Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

VẤN đề CON NGƯỜI TRONG tác PHẨM hệ tư TƯỞNG đức ý NGHĨA đối với CUỘC đấu TRANH tư TƯỞNG lý LUẬN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.88 KB, 16 trang )

vấn đề con ngời trong tác phẩm hệ t tởng đức
của c. mác và ph. ăngghen. ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh
trên mặt trận lý luận t tởng hiện nay

1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1.1. Vài nét sơ lợc về thân thế sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăngghen
C.Mác sinh ngày 05 tháng 05 năm 1818 ở thành phố Tơria thuộc tỉnh
Ranh của nớc Phổ, bố ông là luật s. Năm 1835, C.Mác vào học luật ở Trờng
đại học Bon sau một năm chuyển sang học ở Trờng đại học Béclin. Ông
nghiên cứu sâu về lịch sử triết học. Năm 1841 ông bảo về luận án tiến sĩ Sự
khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của
Êpiquya, trong luận án này ông đã có quan niệm sâu sắc về mối quan hệ biện
chứng giữa ý thức và tồn tại thông qua hoạt động thực tiễn của con ngời. Vào
năm 1482, ông trở thành biên tập viên của Báo Sông Ranh. Dới sự lãnh đạo
của ông, tờ báo đã trở thành cơ quan của phái dân chủ cách mạng. Khoảng
tháng 8 năm 1844 C. Mác gặp Ph. Ăngghen ở Pari, từ đó hai ông cộng tác với
nhau trong nghiên cứu lý luận- xây dựng hệ thống chủ nghĩa Mác nói chung
và triết học Mác nói riêng, và tham gia lãnh đạo phong trào công nhân cho
đến khi ông mất năm 1883. C.Mác tìm thấy ở Ăngghen một ngời cùng t tởng,
một ngời đồng chí nhất mực trung thành và một ngời trợ lực gắn bó mật thiết
với nhau trong sự nghiệp chung.
Ph. Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 ở Bácmen thuộc tỉnh Ranh
của nớc Phổ. Năm 1834 học ở trờng trung học Enbơphenđơ, ngay từ khi còn
trẻ đã tỏ ra có năng khiếu đặc biệt và nghị lực nghiên cứu, học tập phi thờng;
năm 1837 làm việc cho hãng buôn của bố ở Bácmen. Năm 1841 Ăngghen đi
làm nghĩa vụ quân sự ở Béclin, năm 1841 nghiên cứu tác phẩm Bản chất đạo
Thiên chúa của Phoiơbắc, năm 1842 ông bắt đầu cộng tác với tờ nhật báo của
tỉnh Ranh; cuối tháng 10 năm 1842 hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về
Bácmen. Khi trở về Bác men ông bắt đầu hoạt động, tham gia viết bài...năm
1844 ông viết Tình cảnh nớc Anh gửi cho tạp chí Niên giám Pháp- Đức,
khoảng tháng 8- 1844 sang Pari, ở đây Ăngghen đã gặp C.Mác... Ông đã viết


rất nhiều tác phẩm, cùng với Mác đấu tranh phát triển triết học Mác và trực
tiếp lãnh đạo phong trào công nhân cho đến năm 1895 khi Ph. Ăngghen qua
đời.
Đánh giá về tình bạn của C.Mác và Ph.Ăngghen Lênin viết: Giai cấp vô
sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai
bác học kiêm chiến sĩ mà tình bạn đã vợt xa tất cả những gì là cảm động nhất
trong những truyền thuyết của đời xa kể về tình bạn của con ngời1.

1.2. Vài nét sơ lợc về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
C.Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm này (nhng Mác viết là chủ
yếu) trong giai đoạn đang chuyển lập trờng từ thế giới quan duy tâm và chủ
1

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 2, tr 12.

1


nghĩa dân chủ cách mạng sang thế giới quan duy vật và chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Viết tác phẩm này cũng chính là một bớc chuẩn bị cho tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Trong những năm đầu của thế kỷ 19, phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa
phát triển rất mạnh mẽ, và đã bộc lộ những mâu thuẫn sâu sắc, mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản và giai cấp t sản ngày càng gay gắt và quyết liệt. Mặt khác
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ nổi bật là:
Cách mạng t sản ở các nớc Châu Âu đã nổ ra ngay từ những năm cuối của thế
kỷ 18 (cách mạng t sản Anh; cách mạng t sản Pháp 1789). Trong quá trình
vận động của mình, cách mạng t sản đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu. Trong khi
đó, nớc Đức những năm 40 của thế kỷ 19, mới đang ở đêm trớc của cách
mạng t sản. Trung tâm của cách mạng chuyển về Đức. Song trong nội bộ nớc

