ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Ngô Thanh Băng
Ngô Thanh Băng
TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC
CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ: GIÁO DỤC HỌC
TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC
CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN
Chuyên ngành: GIÁO DỤC HỌC
Mã số: 60.14.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ TUYẾT OANH
Thái Nguyên - Năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Thái Nguyên – Năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Để hoàn thành được luận văn này, em đã nhận được sự dạy dỗ tận tình
của các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý – Giáo dục, sự động viên khích lệ của
bạn bè, gia đình và đồng nghiệp. Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình, chu đáo,
khoa học của cô giáo PGS.TS. Trần Thị Tuyết Oanh.
Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới cô giáo
PGS.TS. Trần Thị Tuyết Oanh, các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý – Giáo
dục, bạn bè, gia đình và các đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sau đại học trường Đại
học sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian
học tập và nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các em sinh viên trường
Cao đẳng sư phạm Nghệ An đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 8 năm 2010
Tác giả
Ngô Thanh Băng
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
4
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4
4. Giả thuyết khoa học
4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
6. Phương pháp nghiên cứu
5
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
6
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
6
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
6
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
8
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
9
1.2.1. Khái niệm học
9
1.2.2. Tự học
13
1.2.3. Tổ chức tự học
15
1.2.4. Công nghệ thông tin
16
1.3. Hoạt động tự học môn GDH của SV CĐSP
18
1.3.1. Đặc điểm hoạt động tự học của SV
18
1.3.2. Các hình thức tự học của SV
19
1.3.3. Tự học môn GDH của SV CĐSP
20
1.4. Sự phát triển của CNTT và các yêu cầu khi vận dụng CNTT vào tự
học môn GDH ở trường CĐSP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
1.4.1. Sự phát triển của CNTT
23
1.4.2. Một số hình thức ứng dụng CNTT vào tự học môn GDH
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.4.3. Khả năng ứng dụng CNTT vào tự học môn GDH
30
1.4.4. Các yêu cầu khi tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của
CNTT cho SV ở trường CĐSP Nghệ An
32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
34
3.2.2. Hướng dẫn tiếp cận các nguồn thông tin phục vụ tự học môn GDH 61
3.2.3. Tổ chức cho SV làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận
66
3.2.4. Xây dựng trang web học tập môn GDH
68
3.3. Thực nghiệm sử dụng trang web GDH để tổ chức tự học môn GDH
cho SV trường CĐSP Nghệ An
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GDH CÓ SỰ
78
3.3.1. Khái quát về thực nghiệm
78
3.3.2. Phân tích kết quả thực nghiệm
82
HỖ TRỢ CỦA CNTT CHO SV Ở TRƯỜNG CĐSP NGHỆ AN
35
2.1. Một vài nét về trường CĐSP Nghệ An
35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
98
2.2. Khái quát về dạy học môn GDH ở trường CĐSP
37
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
99
2.3. Thực trạng tự học môn GDH của SV
37
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2.3.1. Khái quát tiến trình khảo sát thực trạng
38
PHỤ LỤC
2.3.2. Thực trạng tự học môn GDH của SV ở trường CĐSP Nghệ An
38
2.3.3. Thực trạng tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT
47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
57
CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GDH
CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA CNTT CHO SV Ở TRƯỜNG CĐSP NGHỆ
AN VÀ THỰC NGHIỆM
58
3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp
58
3.1.1. Đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm
58
3.1.2. Đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò chủ đạo của thầy với vai
trò tích cực, chủ động của SV
58
3.1.3. Đảm bảo tính thực tiễn
58
3.1.4. Đảm bảo tính hiệu quả
59
3.2. Các biện pháp tổ chức tự học môn GDH cho sinh viên có sự hỗ trợ
của CNTT
59
3.2.1. Tạo môi trường học tập thông qua mạng internet
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CĐSP
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
: Cao đẳng sư phạm
CNTT : Công nghệ thông tin
Bảng 2.1:
Mức độ nhận thức của SV về tầm quan trọng của môn GDH
39
ĐC
: Đối chứng
Bảng 2.2:
Thái độ của SV đối với môn GDH
40
GDH
: Giáo dục học
Bảng 2.3:
Nhận thức của SV về các hình thức tự học môn GDH
42
GV
: Giáo viên
Bảng 2.4:
Phương pháp tự học môn GDH của SV
43
SV
: Sinh viên
Bảng 2.5: Ý kiến của SV về nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tự
TN
: Thực nghiệm
học môn GDH
Bảng 2.6:
45
Ý kiến của GV về nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tự
học môn GDH
46
Bảng 2.7:
Đánh giá của GV và SV về tác dụng của CNTT trong hỗ trợ
tự học môn GDH
50
Bảng 2.8:
Các công việc mà GV sử dụng để giúp SV tự học môn GDH
52
Bảng 2.9:
Mức độ ứng dụng CNTT vào tự học môn GDH của SV
53
Bảng 2.10: Các khó khăn của GV khi ứng dụng CNTT vào quá trình tổ
chức tự học môn GDH cho SV
Bảng 3.1:
55
Phân phối tần số điểm thi học phần và phân loại học lực môn
Tâm Lý Học đại cương theo tiêu chuẩn giỏi, khá, trung bình,
yếu – kém của nhóm TN
Bảng 3.2:
82
Phân phối tần số điểm thi học phần và phân loại học lực môn
Tâm Lý Học đại cương theo tiêu chuẩn giỏi, khá, trung bình,
yếu – kém của nhóm ĐC
Bảng 3.3:
83
Phân phối tần số điểm kiểm tra môn GDH và phân loại học
lực sau TN của khoa Tự nhiên
Bảng 3.4:
84
Các tham số đặc trưng kết quả kiểm tra sau thực nghiệm của
khoa Tự nhiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
MỞ ĐẦU
Trang
Bảng 3.5:
Phân phối tần số điểm kiểm tra môn GDH và phân loại học
lực sau TN của khoa Xã hội
Bảng 3.6:
1. Lý do chọn đề tài
87
Từ những năm thuộc thập kỷ 60, giáo dục cũng như các lĩnh vực khác
chịu ảnh hưởng lớn lao của sự phát triển máy vi tính. Những thành tựu về
Các tham số đặc trưng kết quả kiểm tra sau thực nghiệm của
khoa Xã hội
89
công nghệ đòi hỏi trường học phải điều chỉnh lại mục tiêu giáo dục để người
Bảng 3.7:
Hứng thú của SV khi học tập qua trang web GDH
91
học có khả năng dấn thân vào môi trường công nghệ thông tin (CNTT) trong
Bảng 3.8:
Mức độ truy cập vào trang web GDH của SV
92
tương lai. Một điều dễ nhận thấy rằng, CNTT góp phần thay đổi phương pháp
Bảng 3.9:
Đánh giá của SV về ưu thế khi tự học bằng trang web GDH
93
từ truyền thống xem người học là “một cái bình rỗng” được lấp đầy bằng
Bảng 3.10: Đánh giá của SV về hiệu quả của việc tự học bằng trang web GDH
94
những kiến thức của người dạy, sang hướng đổi mới: người học tự mình
Bảng 3.11: Những khó khăn của SV khi học qua trang web GDH
96
khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của người dạy.
Trong quá trình học theo hướng đổi mới này, máy vi tính và các thiết bị
hiện đại khác góp phần to lớn trong việc hỗ trợ người học trao đổi ý tưởng,
suy nghĩ có phê phán, đào sâu kiến thức để người học trở thành chủ thể của
hoạt động học. Khi đổi mới phương pháp dạy học, thầy giáo vẫn giữ vai trò
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
hết sức quan trọng trong việc định hướng dạy học và chuyển giao tri thức, kỹ
năng cho người học. Song, để có thể nâng cao trình độ học vấn cho mình, mỗi
Trang
Biểu đồ 3.1:
Học lực của nhóm TN và nhóm ĐC trước thực nghiệm
83
Biểu đồ 3.2:
Phân phối tần suất kết quả sau thực nghiệm khoa Tự nhiên
85
Biểu đồ 3.3:
Phân phối tần suất kết quả sau thực nghiệm khoa Xã hội
88
người học phải chủ động, tích cực, độc lập, tự chủ với sự hỗ trợ đắc lực và đa
phương của các yếu tố tạo thành hoạt động dạy học. Vì lẽ đó, nhiệm vụ cơ
bản của dạy học trong nhà trường không thể chỉ giới hạn ở việc cung cấp một
hệ thống tri thức, kỹ năng tương ứng mà quan trọng hơn là hướng dẫn, tổ
chức tự học, hình thành, phát triển khả năng tự học ở người học để họ học tập
suốt đời.
Trong xã hội hiện đại, các phương tiện dạy học đã có nhiều thay đổi so
với trước. Với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật, các phương tiện kỹ thuật
dạy học đã ra đời như: phim ảnh, vô tuyến truyền hình, máy vi tính, các máy
dạy học và kiểm tra, thiết bị đa phương tiện…Các thiết bị hiện đại này đã cho
phép đưa vào quá trình dạy học những nội dung diễn cảm, hứng thú, làm thay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, tạo ra trong quá trình dạy học
khoá VIII đã chỉ rõ: “…đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo,
một nhịp độ, phong cách và trạng thái tâm lý mới, góp phần quan trọng vào
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
việc nâng cao năng suất lao động của người thầy và hiệu quả dạy- học.
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và phương
Tuy nhiên, cho đến nay, việc sử dụng phương tiện, đặc biệt là CNTT vào
tiện hiện đại vào quá trình dạy học…Phát triển mạnh mẽ phong trào tự học,
quá trình dạy học là chưa nhiều. CNTT cũng chưa được ứng dụng phổ biến
tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên…”
trong quá trình tự học của sinh viên (SV). Vì vậy chưa phát triển được khả
năng tự học của người học cũng như tiềm năng vốn có của CNTT.
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ “Về đổi mới cơ bản và
toàn diện nền giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006- 2020” đã chỉ rõ:
Môn giáo dục học (GDH) là môn học vừa có tính khoa học, vừa mang
“Triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học;
tính giáo dục và tính nghề nghiệp cao, nội dung môn GDH phản ánh đường
phát huy tính chủ động của người học; sử dụng CNTT và truyền thông trong
lối, quan điểm giáo dục của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển
hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư
giáo dục, đào tạo ở nước ta. Đồng thời, cùng với xu thế phát triển của xã hội,
liệu trên mạng internet. Lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên
môn GDH cũng có sự thay đổi và các yêu cầu đặc thù. Vì vậy, việc học tập
tiến của các nước”.
môn GDH đòi hỏi SV không chỉ nắm vững hệ thống tri thức mà còn phải rèn
Trong những năm qua, nhiều hội nghị khoa học, nhiều công trình nghiên
luyện hệ thống kỹ năng nghề nghiệp và tiếp cận thông tin. Để đạt được điều
cứu đã tìm hiểu vấn đề tự học. Song, tổ chức tự học trong môi trường học tập
đó, hỏi sinh viên phải có khả năng tự học, tự rèn luyện và cập nhật thông tin
hiện đại, có sự hỗ trợ của CNTT cho SV trường CĐSP Nghệ An thì chưa
mọi lúc, mọi nơi.
