Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

việc làm cho người lao động ở hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.94 KB, 91 trang )

i
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG...................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT...................................................................................iv
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài...............................................2
3. Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................................3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................................3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................................4
6. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................4
7. Những đóng góp mới của đề tài.....................................................................................4
8. Kết cấu của luận văn......................................................................................................5
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG.............................................................................................................6
1.1. Cơ sở lý luận về việc làm cho người lao động............................................................6
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản......................................................................................
1.1.2. Những yếu tố tác động đến giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị
trường...............................................................................................................
1.1.3. Quan điểm của của Đảng và chính sách của Nhà nước về việc làm cho
người lao động..................................................................................................
1.2. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số tỉnh........................................................25
1.2.1. Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng [21, tr.3]................................................
1.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc [8, tr. 4].........................................................
Chương 2 THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HÀ TĨNH............29
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Tĩnh.......................................29
2.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên...............................................................................
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội [23, tr.1-3].................................................................
2.2. Việc làm cho người lao động ở tỉnh Hà Tĩnh trong những năm qua.........................35
2.2.1. Quy mô lao động của Hà Tĩnh...........................................................................


2.2.2. Chất lượng nguồn lao động................................................................................
2.2.3. Công tác đào tạo nghề........................................................................................
2.2.4. Giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh trong thời gian qua............................................
2.3. Những vấn đề đặt ra trong giải quyết việc làm ở Hà Tĩnh........................................55
2.3.1. Mâu thuẫn giữa giải quyết việc làm với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.................
2.3.2. Mâu thuẫn giữa giải quyết việc làm với đào tạo nguồn nhân lực......................
2.3.3. Mâu thuẫn giữa giải quyết việc làm với việc gia tăng dân số............................


ii
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2015 - 2020........................62
3.1. Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Hà Tĩnh......62
3.1.1. Phát triển kinh tế, tạo mở việc làm.....................................................................
3.1.2. Phát triển nguồn nhân lực...................................................................................
3.1.3. Phát triển thị trường lao động.............................................................................
3.1.4. Phát triển và mở rộng hợp tác quốc tế về lao động............................................
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà Tĩnh65
3.2.1. Giải quyết việc làm gắn với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH.......................................................................................................
3.2.2. Phát triển và đa dạng hóa các hình thức kinh doanh tạo nhiều việc làm
mới cho lao động của tỉnh................................................................................
3.2.3. Phát triển thị trường lao động.............................................................................
3.2.4. Hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số..............................................................................
3.2.5. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động...........
3.2.6. Tiến hành hợp tác lao động quốc tế....................................................................
KẾT LUẬN..........................................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................85



iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Cơ cấu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh.................................................................................32
Bảng 2.2. Cơ cấu tuổi của lực lượng lao động.....................................................................35
Bảng 2.3. Hiện trạng phân bố dân cư Hà Tĩnh năm 2013....................................................37
Bảng 2.4. Trình độ học vấn phổ thông.................................................................................38
Bảng 2.5. Trình độ chuyên môn kỹ thuật.............................................................................39
Bảng 2.6. Cơ cấu việc làm theo nhóm ngành.......................................................................43
Bảng 2.7. Việc làm chia theo thành phần kinh tế.................................................................45
Bảng 2.8. Sự thay đổi cơ cấu GDP và lao động...................................................................57
Bảng 2.9. Dân số Hà Tĩnh trong độ tuổi lao động................................................................60
Bảng 3.1. Dự báo dân số Hà Tĩnh theo các giai đoạn..........................................................76


iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DCND

:

Dân chủ nhân dân

DNNN


:

Doanh nghiệp nhà nước

GDP

:

Thu nhập quốc dân

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

HTX

:

Hợp tác xã

LLLĐ

:

Lực lượng lao động

THCS


:

Trung học cơ sở

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, vấn đề việc làm là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng
như của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm
đầy đủ cho mọi người để tạo thu nhập và không ngừng nâng cao chất lượng
cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước ta. Đảng ta luôn lấy con người làm trung tâm, coi phát triển con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi
người có cơ hội làm việc; một mặt, là điều kiện để phát huy được tiềm năng
lao động, nguồn nội lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời
sống. Mặt khác, cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền vững. Đặc

biệt trong điều kiện nước ta tài nguyên, đất đai không nhiều, nguồn lực tài
chính và cơ sở vật chất còn nghèo, đang trong quá trình hội nhập quốc tế
trong xu thế toàn cầu hóa. Việc đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả
nguồn lực con người là đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển
kinh tế, là đi tắt, đón đầu, chống nguy cơ tụt hậu và chủ động tham gia vào
quá trình phân công lao động quốc tế.
Hà Tĩnh là một tỉnh mới được tái lập năm 1991, với diện tích tự nhiên
5.998 km2, dân số gần 1.300.000 người, thu nhập bình quân đầu người còn
thấp, kết cấu hạ tầng thấp kém, đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển mạnh các khu kinh tế, cụm công nghiệp. Lao
động qua đào tạo chiếm tỷ lệ còn thấp, chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu
cầu, vấn đề bảo đảm việc làm còn là một thách thức lớn trong quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở tỉnh Hà Tĩnh. Mặt khác, dân số đông, lực lượng
lao động dồi dào, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển đã và đang là nguồn
gốc tạo nên sự bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.