Đức, giai cấp t sản lại yếu hèn cả về kinh tế lẫn chính trị. Thực tế đó đặt ra
giai cấp nào sẽ lãnh đạo cách mạng Đức? Mặt khác, giai cấp vô sản đã bớc lên
vũ đài lịch sử của mình- trong tất cả các giai cấp hiện tại đang đối mặt với
giai cấp địa chủ phong kiến chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất.
Đơng nhiên để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp vô sản không
những cần phải phát triển nhanh cả về số lợng và chất lợng, mà còn phải có hệ
t tởng cách mạng và khoa học.
Sống trong hoàn cảnh lịch sử đó, C.Mác và Ph. Ăngghen nhận thấy hệ t tởng cũ không còn đáp ứng đợc yêu cầu của cách mạng, nó đã trở nên lỗi thời,
phong trào cách mạng lúc này đòi hỏi phải có một hệ t tởng mới trang bị cho
giai cấp công nhân để nó hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Tình hình phát triển lý luận ở nớc Đức lúc này, phong trào công nhân
đang chịu ảnh hởng t tởng của chủ nghĩa xã hội không tởng của Xanhximông,
Phuriê và Ôoen; triết học của Hêgen, Phoiơbắc. Nhu cầu của phong trào cách
mạng lúc này là: đấu tranh nhằm gạt bỏ ảnh hởng của các loại t tởng phản
động, đồng thời phải xây dựng một lý luận khoa học về xã hội. Muốn thực
hiện điều đó, phải phê phán chủ nghĩa xã hội không tởng, phải tiến hành lợc
bỏ những t tởng sai lầm của các nhà triết học cũ, phải có một thế giới quan
duy vật biện chứng... Điều đó, đã thôi thúc C.Mác và Ph.Ăngghen tiến hành
một cuộc cách mạng về thế giới quan, giải phóng cho nhân dân thoát khỏi ách
nô lệ của tinh thần. Mặt khác, năm 1844 Phoiơbắc tự tuyên bố là nhà cộng
sản, vì thế các thế lực thù địch dấy lên phong trào chống chủ nghĩa cộng sản,
từ đó hai ông đã quyết định cùng nhau viết chung tác phẩm: Hệ t tởng Đứcđây là tác phẩm bút chiến, nhằm đấu tranh, bảo vệ và phát triển lý luận, t tởng
chủ nghĩa cộng sản. Thông qua việc, các ông phê phán những học thuyết triết
học ở Đức đơng thời và các trào lu t tởng chủ nghĩa xã hội chân chính, đồng
thời kế thừa những giá trị t tởng của nhân loại, để trình bày thế giới quan mới
của mình.
Tác phẩm Hệ t tởng Đức, đợc các ông viết từ tháng 11/1845 đến tháng
4/1846 là cơ bản hoàn thành. Tác phẩm sau này bị những ngời xã hội dân chủ
Đức tìm cách dấu đi. Mãi đến năm 1932 tác phẩm mới đợc xuất bản lần đầu
tiên bằng tiếng Đức; năm 1937 đợc xuất bản bằng tiếng Nga.

Tác phẩm Hệ t tởng Đức đợc in trong bộ C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn
tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. tr. 15-793.
2. Cấu trúc và nội dung cơ bản của tác phẩm
Tác phẩm: Hệ t tởng Đức, nhng còn có phụ đề là phê phán triết học
Đức hiện đại qua các đại biểu của nó là Phoiơbắc, B.Bauơ, Stiếcnơ và phê
phán chủ nghĩa xã hội Đức thông qua các nhà tiên tri khác nhau của nó; là
một tác phẩm lớn gồm hai tập:

2


Tập 1: Phê phán triết học Đức hiện đại qua các đại biểu của nó là
Phoiơbắc, B.Bauơ, Stiếcnơ gồm 3 chơng:
Lời tựa;
Chơng I: Phoiơbắc sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm
duy tâm;
Chơng II: Thánh Brunô (biệt danh của Bauơ);
Chơng III: Thánh Maxơ (biệt danh của Stuyếcnơ).
Tập II: Phê phán chủ nghĩa xã hội Đức thông qua các nhà tiên tri khác
nhau của nó gồm 5 chơng:
Chơng I: Phê phán những cơ sở triết học của chủ nghĩa xã hội chân chính.
Chơng II và Chơng III đến nay không còn.
Chơng IV: Trào lu chủ nghĩa xã hội ảnh hởng ở Pháp, Bỉ.
Chơng V: Phê phán các quan điểm chủ nghĩa xã hội tiểu t sản của Cunman.
Trong 2 tập này, phần phê phán Phoiơbắc: các quan điểm triết học của
C.Mác và Ph.Ăngghen đợc thể hiện một cách tập trung nhất, vì: Trong các tác
phẩm trớc đây nh gia đình thần thánh; vấn đề do tháicác ông đã phê
phán Bauơ, Stuyếcnơ, còn đối với Phoiơbắc thì vẫn đợc ca ngợi. Đến nay, bằng
phê phán Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen làm rõ đợc quan điểm của mình
khác với quan điểm của Phoiơbắc ra sao và các ông đã xây dựng quan điểm

mới đó nh thế nào.
Nh vậy, qua kết cấu và nội dung của tác phẩm, Mác và Ăngghen muốn
chỉ ra rằng, triết học Mác cũng có tiền đề lý luận là triết học của Hêghen và
triết học của Phoiơbắc, trong đó chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là khâu trung
gian giữa triết học của Hêghen và triết học Mác. Do kế thừa những giá trị triết
học trớc đó và do khái quát thực tiễn xã hội và nhận thức khoa học, triết học
Mác là hình thức phát triển cao của lịch sử triết học.

3. Vấn đề con ngời trong tác phẩm
Trong tác phẩm: Hệ t tởng Đức Mác và Ăngghen có những quan niệm
về chủ nghĩa duy vật lịch sử nh: Thực chất của quan điểm duy vật lịch sử; tính
biện chứng của LLSX và QHSX; mối quan hệ giữa CSHT và KTTT, TTXH và
YTXH; vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp; về cách mạng xã hội; về CNCS;
đặc biệt là nền xản xuất vật chất và con ngời sản xuất vật chất.
Tiền đề xuất phát từ con ngời- đó là con ngời sống, hành động, và
sản xuất vật chất, C.Mác và Ăngghen đã vạch ra cơ sở của toàn bộ đời sống xã
hội đó là sản xuất vật chất: Mác viết: Quan niệm đó về lịch sử là: phải xuất
phát từ chính ngay sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá
trình hiện thực của sản xuất và hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phơng
thức sản xuất ấy và do phơng thức sản xuất ấy sản sinh ra2.
Thực chất của quan niệm duy vật biện chứng đối với quá trình lịch sử là
việc thừa nhận những tính quy luật khách quan của sự phát triển xã hội do
chính hoạt động vật chất của con ngời tạo nên. Tính chất khách quan của
chúng thể hiện ở chỗ, chúng không phụ thuộc vào ý chí chủ quan, vào ý thức
con ngời. Các ông phân tích và chỉ ra rằng: quy luật tự nhiên vận động không
phụ thuộc vào con ngời, ngợc lại, quy luật xã hội vận động thông qua quá
2