được nghiên cứu.
Thực tế, việc dạy và học môn GDH ở các trường cao đẳng sư phạm
Mặc dù trong những năm gần đây, đã có nhiều thay đổi về nội dung, về
(CĐSP) vẫn còn nhiều bất cập; phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là thuyết
phương pháp và phương tiện kỹ thuật dạy học; Song, những thay đổi đó chưa
trình; phương tiện chủ yếu vẫn là phấn, bảng, sách giáo khoa và tài liệu tham
kích thích được động cơ, hứng thú học tập môn GDH ở SV CĐSP; chưa phát
khảo. Các phương pháp, phương tiện dạy học đó chưa gây được hứng thú và
huy được tính tích cực, độc lập, chủ động, trong việc khai thác các phương
chưa phát huy được tính tích cực học tập cho SV. Cho nên, việc tạo ra môi
tiện hỗ trợ học tập, kết quả học tập không cao, kỹ năng tự học chưa thực sự
trường dạy- học có sự hỗ trợ của CNTT đối với môn GDH sẽ góp phần khắc
hoàn thiện.
phục được lối truyền thụ một chiều, phát triển được khả năng tự học, tự
nghiên cứu cho SV.
Cần tạo ra một môi trường học tập có sự hỗ trợ của CNTT để phát triển
khả năng tự học môn GDH, sao cho SV CĐSP được tham gia một cách tích
Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến vấn đề đổi mới phương
cực, độc lập, sáng tạo vào quá trình lĩnh hội tri thức và kỹ năng, nâng cao chất
pháp dạy học và sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại trong quá trình dạy
lượng học tập môn GDH và phát triển được khả năng tự học môn GDH cho
học. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung Ương Đảng
SV CĐSP.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
3
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn và tiến hành nghiên cứu đề
tài: “TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA
- Đề xuất biện pháp tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT cho
SV trường CĐSP Nghệ An và thực nghiệm.
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO SINH VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
PHẠM NGHỆ AN.”
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp, khái quát
2. Mục đích nghiên cứu
hoá, hệ thống hoá các tài liệu liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng tự học môn GDH của SV hiện
nay. Từ đó xác định biện pháp tổ chức tự học môn GDH cho SV có sự hỗ trợ
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, quan sát, trò chuyện,
nghiên cứu sản phẩm hoạt động, đàm thoại, thực nghiệm khoa học.
của CNTT nhằm phát huy tính tích cực học tập, góp phần nâng cao chất lượng
- Phương pháp thống kê toán học.
và hiệu quả học tập môn GDH ở trường CĐSP nói chung, trường CĐSP Nghệ
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
An nói riêng.
- Đề tài khảo sát trên SV khoa Xã hội, khoa Tự nhiên và GV tổ Tâm lý –
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
Giáo dục trường CĐSP Nghệ An.
- Khách thể nghiên cứu: quá trình tự học của SV trường CĐSP.
- Đối tượng nghiên cứu: Tự học môn GDH và tổ chức tự học môn GDH
- Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu biện pháp xây dựng trang web tự học
để tổ chức tự học môn GDH cho SV trường CĐSP Nghệ An.
có sự hỗ trợ của CNTT cho SV ở trường CĐSP Nghệ An.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, xu hướng đổi mới phương pháp dạy- học đang diễn ra mạnh
mẽ. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại và CNTT đã và đang đóng góp giá trị
tích cực của nó trong quá trình dạy học và giáo dục. Tuy nhiên, việc ứng dụng
CNTT vào quá trình tự học môn GDH của SV còn nhiều hạn chế. Nếu xác
định được biện pháp tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT thì sẽ
phát huy được tính tích cực, nâng cao hứng thú học tập môn GDH cho SV,
nâng cao chất lượng dạy và học môn GDH trong các trường CĐSP nói chung,
trường CĐSP Nghệ An nói riêng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT.
- Khảo sát thực trạng tự học môn GDH, thực trạng tổ chức tự học môn GDH
có sự hỗ trợ của CNTT cho SV ở trường CĐSP Nghệ An.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
cho trẻ em khoa học, mà để trẻ tự phát minh”. A.Disterwerg (1780 - 1866): “
Người thầy giáo tồi truyền đạt chân lý, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra
chân lý”. K.Đ.Usinxki (1824 - 1873) cho rằng muốn dạy học tốt cần hiểu biết
1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu nƣớc ngoài
tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh. Fourrier(1772) rất coi trọng việc dạy học
Trong lịch sử giáo dục, vấn đề tự học được quan tâm rất sớm. Ý tưởng
với thực tế. J.Dewey (1858 - 1952) chủ trương giáo dục phải dựa vào kinh
dạy học coi trọng người học, chú ý đến người học đã có từ thời cổ đại. Tuỳ
nghiệm thực tế của trẻ. Việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú, phải để
theo từng giai đoạn lịch sử và mức độ phát triển của xã hội mà ý tưởng này đã
trẻ độc lập tìm tòi, thầy giáo là người tổ chức, người thiết kế, ngưòi cố vấn.
phát triển và trở thành quan điểm dạy học tiến bộ ngày nay.
Ở Liên Xô (cũ) nhiều tài liệu về vấn đề tự học và tự đọc sách được xuất
Thời cổ đại, ở phương Tây, Xocrate (Hy Lạp, 469 - 399 TCN) đã đưa
bản. Chẳng hạn: N.A.Rubakin có nhiều tài liệu chuyên bàn về vấn đề tự học
ra quan niệm rất nổi tiếng: giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính
như: “Tự học như thế nào” (Nước Nga Xô Viết, M.1962, NXB Thanh niên,
mình. Vận dụng quan điểm đó vào dạy học, ông cho rằng cần phải để cho
Hà Nội, 1982), “Tâm lý người đọc sách” (Nhà nước, M.1992)… A.A.
người học tự suy nghĩ, tự tìm tòi, cần giúp người học tự phát hiện thấy sai lầm
Goroxepxky và M.I.Liubixnuna (Đại học tổng hợp Lêningrat) trong “Tổ chức
của mình và tự khắc phục những sai lầm đó. Còn Arixtot (384 - 322 TCN)
công tác tự học của SV Đại học” đã tổng kết kinh nghiệm cá nhân trong công
cho rằng phương pháp dạy học phải nhằm mục đích giúp người học phát hiện
tác dạy học ở trường Đại học và đưa ra một số đề nghị về cách học có hiệu
ra “chân lý” bằng cách đặt câu hỏi để người học tự tìm ra kết luận.
quả của sinh viên.
Khổng Tử (479 - 355 TCN) ở phương Đông dạy theo đối tượng và kích
Cuối thế kỷ XX, ảnh hưởng của sự phát triển khoa học kỹ thuật, đặc
thích suy nghĩ của học sinh “Không tức giận vì muốn biết thì không gợi mở
biệt là ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ, phần lớn các tác giả nghiên
cho, không bực vì không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có 4 góc, bảo cho
cứu tự học theo hai hướng chính: hướng thứ nhất, nghiên cứu áp dụng công
biết 1 góc mà không suy ra 3 góc thì không dạy nữa” (Luận ngữ).
nghệ dạy học nhằm thay đổi vị trí của thầy và trò trong quá trình dạy học, từ
Đến thời kỳ Phục Hưng ở Châu Âu, dạy học lấy người học làm trung
chuyên gia về việc dạy, GV phải trở thành chuyên gia về việc học cho học
tâm đã trở thành một tư tưởng, được nhiều nhà giáo dục vĩ đại coi trọng.
sinh. Hướng thứ hai, theo hướng dạy học phân hoá. Dạy học tiến hành theo
Môngtenhơ (1533 - 1592) được coi là một trong những ông tổ sư phạm ở
nhịp độ cá nhân người học để đạt tới năng suất và hiệu quả cao nhất trong
Châu Âu cho rằng muốn dạy học có hiệu quả, không nên bắt buộc trẻ em phải
việc học.
làm theo những ý muốn chủ quan của thầy. J.A.Komenxki (1592 - 1670) kêu
Từ năm 1994, khi công nghệ web được phát minh, các nhà cung cấp
gọi người thầy phải làm cho học sinh có hứng thú trong học tập, từ đó nỗ lực
dịch vụ đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiến cách dạy học bằng công
bản thân nắm vững tri thức. J.J. Rousseau (1712 - 1778) yêu cầu người dạy
nghệ này. Người thầy thông thái đã dần dần lộ rõ ra qua các phương tiện: e-
cần phải hiểu người học và quan tâm đến lợi ích người học. Ông nói: “Đừng
mail (thư điện tử), qua Internet với văn bản và hình ảnh đơn giản. Đào tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
7
bằng công nghệ web với các hình ảnh chuyển động tốc độ thấp đã được triển
Ngọc Bảo, Nguyễn Thị Tính…). Hướng thứ ba nghiên cứu tự học như là một
khai trên diện rộng.
hình thức tổ chức ngoài giờ lên lớp, phối hợp với các hình thức tổ chức dạy
Tại Mỹ, năm 2000 có gần 47% các trường Đại học, Cao đẳng đã đưa ra
học khác (Phạm Hồng Quang và một số luận văn thạc sĩ khác).
các dạng khác nhau của mô hình đào tạo từ xa, tạo nên các khoá học trực
Khi trình độ xã hội ngày càng phát triển, xã hội thông tin buộc mỗi cá
tuyến. Cuối năm 2004 có khoảng 90% các trường Đại hoc, Cao đẳng đưa ra
nhân phải luôn thích ứng nhanh với cuộc sống đầy biến động. Vì vậy, CNTT
mô hình e-learning. Số người tham gia học tăng 33% hằng năm trong khoảng
ngày càng được ứng dụng nhiều trong dạy và học. Đã có nhiều công trình
thời gian 1999 - 2004.
nghiên cứu về ứng dụng của CNTT trong tự học như:
Ở Châu Á, những nước nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Tác giả Lê Thị Thu Hiền với luận văn thạc sĩ “Xây dựng trang web hỗ
Singapore đều ứng dụng CNTT trong dạy - học ở mức độ cao. Nhiều cuốn
trợ dạy học một số kiến thức trong chương “Từ trường”, Vật lý 11 thí điểm,
sách viết về ứng dụng của CNTT được nhiều người quan tâm và áp dụng.
ĐHSPHN 2004. Trong đề tài, tác giả đã sử dụng một số phần mềm thông
Tóm lại, qua nghiên cứu các tư tưởng bàn về tự học và ứng dụng CNTT
dụng như Pront Page, Express, Winword 97, cùng một số công cụ xây dựng
trong tự học của các tác giả trên thế giới, chúng tôi có nhận xét: tự học là cần
video clip để xây dựng trang web dạy học một số nội dung trong chương “Từ
thiết đối với tất cả mọi người, vấn đề tự học và ứng dụng CNTT trong dạy -
trường”, Vật lý 11 và cho kết quả tốt.
học được các tác giả trên thế giới quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau,
nhưng đều nhằm mục đích là tìm hướng đi để nâng cao hiệu quả dạy và học.