2
Nghiên cứu đề xuất phương hướng và tìm ra những giải pháp hữu hiệu để
sử dụng hợp lý nguồn lao động trên địa bàn tỉnh đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý
nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy, tôi chọn đề tài: "Việc làm cho
người lao động ở tỉnh Hà Tĩnh" làm luận văn tốt nghiệp, một mặt để hỗ trợ nâng
cao kiến thức chuyên môn của mình và mặt khác, quan trọng hơn là mong muốn
được đóng góp vào nhiệm vụ nêu trên của tỉnh nhà.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía
cạnh mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có:
- PGS.TS. Trần Việt Tiến, "Chính sách Việc làm ở Việt Nam, thực
trạng và định hướng hoàn thiện", tạp chí Kinh tế phát triển số 181 tháng 7
năm 2012. Bài viết làm rõ thực trạng chính sách việc làm ở nước ta hiện nay,

từ đó đưa ra định hướng hoàn thiện chính sách việc làm tới năm 2020.
- Thạc sĩ Nguyễn Thúy Hà (2013): "Chính sách việc làm: Thực trạng
và giải pháp-chính sách", Trung tâm nghiên cứu khoa học - Viện nghiên cứu
lập pháp. Tác giả đi từ việc phân tích vai trò của việc làm, thực trạng vấn đề
việc làm ở nước ta, những hạn chế và nguyên nhân. Từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện chính sách vệc làm.
- Bài viết của nghiên cứu sinh Phạm Thị Bạch Tuyết: “Thực trạng và
những vấn đề đặt ra đối với lao động ở Việt Nam hiện nay”, số 60, năm 2014
Tạp chí Khoa học Đại học Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó tác giả đi sâu vào
các vấn đề như: Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam, những thách thức
trong lĩnh vực lao động - việc làm ở Việt Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm
giải quyết việc làm, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế...
- Thạc sỹ Nguyễn Văn Sơn (2010) “Giải pháp giải quyết việc làm cho
lao động ở Hà Tĩnh” và một số bài viết của một số chuyên gia trong lĩnh vực
việc làm.


3
Trong đó các tác giả đi sâu vào các vấn đề như: Kết quả giải quyết việc
làm, những mặt yếu kém và bất cập, phương hướng giải quyết việc làm, đặc
biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế...
Tuy nhiên, các phương hướng và giải pháp của các công trình trên
không phù hợp với tình hình của Hà Tĩnh giai đoạn 2015-2020, vì hiện nay,
Hà Tĩnh đã đứng thứ hai cả nước về thu hút đầu tư, trong đó có những dự án
đầu tư của nước ngoài lên đến 17 tỷ USD, Khu Kinh tế Vũng Áng được đánh
giá là một trong 5 khu kinh tế trọng điểm của cả nước, Hà Tĩnh đang trong
giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh, kinh tế đang tăng trưởng nóng,
đồng thời thực hiện Nghị quyết đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVII: “Phấn
đấu đến năm 2020, Hà Tĩnh trở thành tỉnh có công nghiêp, nông nghiệp, dịch
vụ phát triển” [20, tr. 2] thì cần phải đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc

làm trên địa bàn Hà Tĩnh, đưa ra các giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu giải
quyết việc làm cho lao động Hà Tĩnh giai đoạn tiếp theo.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và giải quyết việc
làm trong nền kinh tế thị trường; vận dụng để đánh giá thực trạng và đề xuất
quan điểm, định hướng và giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động ở
tỉnh Hà Tĩnh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm và thất nghiệp;
làm rõ những yếu tố tác động đến giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị
trường, để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở tỉnh
Hà Tĩnh;
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tĩnh từ
2010 - 2014, làm rõ những thành công, hạn chế và nguyên nhân hạn chế;
- Đề xuất quan điểm, những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm giải quyết việc làm ở tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2015-2020.


4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao
động trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp giải quyết việc
làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
5.2.1. Phạm vi về không gian
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, có đúc rút kinh
nghiệm tại một số tỉnh như: Đà Nẵng, Vĩnh Phúc.
5.2.2. Phạm vi về thời gian

Từ tháng 5 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương các khóa xung quanh vấn đề này. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa
và sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và các số liệu thống kê trong một số
công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả trong, ngoài nước và các
tổng kết đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực việc làm.
- Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để nghiên cứu.
- Sử dụng các phương pháp: hệ thống, tổng hợp, thống kê, so sánh đối
chiếu và phân tích để làm sáng tỏ vấn đề.
7. Những đóng góp mới của đề tài
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động
ở tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2010 đến nay.


5
- Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi, phù hợp với
giai đoạn 2015-2020 nhằm giải quyết từng bước việc làm cho người lao động
ở tỉnh Hà Tĩnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn giải quyết việc làm.
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở Hà Tĩnh.
Chương 3: Phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu giải quyết việc
làm cho người lao động ở Hà Tĩnh giai đoạn 2015-2020.