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 54


3


trình hoạt động của con ngời. Mác chỉ rõ: Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối
tiếp của những thế hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật
liệu, những t bản, những lực lợng sản xuất do tất cả những thế hệ trớc để lại;
do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động đợc truyền lại, trong những
hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác lại biến đổi những hoàn cảnh cũ
bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi; những sự kiện đó, ngời ta đã xuyên
tạc chúng bằng t biện khiến cho dờng nh lịch sử sau là mục đích của lịch sử trớc3.
Quan niệm đó đợc thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Một là, các ông khẳng định: Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con
ngời, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: ngời ta phải có khả năng sống
đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhng muốn sống đợc thì trớc hết cần phải
có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Nh vậy, hành
vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong những t liệu để thoả mãn những nhu
cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi
lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng nh hàng nghìn
năm về trớc, ngời ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì
đời sống con ngời4. Theo các ông con ngời ở đây là con ngời hiện thực; ngay
từ đầu tác phẩm, C.Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định lý luận của các ông
không phải không dựa trên một tiền đề nào, mà tiền đề của việc nghiên cứu
lịch sử đó là con ngời. Rõ ràng những tiền đề xuất phát của các ông không
phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề
hiện thực. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng nh
những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Nh vậy, những tiền đề ấy là
có thể kiểm nghiệm đợc. Đây chính là điểm khác nhau căn bản giữa quan
điểm của Mác với tất cả những quan điểm trớc đó về con ngời. Con ngời ở
Bauơ và Stuyếcnơ, đợc xem xét nh một thực thể tinh thần. Con ngời ở

Phoiơbắc, đợc xem xét một cách cụ thể, bằng xơng, bằng thịt. Nhng do
Phoiơbắc thiếu một quan điểm thực tiễn, nên chủ nghĩa triết học nhân bản của
ông mang tính chất trực quan. Do đó, trong cuộc sống ông không hiểu đợc bản
chất của con ngời, dừng lại ở con ngời chung chung trừu tợng, phi lịch sử
không gắn với sản xuất vật chất. Trên thực tế, ở điểm này, Phoiơbắc đã thụt lùi
so với các nhà duy vật Pháp. Các nhà duy vật Pháp đã thấy đợc sự phụ thuộc
của con ngời vào hoàn cảnh. Con ngời theo họ, đó là sản phẩm của hoàn cảnh,
hoàn cảnh quyết định bản chất của nó. Tuy nhiên ở họ vẫn cha thoát khỏi cái
vòng luẩn quẩn đó là: Con ngời do hoàn cảnh quyết định, nhng con ngời lại
cải tạo hoàn cảnh. Vì thế , chủ nghĩa duy vật Pháp đã đi tìm bản chất của con
ngời trong bản tính tự nhiên của nó. Trong Luận cơng về Phoiơbắc Mác
viết: Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con ngời là sản phẩm của
những hoàn cảnh và của giáo dục, rằng do đó con ngời đã biến đổi là sản
phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi,- cái
học thuyết ấy quên rằng chính những con ngời làm thay đổi hoàn cảnh và bản
thân nhà giáo dục cũng cần phải đợc giáo dục5.
Tuy nhiên, so với các nhà duy vật Pháp, Phoiơbắc cũng có những bớc tiến
nhất định trong xem xét bản chất của con ngời. Phoiơbắc cho rằng, bản chất
con ngời là tồn tại. Điều đó có nghĩa rằng, muốn hiểu con ngời phải gắn nó
với những điều kiện tồn tại hiện thực của nó. Phoiơbắc phê phán tôn giáo và
khẳng định phải đi tìm bản chất của con ngời ở trần gian là đúng, song hạn
chế của ông cũng nh của chủ nghĩa duy vật cũ là thiếu một quan điểm thực
tiễn. C.Mác chỉ rõ: Khuyết điểm chủ yếu của chủ nghĩa duy vật, từ trớc đến
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 65.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 39- tr 40.
5 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr10.
3
4

4



nay- kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc- là sự vật, hiện thực, cái cảm giác
đợc, chỉ đợc nhận thức dới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ
không đợc nhận thức là hoạt động cảm giác của con ngời, là thực tiễn, không
đợc nhận thức về mặt chủ chủ quan6.
Do thiếu quan điểm thực tiễn đúng đắn nên các nhà duy vật cũ, kể cả
Phoiơbắc, trong xem xét bản chất con ngời đã phải dừng lại ở bản tính tự
nhiên của nó. Phoiơbắc gọi là bản chất tộc loại, tình cảm, tình yêu, đạo đức họ
đã không thể giải thích đợc vì sao ở mỗi thời đại khác nhau lại có những con
ngời khác nhau. Con ngời của họ là con ngời bất biến, trừu tợng, phi lịch sử
tách rời hoạt động xã hội và hoạt động sản xuất vật chất.
Trái với các quan điểm đó, Mác và Ăngghen quan niệm về con ngời thực
tiễn- con ngời hoạt động xã hội và hoạt động sản xuất vật chất các ông phân
biệt rõ về mặt sinh vật và mặt xã hội trong khái niệm con ngời. Mác viết:
Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những
cá nhân con ngời sống...những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể
ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên...những thay đổi của chúng do
hoạt động của con ngời gây ra trong quá trình lịch sử...nh thế con ngời đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình7.
Từ luận điểm trên, Mác cũng phân biệt rõ con ngời xã hội, nó là thuộc
tính cơ bản, là đặc trng cơ bản, quyết định mặt sinh vật và là điều kiện, phơng
tiện hình thành nhân cách của con ngời.
Bàn về vấn đề ý thức con ngời Phoiơbắc cho rằng ý thức là thuộc tính
của bộ óc: quan hệ thực sự của t duy đối với tồn tại là: tồn tại là chủ thể, t duy
là thuộc tính. Con ngời là một bộ phận của tự nhiên và là chủ thể, còn t duy là
thuộc tính của nó, có nghĩa là t duy là thuộc tính của con ngời. Nhng khi bàn
về con ngời, ông không thấy tính hiện thực của con ngời, không thấy bản chất
xã hội của con ngời, không thấy tính thực tiễn của con ngời, hiểu con ngời
một cách chung chung phi lịch sử, phi giai cấp. Trong lĩnh vực xã hội ông đa

