọng của mình là đến
Đƣơng thời qjì vằn đây cao kiến
nhà gái đón dâu, đề nghị nhà gái cho vào:
Mì lệ vật mà hiến quý thân
Khỏi chiềng mừa gần ké giƣờng nƣa
Bố dử gạ binh quân tầƣ lạ
Xo khay tu mạy rầm sloong phắc
Dƣờng gần khỏi xo quá khảu mừa
Xo khay tu mạy hoắc sloong phƣơng
Dịch:
Boong khỏi cẩn khảu rƣờn trình lệ
Tôi xin trình xóm làng cùng biết
Sle loan phƣợng tâu tó pần duyên
Không phải tôi chơi nguyệt du xuân
Khảu rƣờn tạ gia tiên tông tổ
Thực có việc hôn nhân giá thú
Khỏi mì gằm cảm tạ phuối ngày
Đã có tin thông sự đến ngƣời
Dịch:
Xin lấy chữ thuận tình hai họ
Tôi xin thƣa các cụ giƣờng trên
Giờ này giờ vƣợng hội thiên khai
Mở rộng cửa hai bên cho hết
Đƣờng thì tốt ngày lành cao kiến
Cánh “mạy hoắc” mở sát áp tƣờng
Có vật lễ đến biếu quý thân
Cánh “mạy rầm” hai bên giang rộng
Không phải đâu binh quân xa lạ
Chúng tôi vào yết kiến lễ trình
Trình ngƣời xin mở cửa vào nhà
Sao cho nhanh phƣợng loan hội ngộ
[49, tr. 58]
Tất cả các việc diễn ra nằm trong tục lệ gọi là “Lệ thƣ tu” (lệ giữ cửa).
Xin cho mở rộng cửa giờ này
Tôi có lời cảm tạ biết ơn
Thƣờng là sau khi cánh cửa khép nhà gái đặt ra ngổn ngang những chƣớng ngại
vật. Với những chƣớng ngại vật ấy ngƣời ta dễ dàng bƣớc qua hoặc len lách mà
[49, tr. 34-35]
Bài hát quá ngắn, cửa vấn khép. Quan lang phải hát bài nữa cho có đầu
có đuôi cho đúng đạo lý (phép tắc):
đi nhƣng không ai làm liều nhƣ vậy vì ngƣời nhà gái sẽ đánh giá là thiếu văn
hoá, kém lịch sự, kém ứng xử đối đáp... Gặp cảnh tƣợng nào Quan lang hát một
Khỏi xo dƣờng quý quan hẩƣ rọ
bài về cảnh tƣợng đó và đề nghị nhà gái cất bỏ hay tạo thuận lợi cho nhà trai đi.
Bố dử khỏi hỉn nguyệt du xuân
Và cứ mỗi cảnh nhƣ vậy, Quan lang nhà trai hát xong, bên đại diện nhà gái hát
Thực mì việc hôn nhân giá thú
tạ lỗi và sai các chị em nhà gái thu dọn cái đó để có lối đi.
Đạ hẩƣ gần thông sự hẩƣ gần
“Lệ thƣ tu” đã xong, Quan lang, Pả mẻ cùng đoàn nhà trai vào nhà, lời chào
Xo au dử thuận tình sloong bƣởng
mời tíu tít, tiếng cƣời nói vui vẻ, nét mặt ai cũng rạng rỡ. Vƣợt qua ngần nấy
Giờ nẩy giờ vƣợng hội thiên khai
“Thử thách” của nhà gái, nhà trai những tƣởng xong chuyện, đƣợc ngồi xuống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
nghỉ ngơi đàm đạo nào ngờ giƣờng không có chiếu trong khi đó mấy cô chủ lịch
sự mời chào. Quan lang lại hát bài “Xo pjái phục” (Xin trải chiếu):
Bài ca với đủ mọi lý lẽ hết sức thuyết phục, ý nói mọi vật tồn tại trong
tự nhiên và trong cuộc sống đều tuân theo quy luật phát triển tự nhiên của
Dám khảu rƣờn mốc phông bặng bjoóc
nó, lẽ nào nhà gái làm trái quy luật ấy. Các cô gái trải lại chiếu nhƣng lại bị
Mủng tằng rƣờn slí coóc phông hoa
chéo góc. Quan lang hát bài “Xo Pjái vủc ngày” (Xin trải lại chiếu đang
Bày lạt lạt nhƣ là háng chợ
chiếu góc):
Giƣờng tả piấu bấu ngộ hất rừ
Phục gần đạ pjái tẻo đoạn thôi
Dịch:
Thân khỏi dú táng nơi mà lót
Đƣợc vào nhà vui mừng khôn xiết
Bấu hăn phục tả coóc sắc vày
Cả sàn nhà trải hết chiếu hoa
Ả pác xo pjái ngày dƣờng dạn
Ngỡ ngàng trông nhƣ là đình chợ
Mọi phƣn bjoóc rủng choảng pjái phiêng
Giƣờng này sao bỏ ngỏ chiếu không
Mọi phƣn mọi mì duyên mì slắc
[49, tr. 36-37]
Phƣn nẩy pjái tả coóc bố đây
Lúc này nhà gái mới chịu mang chiếu đến trải vào giƣờng nhƣng cố tình
trải ngƣợc chiếu hay trải chiếu dúm dó. Cả đoàn đón dâu vẫn kiên trì đứng
chờ. Quan lang hát bài “Xo pjển phục pjẻ” (Xin lật lại chiếu trái):
Dịch:
Chiếu đã trải đây đó tƣởng xong
Gần tầƣ hăn tơ hồng mì lảc
Ngƣời phƣơng xa khác mƣờng thấy lạ
Gần tầƣ hăn phục phạc pjái mai
Sao chiếu lại lệch vậy khó coi
Gƣởng nẳm hăn lai slai lai tái
Trải lại thẳng cho tôi đa tạ
Nẻp slửa tam bƣởng rại nàn hăn
Mỗi tấm chiếu sáng tỏa văn hoa
Khỏi xo dƣờng các nàng hẩƣ lẹo
Tấm này cũng có duyên có sắc
Vàn gần mà pjái tẻo hẩƣ đây
Tấm này trải chéo góc khó trông
Dịch:
[49, tr. 41-42]
Có ai thấy tơ hồng có rễ
Lời hát rất mộc mạc giản dị mà lại rất sâu sắc. Quan lang đã diễn tả rất
Có ai trải chiếu ngƣợc đằng sau
minh bạch rõ ràng và đầy sức thuyết phục làm cho họ thấy đƣợc cái lỗi và xin
Đi nhiều mới biết nhiều đây đó
đại xá “Bƣởng rƣờn nhình phục chính” (Nhà gái thanh minh):
Tà áo có ai mở trái chiều
Slao báo cẩn hung hang bấu váng
Tôi xin dạ các nàng nghĩ lại
Phục nẩy ngám mƣợn tạm bản nƣa
Nhanh chóng hãy trải lại cho ngay
Lủc tầƣ ngám inh pha tẳt tạm
[49, tr. 38-39]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46