6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1. Cơ sở lý luận về việc làm cho người lao động
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động
vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm
phục vụ các nhu cầu của đời sống. Do đó, lao động là hoạt động đặc thù của
con người, phân biệt con người và xã hội loài người với các loài động vật và
xã hội loài vật khác. Trong quá trình lao động, con người không những tạo ra
của cải, mà còn cải tạo bản thân mình làm cho con người phát triển cả về thể
lực và trí lực. Đặc trưng chủ yếu của lao động là sáng tạo ra giá trị và của cải
đáp ứng nhu cầu của con người. Song, những nhu cầu không chỉ thuộc lĩnh
vực kinh tế, vật chất, mà còn bao gồm tất cả những lĩnh vực kết tinh thành
văn hóa, xã hội, đời sống cộng đồng. Trong thực tiễn, không thiếu lao động,
mà là thiếu việc làm. Việc làm chỉ là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong
đó lao động được diễn ra. Trong xã hội có giai cấp thì việc làm chịu chi phối
bởi lợi ích của giai cấp thống trị và hệ thống luật pháp dựa trên cơ sở lợi ích
của giai cấp đó hoạch định. Do đó, lao động thuộc về nhu cầu vô hạn của con
người như là một cơ sở đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội, còn việc làm
là phạm trù giới hạn và bị lợi ích giai cấp chi phối. Trong thực tiễn, vì lợi ích
kinh tế những giai cấp nắm trong tay các điều kiện vật chất của lao động có
thể thu hút nhanh chóng những khối lượng lớn sức lao động vào quá trình sản
xuất và cũng vì lợi ích kinh tế họ sẵn sàng sa thải hàng loạt người lao động, nên
việc làm của xã hội bị thu hẹp lại. Mặt khác, quá trình lao động không chỉ diễn
ra đơn độc giữa một cá thể và tự nhiên, mà trong quá trình đó, con người tác



7
động vào nhau nhờ đó mà hình thành nên tập quán, truyền thống và trở thành
những đặc trưng văn hóa của một dân tộc, quốc gia. Như vậy sự thay đổi cơ
bản về mặt văn hóa cũng phải được xảy ra trong quan hệ của chúng ta với lao
động và sự giàu có. Phải coi lao động là sáng tạo ra của cải, tất cả những gì góp
phần tạo ra giá trị theo nghĩa kinh tế, tạo ra sự sung túc về phương diện cá
nhân, tạo ra mối quan hệ xã hội về phương diện tập thể.
Theo Mác: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và
tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm
trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [1, tr.266].
Trong quá trình đó con người đã vận dụng sức lực của mình, sử dụng công cụ
lao động để tác động vào tự nhiên một cách có ý thức, có mục đích nhằm biến
đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Trong quá
trình lao động sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố: lao động,
đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong bất kỳ nền sản xuất nào kể cả
nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện
không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Tuy
nhiên, trong quá trình đó, người lao động giữ vị trí quan trọng hàng đầu, vì nó
không chỉ là chủ thể sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu tồn tại
của con người với tư cách một xã hội, mà còn sáng tạo ra những yếu tố khác
cấu thành lực lượng sản xuất xã hội.
Trong một quốc gia, một vùng hay một địa phương cụ thể thì người
lao động được thể hiện ở nguồn lao động. Đó là tổng thể toàn bộ thể lực và
trí lực của dân cư có khả năng lao động. Cụ thể, nguồn lao động là bộ phận
dân cư của đất nước, có toàn bộ những khả năng về thể chất và tinh thần có
thể sử dụng trong quá trình lao động. Nguồn lao động là một yếu tố quan
trọng hợp thành tiềm lực của đất nước. Nói đến nguồn lao động là nói đến số
lượng tối đa của dân cư có khả năng lao động. Những tiêu chuẩn cơ bản để