ra đạo đức, tình yêu và tôn giáo; theo ông đạo đức của con ngời là tình yêu ngời với ngời, hạn chế hợp lý của bản thân mình để đạt đến hạnh phúc. Ông
cũng cho rằng hạnh phúc là bẩm sinh, hạnh phúc là cơ sở của đạo đức. Mặt
khác ông mong muốn xoá bỏ tôn giáo nhng lại muốn xây dựng một thứ tôn
giáo- tôn giáo tình yêu.
Do thiếu quan điểm thực tiễn đúng đắn nên các nhà duy vật cũ, kể cả
Phoiơbắc, đã không hiểu đợc mối quan hệ giữa t duy ý thức với tồn tại, cũng
có nghĩa là không hiểu đợc con ngời. Do tính chất trực quan trong xem xét,
các nhà duy vật cũ chỉ thấy một bên là tồn tại, một bên là ý thức, không thấy
đợc sự sáng tạo của ý thức, vì thế họ không đủ sức để bác bỏ quan điểm của
chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết về vấn đề này. Phíchtơ cho rằng
cái tôi thuần tuý sinh ra mọi cái. Phoiơbắc đã vạch ra đợc điều vô lý là tại
sao một cái tôi, không có cái gì nữa mà lại sinh ra mọi cái đợc. Nhng ông
không đủ sức để cắt nghĩa một cách khoa học vấn đề đó. Ông không giải thích
đợc vì sao con ngời với 5 giác quan lại nhận thức đợc thế giới. Trong khi đó,
chủ nghĩa duy tâm lại thổi phồng mặt năng động chủ quan của ý thức.
C.Mác cho rằng, chỉ có quan điểm thực tiễn đúng đắn mới khắc phục đợc
những hạn chế đó. Chỉ có xuất phát từ quan điểm thực tiễn chúng ta mới có
thể giải thích đợc vì sao ý thức con ngời phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực
khách quan; vì sao ý thức lại có vai trò to lớn trong cải tạo hiện thực khách
quan. C.Mác khẳng định: Trong con ngời, ý thức thay thế bản năng, hoặc
bản năng của con ngời là bản năng đã đợc ý thức8.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 9.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 29.
8 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 44.
6
7

5



Nh vậy theo Mác vấn đề tìm hiểu xem t duy của con ngời có thể đạt tới
chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con ngời phải chứng minh
chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của t
duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của t
duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần tuý.
Sau khi vạch ra những nguyên nhân hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ,
các ông đi đến kết luận, muốn nhận thức đúng bản chất con ngời không có
con đờng nào khác là phải xuất phát từ quan điểm thực tiễn. Trong tác phẩm
này, C.Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ con ngời là sản vật của tự nhiên, vì thế để
hiểu con ngời cần nghiên cứu quan hệ của nó với bộ phận tự nhiên còn lại.
Điều quan trọng nhất, theo các ông, quan hệ của con ngời với tự nhiên diễn ra
trong sản xuất vật chất, trong hoạt động thực tiễn. Bản thân con ngời bắt đầu
bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con ngời bắt đầu sản xuất ra những t
liệu sinh hoạt của mình - đó là một bớc tiến do tổ chức cơ thể của con ngời
quy định. Sản xuất ra những t liệu sinh hoạt của mình, nh thế con ngời đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình9.
C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, bản chất của con ngời không phải ở
tính tự nhiên mà cái tạo nên sự hình thành và phát triển của bản chất ấy chính
là sự biến đổi của các quan hệ xã hội. Mác viết: Bản chất con ngời không
phải là một cái trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con ngời là tổng hoà những quan hệ xã hội 10. Các quan hệ
xã hội luôn là cái đợc xác định và vận động biến đổi không ngừng, điều đó
cho thấy, bản chất của con ngời cũng là cái cụ thể và luôn vận động, phát triển;
con ngời tạo ra hoàn cảnh nh thế nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con ngời nh thế ấycon ngời và hoàn cảnh gắn chặt với nhau, con ngời không thể tách rời hoàn cảnhhoạt động sản xuất, hoạt động xã hội...
Hai là, việc sản sinh những nhu cầu và việc thoả mãn những nhu cầu do
sản xuất vật chất đem lại, đó lại là động lực phát triển của sản xuất vật chất,
động lực phát triển của xã hội. Mác, Ăngghen khẳng định: Bản thân cái nhu
cầu đầu tiên đã đợc thoả mãn, hành động thoả mãn và công cụ để thoả mãn
mà ngời ta đã có đợc- đa tới những nhu cầu mới; và sự sản sinh ra những nhu

