Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.26 KB, 59 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu.
Tạo việc làm cho người lao động luôn là một vấn đề hết sức cấp bách,
được các cấp chính quyền quan tâm rất nhiều. Có rất nhiều chương trình hỗ
trợ tạo điều kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm, số người có việc làm
ngày một tăng lên tương ứng với nó là tỷ lệ thất nghiệp giảm. Mỗi địa phương
khác nhau có những đặc điểm khác nhau ảnh hưởng đến tạo việc làm cho
người lao động. Do đó, khi nghiên cứu địa phương nào đó cần căn cứ vào tình
hình cụ thể ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động để đưa ra biện
pháp và hiệu quả phù hợp.
Huyện Trực Ninh nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung đã và đang đẩy
mạnh chương trình XĐGN và tạo việc làm, chương trình tạo thêm được nhiều
chỗ làm việc mới và giảm đáng kể hộ nghèo. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn
còn cao, thời gian làm việc ở nông thôn thấp, công tác XĐGN và tạo việc làm
chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Xuất phát từ thực tế đó, trong thời gian thực tập ở Phòng Nội vụ Lao
động TBXH, với chuyên ngành theo học là kinh tế lao động em đã chọn đề
tài: “Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định”.
Qua đây em cũng xin đề xuất một số giải pháp, kiến nghị về vấn đề tạo việc
làm cho người lao động để nâng cao hiệu quả tạo việc làm ở huyện Trực
Ninh.
Chuyên đề gồm 3 phần:
+ Phần 1: Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
+ Phần 2: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện
Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
+ Phần 3: Giải pháp và kiến nghị về tạo việc làm cho người lao động ở
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần 1: Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã


hội. Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi và chỉ khi họ
có điều kiện để sử dụng sức lao động của họ để tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho xã hội. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là
quá trình người lao động làm việc hay nói cách khác là khi họ có được việc
làm.
1. Khái niệm việc làm và phân loại việc làm.
a) Việc làm.
Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và
những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức
lao động đó.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí
ban đầu (C) như máy móc, nhà xưởng, vật liệu… và chi phí về sức lao động
(V). Quan hệ kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ công nghệ của
sản xuất. Có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc sử dụng nhiều sức lao
động, tức là khi công nghệ thay đổi thì quan hệ tỷ lệ giữa C và V cũng thay
đổi theo. Trong điều kiện kỹ thuật thủ công thì một đơn vị C có thể kết hợp
với nhiều V, ngược lại trong điều kiện tự động hóa sản xuất theo dây truyền
thì đòi hỏi ít V nhưng nhiều C (công nghệ sử dụng nhiều vốn). Vì vậy tùy
từng điều kiện cụ thể để lựa chọn phương án phù hợp để tạo việc làm cho
người lao động.
Theo điều 13, chương II (Việc làm) Bộ Luật lao động của nước
CHXHCN Việt Nam có ghi rõ: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn
hai điều kiện:
- Hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho
các thành viên trong gia đình (đó là tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra
thu nhập của việc làm.

- Hoạt động đó không được pháp luật cấm (đó là tính pháp lý của việc
làm). Hoạt động có ích không giới hạn về hành vi, ngành nghề và hoàn toàn
phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay
được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm, hoặc tạo ra việc
làm cho người khác trong khuân khổ pháp luật, không còn bị phân biệt đối sử
trong các thành phần kinh tế.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ nhau, là điều kiện cần và đủ của
mọi hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu hoạt động đó tạo ra thu nhập
nhưng lại vi phạm pháp luật cũng không được coi là việc làm. Một hoạt động
dù là hợp pháp và có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa
nhận là việc làm - chẳng hạn như nội trợ của phụ nữ cho chính gia đình mình.
Tuy nhiên, khái niệm trên còn có những hạn chế:
- Tính hợp pháp của hoạt động được thừa nhận là việc làm tùy thuộc vào
luật pháp và thể chế của mỗi quốc gia và cũng có thể thay đổi theo từng thời
kỳ. Có hoạt động được thừa nhận là việc làm ở nước này nhưng lại không
được thừa nhận là việc làm ở nước khác (Mại dâm của phụ nữ được thừa nhận
là việc làm ở Thái Lan, Philippines. Nhưng nghề này không được thừa nhận ở
Việt Nam).
- Không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình, cho xã hội
đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần giảm chi tiêu cho gia đình thay vì
thuê người làm công (công việc nội trợ).
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng đưa ra khái niệm: Việc làm là
những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
b) Phân loại việc làm.
Theo khái niệm việc làm của Bộ Luật lao động của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, việc làm thể hiện dưới các dạng:
- Công việc mà người lao động nhận được tiền lương, tiền công bằng

tiền mặt hoặc hiện vật.
- Công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân.
- Công việc mà người lao động làm cho hộ gia đình nhưng không được
trả thù lao.
Theo mức độ sử dụng lao động, việc làm chia ra:
Việc làm đầy đủ: Nghĩa là mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu
lao động đều có việc làm nếu chỉ xét trên phương diện sử dụng hết thời gian
lao động (Tức là có sự phù hợp giữa C và V).
Việc làm hợp lý: Là việc làm được tạo ra trong trường hợp sự phù hợp
của mối quan hệ này cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản
xuất và sức lao động.
Việc làm cũng có thể chia ra người có việc làm, người không có việc làm
(thất nghiệp), người có việc làm tạm thời, việc làm ổn định.
Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình
là những người làm việc ít hơn mức mà họ mong muốn. Thiếu việc làm được
biểu hiện dưới hai dạng: hoặc là người lao động không có đủ việc làm theo
thời gian quy định trong tuần, hoặc là những việc làm có thu nhập quá thấp
không đảm bảo cuộc sống do đó họ muốn làm thêm để có thu nhập.
Thất nghiệp được hiểu là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động
khỏi tư liệu sản xuất.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Người có việc làm gồm những người làm việc trong khoảng thời gian
xác định của cuộc điều tra kể cả lao động làm nghề giúp việc gia đình được
trả công, hoặc tạm thời nghỉ việc do ốm đau, tai nạn, nghỉ lễ, nghỉ phép hoặc
tạm thời nghỉ việc do thời tiết xấu.
Người thất nghiệp gồm những người trong khoảng thời gian xác định
của cuộc điều tra không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm
và có nhu cầu được làm việc.
Người thiếu việc làm gồm những người trong khoảng thời gian xác định

của cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định trong tuần,
trong tháng hoặc trong năm và có nhu cầu làm thêm giờ; hoặc là những người
có tổng số giờ làm việc bằng số giờ theo quy định trong tuần, tháng, năm
nhưng có thu nhập quá thấp nên muốn làm thêm để có thu nhập.
2. Nội dung tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để
tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng
hóa và dịch vụ theo yêu cầu của thị trường.
Hay tạo việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra số lượng, chất
lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện
kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu của dân số. Chất lượng
lao động phụ thuộc vào kết quả đào tạo, phát triển của giáo dục, y tế. Ngoài ra
vấn đề môi trường cho sự kết hợp các yếu tố này hết sức quan trọng. Nó bao
gồm các chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động trong công việc.
Thực tế thị trường lao động chỉ có thể được thi hành khi người lao động với
người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao
động. Do vậy vấn đề tạo việc làm cho người lao động phải được nhìn nhận ở
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời không thể thiếu vai
trò của Nhà nước. Đó chính là cơ chế ba bên của tạo việc làm, cơ chế này đòi
hỏi sự tham gia tích cực của người lao động, Nhà nước và người sử dụng lao
động.
Về phía người lao động, muốn tìm được việc làm phù hợp có thu nhập
đương nhiên phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư cho phát triển sức lao động
của mình hoặc dựa vào các nguồn tài trợ (từ gia đình, từ các tổ chức xã hội )
để tham gia đào tạo, phát triển, nắm vững một nghề nhất định – điều kiện cần
thiết cho người lao động tham gia vào thị trường lao động.
Về phía Nhà nước, tạo ra hành lang pháp lý, ban hành các luật lệ, chính

sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, tạo
môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư lieu sản xuất là bộ phận cấu
thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động.
Về phía người sử dụng lao động gồm các doanh nghiệp trong nước thuộc
các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ
chức kinh tế xã hội cần thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra để không chỉ
tạo chỗ làm việc mà còn duy trì và tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động.
Đó cũng chính là duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó
người sử dụng lao động cần có vốn để mua hoặc thuê nhà xưởng (nơi làm
việc), công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liêu, mua sức lao động để sản
xuất ra sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa để mở rộng quy mô sản xuất chủ sử dụng
lao động không chỉ có vốn mà cần kinh nghiệm quản lý, biết vận dụng linh
hoạt chính sách của Nhà nước, quản lý lao động khoa học và nghệ thuật .
Tóm lại, cơ chế tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi sự tham gia tích
cực cả ba phía : Nhà nước, người sử dụng lao động và của chính bản thân
những người lao động. Sao cho cơ hội việc làm và mong muốn nguyện vọng
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị trường đúng lúc, đúng
chỗ.
Vì vậy, khi nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý đến vấn đề đầu tư của Nhà
nước cũng như tư nhân là các khu vực có thể tạo cơ hội việc làm cho người
lao động. Vấn đề là đầu tư chủ yếu vào khu vực thành thị, khu vực công
nghiệp vì thường ở đó tỷ lệ lợi nhuận cao, thuận lợi cho sản xuất. Tuy nhiên,
có thể sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này lên, bỏ qua khu vực nông
thôn.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
a) Điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ.
Cầu lao động bắt nguồn từ cầu sản xuất, phát triển kinh tế. Sản xuất càng
phát triển, quy mô ngày càng mở rộng nhu cầu lao động ngày càng lớn. Muốn

mở rộng sản xuất phát triển kinh tế phải dựa vào các tiền đề vật chất. Do đó
tiền đề vật chất là nhân tố tiên quyết trước hết ảnh hưởng đến tạo việc làm.
Điều kiện tự nhiên của một vùng là có sẵn ngoài ý muốn chủ quan của
con người. Chẳng hạn độ màu mỡ tự nhiên của đất đai, diện tích canh tác bình
quân. Điều kiện khí hậu, thủy văn thuận lợi hay bất lợi cho phát triển các loại
cây trồng, vật nuôi. Trữ lượng hầm mỏ, tài nguyên rừng… Trước hết đất đai
là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Thực tế nó tham gia
vào mọi quá trình sản xuất nhưng còn tùy thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai
trò củ đất là khác nhau.
Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ tham gia là yếu tố thông thường
mà là yếu tố tích cực không thể thay thế được .
Tuy nhiên mỗi vùng, mỗi địa phương lại có giới hạn khác nhau về diện
tích đất, địa hình, trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng đó. Hiện
nay với diện tích đất có hạn, dân số đông, diện tích đất bình quân trên đầu
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người thấp nhất thì vấn đề sử dụng ruộng đất đạt hiệu quả cao là rất khó khăn.
Vì vậy, khai thác chiều sâu của ruộng đất để mỗi đơn vị ruộng đất ngày càng
cho ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu về nông lâm thủy sản cho con người.
Nếu đất được sử dụng đúng mục đính hợp lý thì chất lượng của đất ngày càng
tốt hơn. Do đó để tạo nhiều việc làm cho người lao động, nhất là lao động
nông thôn thì vấn đề chú trọng công tác vừa chăm sóc đất, vừa kết hợp trồng
lúa, hoa màu sen kẽ là hết sức cần thiết, tránh tình trạng nông nhàn cho người
nông dân.
Trong công nhiệp, đất đai thường được sử dụng trong xây dựng nhà
máy, công ty, xí nghiệp. Do đó đất cũng trở thành tư liệu sản xuất hàng đầu.
Tuy vậy vấn đề đầu tư cho công nghiệp đang hết sức được chú trọng, phần
lớn lao động được thu hút vào làm việc trong lĩnh vực này. Cơ cấu lao động
đang có xu hướng chuyển mạnh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nên các
cấp các ngành đều tạo điều kiện cho sự phát triển, xây dựng quy mô các