Nguyễn Thị Thanh Trà với đề tài: “Sử dụng hình thức e-learning để
hướng dẫn tự học môn GDH cho SV trường ĐHSP Hà Nội”. Trong đề tài này
1.1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc
tác giả đã sử dụng phần mềm Moodle để xây dựng trang web môn GDH và đã
Ở Việt Nam, vấn đề tự học đã có từ xa xưa.Thời phong kiến, thầy đồ
đem lại hiệu quả cao, giúp SV nâng cao chất lượng tư học môn GDH [27].
dạy học thường kèm cặp một nhóm học gồm nhiều đối tượng có trình độ khác
Ngoài ra còn có một số tác giả khác cũng nghiên cứu ứng dụng của CNTT
nhau. Các thầy phải chú ý trình độ, đặc điểm tính cách từng đối tượng và có
trong dạy học như Nguyễn Thị Thanh Hồng với đề tài: “ Xây dựng phần mềm
biện pháp dạy thích hợp. Người học tự học thông qua hình thức có thầy trực
hướng dẫn tự học môn GDH cho SV ĐHSP Hà Nội” [13].
tiếp hoặc gián tiếp.
Như vậy, vấn đề tự học và ứng dụng CNTT trong tự học được rất nhiều
Trải qua các thời kỳ, vấn đề dạy tự học, tổ chức hoạt động tự học nhằm
tác giả quan tâm nghiên cứu ở các hướng khác nhau. Trong đề tài này, chúng
phát huy tính tích cực, chủ động của người học rất được sự quan tâm của
tôi tập trung đi sâu khai thác biện pháp tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ
nhiều tác giả như: tự học là một hoạt động độc lập diễn ra không hoặc ít có sự
của CNTT cho SV ở trường CĐSP.
điều khiển của thầy (Nguyễn Cảnh Toàn). Tự học là hoạt động tích cực, chủ
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
động, tự giác của người học dưới vai trò chủ đạo (tổ chức, hướng dẫn, điều
1.2.1. Khái niệm học
khiển) của thầy (các tác giả: Nguyễn Ngọc Quang, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn
Theo quan điểm của các nhà giáo dục học, học là quá trình tự giác, tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học, dưới sự điều khiển sư phạm của
bất cứ hình thức nào: trực tiếp mặt đối mặt với thầy, học ở nhà, học với sách
thầy. Học là hoạt động có đối tượng, trong đó người học là chủ thể, khái niệm
giáo khoa, học từ xa, trực tuyến…thì bản thân người học cũng phải tập trung
khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh.
chú ý, tích cực, chủ động, tự mình tìm kiếm xử lý thông tin nhằm đem đến sự
Học về bản chất là sự tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu bằng các thao
tác trí tuệ dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được của cá nhân, từ đó có được tri
thức, kỹ năng, thái độ mới [17, tr.65-66].
thay đổi về mặt nhận thức, thái độ, hành vi, nhờ đó mà nhân cách ngày càng
phát triển. Như vậy, hoạt động học đã bao hàm nghĩa tự học.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi khái quát khái niệm về học tập như
Trong “Giải thích thuật ngữ tâm lý- giáo dục học” có từ sự học, học tập:
sau: học là quá trình người học tích cực, chủ động, tác động qua lại với môi
- Theo nghĩa rộng thông thường, được hiểu: sự học nghề, sự học việc.
truờng xung quanh nhằm chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo
Hoặc nghĩa: sự rèn luyện.
và thế giới quan khoa học cho bản thân.
- Trong giáo dục, đó là sự học (học tập): toàn bộ hoạt động làm cho
người học đạt được hay đi sâu vào kiến thức, hay phát triển tập tính.
- Đối với Tâm lý học, sự học là một chức năng trong đời sống động vật.
* Đặc điểm của hoạt động học
Bản chất của hoạt động học tập hay tự học được thể hiện qua những
đặc điểm cơ bản sau:
Tất cả các động vật đều có khả năng học, theo công thức chung: “Học là sự
- Đối tượng của hoạt động học là tri thức.
biến đổi tập tính” [5, tr.36].
Đó là hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo được lựa chọn phù hợp với
- Theo Nguyễn Kỳ, “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội
nội dung môn học. Cái đích (mục đích) mà người học hướng tới là chiếm lĩnh
tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị
tri thức thông qua sự tái tạo của cá nhân. Vì vậy hoạt động học còn được gọi
của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri
là “hoạt động chiếm lĩnh” [10, tr.55].
thức bên trong con người mình” [25].
- Học là một loại hình lao động đặc biệt mang tính độc đáo.
- Phan Trọng Ngọ cho rằng: “học là quá trình tương tác giữa cá thể với
Tính độc đáo thể hiện ở chỗ mục đích học là thay đổi chính mình, hình
môi trường, kết quả là dẫn đến sự biến đổi về mặt nhận thức, thái độ, hay
thành năng lực nghề nghiệp và hoàn thiện bản thân. Những lao động khác làm
hành vi của cá thể đó” [20, tr.15]. Tác giả Nguyễn Ngọc Quang quan niệm
thay đổi đối tượng lao động nhưng lao động học không làm biến đổi đối
rằng: “học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học
tượng là tri thức, mà ngược lại nó làm thay đổi chính chủ thể.
dưới sự điều khiển sư phạm của GV” [29, tr.57].
- Học là quá trình chủ thể học một cách độc lập, tự giác, tích cực trong
Nhìn chung, mỗi tác giả khi nghiên cứu về sự học (hoạt động học) đều
quá trình nhận thức.
có những lập luận và cách lý giải khác nhau, điều đó phụ thuộc vào mục đích,
Trong mọi tình huống học tập, đòi hỏi người học phải tích cực trong quá trình
hướng nghiên cứu chuyên sâu của mỗi tác giả. Nhưng tất cả đều đề cập đến
nhận thức. Người học càng tự lực tập trung cao về các chức năng tâm lý, về
tính ý thức, tính chủ định của hoạt động học tập. Dù học được tiến hành bằng
cơ bắp, huy động toàn bộ kinh nghiệm cá nhân để học trong lĩnh vực nào càng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
11
nắm vững kiến thức, kỹ năng, phương pháp học trong lĩnh vực đó.
Trong quá trình học, người học luôn luôn có sự lựa chọn, nhận xét, phê
- Học tập không những tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn
phán, kết hợp tính mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo của tư duy từ đó có cách học,
hướng vào việc tiếp thu về cách thức tổ chức hoạt động học, hay nói cách
cách vận dụng theo suy nghĩ của mình. Đó là mầm mống của sự phát triển tư
khác là học cách học.
duy sáng tạo của người học.
Học cách học có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình học tập, hình
Tóm lại, hoạt động học bao giờ cũng bao hàm nghĩa tự học và có mục
thành năng lực nghề nghiệp đồng thời đó là một trong những con đường cơ
đích, có đối tượng, có phương pháp học cụ thể. Về bản chất, đây là hoạt động
bản giúp người học không ngừng bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp.
không chỉ giúp người học lĩnh hội hệ thống tri thức xã hội mà sâu xa hơn là
- Hoạt động học bao giờ cũng mang cái mới đến cho người học.
giúp người học “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
Các kiến thức học sinh có được trong hoạt động học không là mới đối với
1.2.2. Tự học
khoa học nhưng là mới đối với bản thân. Các kỹ năng, phương pháp học sinh
Có nhiều quan niệm khác nhau về tự học:
tiếp thu được không là mới đối với các nhà sư phạm nhưng là mới đối với học
Nghiên cứu tự học với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học ở Đại
sinh. Nhờ có cái mới đó mà học sinh luôn cảm thấy hứng thú trong học tập.
học được Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức [11], Lưu Xuân Mới [17]… bàn đến.
- Nhu cầu, động cơ học tập được người học tiếp nhận trở thành động
Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức định nghĩa: “Tự học là hình thức dạy học cơ
lực thúc đẩy hoạt động học. “Động cơ là động lực kích thích trực tiếp, là
bản ở đại học. Đó là một hình thức hoạt động cơ bản của cá nhân, nhằm nắm
nguyên nhân trực tiếp của hành vi” [33, tr.206]. Trong hoạt động học tập
vững hệ thống tri thứcvà kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành ở
động cơ là yếu tố cơ bản thúc đẩy sự nỗ lực học tập của học sinh. Trong quá
trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo
trình học tập, người học có thể chi phối bởi nhiều động cơ khác nhau. Mức độ
khoa đã được quy định”.
tích cực của người học chịu sự chi phối bởi động cơ chủ đạo.
Nghiên cứu tự học như là một hoạt động nhận thức của SV,
- Nhiệm vụ học “là đơn vị (tế bào)” của hoạt động học tập.
T.Makiguchi đã chỉ rõ bản chất tự học của SV là hoạt động nhận thức bằng
Nhiệm vụ học tập có thể hiểu là những việc làm mà người học đề ra
hành động tìm tòi, nghiên cứu, khám phá [23].
cho mình phải thực hiện để lĩnh hội hệ thống tri thức theo yêu cầu của từng
môn học để đạt được mục đích học tập.
Nghiên cứu tự học như là hoạt động tự giác, tích cực của SV dưới vai
trò điều khiển của GV, tác giả Lê Khánh Bằng định nghĩa: “Tự học là học với
- Hành động học là bộ phận cấu thành của hoạt động học, được thúc
sự tự giác, tích cực, độc lập cao” [3]. Đồng tình với quan niệm này có các tác
đẩy bởi động cơ của hoạt động và tương ứng với mục đích học tập. Hành
giả như: Trịnh Quang Từ, Nguyễn Ngọc Bảo, Võ Quang Phúc, Nguyễn Thị
động luôn hướng vào để giải quyết một mục tiêu cụ thể nào đó. Nhờ hành
Tính,…
động học mà người học giải quyết được nhiệm vụ học.
Dưới góc độ nghiên cứu hoạt động tự học như là hoạt động nghiên cứu,
- Hoạt động học luôn mang tính sáng tạo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
với sự giúp đỡ gián tiếp của GV, tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so
đối chiếu giữa lí luận và thực tiễn để nắm vững, hiểu sâu tri thức môn học.
sánh, phân tích, tổng hợp,…) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ),
Bên cạch đó, người học cần lựa chọn phương pháp học tập khoa học, hợp lí
cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
để đạt hiệu quả cao trong học tập.
thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, ý chí tiến thủ, không ngại
1.2.3. Tổ chức tự học
khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học…) để chiếm lĩnh một
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của SV, một yêu cầu tất yếu đặt
lĩnh vực nào đó” [26, tr.59-60]. Theo tác giả PhạmViết Vượng: “Tự học là
ra là hoạt động tự học cần phải được sắp xếp và tổ chức một cách khoa học.
hình thức học sinh học ngoài giờ lên lớp bằng nỗ lực cá nhân theo kế hoạch
Nói cách khác, người thầy giáo cần quan tâm đến việc tổ chức hoạt động tự
học tập chung và không có mặt trực tiếp của giáo viên”[35, tr.133].
học cho SV.