cầu mới này là hành vi lịch sử đầu tiên 11. Rõ ràng không có nhu cầu thì con
ngời cũng không làm gì cả; chỉ có nhu cầu và nhu cầu ngày càng tăng thì đó là
động lực trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó con ngời luôn gắn với
thực tiễn- hoạt động sản xuất vật chất.
Ba là, hoạt động sản xuất vật chất hàng ngày, nhằm tái tạo ra đời sống
của bản thân mình. Mác viết: Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con ngời bắt đầu tạo ra những ngời khác, sinh sôi nẩy nở- đó là quan hệ
giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình 12. Chỉ có nhu cầu và sản
xuất vật chất thì con ngời mới quan hệ, giao tiếp với nhau, mới xuất hiện nhu
cầu trao đổi, nhu cầu liên kết...và do đó xuất hiện gia đình, xuất hiện xã hội vì
vậy gia đình cũng gắn chặt với xã hội.
C.Mác và Ăngghen cho rằng: Không nên coi ba mặt đó của hoạt động
xã hội là ba giai đoạn khác nhau, mà chỉ là ba mặt, chỉ là ba nhân tố, chúng
tồn tại đồng thời với nhau ngay từ buổi đầu của lịch sử, từ khi con ngời đầu
tiên xuất hiện, và chúng hiện vẫn còn biểu hiện ra trong lịch sử 13. Hơn nữa,
cũng không nên hiểu sản xuất vật chất chỉ là sản xuất ra những t liệu sinh hoạt
cho con ngời, mà phải hiểu hoạt động sản xuất vật chất đó chính là phơng thức
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 29.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 11.
11 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 40.
12 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 41.
13 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 42.
9

10

6


sống của con ngời. Nói một cách khác, sản xuất vật chất không những chỉ quy

định sự tồn tại thể xác của con ngời, mà còn quy định cả phơng thức sinh hoạt,
lối sống của con ngời. Theo Mác, không nên nghiên cứu phơng thức sản xuất
ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các
cá nhân. Mà nó đã là một hình thức hoạt động nhất định của những cá nhân
ấy, một hình thức nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ, một phơng thức
sinh sống nhất định của họ. Những cá nhân biểu hiện đời sống của họ nh thế
nào thì họ nh thế ấy; do đó họ là nh thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của
họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng nh với cách mà họ sản xuất. Do đó, những
cá nhân là nh thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự
sản xuất của họ. Tất nhiên cũng cần phải thấy rằng, lối sống của cá nhân là kết
quả tổng hợp của nhiều yếu tố: sản xuất vật chất; điều kiện sống nh thế nào;
truyền thống của mỗi dân tộc; nền giáo dục xã hội; thể chất của mỗi cá nhân.
v.v. trong đó sản xuất vật chất là yếu tố xét đến cùng quyết định. Mác khẳng
định: Con ngời tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con
ngời đến mức ấy14.
Về nguồn gốc ý thức cũng xuất phát từ tồn tại xã hội, ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khác quan; không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự
tồn tại đợc ý thức, tồn tại xã hội chính là nội dung của ý thức; ý thức đợc biểu
hiện ra thông qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng đối với sự
hình thành và phát triển của ý thức, ngôn ngữ cũng tồn tại lâu nh ý thức; ngôn
ngữ là ý thức hiện thực, thực tiễn, và cũng nh ý thức, ngôn ngữ chỉ xuất hiện
từ nhu cầu, từ sự tất yếu phải giao tiếp với những ngời khác. Mác viết: Con
ngời cũng có cả ý thức nữa. Song đó không phải là ý thức bẩm sinh sinh ra đã
là ý thức thuần tuý...là thể hiện dới hình thức ngôn ngữ; ngôn ngữ là ý thức
hiện thực, thực tiễn, ngôn ngữ chỉ xuất hiện từ nhu cầu, từ sự tất yếu phải giao
tiếp với những ngời khác15.
Về bản chất của ý thức , các ông đã chỉ rõ, ý thức là phản ánh thế giới,
phản ánh đời sống xã hội của con ngời; ý thức chỉ là ý thức của những cá nhân
hiện thực và đang sống mà thôi. Mác viết: Do đó ngay từ đầu, ý thức đã là
một sản phẩm xã hội, và vẫn là nh vậy chừng nào con ngời còn tồn tại16.

Từ quan niệm về sản xuất vật chất, về con ngời hiện thực và vai trò của
nó, C.Mác và Ph. Ăngghen đã vạch ra thực chất mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội (mặc dù cha sâu sắc) và một số nội duy về chủ nghĩa duy
vật lịch sử mà ở đó vai trò của con ngời không tách rời các quá trình đó- đó
cũng là quan điểm nhất quán của Mác và Ăngghen.
Về tồn tại xã hội, các ông quan niệm đó chính là: quá trình hiện thực của
sản xuất; sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp; các hình thức giao tiếp của
con ngời, các hình thức gắn liền với phơng thức sản xuất và do phơng thức sản
xuất ấy sản sinh ra- tức là xã hội công dân ở các giai đoạn khác nhau của nó là cơ sở của toàn bộ lịch sử. Mác viết: Không phải là cái gì khác mà chỉ là sự
biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan
hệ vật chất thống trị đợc biểu hiện dới hình thức t tởng...17. Nh vậy tồn tại xã
hội quyết định hiện thực của sản xuất vật chất của đời sống con ngời, các hình
thức gắn liền với phơng thức sản xuất và do phơng thức sản xuất ấy sinh ra xã
hội công dân.
Chính con ngời, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất
của mình, đã làm biến đổi, cùng với sự tồn tại hiện thực của mình, cả t duy lẫn
sản phẩm t duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính
đời sống quyết định ý thức. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 55.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 43.
16 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 43.
17 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 66- tr 67.
14