doanh nghiệp công nghiệp. Làm tốt công tác này cũng có nghĩa là làm giảm tỷ
lệ thất nghiệp như hiện nay.
Như vậy, điều kiện tự nhiên nói chung và đất đai nói riêng là vô cùng
quan trọng trong sản xuất.Vì thế muốn tạo được việc làm cho người lao động
thì phải xem xét vấn đề này, đánh giá xem việc sử dụng đất có hợp lý không,
đất nào dùng cho nông nghiệp, đất nào dùng cho công nghiệp là hợp lý nhất.
Điều kiện thứ hai chúng ta đề cập đến là vốn. Vốn có vai trò rất quan
trọng , không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Vốn được thể hiện bằng
tiền của tư liệu lao động được sử dụng vào trong sản xuất. Trong nông
nghiệp, sự tác động của vốn tới hiệu quả kính tế của nó không phải là bằng
cách trực tiếp mà thông qua cây trồng vật nuôi, ngoài ra còn biểu hiện ở yếu
tố kỹ thuật. Cơ cấu chất lượng vốn phải phù hợp với từng loại đối tượng sản
xuất, từng loại đất đai. Mặt khác nhiều khi do thời gian thu hồi vốn chậm nên
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cần phải có khối lượng vốn lưu động tránh tình trạng vốn bị ứ đọng. Vốn
trong nông nghiệp tăng cao thì cơ hội tạo việc làm cho người lao động trong
sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều, họ có thể đầu tư mở rộng sản xuất, thu
hút nhiều lao động tham gia. Trong công nghiệp cũng vậy, vốn có vai trò
quan trọng, là yếu tố tất thiết để ngành phát triển. Vốn trong công nghiệp
được sử dụng rất nhiều, ngoài xây dựng nhà xưởng còn phải mua sắm thiết bị
nguyên vật liệu, máy móc, vốn để dự trữ cho quay vòng. Càng nhiều vốn để
đầu tư, quy mô sản xuất ngày càng được nâng cao và số lượng lao động thu
hút làm việc ngày càng nhiều hơn.
Do vậy vốn vô cùng quan trọng trong vấn đề tạo việc làm cho người lao
động vốn có thể cho phép mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao hiệu quả
và có thể thu hút lao động, tạo cơ hội việc làm cho người lao động.
b) Nhân tố thuộc về sức lao động.
Cơ chế tạo việc làm đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của cả ba phía: Người
chủ sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Do đó, nhân tố ảnh

hưởng quyết định đến tạo việc làm cho người lao động là sức lao động trên cả
hai phương diện là số lượng và chất lượng. Nhân tố này bao gồm những đòi
hỏi mà người lao động cần có để đáp ứng được những yêu cầu của người sử
dụng lao động.
Trước hết cần hiếu sức lao động là khả năng trí lực, thế lực của con
người. Đó là tri thức, sức khỏe, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động.
Trong bối cảnh của một nước đang phát triển như Việt Nam, cung về
số lượng lao động không phải là vấn đề đáng bàn vì đang dư cung, quan trọng
hơn là vấn đề về sức lao động. Vì thế, người lao động muốn kiếm được việc
làm có thu nhập cao, phù hợp với năng lực, trình độ, cần phải có các thông tin
về thị trường lao động, tức là cần đầu tư vào vốn con người cả về thể lực và
trí lực. Do đó, thông tin thị trường lao động giúp cho người lao động lựa chọn
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
được ngành nghề mà thị trường lao động đang cần và sẽ cần trong tương lai
để thực hiện đầu tư vào vốn con người có hiệu quả. Mỗi người lao động cũng
cần phụ thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mình, tranh thủ các
nguồn tài trợ để tham gia giáo dục, đào tạo, phát triển sức lao động nhằm
nâng cao nhận thức, kiến thức và kinh nghiệm. Đó cũng chính là điều kiện
cần thiết để duy trì việc làm, tạo cơ hội việc làm có thu nhập và nâng cao vị
thế của bản thân mỗi người lao động.
c) Cơ chế, chính sách kinh tế xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm.
Cơ chế chính sách của chính phủ, chính quyền địa phương, các quy định
của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố rất quan trọng tạo việc làm cho người
lao động. Đó chính là môi trường kinh tế và môi trường xã hội ảnh hưởng đến
tạo việc làm cho người lao động.
Môi trường kinh tế thể hiện sự hoạt động của thị trường hàng hóa đang
diễn ra trong khu vực, giá trị kinh tế của vùng, sự hoạt động của các ngành
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá
những yếu tố này để tìm ra xu hướng, tiềm năng phát triển kinh tế của vùng

cho đầu tư phát triển sản xuất, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Yếu tố hết sức quan trọng đó là môi trường xã hội. Những cơ chế, chính
sách, sự quan tâm của các cấp, các ngành đến vấn đề tạo việc làm cho người
lao động. Đó là các chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, ra luật đầu tư
thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời phải
làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo cho người dân, phổ biến tốt
các vấn đề xã hội khác đang được quan tâm… thì mới có thể làm tốt công tác
tạo việc làm cho người lao động. Yếu tố tâm lý cũng hết sức quan trọng, liên
quan tới công việc của người lao động, đặc biệt là yếu tố tinh thần cho người
lao động. Vì vậy người sử dụng lao động cần hết sức chú ý tới tâm lý người
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lao động, tạo cảm giác mong muốn được làm việc, hăng say làm việc cho
người lao động.
Có thể nói nhóm nhân tố này rất đa dạng như các chính sách kinh tế vĩ
mô hay vi mô và có thể theo ngành, lĩnh vực, vùng… ảnh hưởng đến tạo việc
làm cho người lao động. Chẳng hạn, chính sách đổi mới trên tầm vĩ mô
chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần… đã làm thay đổi cơ
cấu kinh tế. Do đó cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực và theo
vùng thay đổi không chỉ về số lượng mà đặc biệt là về chất lượng lao động.
Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thành
phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân cũng được khuyến khích phát triển đúng
hướng.
Như vậy, vấn đề tạo việc làm cho người lao động chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố nhưng chủ yếu nhất vẫn là những yếu tố được nêu ở trên. Các
yếu tố này có sự tác động qua lại với nhau. Để tạo được việc làm cần có tư
liệu sản xuất, nhưng có tư liệu sản xuất rồi cần phải có sức lao động phù hợp
với trình độ chuyên môn. Hai yếu tố này là điều kiện cần, yếu tố môi trường