8
xếp dân cư vào nguồn lao động là độ tuổi và tình trạng sức khỏe. Ở nước ta,
nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi,
nữ từ 15-55 tuổi), có khả năng lao động (trừ những người tàn tật mất sức lao
động loại nặng). Ngoài ra, nguồn lao động còn bao gồm số người ngoài độ
tuổi lao động (trên độ tuổi lao động và dưới độ tuổi lao động từ 13-15 tuổi).
Kết quả điều tra cho thấy, số người trên độ tuổi lao động thực tế có việc
làm chiếm 2/3 trong tổng số người trên độ tuổi lao động [19, tr. 114] và số trẻ
em từ 13-15 tuổi ở nông thôn phải làm những việc giúp đỡ gia đình như: chăn
trâu cắt cỏ, tham gia hoạt động sản xuất… chiếm tỷ lệ khá cao. Bộ phận chính
của nguồn lao động là lực lượng lao động, bao gồm những người đang làm
việc và những người thất nghiệp.
Đặc trưng của nguồn lao động là các chỉ tiêu về số lượng và chất
lượng. Trong đó những chỉ tiêu quan trọng là: số lượng, độ tuổi, giới tính,
trình độ học vấn, số người đang đi học, số người đang làm việc trong nền kinh
tế quốc dân và sự phân bố theo lĩnh vực, theo ngành, theo lãnh thổ… Mức
tăng nguồn lao động là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi lao động và
số dân cư hết tuổi lao động. Trong quá trình phát triển của sản xuất và đời
sống xã hội, chất lượng nguồn lao động cũng không ngừng được tăng lên. Các
chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá chất lượng nguồn lao động: trình độ
văn hóa, khả năng tiếp thu của người lao động; trình độ chuyên môn kỹ thuật,
mức độ lành nghề; kinh nghiệm thực tiễn; trình độ quản lý, kỹ năng làm việc;
sức khỏe.
Nếu lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, thì quá trình đó chỉ
có thể diễn ra khi đã được dựa trên giả định những tiền đề vật chất cho quá
trình đó đã đầy đủ. Trên bình diện một quốc gia cụ thể, thì quá trình lao động
sản xuất (việc làm) của bộ phận dân cư có sức lao động lại được giả định trên
cơ sở số lượng việc làm. Do đó việc làm không chỉ diễn ra trong mối quan hệ



9
giữa con người và tự nhiên, mà cả quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất, trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật
pháp khi tạo lập đầy đủ các yếu tố vật chất để quá trình làm việc diễn ra. Do đó,
việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân
khẩu, nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội.
Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động. Việc
làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là
những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều
kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của
hoạt động con người. Dưới góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan
giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất
trong quá trình sản xuất.
Ở nước ta, trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, người lao
động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, là người làm việc
trong thành phần kinh tế quốc dân, khu vực Nhà nước, kinh tế tập thể. Trong
cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm đầy đủ cho người lao động. Do đó, trong
xã hội không thừa nhận việc lao động thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư
thừa, việc làm không đầy đủ…
Từ khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm
đã thay đổi một cách căn bản. Theo Bộ luật Lao động ở Điều 9, Chương II
khái niệm việc làm được xác định là: "Việc làm là hoạt động lao động tạo ra
thu nhập mà không bị pháp luật cấm" [14, tr. 36].
Như vậy, theo quan niệm trên, việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động
tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm. Trước hết nó xóa bỏ được quan
niệm cũ cho rằng chỉ có làm việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có
việc làm, bởi vì, lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà
nước mà cả trong khu vực tư nhân, cá thể, hộ gia đình… ý nghĩa kinh tế, xã



10
hội của quan niệm này là nó xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các
thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao
động. Mặt khác, khái niệm trên còn làm rõ đặc trưng của Nhà nước pháp
quyền, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những việc mà
pháp luật không cấm. Ví dụ, nghề giúp việc gia đình là nghề mà trước đây
chưa được xã hội tôn trọng, thì nay đã trở thành việc làm đáng khuyến
khích và được pháp luật bảo vệ. Ngược lại, mọi công dân đều không được
làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm như: mại dâm, buôn bán ma túy,
sản xuất và buôn bán thuốc nổ…
Với quan niệm việc làm như Bộ luật Lao động quy định sẽ làm cho nội
dung của việc làm được mở rộng, tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng lao
động, giải quyết việc làm cho nhiều người thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau, đồng thời ngăn chặn những việc làm phi pháp dễ nảy sinh trong điều
kiện kinh tế thị trường mở cửa.
Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần làm sáng rõ khái niệm việc làm
đầy đủ và việc làm hợp lý.
Việc làm đầy đủ được hiểu là sự thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm
cho mọi thành viên có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Cũng có
thể nói việc làm đầy đủ là mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì
có thể tìm được việc làm trong một thời gian tương đối ngắn. Tuy nhiên, để
đạt tới mức độ đảm bảo việc làm đầy đủ phải có một quá trình nhất định. Quá
trình đó ngắn hay dài là tùy thuộc vào trình độ, hoàn cảnh khách quan, chủ
quan của từng quốc gia. Một quốc gia có điểm xuất phát càng thấp thì quá
trình phát triển vấn đề đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao động càng khó
khăn và cấp thiết. Ở nước ta hiện nay, tình trạng phổ biến là thiếu việc làm đầy
đủ dưới cả hai dạng: thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình.
Thiếu việc làm là phân bố không cân đối giữa lao động và các yếu tố
sản xuất khác. Thiếu việc làm vô hình do sự bố trí và sử dụng lao động bất
hợp lý nên thường xảy ra một trong các trường hợp sau đây:



11
- Việc làm không tạo ra cơ hội để sử dụng đầy đủ chất lượng và khả
năng người lao động.
- Thu nhập mang lại từ việc làm thấp hơn so với mức thu nhập trung bình.
- Năng suất lao động ở chỗ người lao động làm việc thấp hơn so với
mức trung bình.
Thiếu việc làm hữu hình là tình trạng không có đủ công việc để làm hết
mức thời gian quy định trong một ngày lao động bình thường và người lao
động đang đi tìm việc khác hoặc sẽ nhận một việc làm bổ sung.
Trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ, quá trình toàn dụng lao
động, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý.
Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà
còn thể hiện rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của
người lao động. Việc làm hợp lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã
hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Việc làm hợp lý phản ánh sự phù hợp về
mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con người với điều kiện vật chất của
sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá nhân người lao động với lợi ích của xã
hội.
Tuy nhiên, khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý chỉ mang ý
nghĩa tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy
đủ và việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Đối với
những nước phát triển, sản xuất phát triển nhưng nguồn lao động tăng chậm dẫn
đến thiếu sức lao động. Ngược lại, đối với những nước đang và kém phát triển,
khả năng mở rộng sản xuất có hạn, nguồn lao động thường dồi dào, dẫn đến một
bộ phận muốn làm việc, nhưng không có việc để làm, nghĩa là thất nghiệp.
Thất nghiệp (không có việc làm) là phạm trù liên quan đến mối quan hệ
giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, nó nảy sinh chủ yếu
bởi mối quan hệ lợi ích kinh tế, trong đó những người nắm giữ trong tay các



12
điều kiện vật chất của lao động vì lợi ích của mình hoặc vì bị giới hạn bởi khả
năng tổ chức và pháp lý mà buộc phải loại bỏ một bộ phận những người có
khả năng lao động ra khỏi quá trình sản xuất xã hội, đặt họ và gia đình phải
đối mặt trước những giới hạn chật hẹp và nguy cơ bị mất những nguồn nuôi
dưỡng chủ yếu. Ở Việt Nam tuy chưa có văn bản pháp quy về thất nghiệp
cũng như các vấn đề liên quan đến thất nghiệp, nhưng có nhiều công trình
nghiên cứu nhất định và bước đầu khẳng định: Thất nghiệp là những người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang
không có việc làm, đang đi tìm việc làm hiện chưa có việc làm và đang tích
cực tìm việc làm. Theo khái niệm này, ở nước ta những người trong độ tuổi
lao động (nữ từ 15-55 tuổi, nam từ 15-60 tuổi) không có việc làm hoặc đang
tìm việc làm là những người thất nghiệp.
Tuy nhiên những người trong độ tuổi lao động nhưng thuộc các đối
tượng sau đây không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực
lượng lao động:
Người đang đi học; người làm công việc nội trợ cho gia đình mình; người
không có khả năng lao động; người không có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại, thì trong nền kinh tế thị
trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan gắn liền với một tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên xác định. Người ta chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp tới
mức thất nghiệp tự nhiên, chứ không loại bỏ được nó. Tỷ lệ thất nghiệp là một
trong các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình trạng của một nền kinh tế, là
mối quan tâm của mọi Chính phủ và của mọi thành viên trong xã hội.
1.1.2. Những yếu tố tác động đến giải quyết việc làm trong nền kinh
tế thị trường
1.1.2.1. Máy móc thiết bị là tư liệu sản xuất - yếu tố cơ bản của quá
trình sản xuất



13
Theo C.Mác thì vấn đề chủ yếu ở đây là vấn đề giới hạn kinh tế hay
điều kiện kinh tế của việc áp dụng máy móc. Máy móc nâng cao năng suất lao
động, hay nói cách khác, nó làm giảm số lượng lao động xã hội cần thiết hao
phí vào việc sản xuất một đơn vị sản phẩm; tuy nhiên, máy móc lại đòi hỏi
phải hao phí lao động để tạo ra nó. Do đó, nếu lao động do máy móc tiết kiệm
được bằng với số lao động cần thiết để sản xuất máy móc đó, thì như Mác
nói: trong trường hợp này, lao động chỉ đổi chỗ thôi, nghĩa là tổng số lao động
cần thiết để sản xuất một hàng hóa không giảm bớt, hay năng suất lao động
không tăng lên. Trong điều kiện đó, việc áp dụng máy móc có sự khác nhau
về mặt kinh tế: lao động được giảm bớt trong phạm vi này (ở nơi mà máy
móc là tư liệu sản xuất) nhưng lại bị chuyển sang phạm vi khác (ở nơi sản
xuất máy móc).
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay được coi là sự nghiệp của toàn dân, của
mọi thành phần kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001 - 2010 mà
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua: "Chiến lược đẩy mạnh
CNH, HĐH theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp" [6, tr. 148].
Đối với lĩnh vực lao động - việc làm, sự phát triển của khoa học công
nghệ mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng
đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm các nước phát triển
cho thấy, việc phổ biến các phương tiện tự động hóa sẽ làm cho những nước
có sức lao động rẻ và dư thừa (như Việt Nam) bị mất dần ưu thế. Xu hướng
hiện nay là tăng lao động khoa học kỹ thuật, trí thức, phi sản xuất trực tiếp và
giảm lao động giản đơn, kỹ năng thấp. Như vậy trong xã hội hiện đại, chất
lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc
làm. Các quốc gia không lường trước được hiện tượng này của sự phát triển
khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân



14
lực. Hiện nay, ở Mỹ vẫn còn thừa khoảng 10 triệu chỗ làm việc và chỉ có hơn
2 triệu người thất nghiệp toàn phần nhưng không thể bố trí được việc làm vì
không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật [7, tr. 18]. Vì vậy, xu hướng chắc chắn
xảy ra khi phát triển khoa học và công nghệ là sự gia tăng thất nghiệp của đội
ngũ công nhân không lành nghề. Ngay ở Việt nam, nhiều doanh nghiệp, đặc
biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp sử dụng công
nghệ tiên tiến không tuyển dụng đủ lao động vì tỷ lệ lao động được qua đào
tạo còn thấp, hoặc đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Thực tế
cho thấy trang bị máy móc thiết bị càng hiện đại thì nguy cơ thất nghiệp càng
cao. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung là giải pháp cơ
bản để hạn chế thất nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này, trước hết cần có
những biện pháp nhằm tăng cường năng lực thể chế của các cơ quan hoạt
động trong lĩnh vực lao động - việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình
việc làm quốc gia thông qua nhiều hoạt động: Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng đầu tư cơ sở hạ tầng
và dịch vụ xã hội…
1.1.2.2. Dân số và vấn đề tỷ lệ tăng dân số hợp lý cũng là điều kiện để
giải quyết việc làm cho người lao động
Khi nhắc đến dân số, người ta thường nghĩ đến việc ngăn ngừa nhịp độ
tăng sinh sản, quan tâm đến giảm tỷ lệ sinh đến mức thấp nhất. Trên thực tế
không hẳn như vậy. Chẳng hạn, trên một số vùng miền núi xa xôi có những
dân tộc, số dân hiện nay chỉ còn tính hàng trăm. Như vậy, ở những vùng này
chúng ta có đặt vấn đề giảm tỷ lệ sinh đẻ không? Sự thực dân số là một vấn
đề nằm trong yếu tố tự nhiên nhưng lại liên quan rất lớn đến quá trình phát
triển xã hội. Nó là quá trình thường xuyên, liên tục tái sản xuất ra con người
và cuộc sống con người với tính cách là những cá thể xã hội mang những nhu
cầu và đòi hỏi vốn có, là quá trình trân trọng, giữ gìn và nâng cao nòi giống.



15
Vấn đề đặt ra ở đây là cần hướng tới việc bảo tồn tính cân bằng, ổn định bên
trong của sự phát triển dân số. Tính ổn định đó chịu sự chi phối của hàng loạt
điều kiện, không loại trừ điều kiện nào: trình độ phát triển sản xuất, mức độ
tăng trưởng kinh tế, tính chất các quan hệ xã hội, pháp luật, chuẩn mực đạo
đức truyền thống, định hướng giá trị, các yếu tố văn hóa v.v…
Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai
tăng càng nhanh, đồng thời nó sẽ tạo áp lực lớn đến giải quyết việc làm dưới
nhiều khía cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải chi tiêu
nhiều hơn cho các mục đích tiêu dùng, ít đầu tư cho sản xuất, phát triển, nhất
là cho phát triển nguồn nhân lực. Quy mô nguồn lao động lớn, cơ hội việc làm
ở nông thôn ít, dẫn đến tình trạng di dân từ nông thôn ra đô thị vì mục đích mưu
sinh kiếm sống. Thành phần phổ biến thường là lao động trẻ, khỏe có vốn kiến
thức khá nhất ở khu vực nông thôn. Hậu quả là nông thôn bị mất đi nguồn lao
động có sức khỏe, có khả năng tiếp thu những tri thức mới cần thiết cho sự
nghiệp CNH, HĐH nông thôn. Nhưng tại đô thị, bộ phận lao động này cũng
khó cạnh tranh để có thể có việc làm trong khu vực kinh tế hiện đại mà chỉ chủ
yếu gia nhập khu vực phi kết cấu. Việc sử dụng nguồn nhân lực bị lãng phí. Đó
là chưa kể đến số di dân mùa vụ, hình thành các chợ lao động, làm phức tạp
cho công tác quản lý đô thị, làm gia tăng tệ nạn xã hội.
Gia tăng dân số nhanh khiến cho việc phân bố dân cư bất hợp lý, không
gắn lao động với đất đai, tài nguyên, đối tượng lao động, với cơ sở vật chất,
kỹ thuật khiến cho tạo việc làm khó khăn, thất nghiệp và thiếu việc làm cao.
Dân số tăng nhanh sẽ làm cho đất nước khó khăn trong việc nâng cao
chất lượng nguồn lao động. Đầu tư vào lớp trẻ ít, chất lượng trong tương lai
của nguồn lao động thấp. Khó có khả năng đầu tư nâng cao năng lực và chất
lượng của những người trong tuổi lao động. Kinh nghiệm và tri thức của người lao