15

7


xã hội còn đợc thể hiện ở chỗ: tồn tại xã hội nh thế nào thì ý thức xã hội về

căn bản là nh thế ấy, trong xã hội có đối kháng giai cấp, ý thức xã hội mang
tính giai cấp, ý thức thống trị xã hội là ý thức của giai cấp thống trị xã hội.
Lịch sử t tởng chứng minh gì, nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất
tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những t tởng thống trị của một
thời đại bao giờ cũng chỉ là những t tởng của giai cấp thống trị C.Mác và Ph.
Ăngghen đã phê phán Phoiơbắc: Khi Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không
bao giờ đề cập đến lịch sử; còn khi ông xem xét đến lịch sử thì ông không
phải là nhà duy vật...lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau18.
Về mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất. Xem xét lực
lợng sản xuất C.Mác và Ăngghen đã gắn nó với sự phân công lao động xã hội,
phân tích sự phát triển của lực lợng sản xuất gắn với sự phát triển của phân
công lao động xã hội còn với quan hệ sản xuất lúc này các ông gọi là những
quan hệ giao tiếp. Các ông đã khẳng định tính khách quan của lực lợng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Về mối quan hệ của chúng các ông khẳng định:
quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mâu thuẫn,
trong đó lực lợng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Những sự giao tiếp
phổ biến của con ngời chỉ có thể đợc xác lập bởi sự phát triển phổ biến của lực
lợng sản xuất, và quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lợng sản xuất... Các
ông khẳng định: Hình thức giao tiếp... đợc quyết định bởi những lực lợng sản
xuất...và đến lợt nó lại quyết định lực lợng sản xuất19.
Sự tác động giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất diễn ra tuân theo
quy luật - quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay
gắt thì ngời ta thay thế hình thức giao tiếp cũ đã trở thành một trở ngại bằng
một hình thức mới phù hợp với những lực lợng sản xuất đã phát triển hơn, và
do đó phù hợp với phơng thức hoạt động tiên tiến hơn của các cá nhân; hình
thức mới này lại trở thành trở ngại và lại đợc thay thế bằng một hình thức
khác cứ nh thế xã hội phát triển không ngừng, đi từ sự phát triển của phơng
thức sản xuất xã hội.
Về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng. Trong tác

phẩm này lần đầu tiên Mác dùng thuật ngữ kiến trúc thợng tầng, còn cơ sở
hạ tầng vẫn đợc gọi là cơ sở hoặc cơ sở kinh tế, xã hội công dân. Các ông chỉ
rõ, kiến trúc thợng tầng nhà nớc là sản phẩm của cơ sở sản xuất, xã hội công
dân, bao gồm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân trong một giai
đoạn phát triển nhất định của những lực lợng sản xuất. Nó bao gồm toàn bộ
đời sống thơng nghiệp và công nghiệp của một giai đoạn Xã hội công dân,
theo đúng nghĩa của nó, chỉ phát triển cùng với giai cấp t sản; tuy nhiên danh
từ ấy bao giờ cũng đợc dùng để chỉ tổ chức xã hội ra đời trực tiếp từ sản xuất
và thơng nghiệp và trong bất cứ thời đại nào cũng là cơ sở của nhà nớc và còn
là của kiến trúc thợng tầng t tởng nữa. Mác viết: Xã hội công dân ở những
giai đoạn khác nhau của nó- là cơ sở của toàn bộ lịch sử 20. Với quan niệm nh
vậy, C.Mác và Ph. Ăngghen tiến tới xem xét lịch sử xã hội theo quy luật biện
chứng của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất. Từ đó, các ông vạch ra sự
vận động của xã hội từ cổ đại đến chủ nghĩa t bản là một quá trình hợp quy
luật. Đặc biệt, các ông đã vận dụng quan điểm đó vào xem xét sự ra đời và
phát triển của chủ nghĩa t bản và rút ra đợc những hệ quả của lý luận triết học
của mình. Đó chính là lý luận về cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa
cộng sản.
18
19
20

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 65.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 51.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 54.

8


Về lý luận về cách mạng xã hội, C.Mác và Ph. Ăngghen đã phân tích

nguyên nhân của cách mạng xã hội đi từ kinh tế, từ mâu thuẫn giữa lực lợng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Các ông viết: Nh chúng ta đã thấy, mâu thuẫn
ấy giữa những lực lợng sản xuất và hình thức giao tiếp đã xảy ra nhiều lần
trong lịch sử từ trớc cho đến nay, song vẫn không làm hại đến cơ sở của nó, thì
lần nào cũng đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng, đồng thời lại mang
những hình thức phụ khác nhau Nh vậy là theo quan điểm của chúng tôi, tất
cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lợng
sản xuất và hình thức giao tiếp 21. Trên cơ sở phân tích nguyên nhân của cách
mạng xã hội đi từ kinh tế, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đi đến kết luận về tính tất
yếu của cách mạng vô sản; xác đinh nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc
cách mạng đó. Giai cấp vô sản là giai cấp có tính quốc tế giai cấp vô sản chỉ
có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới, cũng nh chủ nghĩa cộng sản,
tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại đợc với t cách
là một tồn tại có tính chất lịch sử thế giới. Giai cấp vô sản phải cải tạo xã hội
để cải tạo mình, để trở thành ngời xây dựng chế độ xã hội mới; cách mạng vô
sản phải xoá bỏ t hữu xác lập công hữu.v.v.
Về xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Mác đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố kinh
tế. Xây dựng chủ nghĩa cộng sản thực chất là xây dựng kinh tế để khắc phục
sự tha hoá do chủ nghĩa t bản tạo ra. Phải có tiền đề trực tiếp, tuyệt đối cần
thiết. Đó là phải có sự phát triển mạnh mẽ của những lực lợng sản xuất. Và,
nếu không có tiền đề đó con ngời sẽ phải sống trong sự thiếu thốn, lại phải
tranh giành nhau, rồi lại phải rơi vào vũng bùn ti tiện Sự tha hoá dĩ nhiên là
chỉ có thể bị xoá bỏ khi có hai tiền đề thực tiễn. Mác viết: Việc thiết lập chủ
nghĩa cộng sản, về thực chất là có tính chất kinh tế22.
Ngoài ra trong tác phẩm này C.Mác và Ph.Ăngghen cũng lu ý chúng ta về
tính chất quốc tế của cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa cộng sản do lực
lợng sản xuất đã quốc tế hoá.
Từ toàn bộ quan niệm về duy vật lịch sử nêu trên Mác và Ăngghen đi
đến các kết luận nh sau:
Một là, sức sản xuất đã phát triển đến một trình độ mà hình thức giao dịch