Dựa vào định nghĩa của các tác giả nêu trên, chúng tôi rút ra nhận xét
Tổ chức là một công việc bao gồm sự sắp xếp, thiết kế các biện pháp
như sau: tự học là một bộ phận, một thành phần của học. Học bao giờ cũng
tiến hành hoạt động, là việc sử dụng các đối tượng và các phương tiện hỗ trợ
bao gồm tự học, nhưng không phải bất cứ sự học nào cũng có tự học. Chỉ khi
nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Đây là công việc có vai trò quan trọng, ảnh
người học học với sự độc lập và tự lực cao khi đó tự học mới xảy ra. Tính
hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động.
chất cơ bản quan trọng không thể thiếu của tự học là sự tự giác, tích cực, độc
Trong dạy học, có nhiều quan niệm khác nhau: I.P.RaTrencô cho rằng:
lập và sáng tạo của người học trong hoạt động học tập. Tự học được diễn ra
“Tổ chức quá trình dạy học là quá trình thực hiện những biện pháp có cơ sở
trong lớp hoặc ngoài lớp, có hoặc không có sự can thiệp trực tiếp của GV.
khoa học nhằm đảm bảo hiệu suất cao nhất của quá trình dạy học với điều
Từ những phân tích trên đây, theo chúng tôi, tự học là một bộ phận
kiện sử dụng hợp lý thời gian, sức lực, phương tiện của GV và học sinh.”
của học, trong đó sinh viên huy động ở mức cao nhất tiềm năng trí tuệ, vốn
[16]. Còn theo V.B.Bololêpov thì tổ chức là một sự sắp xếp tương hỗ và liên
sống, tình cảm và ý chí của mình để lĩnh hội một cách tự lực tri thức, kỹ
hệ qua lại của các yếu tố trong một phức hợp nào đó, tổ chức không phải là
năng, kỹ xảo và hoàn thiện nhân cách dưới sự hướng dẫn hoặc không có
nội dung của hoạt động mà là hình thức, phương pháp thực hiện và hành động
sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên.
của nó.
Từ khái niệm về tự học, chúng ta có thể hiểu tự học môn GDH là quá
Như vậy, tổ chức dạy học là sự sắp xếp các thao tác, các hành động dạy
trình người học tích cực, chủ động, tự tổ chức hoạt động nhận thức của
học. Còn tổ chức hoạt động học tập cho học sinh là cách thiết kế, sắp xếp các
mình nhằm chiếm lĩnh nội dung tri thức GDH, hình thành những kỹ năng,
biện pháp hoạt động phối hợp chung giữa GV và học sinh trong các hình thức
kỹ xảo nghề nghiệp tương ứng, dưới sự hướng dẫn hoặc không có sự
học tập khác nhau nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
Vận dụng những quan điểm nêu trên vào việc tổ chức tự học cho SV
hướng dẫn trực tiếp của giảng viên.
Muốn học tốt môn GDH, sinh viên phải biết vận dụng mọi hình thức để
chúng tôi cho rằng: tổ chức tự học cho SV là quá trình thiết kế, sắp xếp quy
tự học, bản thân người học phải có sự nỗ lực, tích cực, độc lập, luôn so sánh,
trình tổ chức giảng dạy của GV nhằm tiến hành hướng dẫn, điều kiển, chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
15
đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp quy trình tự học, tự nghiên cứu của SV để
và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông -
thực hiện các mục đích, nhiệm vụ học tập đề ra.
nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông
Bản chất của việc tổ chức tự học cho SV là quá trình GV sắp xếp và
tiến hành các biện pháp dạy học sao cho phát huy được tính tích cực, tự giác
của người học mức độ cao nhất trong mọi hình thức học tập dưới sự hỗ trợ
của các phương tiện dạy học.
tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người
và xã hội".
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích
hợp vào chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng
Từ khái niệm về tổ chức tự học cho SV, chúng ta có thể hiểu: tổ chức
nội dung về CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
tự học môn GDH cho SV là quá trình thiết kế, sắp xếp quy trình tổ chức
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng thông rộng tới tất cả các
giảng dạy môn GDH của GV nhằm tiến hành hướng dẫn, điều kiển, chỉ
trường học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các
đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp quy trình tự học, tự nghiên cứu môn GDH
môn học đã trở thành hiện thực.
của SV để thực hiện các mục đích, nhiệm vụ học tập đề ra.
Tổ chức tự học môn GDH cho SV nhằm biến quá trình dạy học môn
GDH thành quá trình tự học môn GDH, nâng cao hiệu quả của việc dạy và
Như vậy, theo chúng tôi, CNTT là hệ thống các phuơng tiện và công
cụ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho việc tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin
trong mọi lĩnh vực cuộc sống.
học môn GDH, thực hiện đầy đủ, có chất lượng, đạt tới mục đích, yêu cầu của
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu: tổ chức tự học môn GDH
môn GDH trong các trường CĐSP. Muốn làm được điều đó cần tiến hành tổ
có sự hỗ trợ của CNTT cho SV là quá trình thiết kế, sắp xếp quy trình tổ
chức tự học bằng các phương pháp, dưới nhiều hình thức khác nhau, kết hợp
chức giảng dạy môn GDH của GV có sử dụng hệ thống các phương tiện và
sự hỗ trợ của các phương tiện và kỹ thuật dạy học hiện đại như máy tính,
công cụ kỹ thuật hiện đại nhằm hướng dẫn, điều kiển, chỉ đạo quy trình tự
mạng Internet,…
học, tự nghiên cứu môn GDH của SV để thực hiện các mục đích, nhiệm vụ
1.2.4. Công nghệ thông tin
học tập đề ra.
CNTT, (tiếng Anh: Information Technology, viết tắt là IT) là ngành
Trong thời đại CNTT phát triển như hiện nay, việc ứng dụng những
ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, đặc biệt trong các cơ quan tổ
thành tựu của CNTT vào giảng dạy và học tập môn GDH được coi là một
chức lớn.
hướng đi mới mẻ, hứa hẹn nhiều hiệu quả tích cực. Người thầy có thể tự thiết
Cụ thể, CNTT là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để
chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin.
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị
quyết 49/CP ký ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT của chính phủ Việt
Nam, như sau: "CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
kế hoặc vận dụng những phần mềm có sẵn để xây dựng các trang web học tập
nhằm giúp cho người học có thể tự học, tự ôn tập môn GDH một cách liên
tục, thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi. Với cách làm này, việc dạy – học môn
GDH sẽ được cải tiến, đổi mới theo đúng xu thế phát triển của thời đại.
1.3. Hoạt động tự học môn GDH của SV CĐSP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
- Tự học ở mức độ cao: Hoạt động học hoàn toàn độc lập, mang tính
1.3.1. Đặc điểm hoạt động tự học của SV
Hoạt động học tập – tự học của SV có những đặc điểm của hoạt động
học tập nói chung và mang đặc trưng riêng, thể hiện sự độc đáo như sau:
- Có tính chất độc đáo về mục đích và kết quả hoạt động. SV học tập để
tiếp thu tri thức khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp,
phát triển những phẩm chất nhân cách của người chuyên gia tương lai.
- Hoạt động học tập diễn ra trong điều kiện có kế hoạch, vì nó phụ
thuộc vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo.
- Phương tiện hoạt động là thư viện với sách vở, phòng thực nghiệm
với thiết bị của bộ môn và các điều kiện cơ sở vật chất khác.
chất nghiên cứu, không có sự hướng dẫn, điều khiển của thầy. Với hình thức
tự học này, người học hoàn toàn độc lập hoàn thành các nhiệm vụ học tập của
mình, vai trò chủ thể của người học là nhân tố trọng yếu nhất trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức.
- Tự học có sự hướng dẫn của thầy nhưng không giáp mặt: Tự học có
hướng dẫn, ngoài tính tự chủ của người học cần có những tác động khách
quan mang tính định hướng, chỉ dẫn để việc học tập mang lại kết quả cao
(các bài giảng trực tuyến, bài học trong các tài liệu hướng dẫn của thầy…).
Trong hình thức tự học này, đòi hỏi người học phải có tính tự giác và tính tích
- Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của SV với nhịp độ căng thẳng
cực cao. Hiệu quả của hoạt động học tập ở hình thức này phụ thuộc vào vai
mạnh mẽ về trí tuệ. Họ phải chịu một sự quá tải và điều đó thể hiện rất rõ
trò của người hướng dẫn và vai trò tích cực chủ động hoàn thành các nhiệm
trong các kỳ kiểm tra, thi, bảo vệ khoá luận, luận văn.
vụ học tập của người học. Đây là hướng mà đề tài chúng tôi tập trung nghiên
- Hoạt động học tập của SV mang tính độc lập, tính trí tuệ cao.
cứu thông qua việc trao đổi với sinh viên trên trang web học tập.
Cốt lõi của hoạt động học tập của SV là sự tự ý thức về học tập của họ -
- Tự học có sự hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển trực tiếp của thầy: với
tự ý thức về động cơ, mục đích, biện pháp học tập, hiểu sâu sắc rằng chính
hình thức này, người học có nhiều thuận lợi hơn so với hai hình thức tự học
mình là chủ thể của hoạt động nên bản thân phải là người tổ chức, định
trên. Kết quả tự học của người học trong hình thức này phụ thuộc vào mối quan
hướng, cụ thể hoá quá trình học tập.
hệ thống nhất biện chứng giữa người dạy và người học, trong đó sự hướng dẫn
Trong số các hoạt động của SV thì hoạt động học tập giữ vai trò chủ
tổ chức và chỉ đạo của thầy đóng vai trò quan trọng. Yếu tố đóng vai trò quyết
đạo, nghĩa là chính trong quá trình hoạt động đó mà các mục đích cơ bản của
định là tính tích cực, tính tự giác, năng lực tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động
việc đào tạo người chuyên gia được thực hiện. Hoạt động này ảnh hưởng sâu
tự học của người học.Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của người thầy trong hình
sắc nhất đến sự phát triển các quá trình và các thuộc tính tâm lý của SV, đến
thức tự học này là phải phát huy được tính tích cực, tính tự giác, tính độc lập
sự lĩnh hội tri thức khoa học, các thông tin, các kỹ năng và kỹ xảo nghề
hoàn thành nhiệm vụ học tập của SV, hình thành phương pháp tự học cho họ để
nghiệp rất quan trọng của họ.
họ có khả năng tự học và giải quyết các nhiệm vụ học tập.