16
động cao tuổi cũng khó được phát huy bởi phải nhường chỗ cho lớp trẻ. Đất nước
luôn ở tình trạng các giải pháp tình thế để giải quyết lao động dôi dư.
1.1.2.3. Thị trường hàng hóa sức lao động
Thị trường hàng hóa sức lao động (gọi tắt là thị trường lao động) là toàn
bộ các quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị
trường lao động, mức cung, cầu về lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động
và sự thay đổi mức tiền công cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về lao động. Đối
tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những người cần thuê và đang sử
lao động và những người có nhu cầu đi làm thuê hoặc đang làm việc cho
người khác bằng sức lao động của mình để được nhận tiền công.
Khi nghiên cứu thị trường lao động, dưới góc độ việc làm thì nội dung
quyết định nhất là quan hệ cung - cầu về lao động. Giải quyết việc làm hay
giảm thất nghiệp, trong cơ chế thị trường, về thực chất là giải quyết mối quan
hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường lao động.
Trước hết ta phải làm rõ khái niệm cung về lao động và cầu về lao động.
Cung về lao động:
Cung lao động là khối lượng lao động sẵn sàng được sử dụng, đó là
toàn bộ khối lượng thời gian mà những người lao động có khả năng và sẵn
sàng làm việc với những mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất
định. Cung về lao động phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Số người tham gia lực lượng lao động xã hội.
- Mức tiền công thực tế được nhận.
- Mối quan hệ lợi ích giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi.
- Mức sống của dân cư.
- Trình độ phát triển, phong tục tập quán…
Cầu về sức lao động (gọi tắt là cầu về lao động)



17
Cầu về lao động là số lượng sức lao động mà các chủ doanh nghiệp có
khả năng thuê và sẵn sàng thuê với các mức tiền công khác nhau trong một
thời gian nhất định.
Cũng như cung, cầu về lao động cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố:
- Cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
- Tiền công lao động.
- Các yếu tố về kỹ thuật, công nghệ.
- Mức độ ưu tiên đầu tư theo các ngành, vùng…
Quan hệ cung cầu về lao động chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong
đó quan trọng nhất là các yếu tố sau:
- Khả năng phát triển thị trường để thu hút lao động (mở rộng cầu về
lao động). Yếu tố này phụ thuộc vào mô hình và cơ cấu kinh tế: phát triển các
ngành, đặc biệt là ngành sử dụng nhiều lao động; phát triển các vùng, trước
hết là các vùng nông thôn nhiều tiềm năng thu hút được lao động; phát triển
các thành phần kinh tế và sự đan xen giữa các thành phần kinh tế; phát triển
đa dạng các hình thức, mô hình sản xuất - kinh doanh và mối liên kết giữa
chúng; mở rộng hợp tác kinh tế (trong nước và ngoài nước …).
- Sự phát triển của nguồn lao động: sự cung ứng sức lao động vào thị trường
lao động hàng năm; sự tồn đọng của lao động chưa có việc làm (thất nghiệp) trong
một thời điểm nhất định; mức độ căng thẳng hay sức ép về việc làm…
- Sự phù hợp giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế (việc làm) về
không gian và thời gian; vấn đề chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu
thị trường lao động.
- Khả năng tổ chức thị trường lao động, đặc biệt là phát triển các trung
tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm…
Trong thị trường lao động, quan hệ cung - cầu về lao động được điều
tiết phù hợp với quy luật giá trị. Để hiểu thực chất của cơ chế điều chỉnh quan



18
hệ cung cầu về lao động trên thị trường, chúng ta phải xuất phát từ một phạm
trù rất cơ bản là hàng hóa sức lao động. Trong nền kinh tế thị trường, có quan
hệ thuê mướn lao động trên thị trường lao động, thì sức lao động ở mức độ
nhất định còn là hàng hóa. Sức lao động là hàng hóa nhưng không phải tất cả
các mối quan hệ của con người cũng trở thành hàng hóa, chỉ riêng lĩnh vực
thuê mướn, sử dụng sức lao động và trả công mới mang quan hệ hàng hóa tiền tệ và chỉ trên mặt đó mà thôi.
Ở nước ta hiện nay, quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường biểu
hiện như sau:
Một là, trên phạm vi cả nước, cung về lao động lớn hơn cầu về lao động và
tình trạng này tiếp tục kéo dài trong những năm tới dẫn đến sức ép rất lớn về việc
làm. ở đây, chủ yếu xét đến khả năng phát triển việc làm còn rất hạn chế, mặc dù
tiềm năng còn rất lớn. Bởi vì chúng ta thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng, chiến lược
lựa chọn công nghệ thích hợp chưa được xác định rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang
trong quá trình chuyển dịch, nhưng diễn ra chậm chạp.
Hai là, cung lớn hơn cầu về lao động còn được xem xét về mặt tăng
cung lao động với tỷ lệ còn cao, hàng năm lao động tăng 3,2% - 3,5%, dẫn
đến mỗi năm có khoảng 1,1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Đến năm
2013 tỷ lệ tăng tự nhiên nguồn lao động vẫn trên 2,8%. Số này tham gia vào
thị trường lao động ngày một đông và với khả năng tự giải quyết việc làm rất
khác nhau. Song họ có điểm chung rất cơ bản là thường không có nghề. Vì
vậy, công tác dạy nghề và phổ cập nghề trở thành vấn đề cấp bách và có tính
chiến lược, là khâu then chốt nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của lao
động trên thị trường.
Ba là, lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của cả nước, nếu
chỉ làm thuần nông, tự cung, tự cấp, lao động thiếu hoặc không có việc làm
lên đến 30%. Số này sẽ tự do di chuyển ra thành thị hoặc khu công nghiệp tập