bắt đầu kìm hãm sự phát triển ấy; gắn liền với sự kiện ấy, giai cấp vô sản ra đời
gắn với ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa: Trong quá trình phát triển của những lực
lợng sản xuất có một giai đoạn mà trong đó xuất hiện những lực lợng sản xuất
và những phơng tiện giao tiếp chỉ có thể gây tác hại trong khuôn khổ những
quan hệ hiện có...Gắn liền với sự kiện này xuất hiện một giai cấp buộc phải
chịu đựng tất cả gánh nặng của xã hội mà không đợc hởng những phúc lợi xã
hội...là giai cấp sản sinh ra ý thức về tính tất yếu của một cuộc cách mạng triệt
để, ý thức cộng sản chủ nghĩa23.
Hai là, sản xuất vận động trong điều kiện thống trị của một giai cấp nhất
định, biểu hiện tronh hình thức nhà nớc, vì vậy bất cứ cuộc đấu tranh cách
mạng nào cũng nhằm chống lại giai cấp thống trị cũ. Mác viết: Những điều
kiện trong đó những lực lợng sản xuất nhất định có thể đợc sử dụng, là những
điều kiện thống trị của một giai cấp nhất định trong xã hội, giai cấp quyền lực
của nó- quyền lực do sở hữu của nó mang lại,- thờng coá sự biểu hiện duy tâmthực tiễn dới hình thức nhà nớc riêng của mỗi thời kỳ, và vì vậy, mọi cuộc đấu
tranh cách mạng đều nhằm chống giai cấp đã thống trị cho đến lúc bấy giờ24.
21

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 107- tr 109.

22

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 102.

23

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 99.

24

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 100.


9


Ba là, cách mạng cộng sản khác về chất đối với tất cả các cuộc cách mạng
trớc đó: nó xoá bỏ t hữu; xoá bỏ giai cấp: Trong hết thảy các cuộc cách mạng
trớc đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên nh cũ,- và bao giờ vấn đề
cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một sự phân phối
lao động mới cho những ngời khác; trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa là
nhằm chống lại tính chất lao động trớc đây, nó xoá bỏ lao động và thủ tiêu sự
thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp25.
Bốn là, cách mạng cộng sản không chỉ xoá bỏ những quan hệ kinh tế,
chính trị cũ, mà còn cải tạo đông đảo quần chúng...do đó cách mạng là cần
thiết: Để ý thức cộng sản chủ nghĩa đó nảy sinh ra đợc trong đông đảo quần
chúng, cũng nh để đạt đợc chính ngay mục đích ấy thì cần phải có một sự biến
đổi của đông đảo quần chúng, sự biến đổi này chỉ có thể thực hện đợc trong
một phong trào thực tiễn, trong cách mạng; do đó, cách mạng là tất yếu... có
năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội26.
Ăngghen đã chỉ ra rằng, động lực của toàn bộ lịch sử hiện đại chính là
cuộc đấu tranh giữa ba giai cấp lớn và những xung đột về quyền lợi của họgiai cấp địa chủ quý tộc, giai cấp t sản và giai cấp vô sản. Nh vậy theo ông đấu
tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển. Ăngghen viết:
Trong cả hai nớc Anh và Pháp, giai cấp công nhân, giai cấp vô sản đã đợc
thừa nhận là ngời thứ ba đấu tranh giành chính quyền. Quan hệ đã trở thành
đơn giản đến nỗi chỉ có cố tình nhắm mắt lại mới có thể không thấy rằng động
lực của toàn bộ lịch sử hiện đại, ít nhất là ở trong hai nớc tiên tiến nhất nói
trên, chính là cuộc đấu tranh của ba giai cấp lớn đó và những sự xung đột về
quyền lợi của họ27. Để tìm ra động lực của động lực, Ăngghen đi sâu vào
xem xét nguồn gốc của giai cấp và đấu tranh giai cấp, các ông chỉ ra rằng:
Tất cả các cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai cấp và tất cả các
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, dù hình thức chính trị tất yếu của chúng là