Như vậy, bản chất của tự học là quá trình người học cá nhân hoá việc
1.3.2. Các hình thức tự học của SV
Tự học có các hình thức sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
học nhằm thoả mãn nhu cầu học tập, tự giác tiến hành các hành động học tập
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
để thực hiện có hiệu quả mục đích và nhiệm vụ học tập đề ra. Hay nói một
bộ môn GDH đã có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương pháp đào tạo,
cách khác là tự học với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao.
luôn luôn đáp ứng được những yêu cầu có tính chất nghiệp vụ sư phạm của
1.3.3. Tự học môn GDH của SV CĐSP
nghề nghiệp. Khối lượng kiến thức của các học phần môn GDH rất lớn, mang
1.3.3.1. Đặc điểm môn GDH ở trƣờng CĐSP
tính lý luận cao, đòi hỏi SV phải có khả năng lựa chọn các phương pháp,
Môn GDH là môn khoa học ứng dụng có tính nghề nghiệp cao. Nhiệm
phương tiện, hình thức học tập,…kết hợp với tự học, tự nghiên cứu thì mới
vụ của môn GDH là trang bị cho SV trường CĐSP hệ thống những tri thức
lĩnh hội được nội dung môn GDH.
hiểu biết về nghề nghiệp, giúp SV nắm vững các nguyên lý cơ bản của GDH
1.3.3.2. Cấu trúc của hoạt động tự học môn GDH
Mác xít, đường lối quan điểm giáo dục của Đảng và Nhà nước, đồng thời nắm
Tự học môn GDH là một quá trình gồm nhiều thành tố cấu trúc, giữa
vững hệ thống lý luận giáo dục và dạy học trong nhà trường phổ thông. Trên
các thành tố cấu trúc đó có mối quan hệ mật thiết với nhau:
cơ sở giúp người học tiếp thu hệ thống tri thức nêu trên, môn GDH còn hình
- Mục đích, nhiệm vụ tự học môn GDH là nhằm giúp cho người học
thành ở người học hệ thống kỹ năng sư phạm và hệ thống thái độ tích cực để
nắm vững hệ thống các quan điểm, đường lối giáo dục của chủ nghĩa Mác,
tổ chức có hiệu quả các hoạt động giáo dục và dạy học trong nhà trường phổ
của Đảng và Nhà nước, nắm vững hệ thống lý luận về giáo dục và dạy học, về
thông.
công tác quản lý trường học. Đồng thời hình thành ở họ một hệ thống kỹ năng
GDH có đặc trưng vừa là khoa học xã hội, vừa là khoa học nghiệp vụ.
và thái độ nghề nghiệp tương ứng.
Vì thế GDH không chỉ trang bị cho người học tri thức về quá trình dạy học,
- Nội dung tự học là thành tố cơ bản tạo nên nội dung hoạt động của
quá trình giáo dục trong nhà trường mà còn nghiên cứu quá trình giáo dục con
chủ thể tự học, thông qua nội dung tự học mà chủ thể tự học cá nhân hoá việc
người, liên quan đến nhiều môn học khác.
học của mình. Nội dung tự học môn GDH gồm các thành phần sau:
GDH là môn học vừa mang tính lý luận, lại vừa có tính thực tiễn cao.
Môn học này có hệ thống khái niệm trừu tượng, nhưng biểu hiện trong thực tế
+ Hệ thống tri thức lý luận về nghề dạy học, về tổ chức và chỉ đạo các
hoạt động giáo dục và quản lý trường học.
lại rất sinh động và gần gũi với SV. Vì vậy, việc học môn GDH không chỉ
+ Hệ thống những kỹ năng sư phạm, gồm kỹ năng dạy học, kỹ năng
đơn thuần là việc nắm vững quan điểm, đường lối, khái niệm, quy luật, … mà
giáo dục, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức các hoạt động xã hội, kỹ năng
đòi hỏi người học phải có hiểu biết nhất định về xã hội, về tình hình giáo dục
nghiên cứu khoa học, vv…
của đất nước và trên thế giới và đặc biệt phải biết vận dụng tri thức vào thực
tế. Có như vậy mới đảm bảo có kết quả học tập cao.
+ Hệ thống những kinh nghiệm hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực nghề
nghiệp.
Môn GDH có nội dung thường xuyên thay đổi theo quan điểm
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, song nó lại có quan hệ chặt chẽ với phương
+ Hệ thống những chuẩn mực về phẩn chất và thái độ cần thiết của
người thầy giáo.
pháp giảng dạy bộ môn theo các chuyên ngành đào tạo. Trong những năm qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
- Phương pháp tự học môn GDH là cách thức tiến hành các thao tác,
các hành động nhằm chiếm lĩnh nội dung tự học môn GDH một cách có hiệu
tác động bên ngoài (tác động của giáo viên, của bạn, của mục đích, nội dung
môn học…) và cũng có thể xuất hiện từ bên trong chủ thể tự học.
quả. Phương pháp tự học môn GDH bao gồm phương pháp nghe và ghi bài
- Người thầy trong quá trình tự học của SV là nhân tố giữ vị trí, vai trò
trên lớp, phương pháp đọc sách và nghiên cứu tài liệu, phương pháp hợp tác
quan trọng, là điều kiện cần và đủ để hoạt động tự học đạt hiệu quả cao. Thầy
để chiếm lĩnh nội dung tự học từ nhiều kênh thông tin khác nhau, phương
giáo đóng vai trò là người tổ chức, người điều khiển, người hướng dẫn các
pháp giải các bài tập tình huống, phương pháp rèn luyện kỹ năng sư phạm,
biện pháp tự tổ chức, tự điều khiển, tự thực hiện của SV. Là nhân tố trọng yếu
phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, phương pháp mô hình hoá,
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tự học của SV.
phương pháp tự kiểm tra, tự đánh giá, vv… Phương pháp tự học có thể bao
gồm nhiều biện pháp tự học khác nhau: các biện pháp ghi chép, các biện pháp
so sánh, phân tích, tổng hợp, các biện pháp xử lý tình huống vv…
- Phương tiện tự học gồm tài liệu, giáo trình, máy tính, địa điểm tự học,
các hoạt động có thể để tiến hành tự học. Phương pháp và phương tiện tự học
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tự học môn GDH của SV, nó
là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của quá trình tự học môn GDH.
- Người học, tính tích cực tự học của người học là nhân tố quyết định
hiệu quả của quá trình tự học môn GDH. Tính tích cực học tập môn GDH gồm
1.4. Sự phát triển của CNTT và các yêu cầu khi vận dụng CNTT vào
tự học môn GDH ở trƣờng CĐSP
1.4.1. Sự phát triển của CNTT
Sự phát triển của CNTT thể hiện thông qua lịch sử phát triển của mạng
máy tính và Internet trên thế giới và tại Việt Nam:
* Mạng máy tính hay hệ thống mạng (tiếng Anh: computer network
hay network system), là một tập hợp các máy tính tự hoạt được kết nối nhau
thông qua các phương tiện truyền dẫn để nhằm cho phép chia sẻ tài nguyên:
máy in, máy fax, tệp tin, dữ liệu...
những thành tố cơ bản sau: hoạt động nhận thức để chiếm lĩnh nội dung tri
Một máy tính được gọi là tự hoạt (autonomous) nếu nó có thể khởi
thức, kỹ năng, thái độ mà môn học đề ra; hoạt động giao tiếp trong môi trường
động, vận hành các phần mềm đã cài đặt và tắt máy mà không cần phải có sự
lớp học; hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm; hoạt động giao lưu tình cảm;
điều khiển hay chi phối bởi một máy tính khác.
hoạt động giao lưu trong học tập vv…và tiền đề của nó là tính tích cực sinh
Các thành phần của mạng có thể bao gồm:
học. Tính tích cực tự học môn GDH được hợp bởi hai mặt luôn luôn gắn liền
• Các hệ thống đầu cuối (end system) kết nối với nhau tạo thành mạng,
với nhau trong bản thân chủ thể tự học, đó là: năng lực học tập, những tri thức,
có thể là các máy tính hoặc các thiết bị khác. Nói chung hiện nay ngày càng
kỹ năng để tiến hành hoạt động học tập, hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư
nhiều các loại thiết bị có khả năng kết nối vào mạng máy tính như điện thoại
phạm và động cơ học tập - đối tượng hoặc những đối tượng bên ngoài được
di động, PDA, tivi,...
chủ thể hoá trong cấu trúc tình cảm, nhu cầu, ý chí, lý trí, hứng thú bên trong cá
• Môi trường truyền (media) mà các thao tác truyền thông được thực
nhân người học, tức là cá nhân người học nhận thấy mục tiêu của mình sau
hiện qua đó. Môi trường truyền có thể là các loại dây dẫn (dây cáp), sóng điện
những đối tượng này. Như vậy, tính tích cực tự học có thể xuất hiện từ những
từ (đối với các mạng không dây).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
23
• Giao thức truyền thông (protocol) là các quy tắc quy định cách trao
đổi dữ liệu giữa các thực thể.
(bulletin board). Các người dùng kết nối đến sàn thông báo này, để lại đó hay
lấy đi các thông điệp, cũng như gửi lên hay tải về các tập tin. Hạn chế của hệ
* Lịch sử mạng máy tính:
thống là có rất ít hướng truyền tin, và chỉ với những ai biết về sàn thông báo
Máy tính của thập niên 1940 là các thiết bị cơ - điện tử lớn và rất dễ
đó. Ngoài ra, các máy tính tại sàn thông báo cần một modem cho mỗi kết nối,
hỏng. Sự phát minh ra transitor bán dẫn vào năm 1947 tạo ra cơ hội để làm ra
chiếc máy tính nhỏ và đáng tin cậy hơn.
khi số lượng kết nối tăng lên, hệ thống không thề đáp ứng được nhu cầu.
Qua các thập niên 1950, 1960, 1970, 1980 và 1990, Bộ Quốc phòng
Năm 1950, các máy tính lớn mainframe chạy bởi các chương trình ghi
Hoa Kỳ đã phát triển các mạng diện rộng WAN có độ tin cậy cao, nhằm phục
trên thẻ đục lỗ (punched card) bắt đầu được dùng trong các học viện lớn. Điều
vụ các mục đích quân sự và khoa học. Công nghệ này khác truyền tin điểm
này tuy tạo nhiều thuận lợi với máy tính có khả năng được lập trình nhưng
nối điểm. Nó cho phép nhiều máy tính kết nối lại với nhau bằng các đường
cũng có rất nhiều khó khăn trong việc tạo ra các chương trình dựa trên thẻ đục
dẫn khác nhau. Bản thân mạng sẽ xác định dữ liệu di chuyển từ máy tính này
lỗ này.