là điều kiện đủ tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề tạo việc làm.
4. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động được coi là vấn đề búc xúc trong mọi
thời đại. Bởi nếu người lao động bị thất nghiệp, thiếu việc làm thì đó là biểu
hiện của việc không sử dụng và khai thác hết nguồn lực con người vốn có
trong xã hội, là sự lãng phí nguồn lực của xã hội và mất đi một phần thu nhập
của người dân. Với xã hội, thất nghiệp làm giảm thu nhập và mất khoản chi
phí trợ cấp thất nghiệp, đời sống kinh tế xã hội giảm. Với người thất nghiệp
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
họ phải làm bất cứ việc gì miễn là kiếm được tiền trang trải cuộc sống thậm
chí vi phạm pháp luật. Nhất là ở khu vực thành thị, tỷ lệ thất nghiệp ngày
càng cao dẫn đến tệ nạn xã hội ngày càng nhiều. Còn đối với những người
đang có việc làm họ sẽ bị sức ép về kinh tế, làm việc ở mức tiền công thấp,
ngày làm việc kéo dài nhưng lại luôn bị đe dọa mất việc làm. Thất nghiệp còn
dẫn đến thiệt hại cho nền kinh tế, đem lại khó khăn cho gia đình và xã hội. Từ
những khó khăn về kinh tế gây tác động và ảnh hưởng đến lĩnh vực xã hội
dấn tới hiện tượng tiêu cực xã hội. Do đó, tạo việc làm có ý nghĩa vô cùng to
lớn đối với sự phát triển của một nền kinh tế và đối với xã hội. Tạo việc làm
cho người lao động chính là khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con
người, giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất, là yêu cầu của sự phát triển
nền kinh tế.
Ngày nay, tạo việc làm có ý nghĩa sống còn đối với một nền kinh tế, là
biện pháp hữu hiệu nhất để đẩy lùi nạn thất nghiệp bởi thất nghiệp gắn chặt
với nghèo đói và tệ nạn xã hội.
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ghi nhận: Tạo việc
làm cho người lao động đáp ứng quyền lợi của người lao động – quyền có việc
làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong tuổi lao động, có khả năng lao
động.
Tạo việc làm cho người lao động cũng là công cụ quan trọng của Đảng,

Nhà nước nhằm thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang đặt ra với
con người, kích thích người lao động sáng tạo và đem lại cuộc sống tốt đẹp
cho họ, đảm bảo công bằng xã hội. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập,
tạo cho mọi người có điều kiện như nhau đối với việc chăm sóc sức khỏe,
phát triển giáo dục, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Với trình độ tri thức,
hiểu biết xã hội, người lao động sẽ khắc phục được hạn chế của mình và phát
huy năng lực lao động. Tạo việc làm đầy đủ sẽ giúp cho dân quyền tự do, bình
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đẳng cùng với tất cả các thành viên khác trong cộng đồng; có ý nghĩa to lớn
trong cuộc điều chỉnh lợi ích, thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho
người lao động. Việc làm và thu nhập sẽ nâng cao vị thế của người lao động
trong gia đình và ngoài xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ
đó tạo một cơ cấu xã hội mới, năng động, xóa bỏ những cách biệt quá xa giữa
người giàu, người nghèo. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là biện
pháp trung tâm của mọi quốc gia, nó cho phép không chỉ giải quyết các vấn
đề kinh tế mà cả các vấn đề xã hội. Khi tạo việc làm cho người lao động một
cách đúng đắn và môi trường xã hội thuận lợi là nhân tố ảnh hưởng rất lớn
đến tiềm năng sáng tạo của con người thúc đẩy họ lao động tìm tòi hết mình,
cống hiến cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó tạo việc làm
cho người lao động là hết sức cần thiết góp phần ổn định xã hội, tạo lên sức
mạnh tổng hợp có khả năng khắc phục từng bước nguy sơ tụt hậu về kinh tế,
giảm tệ nạn xã hội…
Từ sự phân tích khái niệm trên, chúng ta đi sâu tìm hiểu thực trạng tạo
việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định từ đó có thể
đưa ra các giải pháp cho vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở huyện
trong những năm tới, tiến tới mục tiêu tăng số việc làm và giảm tỷ lệ thất
nghiệp trên địa bàn huyện.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Phần 2: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Quê hương Trực Ninh nổi tiếng về những ngày hội truyền thống tưng
bừng ở các ngôi chùa cổ, với những làng nghề truyền thống có thời gian đã
từng là bí truyền đến nỗi quy định con trai – con gái trong làng không được
kết hôn với người làng khác để gìn giữ công nghệ và bí quyết nghề làng mình,
hay những mùa lúa tám đặc sản thơm lừng. Con người Trực Ninh hiền lành,
cần cù chịu khó và hiếu khách, họ luôn biết tìm tòi và vượt lên trên những
gian khổ khó khăn. Trực Ninh còn được thiên nhiên ưu đãi cho những vùng
đất trù phú, khí hậu ôn hòa đồng thời cũng thuận tiện trong giao thông cả
đường bộ và đường thủy. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa – Trực Ninh có nhiều
ưu thế cả về thiên nhiên, con người và xã hội.
I. Những đặc điểm cơ bản ảnh hưởng đến việc làm ở huyện Trực Ninh,
tỉnh Nam Định.
1. Đặc điểm tự nhiên.
Huyện gồm 21 xã, thị trấn (19 xã, 2 thị trấn), với tổng diện tích là 143,5
km2; nằm ở cửa ngõ phía nam của tỉnh Nam Định, nằm trên quốc lộ 21, đi
qua quốc lộ 10 nối liền với thủ đô Hà Nội – trung tâm của cả nước bởi quốc lộ
1A. Phía nam giáp huyện Hải Hậu, phía tây giáp huyện Nam Trực, phía đông
giáp Thái Bình. Đây là vị trí thuận lợi cho giao thông liên lạc và giao lưu phát
triển kinh tế của huyện. Một mặt tiếp giáp với vùng biển Quất Lâm (Giao
Thủy, Hải Hậu) là điều kiện cho huyện đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Nằm
trong khu vực Đông Bắc Bộ, khí hậu phân thành 4 mùa rõ rệt thuận tiện rất
nhiều trong sản xuất kinh doanh; Gần các con sông lớn như sông Hồng, sông
Ninh Cơ thuận lợi cho tưới tiêu, đất đai màu mỡ thích hợp phát triển cây trồng
vật nuôi. Gần đây các chuyên gia địa chất trong và ngoài nước đang lấy mẫu
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
và tiến hành phân tích trữ lượng dầu mỏ trong lòng đất. Vì vậy, rất có thể
công nghiệp Trực Ninh sẽ có thêm ngành mới là ngành công nghiệp khai thác