19
trung để tìm kiếm việc làm. Lao động tự do di chuyển từ nông thôn ra tìm
kiếm việc làm ở thành thị và các vùng khác sẽ làm cho cung về lao động trên
thị trường lao động càng lớn.
Bốn là, quan hệ cung cầu về lao động còn căng thẳng về mặt kết cấu,
dẫn đến tình trạng "thất nghiệp kết cấu". Điều này thể hiện ở chỗ một số
ngành tiềm năng còn lớn, có khả năng thu hút được nhiều lao động, nhưng
chưa tạo ra được những điều kiện để biến khả năng thành hiện thực (về vốn,
hạ tầng cơ sở, kỹ thuật, công nghệ, thị trường tiêu thụ…) như lâm nghiệp, ngư
nghiệp, dịch vụ và du lịch…ở một số vùng miền núi, ven biển còn nhiều lao
động, nhưng khả năng di dân và di chuyển lao động đến hạn chế.
Trong khi đang có xu hướng đẩy lao động ra ở một số lĩnh vực, đồng
thời lại xuất hiện một số lĩnh vực và hình thức khác đang có khả năng thu hút
thêm lao động như hộ kinh doanh cá thể, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nhưng chính sách khuyến khích chưa thỏa đáng. Đặc biệt là
thiếu một đội ngũ lao động trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực
áp dụng công nghệ mới hoặc trong các khu kinh tế, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài…
1.1.3. Quan điểm của của Đảng và chính sách của Nhà nước về việc
làm cho người lao động
Quan điểm của Đảng: Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, tình hình
kinh tế - xã hội nước ta còn rất nhiều khó khăn. Đất nước vẫn chưa thoát khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội; tình hình lao động, việc làm trở thành vấn
đề xã hội gay gắt và bức xúc, là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, của
toàn xã hội và mọi người.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới
và bằng hệ thống các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi và nhân tố mới



20
đa dạng để các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát triển, tạo nhiều
việc làm mới, đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người lao
động, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Nhận thức, quan niệm và chủ trương về tạo việc làm trong nền kinh tế
theo cơ chế thị trường đã được thay đổi theo tư duy mới - Bước ngoặt trong
đổi mới về việc làm ở Việt Nam. Quan niệm về việc làm đã được ghi rõ ở
điều 9 chương II của Bộ Luật Lao động sửa đổi năm 2012, khái niệm việc làm
được xác định là: "Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không
bị pháp luật cấm". Chủ trương về tạo việc làm đã được chỉ rõ trong Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng như sau: "Khuyến khích
mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề,
tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành
nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp
tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các
địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế
đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và
thiếu việc làm ở nông thôn "[5, tr. 114-115].
Đối với người lao động: cơ hội lựa chọn việc làm ngày càng được mở
rộng. Từ chỗ thụ động, trông chờ vào sự bố trí công việc của Nhà nước,
người lao động trở nên năng động hơn, chủ động tự tạo việc làm. Các quan
hệ lao động - việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy
năng lực của mình, được giải phóng khỏi khuôn phép của cơ chế cũ và tự
chủ hơn trong tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung - cầu lao động
trên thị trường.
Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp pháp, nên
đẩy mạnh đầu tư tạo việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và
khuyến khích phát triển, mở ra khả năng về tăng trưởng việc làm.



21
Đối với Nhà nước, vai trò trong giải quyết việc làm đã thay đổi cơ bản.
Thay vì bao cấp trong giải quyết việc làm, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra
cơ chế, chính sách thông thoáng, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp, tạo hành lang
pháp lý, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và tạo điều kiện vật chất đảm
bảo cho mọi người được tự do đầu tư phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, tự
do hành nghề, hợp tác và thuê mướn lao động. Cơ hội việc làm được tăng lên
và ít bị ràng buộc bởi các nguyên tắc hành chính và ý chí chủ quan của Nhà
nước. Từng bước hình thành cơ chế phân bố lao động theo các quy luật của
thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất khẩu lao động…
Giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp là mục tiêu hàng đầu của Đảng
và Nhà nước ta. Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm là chương trình
trọng điểm của Nhà nước. Đảng ta luôn coi: "Giải quyết việc làm là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm
lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của
nhân dân "[6, tr. 210].
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là
Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động
tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có
thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp
thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho
nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho
cung và cầu phù hợp với nhau.
Theo Bộ luật Lao động, Nhà nước đã chuyển hẳn từ cơ chế quản lý
hành chính về lao động sang cơ chế thị trường. Việc triển khai Bộ luật Lao
động đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước và ổn định xã
hội trong thời gian qua. Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật Đầu
tư nước ngoài, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Khuyến khích đầu tư



×