đến máy tính khác như thế nào. Thay vì chỉ có thể thông tin với một máy tính
Vào cuối thập niên 1950, người ta phát minh ra mạch tích hợp (IC)
tại một thời điểm, nó có thể thông tin với nhiều máy tính cùng lúc bằng cùng
chứa nhiều transitor trên một mẫu bán dẫn nhỏ, tạo ra một bước nhảy vọt
một kết nối. Sau này, WAN của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã trở thành
trong việc chế tạo các máy tính mạnh hơn, nhanh hơn và nhỏ hơn. Đến nay,
Internet.
IC có thể chứa hàng triệu transistor trên một mạch.
Năm 1997 Internet được chính thức đưa vào Việt Nam và được ứng
Vào cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, các máy tính nhỏ được
gọi là minicomputer bắt đầu xuất hiện.
dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực.
1.4.2. Một số hình thức ứng dụng CNTT vào tự học môn GDH
Năm 1977, công ty máy tính Apple Computer giới thiệu máy vi tính
cũng được gọi là máy tính cá nhân (personal computer - PC).
1.4.2.1. Dạy và học bằng bài giảng điện tử
Dạy và học bằng bài giảng điện tử theo công nghệ e-Learning có ưu
Năm 1981, IBM đưa ra máy tính cá nhân đầu tiên. Sự thu nhỏ ngày
điểm là tạo hứng thú cho cả thầy và trò trong buổi học nhờ có sự truyền đạt và
càng tinh vi hơn của các IC đưa đến việc sử dụng rộng rãi máy tính cá nhân
tiếp nhận bài giảng thông qua những hình thức phong phú, đa dạng như hình
tại nhà và trong kinh doanh.
ảnh, âm thanh giúp cho SV tiếp nhận bài giảng dễ hiểu hơn. GV được giảm
Vào giữa thập niên 1980, người sử dụng dùng các máy tính độc lập bắt
nhẹ việc thuyết giảng, có điều kiện trao đổi, thảo luận với SV về những vấn
đầu chia sẻ các tập tin bằng cách dùng modem kết nối với các máy tính khác.
đề nảy sinh. Qua đó, SV được kích thích khám phá tri thức qua thông tin thu
Cách thức này được gọi là điểm nối điểm, hay truyền theo kiểu quay số. Khái
nhận được, có thể nêu câu hỏi với GV, giúp cho giờ học thêm sinh động. GV
niệm này được mở rộng bằng cách dùng các máy tính là trung tâm truyền tin
không phải soạn bài giảng nhiều lần mà chỉ cần đầu tư cho lần soạn đầu tiên
trong một kết nối quay số. Các máy tính này được gọi là sàn thông báo
và cập nhật, chỉnh sửa cho bài giảng tốt hơn vào những lần sau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
25
Tuy nhiên, việc dạy và học bằng bài giảng điện tử cũng có những hạn
chế nhất định. Nếu tập trung vào thảo luận các vấn đề liên quan đến bài học,
người sử dụng cần tìm. Khi đó GV và SV có thể in trực tiếp hoặc lưu trữ bằng
cách down load các tài liệu liên quan.
SV sẽ không có nhiều thời gian cho việc thực hành, vì vậy đòi hỏi GV phải
1.4.2.3. Tham khảo sách điện tử, giáo trình điện tử
phân bố thời gian hợp lý. Trên thực tế, việc dạy - học bằng bài giảng điện tử
Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tăng cường hoạt động tự
không thể áp dụng với tất cả các nội dung của từng bài học, có những tiết dạy
học, tự nghiên cứu là vấn đề bức thiết đặt ra cho mỗi nhà giáo và SV. Để tăng
sẽ không thể đạt hiệu quả tối đa nếu thiếu phương pháp dạy truyền thống, có
cường tính chất nghiên cứu, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo
những tiết học sẽ không giúp SV hiểu và nhớ lâu nếu không được hỗ trợ bằng
của SV, người dạy, với tư cách là người hướng dẫn quá trình cần phải chỉ ra
hình ảnh, âm thanh. Vì vậy GV cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp
cho SV cách tìm kiếm, khai thác những nguồn học liệu mở trên mạng CNTT
giảng dạy bằng bài giảng điện tử và cách dạy truyền thống để có thể phát huy
toàn cầu. Hiện nay, phần lớn các thư viện, nhà xuất bản, viện nghiên cứu,
tối đa hiệu quả của việc dạy và học.
trường đại học, cao đẳng trong nước và nước ngoài đều có trang web riêng.
1.4.2.2. Tìm kiếm tài liệu, tra cứu thông tin trên mạng Internet
Trên các trang web đó có đăng tải các công trình nghiên cứu khoa học, các
Ngày nay, cán bộ giảng dạy và SV phải có thói quen và khả năng tự
cuốn sách và giáo trình điện tử. Có thể nói, với sách điện tử và giáo trình trên
học để bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tích luỹ kiến
mạng Internet, mỗi GV và SV có thể tham khảo hàng trăm, hàng nghìn cuốn
thức. Tuy nhiên, người dạy và người học thường gặp khó khăn trong việc tìm
sách và bài giảng khác nhau ở bất cứ thời gian và không gian nào. Mỗi người
kiếm tài liệu, tra cứu thông tin do các thư viên truyền thống chưa đáp ứng đủ
có thể tìm cuốn sách và giáo trình mình cần một nhanh chóng, có thể tham gia
nhu cầu học hỏi, tìm hiểu và nghiên cứu của họ. Vì vậy, Internet và máy vi
diễn đàn và trao đổi những suy nghĩ của mình về một cuốn sách hay một vấn
tính chính là một phương tiện giúp mỗi người tự học tốt nhất. GV và SV có
thể tìm kiếm, tra cứu tri thức về mọi lĩnh vực.
Hiện nay, có hai cách để tìm kiếm các thông tin trên mạng Internet: tìm
kiếm tĩnh và tìm kiếm động.
Tìm kiếm tĩnh là sử dụng danh bạ website. Chỉ cần gõ chính xác địa chỉ
website là người dùng có thể truy cập vào trang thông tin điện tử để khai thác
thông tin.
Tìm kiếm động là tìm kiếm trực tuyến, cách này sử dụng những địa chỉ
website là công cụ tìm kiếm (Search Engine). Các website tìm kiếm hữu hiệu
nhất hiện nay là các trang: , , , , , ... Từ cửa sổ của các trang web đó, người
truy cập chỉ cần gõ trực tiếp những từ hoặc cụm từ cần tìm và gõ phím Enter,
các trang chủ sẽ kết nối (link) đến các địa chỉ chứa những từ hoặc cụm từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
đề quan tâm, có thể viết lại ghi nhớ, đánh dấu những thông tin quan trọng của
cuốn sách, có thể chuyển từ trang sách này sang trang sách khác một cách đơn
giản. Một số địa chỉ thông dụng để GV và học sinh, SV có thể truy cập tìm
sách và giáo trình phục vụ việc dạy - học là: (trang web của Thư viện Quốc
gia); (mạng thư viện Việt Nam); (siêu thị sách trực tuyến lớn nhất Việt
Nam); (thư viện trực tuyến để đọc và dowload hàng ngàn đầu sách miễn phí);
(một trong những thư viện điện tử lớn nhất thế giới với trên 330.000 đầu sách,
100 ngôn ngữ); ; ; ; (Thư viện giáo trình điện tử của Bộ Giáo dục và Đào
tạo), ; ; (website của Trường Đại học Cần Thơ) (website Trường Đại học An
Giang); (website của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; (website
của Đại học Quốc gia Hà Nội)… Đây là những điểm truy cập tập trung các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
thông tin về giáo trình, nội dung tham khảo, các nguồn học liệu. Tại các
các phương tiện nghe nhìn như máy chiếu phim video, băng từ + Ti vi
website này, GV và SV có thể tìm kiếm trực tuyến kho giáo trình ở các trình
(television), đầu đĩa VCD, DVD + các loại CD room + Ti vi, máy chiếu đa
độ. Ở các trang web này có hầu hết các giáo trình quy định trong chương trình
chức năng (multimedia projector)… SV được học tập thường xuyên trong môi
đào tạo. Trong mỗi giáo trình, các tác giả đã giới thiệu đề cương bài giảng của
trường có các thiết bị điện tử sẽ luôn tăng hứng thú học tập, phát huy khả
mình, trình bày những ý tưởng và cách thức tổ chức bài học. Cùng một nội
năng tư duy sáng tạo. Phương pháp dạy và học có sự tham gia nhiều hơn của
dung bài học quy định trong chương trình và giáo trình nhưng có rất nhiều
SV bằng thảo luận nhóm, nêu ý kiến sẽ phát huy nhiều hơn tính chủ động
cách khai thác và tổ chức bài học khác nhau. Mỗi giáo trình thường có hai
trong tiếp nhận kiến thức. Cùng một thời lượng như nhau, nhưng số lượng
phần. Phần đầu giới thiệu một số thông tin cần thiết và bắt buộc như: tên học
kiến thức và kỹ năng SV thu nhận lại nhiều hơn, cụ thể, sinh động, sâu sắc
phần và trình độ; người soạn (bao gồm họ tên, chức danh và địa chỉ e mail);
hơn. Số lượng bài tập thực hành của SV cũng được rèn luyện nhiều hơn. Từ
địa chỉ nơi người soạn công tác; tài liệu học tập và giảng dạy (ghi những tài
đó, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu sẽ phát huy có hiệu quả cao hơn.
liệu tham khảo, phương tiện dạy học, các trích đoạn băng hình và tiếng, các
1.4.2.5. Gửi, nhận văn bản bằng thƣ điện tử
phần mềm dùng cho việc học, làm bài tập, nghiên cứu); khối lượng và cấu
Thư điện tử hay e mail (electronic mail) là một hệ thống chuyển nhận
trúc học phần (nêu rõ số đơn vị học trình, số tiết lý thuyết, số tiết thực hành);
thư từ qua các mạng máy tính. Một e mail có thể được gửi đi ở dạng mã hoá
các khái niệm dạy học (nêu các khái niệm cơ bản sẽ đề cập và trình bày trong
hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính, đặc biệt là
bài giảng). Phần hai: nêu nội dung bài giảng. Độ ngắn, dài, khái quát hay chi
mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông tin (bằng chữ, hình ảnh, âm
tiết của phần này phụ thuộc vào sự trình bày của người soạn.
thanh, phim) từ một máy chủ tới một hay rất nhiều máy nhận trong cùng một
1.4.2.4. Sử dụng các thiết bị điện tử vào quá trình dạy học
thời điểm. Điều này rất cần thiết trong việc trao đổi, liên lạc giữa cán bộ giảng
Quá trình dạy - học cho SV cần đẩy mạnh sử dụng các thiết bị nghe
dạy và SV.
nhìn để tăng hiệu quả tiếp thu, ghi nhớ bài giảng của SV, giảm bớt việc ghi,
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng hệ thống e mail có tên
đọc, chép của GV và SV. Các nghiên cứu giáo dục cho thấy người học chỉ
miền @moet.edu.vn trên nền gmail để cung cấp cho các đơn vị, cơ sở giáo
nhớ được 10% những gì đã đọc, 20% những gì đã nghe và khoảng 50%
dục trong cả nước sử dụng thống nhất. Hệ thống e mail @moet.edu.vn được
những gì họ nghe và thấy.