dầu khí, có một số xã trong huyện ở trong lòng đất chứa trữ lượng khí ga, tuy
nhiên không nhiều. Như vậy, địa hình thuận lợi, giao thông thuận tiện, khí
hậu ôn hòa và đất đai màu mỡ, cộng thêm một số tài nguyên thiên nhiên là
những điều kiện tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
của huyện Trực Ninh.
2. Đặc điểm kinh tế xã hội.
a) Dân số, lao động, việc làm, mức sống.
Trực Ninh là một huyện đông dân, năm 2006 với mật độ dân số là 1355
người/km2, tổng dân số là 194.443 người (49,3% nữ; 50,7% nam), trong khi
đó tổng diện tích chỉ là: 143,5 km2, tỷ lệ tăng dân số năm 2005 là 0.8%. Có tỷ
lệ dân số trong độ tuổi lao động thuộc vào loại khá cao với 54,4%. Hàng năm
có khoảng trên 1000 người bước vào độ tuổi lao động. Số liệu trên cho thấy
huyện Trực Ninh có tiềm năng về số lượng lao động rất lớn. Đây là một trong
những nguồn lực quan trọng góp phần tạo điều kiện sản xuất phát triển kinh
tế. Theo thống kê của Phòng Nội vụ Lao động TBXH năm 2006 vừa qua đã
giải quyết việc làm cho 4.256 lao động, xuất khẩu được 250 lao động đi làm
việc ở nước ngoài. Riêng khu vực sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ thời gian sử
dụng trong lao động liên tục tăng, đến nay đã là 80%, kinh tế hộ gia đình phát
triển khá mạnh, người nông dân có ít thời gian nhàn rỗi hơn, tập trung cho sản
xuất kinh tế hộ gia đình. Vì thế, năm 2001 thu nhập bình quân của huyện mới
chỉ là 3.347 nghìn đồng/người/tháng, đến năm 2005 đã là 4.463 nghìn
đồng/người/tháng, lương thực bình quân tính trên đầu người đã đạt 530kg.
Những con số trên đã khái quát sơ bộ phần nào về tiềm lực lao động và
khả năng giải quyết việc làm của Đảng bộ và nhân dân huyện Trực Ninh. Tuy
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhiên, còn rất nhiều những bất cập trong việc giải quyết những tệ nạn xã hội,
tìm việc cho người dân và nâng cao mức sống cho dân cư. Đây là câu hỏi lớn
cần tháo gỡ từng bước trong tiến trình phát triển kinh tế của huyện.
b) Tăng trưởng kinh tế.

Là một huyện có trên 70% lao động làm việc trong ngành nông nghiệp,
thậm chí trong 21 xã, thị trấn có những xã chỉ là thuần nông. Nhưng bên cạnh
đó, Trực Ninh còn có một số ngành thuộc các lĩnh vực công nghiệp – dịch vụ
cũng khá phát triển góp phần tạo việc làm và tăng GDP hàng năm cho cả
huyện.
Bảng 1: Giá trị sản xuất các ngành kinh tế ( theo giá hiện hành).
Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng GTSX (Triệu đồng)
Trong đó:
+ Nông – lâm – thủy sản (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
+ Công nghiệp – xây dựng (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
+ Dịch vụ (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
933.654
434.473
46,53
187.757
20,11
311.424
33,36
1.067.557
431.981
40,46
271.212
25,41
364.364
34,13
1.305.737

506.653
38,80
399.936
30,63
399.148
30,57
1.519.648
500.029
32,90
598.765
39,40
420.854
27,70
1.805.033
608.835
33,73
736.100
40,78
460.098
25,49
(Nguồn: Phòng Thống kê-Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội
huyện Trực Ninh giai đoạn 2002-2006)
Số liệu trên cho thấy giai đoạn 2002-2006 tổng giá trị sản xuất của huyện
tăng lên qua các năm. Năm 2002 GTSX mới chỉ là 933.645 triệu đồng, sang
2003 con số này lên đến 1.067.557 triệu đồng và năm 2006 GTSX lên đến
1.805.033 triệu đồng (tăng gấp đôi so với năm 2002). Tổng GTSX của huyện
tăng lên, điều này là do GTSX của các ngành đều tăng lên. GTSX năm 2002,
ngành nông nghiệp (nông – lâm – thủy sản) là 434.473 triệu đồng; công
nghiệp – xây dựng là 187.757 triệu đồng; dịch vụ là 311.424 triệu đồng, đến
năm 2006 GTSX của các ngành lần lượt là nông nghiệp: 608.835 triệu đồng;

công nghiệp – xây dựng: 736.100 triệu đồng; dịch vụ: 460.098 triệu đồng.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên tốc độ tăng của các ngành là khác nhau, công nghiệp – xây dựng có
tốc tăng nhanh nhất. Vì thế ngành công nghiệp – xât dựng mới chỉ chiếm
20,11% tổng GTSX năm 2002 nhưng đến năm 2006 thì con số này đã lên đến
40,78%, điều này làm cho GTSX công nghiệp – xây dựng vượt ngành nông
nghiệp và đứng đầu về GTSX. Ngành nông nghiệp giảm về tỷ trọng trong
tổng GTSX nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng đóng góp phần lớn vào tổng
GTSX. Ngành dịch vụ GTSX cũng đã tăng, tuy nhiên tốc dộ tăng của ngành
này còn chậm nên vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng GTSX của huyện, thâm chí
còn giảm (năm 2002 là 33,36%, năm 2006 là 25,49%). Công nghiệp và dịch
vụ tăng lên là một điều đáng mừng và đây là những ngành có tiềm năng về
thu hút lao động và phát triển kinh tế. Theo con số thống kê thì trong năm
2005 GTSX của một số ngành được tổng hợp cụ thể như sau:
+ Lương thực, thực phẩm đạt 13.600 triệu đồng.
+ Công nghiệp dệt: 43.600 triệu đồng.
+ Chế biến gỗ - tre nứa: 11.000 triệu đồng.
+ Vật liệu xây dựng: 32.400 triệu đồng.
+ Sản xuất sản phẩm kim loại: 2.800 triệu đồng.
+ Bàn ghế - giường tủ: 19.000 triệu đồng.
+ Ươm tơ: 130 tấn.
+ Thêu ren: 15.000 m2.
+ Mây tre đan xuất khẩu: 500 triệu đồng.
Những con số trên phần nào nói lên khả năng phát triển kinh tế của
huyện. Số lượng sản phẩm làm ra rất đa dạng, liên tục tăng, năm sau cao hơn
năm trước, tỷ lệ hàng bán và doanh thu cũng vì thế mà tăng lên. Do đó, riêng
năm 2005 tổng thu từ ngân sách huyện đạt 97.209 triệu đồng, tăng 112.3%.
Tính bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện 5 năm gần đây đạt
17

Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoảng 8,9-9,7%. Tốc độ này được xếp vào loại khá. Tuy nhiên, huyện vẫn
còn tiềm năng để tạo ra GTSX cao hơn.
Số liệu trên cũng cho thấy một số ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp –
dịch vụ khá phát triển, ngành nông nghiệp có xu hướng giảm. Điều này là
hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự
chuyển dịch này thể kiện qua cơ cấu GDP theo các ngành kinh tế.
Bảng 2: Cơ cấu GDP theo các ngành kinh tế.
Đơn vị: %
Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006
Nông – lâm – thủy sản 25,78 24,7 24,05 23,30 22,76
Công nghiệp – xây dựng 34,01 35,08 36,15 36,61 37,02
Dịch vụ
40,21 40,22 39,8 40,09 40,22
(Nguồn: Phòng thống kê-Báo cáo tình hình KT-XH
huyện Trực Ninh giai đoạn 2002-2006)
Luôn đi theo một chiều hướng nhât định: Tăng tỷ trọng GDP ngành công
nghiệp – dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Điều này không có
nghĩa là đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP chung ngày càng thấp đi
mà do lao động được thu hút từ ngành này chuyển qua ngành kia, dần dần quỹ
đất sử dụng trong nông nghiệp ít di, được áp dụng nhiều hơn tiến bộ kỹ thuật
nên năng suất rất cao. Thống kê từ năm 2002 đến 2006 cho thấy: GDP công
nghiệp, dịch vụ tăng và nông nghiệp giảm từ 25,78% năm 2002 xuống còn
22,76% năm 2006, tốc độ giảm này còn thấp. Điều này cũng đồng nghĩa với
khả năng phát triển kinh tế còn chưa cân xứng với tiềm năng và thế mạnh của
vùng, cần được thực hiện mạnh dạn hơn.
Về ngành nghề kinh doanh và sản phẩm: Toàn huyện có khoảng 40
doanh nghiệp vừa và nhỏ (chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân). Các doanh
nghiệp này hàng năm thu hút khoảng 2000 lao động vào làm việc. Ngoài ra,
huyện còn là một trong những cái nôi về ngành nghề thủ công, những ngành

nghề như: Ươm tơ, dệt may, mây tre đan, trạm khắc gỗ, thêu ren… nằm rải
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rác ở khắp các xã, thị trấn. Những nghề này chủ yếu thu hút lực lượng lao
động tự do, những lúc nông nhàn họ tham gia sản xuất để tăng thêm thu nhập
đảm bảo cuộc sống. Nhưng cũng có một số làng nghề nổi tiếng như: Ươm tơ
ở làng Cổ Chất – xã Phương Định; trạm khắc gỗ ở Trung Lao – xã Trung
Đông… toàn bộ lao động tự do trong khu vực này tham gia làm nghề truyền
thống, họ không làm nông nghiệp hoặc nếu có làm thì đến ngày thu hoạch họ
thêu lao động khu vực khác, công việc chính của họ là làm nghề thủ công
truyền thống. Còn lại, ở những khu vực khác lao động tự do làm thêm các
ngành nghề này quanh năm nhưng đến mùa vụ nông nghiệp họ lại nghỉ vài
ngày và khi xong họ lại trở lại làm những công việc kia. Chính vì luân phiên
có công việc làm như vậy cho nên tính bình quân toàn huyện tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động nông thôn đạt tới 81% (theo số liệu thống kê năm 2006).
Và theo số liệu của phòng Nội vụ LĐTBXH những ngành nghề này thu hút
khoảng 34% dân số cả huyện. Có một ưu điểm ở đây là: Những ngành nghề
này nhẹ nhàng, dễ làm nên thu hút được nhiều tầng lớp lao động tham gia (cả
người già, trẻ em – những người ngoài độ tuổi lao động). Ngoài ra, trong
huyện còn có một số ngành như trồng cây cảnh, vật nuôi cảnh… sản phẩm
làm ra được nhiều nơi ưa chuộng do hiện nay trồng cây cảnh, nuôi vật cảnh là
một thú chơi rất phổ biến. Đây chính là lợi thế để phát triển và mở rộng
ngành. Kể đến nữa là những người bán hàng sáo, bán lẻ, sửa chữa xe máy, xe
đạp, đồ điện tử… Người lao động làm công việc này nằm rải rác ở khắp mọi
khu vực trong huyện, đặc biệt những nơi gần chợ tiện đường giao thông, gần
trung tâm kinh tế - văn hóa của huyện.
Về văn hóa, giáo dục, y tế: Trực Ninh nổi tiếng với ngôi chùa Cổ Lễ
được công nhận là di tích lịch sử và đưa vào sử dụng như một khu du lịch
sinh thái. Ở các xã cũng có những đền, chùa, nhà thờ hàng năm tổ chức các lễ
hội dân gian rất phong phú, đa dạng đem lại những nhu cầu về tinh thần