sử dụng trên nền gmail có khá nhiều ưu điểm: có thể truy cập ở mọi nơi, mọi
Một số thiết bị nghe thường dùng trong nhà trường là máy ghi âm
lúc bằng chương trình duyệt web (như Firefox, Internet Explore) với địa chỉ ;
(cassette) + băng từ, máy ghi âm kỹ thuật số; các thiết bị nhìn như máy đèn
có thể tải e mail về máy bàn để dùng trên Outlook với giao thức POP3, nghĩa
chiếu (slide projector) + phim dương bản, máy phóng hình (overhead
là có thể dùng ngay Outlook để xem e mail này; có thể gửi e mail cho một
projector) + phim (film) A4, máy chiếu vật thể (visual projector) + phim A4
nhóm đối tượng người sử dụng, như gửi e mail cho toàn thể SV của lớp, của
hoặc vật thể, máy chiếu phim dương bản 35mm (hành động) + phim nhựa;
khoa… Với hệ thống e mail này, GV có thể cung cấp cho SV những tài liệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
29
mình có bằng cách gửi qua e mail. Ngược lại, SV nếu tìm được những tài liệu
có giá trị thì cũng có thể chuyển cho thầy, cô giáo của mình. Mỗi khi SV làm
- Việc học của SV có thể được cá nhân hóa với sự giúp đỡ của GV
bằng cách trao đổi trực tiếp với GV mà không ngại bị đánh giá.
tiểu luận, viết bài báo… thì có thể gửi qua e mail để GV góp ý, sửa chữa trực
- Việc truy cập Internet thường xuyên có thể trang bị thêm cho SV các
tiếp trên máy tính. Một ưu điểm nữa là SV có thể viết thư điện tử xin phép các
kỹ năng khác như tiếp cận và xử lý thông tin, giải quyết vấn đề, hợp tác, sáng
nhà khoa học, các nhà giáo để download các bài báo, các cuốn sách phục vụ
tạo, các kỹ năng về công nghệ và ngoại ngữ nói chung.
cho việc học tập của bản thân.
- Việc truy cập Internet cũng tạo cho GV và SV niềm say mê, hứng thú
Nói tóm lại, việc ứng dụng CNTT vào dạy - học cho SV chính là một
trong những hoạt động để đổi mới phương pháp dạy - học, đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng đào tạo trong thời kỳ hội nhập, tạo thuận lợi cho người
học có thể tích luỹ dần kiến thức theo khả năng và điều kiện của mình. Dưới
tác động của CNTT, hoạt động tự học môn GDH nói riêng và các môn học
khác nói chung trong nhà trường đã diễn ra và có những kết quả đáng chú ý,
trong giảng dạy và học tập, giúp cho họ có thêm động cơ học tập.
- SV có thể chủ động trong việc xây dựng lộ trình học tập của mình và
có thể mở rộng hoặc giới hạn mối quan tâm của mình.
- Internet là công cụ tuyệt vời trong việc giúp SV thực hành khả năng
làm việc và nghiên cứu độc lập.
- SV có thể làm việc theo nhóm, độc lập hay kết hợp với nhiều thành
đòi hỏi mỗi cá nhân, các trường Đại học, Cao đẳng, các sở Giáo dục, Bộ Giáo
viên bên ngoài lớp học, thành phố thậm chí quốc gia để có thể thực hiện việc
dục phải có sự quan tâm, đầu tư thích đáng cho việc ứng dụng CNTT trong
học tập của mình.
dạy - học.
- SV có thể lưu trữ thông tin lâu dài, dễ chỉnh sửa, trao đổi khi cần thiết.
1.4.3. Khả năng ứng dụng CNTT vào tự học môn GDH
Như vậy, không thể phủ nhận được vai trò và tầm quan trọng của việc
Từ những năm thuộc thập kỷ 60, sự phát triển của CNTT đã ảnh hưởng
sử dụng CNTT trong tự học môn GDH. Tuy nhiên, việc ứng dụng CNTT vào
tới giáo dục cũng như các lĩnh vực khác. Những thành tựu về công nghệ có ý
tự học là một công việc lâu dài, khó khăn, đòi hỏi nhiều điều kiện về cơ sở vật
nghĩa to lớn trong dạy- học. Hiện nay, trong các trường Đại học, Cao đẳng,
chất, tài chính, năng lực của SV; để sử dụng có hiệu quả, cần tận dụng các thế
các GV và SV đã và đang sử dụng CNTT để hỗ trợ cho việc dạy và học của mình.
mạnh và ưu điểm nổi bật của CNTT và tránh những hiệu ứng ngược của nó.
Trong tự học môn GDH nói riêng và các môn học khác nói chung, sự
hỗ trợ của CNTT đều mang lại hiệu quả bởi vì:
1.4.4. Các yêu cầu khi tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của
CNTT cho SV ở trƣờng CĐSP Nghệ An
- SV có thể giao tiếp với tất cả các đối tượng: GV, bạn bè, chuyên gia
thông qua email, học trực tuyến.
1.4.4.1. Ứng dụng rộng rãi và sáng tạo CNTT khi thực hiện hoạt
động dạy và học các môn học nói chung và môn GDH nói riêng
- Việc học tập không những có thể diễn ra trên lớp mà có thể diễn ra ở
bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu.
CNTT là một trong những động lực quan trọng của sự phát triển. Cùng
với một số ngành công nghệ cao khác, CNTT đang làm biến đổi sâu sắc đời
sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Trong dạy học, CNTT được ứng dụng ở các mức độ như: hỗ trợ bài
giảng của GV trên lớp, giúp người học tự hình thành kiến thức, tự luyện tập,
tự kiểm tra để hoàn thiện tri thức của mình, thông qua máy tính nối mạng,
người học có thể tự học tập và nghiên cứu…
1.4.4.2. Đổi mới phƣơng pháp học tập và nâng cao chất lƣợng, hiệu
quả tự học các môn học nói chung và môn GDH nói riêng cho SV
Việc sử dụng CNTT, đặc biệt là sử dụng trang web học tập để tổ chức
tự học cho SV phải giúp SV nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tốt hơn, sâu sắc và
Theo quan niệm của các nhà giáo dục học hiện đại, việc ứng dụng
CNTT vào quá trình dạy học sẽ giúp GV giải quyết một số vấn đề như:
- Cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về các hiện tượng, đối tượng,
quá trình được nghiên cứu, do đó sẽ nâng cao chất lượng dạy học.
phong phú hơn, góp phần đáng kể nâng cao chất lượng học tập bộ môn.
Người học cảm thấy hứng thú hơn so với cách học thông thường, từ đó kích
thích lòng ham học hỏi, hình thành động cơ, thái độ học tập đúng đắn cho SV.
Sử dụng CNTT sẽ hỗ trợ SV trong quá trình tự học. Người học được
- Nâng cao tính trực quan trong dạy học: có những hiện tượng, đối
học tập thuận lợi hơn, khai thác được nguồn thông tin phong phú, tiết kiệm
tượng nghiên cứu không thể cho học sinh quan sát trực tiếp được mà phải dựa
được thời gian mò mẫm trong quá trình tìm kiếm tri thức cho bản thân. Đồng
vào biểu tượng gián tiếp về các hiện tượng, đối tượng đó. Lúc này CNTT sẽ là
thời, CNTT còn giúp các em dễ dàng trao đổi thông tin, có thể học tập mọi
sự hỗ trợ đắc lực nhất để giải quyết vấn đề trên.
lúc, mọi nơi, phù hợp với khả năng và điều kiện của cá nhân.
- Nâng cao cường độ dạy học: CNTT giúp GV tăng nhịp độ trình bày
tài liệu, tiết kiệm đuợc thời gian, đặc biệt là khi luyện tập, hình thành kỹ năng,
kỹ xảo ở học sinh, góp phần quan trọng trong việc cải tiến phương pháp kiểm
tra - đánh giá tri thức học sinh (nhờ phần mềm kiểm tra, tự kiểm tra).
- Thoả mãn nhu cầu hiểu biết và sự say mê học tập của học sinh, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho việc tự học một cách liên tục, thường xuyên, hiệu
quả ở người học (các phần mềm tự học, các trang web môn học).
- Giải phóng cho người dạy và người học khỏi một phần công việc
thuần tuý kỹ thuật, do đó dành nhiều thời gian hơn cho hoạt động sáng tạo.
Với những khả năng dạy học trên, việc ứng dụng CNTT vào quá trình
dạy - học đã mở rộng năng lực của người GV, giúp họ có thể tiến hành các
phương pháp dạy học sáng tạo, hiệu quả. Đồng thời tạo cho người học hứng
thú, động cơ học tập đúng đắn, lòng ham học hỏi, ham tìm tòi, áp dụng cái
mới,…từ đó nâng cao chất lượng dạy - học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GDH CÓ SỰ HỖ
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Bản chất của việc tổ chức tự học cho SV là quá trình GV sắp xếp và
TRỢ CỦA CNTT CHO SV Ở TRƢỜNG CĐSP NGHỆ AN
tiến hành các biện pháp dạy học sao cho phát huy được tính tích cực, tự giác
của người học mức độ cao nhất trong mọi hình thức học tập dưới sự hỗ trợ
2.1. Một vài nét về trƣờng CĐSP Nghệ An
Thành lập năm 1959, Trường CĐSP Nghệ An đã trải qua 50 năm xây
của các phương tiện dạy học.
Một trong những điều kiện để tổ chức có hiệu quả hoạt động tự học cho
SV là điều kiện về cơ sở vật chất, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của
dựng và phát triển. Đến nay, nhà trường đã gây dựng được một cơ ngơi khang
trang với hệ thống phòng học, trang thiết bị dạy và học hiện đại, tạo điều kiện
thuận lợi cho GV, SV nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
các phương tiện và công cụ dạy học hiện đại.
Sử dụng CNTT để hỗ trợ tự học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy
học nói chung và chất lượng học tập môn GDH nói riêng bởi hình thức này
Trường CĐSP Nghệ An hiện có 7 khoa đào tạo, gồm: Tự nhiên, Xã hội,
Ngoại ngữ, Giáo dục Thể chất và Nhạc hoạ Đoàn đội, Giáo dục Tiểu học,
phát huy cao độ sự tự giác, tích cực và độc lập của người học. SV có thể truy
Giáo dục Mầm non, CNTT. Các phòng chức năng gồm: Phòng Đào tạo và
cập trang web học tập bộ môn để đọc các tài liệu, giải quyết các tình huống,
Khoa học công nghệ; Phòng Công tác chính trị - Tổ chức và đối ngoại; Phòng
làm bài tập, thảo luận, … nhờ đó mà điều chỉnh được cách học và học có hiệu
Công tác Học sinh - SV; Phòng Hành chính - Quản trị; Phòng Kế hoạch - Tài
quả. Đây là cách làm phù hợp với xu thế chung của các trường Đại học, Cao
chính; Phòng Thanh tra và Đảm bảo chất lượng giáo dục. Ba tổ bộ môn gồm:
đẳng hiện nay cũng như sự phát triển của xã hội hiện đại.