19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không nhỏ cho dân cư trong huyện. Tổng kết cuối năm 2006 cho thấy có 341
làng đạt tiêu chuẩn nếp sống văn hóa. Đây là thành quả của những nỗ lực, cố
gắng không ngừng của nhân dân các đơn vị này, góp phần không nhỏ trong
việc đưa đời sống dân cư tiến lên.
Huyện Trực Ninh cũng nổi tiếng là vùng đất hiếu học, có nhiều trường
chuyên ở cả 3 cấp. Hàng năm tính trung bình tỷ lệ tốt nghiệp của toàn huyện
đạt trên 95%, số học sinh - sinh viên theo học ở các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp ngày càng gia tăng, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo
năm 2006 lên đến 32% và trên 80% học sinh học hết trung học cơ sở đều có
xu hướng học tiếp lên cấp 3. Đây là điều đáng mừng cho Trực Ninh trong
việc đầu tư cải tạo chất lượng nguồn vốn nhân lực.
Về y tế: Với một bệnh viện thị trấn, trạm y tế của các xã và các cơ sở
khám chữa bệnh tư nhân, hàng năm các cơ sở này phục vụ được khoảng 755
nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, bệnh viện thị trấn ngoài điều trị tây y
còn có cả đông y với những bài thuốc quý mà nguyên liệu được trồng ngay tại
cơ sở, giá rẻ phù hợp với điều kiện của những người dân nghèo. Cùng với sự
nhiệt tình, tận tụy của các y bác sỹ cho nên viện ngày càng nhận được lòng
tin, sự tín nhiệm của nhân dân.
Với một bề dày lịch sử lâu đời và những đức tính tốt đẹp, biết chia sẻ,
nhường nhịn, cùng nhau vươn lên nên trong các mảng văn hóa, y tế, giáo dục
Trực Ninh đã đạt được nhiều thành tựu, các đơn vị hàng năm đều nhận được
cờ thi đua khen thưởng của tỉnh. Và một điều đáng chú ý hơn cả là đời sống
nhân dân được cải thiện trông thấy, kinh tế - văn hóa - xã hội đều có những
thay đổi tích cực đáng mừng.
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Phân tích thực trạng việc làm của người lao động ở huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định.

1. Quy mô và tỷ lệ lao động có việc làm qua các năm ở huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định.
Là một huyện đông dân, với mật độ dân số thuộc hàng cao, huyện Trực
Ninh có tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt 54,4%, hàng năm huyện có
khoảng 1000 người bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên, số lao động có việc
làm chiếm tỷ lệ chưa cao so với tổng số lao động trên địa bàn huyện.
Bảng 3: Quy mô và tỷ lệ lao động có việc làm qua các năm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2003 2004 2005 2006
1. Tổng số lao động (1).
+ Số lao động có việc làm.
+ % so với (1).
2. Số lao động được giải
quyết việc làm mới.
Người
Người
%
Người
113.743
99.662
87,62
2.950
114.573
100.236
87,49
3250
115.047
100.844
87,65
3750

115.368
101.125
87,65
4035
115.780
101.486
87,65
4256
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quả giải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Qua bảng số liệu trên có thể nói nguồn lao động của huyện là rất dồi dào,
số lao động hàng năm có tăng lên nhưng tăng ít. Cụ thể: năm 2002 số lao của
huyện là 113.743 người đến năm 2006 con số này là 115.780 người, tức là
bình quân mỗi năm số lao động tăng lên khoảng 500 lao động. Điều này là do
số lao động này chịu ảnh hưởng lớn bởi tỷ lệ người hàng năm bước vào độ
tuổi lao động mà điều này lại phụ thuộc vào mức sinh của 15 năm trước.
Theo đặc điểm chung của lao động cả nước với nguồn lao động dồi dào
nhưng lại lãng phí trong sử dụng sức lao động do số việc làm được tạo ra
hàng năm chưa cao. Số lao động có việc làm so với tổng số lao động chiếm tỷ
lệ chưa cao. Năm 2002, số lao động có việc làm là 99.662 người (chiếm
87,62% tổng số lao động) đến năm 2006 số lao động có việc làm là 101.486
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người (chiếm 87,65% tổng số lao động), tức là sau 5 năm số lao động có việc
làm chỉ tăng lên được 1.824 người. Điều này là không tương xứng với số việc
làm mới được tạo ra hàng năm. Cụ thể: Năm 2002 số lao động được giải
quyết việc làm mới là 2.950 người, con số này hàng năm tăng khoảng 1000
người; năm 2006 số việc làm mới được tạo ra lên đến 4.256 người. Sự bất
tương xứng này là do số việc làm được tạo ra hàng năm tuy nhiều nhưng lại
thiếu tính chắc chắn, hay là những việc làm ngắn hạn, việc làm không được

duy trì lâu dài.
Số lao động có việc làm chiếm tỷ lệ chưa cao so với tổng số lao động
(khoảng 88%) và tỷ lệ này thay đổi không đáng kể, thậm chí là không đổi qua
các năm 2004 đến 2006 là 87,65%. Do số lao động có việc làm tăng chậm và
tăng tương ứng với tổng số lao động nên dẫn đến số tương đối gần như không
đổi.
Số chỗ việc làm mới tăng dần qua các năm, tăng nhiều nhất là năm 2003-
2004 (chênh lệch 500 chỗ việc làm) do bắt đầu từ năm 2004 huyện tập trung
phát huy triệt để các dự án giải quyết việc làm cho người lao động. Đó là dự
án cho vay vốn đối với các tổ chức sản xuất kinh doanh và hộ gia đình để phát
triển sản xuất kinh doanh và chương trình xóa đói giảm nghèo với việc hỗ trợ
về vốn, tư liệu sản xuất. Năm 2004, Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trực
Ninh đã giải ngân cho vay vốn xóa đói giảm nghèo được trên 8 tỷ đồng với
trên 3000 lượt hộ nghèo tạo thêm được hàng nghìn chỗ việc làm mới. Ngoài
ra huyện thực hiện dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến
nông.
2. Cơ cấu và phân bố việc làm qua các năm của huyện Trực Ninh, tỉnh
Nam Định.
a) Việc làm qua các năm phân theo thành phần kinh tế của huyện Trực
Ninh, tỉnh Nam Định.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trực Ninh là một huyện mà lao động chủ yếu trong ngành nông nghiệp,
chủ yếu lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước. Những năm gần
đây do huyện chú trọng phát triển nông nghiệp thông qua chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển đa dạng nhiều thành phần – từ đó giá trị
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ ngày càng
được nâng cao. Mà chủ yếu những ngành này thuộc thành phần kinh tế khu
vực ngoài nhà nước nên lao động thuộc thành phần kinh tế này tăng lên đáng