Bộ môn Lý luận chính trị, Bộ môn Tâm lý - Giáo dục, Tổ Thư viện - Thiết bị.
Ngoài ra, trường còn có Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ quản lý và GV, Trung
tâm Ngoại ngữ - Tin học. Ban quản lý ký túc xá đảm bảo nơi ăn, chốn ở của
SV luôn sạch sẽ, thoáng mát.
Để đảm bảo nhu cầu học tập của SV, trường đã mở 2 cơ sở đào tạo (cơ
sở 1 đóng tại xã Hưng Lộc, cơ sở 2 đóng tại phường Hưng Bình - Thành Phố
Vinh) với tổng diện tích 10ha. Toàn trường có 102 phòng học, 2 hội trường
lớn, nhà thi đấu đa năng, thư viện và phòng học máy vi tính với đầy đủ trang
thiết bị nghe nhìn.
Đội ngũ cán bộ, GV luôn được chuẩn hóa về trình độ, đáp ứng được
yêu cầu của công tác đổi mới phương pháp giáo dục. Trong số 344 cán bộ công nhân viên chức của nhà trường, có 250 GV với 8 tiến sĩ, 116 thạc sĩ, 3
nghiên cứu sinh, 40 người đang theo học thạc sĩ. Bên cạnh việc cử cán bộ đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nhà trường còn hợp tác với các trường
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì cùng nhiều danh
đại học để liên kết đào tạo mở các lớp cử nhân CNTT, tin học văn phòng, các
hiệu cao quý khác.
lớp ngoại ngữ cho cán bộ, nhân viên.
2.2. Khái quát về dạy học môn GDH ở trƣờng CĐSP
Ngoài chức năng, nhiệm vụ đào tạo GV có trình độ CĐSP từ mầm non,
Môn GDH là môn học thể hiện trực tiếp đặc trưng nghề nghiệp, đặt cơ
tiểu học và trung học cơ sở; bồi dưỡng chuẩn hoá giáo viên THCS trình độ
sở ban đầu quan trọng về mặt nghiệp vụ cho việc đào tạo GV. Môn học trang
10+3 lên CĐSP; chuẩn hoá trình độ trung học sư phạm cho GV mầm non,
bị cho SV những lý luân cơ bản, hiện đại về GDH, hình thành cho SV những
giáo viên tiểu học; bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ; bồi dưỡng thay sách,
kỹ năng sư phạm để sau khi ra trường họ có thể tiến hành tốt hoạt động dạy
trường CĐSP Nghệ An còn đào tạo các ngành ngoài sư phạm như CNTT, thư
học và giáo dục. Môn GDH có quan hệ chặt chẽ với phương pháp giảng dạy
viện thiết bị, tiếng Anh, công tác xã hội, quản trị văn phòng. Từ năm 2000,
bộ môn theo chuyên ngành đào tạo. Trong những năm qua, bộ môn GDH đã
trường được giao nhiệm vụ đào tạo tiếng Việt cho cán bộ, học sinh các tỉnh
có nhiều đổi mới cả về nội dung lẫn phương pháp, luôn đáp ứng được những
Bôly Khămxay và Xiêng Khoảng (Lào).
yêu cầu có tính nghiệp vụ sư phạm của nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc giảng
Năm mươi năm kể từ ngày thành lập, thầy và trò trường CĐSP Nghệ
dạy và học tập hiện nay ở các trường CĐSP chưa đạt hiệu quả như mong
An đã nỗ lực vượt khó giành được nhiều thành tích xuất sắc trong lao động,
muốn. Cụ thể là nó chưa gắn liền với phương pháp giảng dạy bộ môn, chưa
học tập. Từ năm học 2004 - 2005 đến nay, trường đã làm tốt công tác tuyển
thực sự gắn với thực tiễn giáo dục và dạy học ở phổ thông. Việc đổi mới nội
sinh đảm bảo 100% kế hoạch được giao; đào tạo được 4.256 GV các cấp học,
dung, phương pháp, chương trình diễn ra còn chậm, giảng dạy lý thuyết còn
bồi dưỡng và chuẩn hoá 8.131 học viên, góp phần nâng cao tỉ lệ GV đạt
xa với thực hành. Đây là những bất cập cần phải khắc phục.
chuẩn cho tỉnh.
Bộ môn GDH ở trường CĐSP được chia làm 3 đơn vị học phần: GDH
Bên cạnh công tác giảng dạy, hoạt động nghiên cứu khoa học luôn
đại cương, Lý luận dạy học, Lý luận giáo dục. Mỗi đơn vị học phần gồm 45
được coi là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường. Trong 5 năm qua, trường đã
tiết. Theo phân phối chương trình, SV sẽ học môn GDH trong 2 năm, từ học
có 3 đề tài cấp bộ, 2 đề tài cấp tỉnh, 47 đề tài và công trình thuộc dự án, 36 đề
kỳ II của năm thứ nhất đến hết năm học thứ hai. Khối lượng kiến thức của 3
tài cấp trường, 414 đề tài cấp khoa tổ, 53 giáo trình và tài liệu tham khảo các
đơn vị học trình này rất lớn, mang tính lý luận cao, đòi hỏi SV phải có khả
loại, 4 bài viết đăng tải trên các tạp chí quốc tế, 35 bài viết đăng trên các tạp
năng lựa chọn các phương pháp, phương tiện, hình thức học tập,…kết hợp với
chí chuyên ngành trong nước, 199 bài viết đăng thông báo khoa học, 194 bài
tự học, tự nghiên cứu thì mới lĩnh hội được nội dung môn GDH.
viết đăng kỷ yếu hội thảo, có 14 lượt cán bộ, viên chức đoạt giải công trình
khoa học sáng tạo cấp tỉnh.
học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT cho SV để khắc phục những khó khăn
Qua nửa thế kỷ phấn đấu và trưởng thành, với những đóng góp to lớn
trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, trường CĐSP Nghệ An đã vinh dự được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Vì vậy, trong đề tài này, chúng tôi đã đề xuất một số biện pháp tổ chức tự
36
trên, góp phần nâng cao chất lượng học tập môn GDH ở các trường CĐSP.
2.3. Thực trạng tự học môn GDH của SV
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
2.3.1. Khái quát tiến trình khảo sát thực trạng
thì các thầy, cô cho rằng: GDH là môn khoa học mang tính nghiệp vụ cao và
Tự học và tổ chức tự học là những nhân tố quan trọng để nâng cao chất
luôn có sự đổi mới nên SV phải tích cực tự học để nắm vững kiến thức và vận
lượng học tập. Việc sử dụng CNTT để hỗ trợ hoạt động dạy – học có ý nghĩa
dụng trong quá trình dạy học sau này. Theo các thầy, cô thì để đáp ứng các
rất lớn, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, kích thích tính tích cực, tự
nhu cầu của thực tiễn hiện nay, mỗi người phải tự mình tìm ra phương pháp
giác, chủ động của người học. Để tìm hiểu việc tự học môn GDH của SV
học tập đúng đắn, phù hợp. Chỉ có như vậy con người mới có thể học tập
cũng như việc tổ chức hoạt động tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT
thường xuyên, học tập suốt đời được. Đối với môn GDH cũng vậy, người
cho SV ở trường CĐSP Nghệ An như thế nào, chúng tôi đã tiến hành điều
thầy không thể nào cung cấp hết cho trò kho kiến thức đa dạng, phong phú,
tra, khảo sát thực trạng để tìm hiểu những vấn đề trên.
luôn biến đổi không ngừng theo từng giai đoạn lịch sử. Muốn không bị lạc
Đối tượng điều tra của chúng tôi trong đề tài này là 236 SV đang học
năm thứ hai, khoa tự nhiên và khoa xã hội, cùng 25 GV tổ Tâm lý - Giáo dục
trường CĐSP Nghệ An.
hậu với thời đại và chiếm lĩnh được kho kiến thức vô tận của nhân loại thì
việc tự học là vô cùng quan trọng.
Vì vậy, các GV cũng không ngừng học hỏi, tìm kiếm và sử dụng các
Nội dung điều tra của chúng tôi chủ yếu xoay quanh những vấn đề sau:
phương pháp phù hợp để truyền đạt, tổ chức và hướng dẫn SV tiếp thu, chiếm
- Thực trạng tự học môn GDH của SV.
lĩnh tri thức hiệu quả nhất.
- Thực trạng tổ chức tự học môn GDH cho SV.
* Nhận thức của SV về tầm quan trọng của môn GDH
- Thực trạng sử dụng CNTT để dạy và học môn GDH.
Để tìm hiểu những nội dung trên, chúng tôi sử dụng phương pháp điều
tra viết. Chúng tôi xây dựng hai phiếu hỏi, một dành cho GV và một dành cho
SV. Những số liệu thu được qua phiếu điều tra được chúng tôi xử lý bằng
phương pháp thống kê toán học, trên cơ sở đó mà khái quát thực trạng. Bên
Để điều tra nhận thức của SV về tầm quan trọng của môn GDH chúng
tôi đưa ra câu hỏi sau:
“Theo bạn, kiến thức môn GDH có mức độ cần thiết như thế nào đối
với người giáo viên tương lai?”. Kết quả thu được thể hiện ở bảng 2.1:
Bảng 2.1: Mức độ nhận thức của SV về tầm quan trọng của môn GDH
cạnh đó chúng tôi trò chuyện với một số SV và GV xung quanh vấn đề cần
STT
Các mức độ
nghiên cứu để đưa ra những kết luận chính xác hơn.
SV khoa
Qua tiến hành nghiên cứu chúng tôi thu được kết quả sau:
2.3.2. Thực trạng tự học môn GDH của SV trƣờng CĐSP Nghệ An
Tổng hợp
2.3.2.1. Thực trạng nhận thức của GV và SV về tự học môn GDH
(236 SV)
Nhóm ĐC
* Nhận thức của GV về tầm quan trọng của việc tự học môn GDH
Khảo sát vấn đề này, chúng tôi thu được kết quả như sau: 100% GV
đều khẳng định đây là một việc làm “rất quan trọng”. Khi được hỏi “vì sao?”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Tự nhiên(120 SV)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Xã hội (116 SV)
3
Bình thường
6
5
9
SL
7,76
%
15
SL
6,35
%
SL
4
%
Ít cần thiết
2
1
1,67
Rất cần thiết
2
21
1,72
17,5
4
17
1,69
14,66
38
5
16,1
Không cần thiết
0
2
0,00
Cần thiết
0
91
0,00
75,83
0
88
0,00
75,86
Qua kết quả thống kê thu
179
được, chúng tôi nhận thấy: có đến
75,84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41