kể. Bảng 4 thể hiện rõ hơn thực trạng việc làm của lao động huyện theo thành
phần kinh tế.
Bảng 4: Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm qua các năm chia
theo thành phần kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2003 2004 2005 2006
1. Số lao động có việc làm (1)
2.Lao động làm việc trong khu
vực Nhà nước
+ % so với (1)
3. Lao động làm việc trong
khu vực ngoài Nhà nước
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
99.662
3.299
3,3
96.363
96,7
100.236
3.705
3,7
96.531
96,3
100.844
3.746
3,7

97.098
96,3
101.125
3.706
3,7
97.419
96,3
101.486
3.714
3,7
97.772
96,3
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quả giải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Số liệu cho thấy về quy mô hầu hết số lao động làm việc trong các thành
phần kinh tế đều tăng. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ thì sự tăng giảm này là khác
nhau. Cụ thể, số lao động làm việc trong thành phần kinh tế khu vực trong
nhà nước năm 2002 là 3.299 người (3,3% so với tổng số lao động có việc
làm), từ các năm 2003 đến 2006 số lao động làm việc trong khu vực này tăng
lên nhưng không đáng kể (giữ ở mức khá ổn định khoảng 3.700 người – tỷ lệ
không đổi ở mức 3,7%). Nguyên nhân là do cơ hội việc làm không nhiều
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là khi quy định mới cho độ tuổi hưu
của người lao động.
Đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước, hàng năm số lao động làm
việc trong khu vực này không ngừng tăng lên. Cụ thể năm 2002 số lao động
làm việc trong khu vực này là 96.363 người đến năm 2006 là 97.772 người.
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực này so với tổng số lao động
có việc làm cũng ổn định và không đổi trong bốn năm từ 2003 đến 2006 là

96,3%. Nguyên nhân là do hầu hết các công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất trên
địa bàn huyện đều hoạt động dưới dạng tư nhân, nhỏ lẻ vì thế chủ yếu lao
động được thu hút vào khu vực này. Đó là các cơ sở sản xuất gỗ (ở Trung Lao
– xã Trung Đông), mây tre đan (ở An Mỹ - xã Trung Đông), dệt (ở Cự Trữ -
xã Phương Định), ươm tơ (ở Cổ Chất – xã Phương Định)… Nhìn chung, số
lao động được tạo việc làm ở khu vực ngoài nhà nước là chủ yếu chiếm đến
96% tổng số người có việc làm. Tuy nhiên vấn đề nảy sinh là bảo hiểm và vấn
đề an toàn trong lao động, họ thường chịu thiệt thòi. Do đó huyện cần có biện
pháp quản lý chặt chẽ vấn đề quyền lợi cho người lao động. Khu vực kinh tế
ngoài nhà nước chủ yếu là những cơ sở sản xuất của các làng nghề thủ công
mỹ nghệ nhưng đầu ra cho các sản phẩm ở khu vực này còn khó khăn do đó
việc làm không được đảm bảo và ổn định lâu dài. Ngoài ra, khu vực này
không đòi hỏi khắt khe về người lao động, thu hút được nhiều đối tượng lao
động là người già, ngoài trẻ - người ngoài tuổi lao động.
Như vậy, nhìn chung trong hai khu vực thì khu vực kinh tế ngoài nhà
nước thu hút nhiều lao động hơn. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng
thu hút nhiều lao động vào làm việc cho thấy đây là dấu hiệu đáng mừng và
cần được phát huy trong những năm tới.
b) Việc làm qua các năm phân theo ngành kinh tế của huyện Trực Ninh,
tỉnh Nam Định.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động.
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của huyện qua bảng 5 cho
thấy cơ cấu lao động chuyển dần từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Bảng 5: Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm qua các năm theo
ngành kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2003 2004 2005 2006
Số lao động có việc làm (1)
Chia theo:

1. Nông – lâm – thủy sản.
+ % so với (1)
2.Công nghiệp – xây dựng.
+ % so với (1)
3. Dịch vụ .
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
Người
%
99.662
74.851
75,1
15.757
15,8
9.054
9,1
100.236
74.352
74,2
16.085
16,0
9.799
9,8
100.844
68.808
68,2

21.431
21,3
10.605
10,5
101.125
68.667
67,9
21.500
21,3
10.958
10,8
101.486
68.778
67,8
21.687
21,3
11.021
10,9
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Số liệu cho thấy số lao động tập trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp.
Cụ thể là năm 2002 là 76.851 người có việc làm (chiếm tỷ lệ cao so với tổng
số lao động có việc làm là 75,1%) đến năm 2006 giảm xuống còn 68.778
người có việc làm (chiếm 67,8% so với tổng số lao động có việc làm).
Nguyên nhân là do huyện Trực Ninh cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn, phần lớn lao động trong huyện làm nông nghiệp, có đến 70% lao
động làm nghề nông. Gần đây, ngành nông nghiệp đang thực hiện chuyển đổi
cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng giá trị thu nhập
trên một ha canh tác. Do đó, ngành nông nghiệp luôn là ngành thu hút nhiều
lao động vào làm việc.

Ngành đứng thứ hai thu hút nhiều lao động đó là ngành công nghiệp –
xây dựng. Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp tăng qua các năm.
Cụ thể năm 2002 là 15.757 người đến năm 2006 là 21.687 người. Tuy nhiên,
tốc độ tăng này còn thấp nên số lao động làm việc trong ngành này cũng mới
25

×