thế nào đi nữa- vì bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh
chính trị- xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế28.
Nh vậy, trong quá trình nghiên cứu lịch sử Mác và Ăngghen đã không phủ
nhận mà đánh giá cao vai trò của các nhà triết học trớc đó mà tiêu biểu là triết
học của Hêghen và triết học của Phoiơbắc. Các ông phê phán triết học trớc đó
cha có quan điểm đúng đắn về thực tiễn do đó thiếu triệt để, chỉ duy vật về tự
nhiên, cha thoát khỏi quan niệm duy tâm về lịch sử xã hội. Các ông đã vận
dụng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội và mở rộng
vào nghiên cứu một lĩnh vực đặc thù của thế giới vật chất là tồn tại có hoạt
động con ngời, tồn tại thống nhất, khách quan- chủ quan. Với việc kết hợp
một cách thiên tài giữa quá trình cải tạo triệt để chủ nghĩa duy vật và cải tạo
những quan điểm duy tâm về lịch sử xã hội, Mác và Ăngghen đã làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới
tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài ngời, chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Mác là thành tựu vĩ đại nhất của t tởng khoa học29.
Nh vậy, nếu nh ở giai đoạn trớc, các tác phẩm trớc, C.Mác và Ph.
Ăngghen còn chịu ảnh hởng t tởng của Phoiơbắc, đôi chỗ còn căn cứ vào
Phoiơbắc để đấu tranh với các quan điểm phản diện, thì đến tác phẩm này, các
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 100.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 100- tr 101.
27 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 439.
28 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 441.
29 Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr 216.
25
26

10


ông đã đoạn tuyệt với Phoiơbắc và xây dựng đợc hệ thống lý luận mới, độc lập

của mình... Mặc dù trên nhiều phơng diện, lý luận đó cần đợc bổ xung và tiếp
tục phát triển, song ở Hệ t tởng Đức hệ thống lý luận mà các ông trình bày
là cực kỳ quan trọng, nó chính là cơ sở lý luận cho sự hình thành chủ nghĩa
Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
4. ý nghĩa của tác phẩm trong cuộc đấu tranh trên mặt trận t tởng
lý luận hiện nay
Hệ t tởng Đức là một trong những tác phẩm kinh điển xuất sắc của chủ
nghĩa Mác. Với sự ra đời của tác phẩm này, lần đầu tiên quan niệm duy vật về
lịch sử của Mác và Ăngghen đợc trình bày một cách có hệ thống, nó chính là
cơ sở lý luận quan trọng cho sự hình thành chủ nghĩa Mác nói chung và triết
học Mác nói riêng. Hiện nay những t tởng cơ bản trong tác phẩm vẫn đúng,
vẫn giữ nguyên giá trị, nó vẫn là cơ sở lý luận, phơng pháp luận khoa học cho
hoạt động của các đảng cộng sản trong lãnh đạo cách mạng.
Nghiên cứu tác phẩm Hệ t tởng Đức không những cho chúng ta thấy sự
ra đời của triết học Mác thực sự là cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học,
mà con cung cấp cho mỗi ngời cơ sở lý luận để hình thành thế giới quan duy
vật mác-xít và phơng pháp luận khoa học trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Và có cơ sở khoa học để khẳng định rằng, ngày nay chủ nghĩa MácLênin không hề lỗi thời nh kẻ thù đang xuyên tạc. Đảng ta đã khẳng định:
Chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh là nền tảng t tởng, kim chỉ nam
cho hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Rõ ràng sự khẳng định đó là
khách quan, có cơ sở khoa học, không phải là ý trí chủ quan của cá nhân ai.
Từ tác phẩm này chúng ta nhận thấy các vấn đề cơ bản, hết sức khoa học sau
đây:
Một là, Hệ t tởng Đức là một trong những tác phẩm mà Mác và Ăngghen
đã trình bày một cách có hệ thống những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ông đánh giá có phê phán phơng pháp biện
chứng của Hêghen mà đặc biệt là chủ nghĩa duy vật trong triết học của
Phoiơbắc. Ông chứng minh rằng: cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen
cũng nh chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc đều sẽ đợc khắc phục và bị
xoá bỏ.

Mác và Ăngghen đã giải đáp đợc các vấn đề mà trớc đó nhân loại cha
giải đáp đợc hoặc giải đáp cha triệt để. Đồng thời các ông tiếp tục nghiên cứu,
bổ sung, hoàn thiện, phát triển đến đỉnh cao- hoàn bị cả về lý luận và thực tiễn
của đời sống xã hội. Hệ thống lý luận đó thống nhất thế giới quan và phơng
pháp luận, cách mạng và khoa học, lý luận và thực tiễn, nhận thức thế giới và
cải tạo thế giới. Mác đã chỉ ra: Dới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ
đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp t sản; vì mỗi hình thái hình
thành đều đợc phép biện chứng xét trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất
thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trớc một cái gì cả,
và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng30.
Mặt khác, với phát kiến ra chủ nghĩa duy vật lịch sử- một thành quả vĩ
đại, Mác và Ăngghen đã trở thành nhà t tởng vĩ đại, các ông đã đa triết học
của mình trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, là chìa
khoá để khám phá, nắm bắt bí mật của lịch sử xã hội, với quan điểm nhất
nguyên duy vật các ông khẳng định sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống
30

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 23, tr 35- tr 36.

11


xã hội; xã hội loài ngời trải qua các hình thái kinh tế- xã hội từ thấp đến cao là
một quá trình lịch sử tự nhiên; xã hội bóc lột tồn tại dựa trên chế độ t hữu về t
liệu sản xuất; trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguồn gốc động
lực trực tiếp thúc đẩy các xã hội có giai cấp phát triển...đó là những kết quả
của quá trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, sự cần cù sáng tạo và thiên tài
của Mác và Ăngghen. Lênin viết: Thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã
giải đáp đợc những vấn đề mà t tởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra31.
Nh vậy, với phân tích ở trên chúng ta khẳng định rằng triết học Mác là

sáng tạo và khoa học, là hệ thống mở, không ngừng đợc bổ sung, hoàn thiện,
phát triển do đó, nó không thể bị lạc hậu, lỗi thời nh các thể lực phản động,
xét lại đang rêu rao xuyên tạc.
Hai là, với tác phẩm này, Ăngghen đã góp phần cống hiến vô giá vào việc
đa chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân quốc tế. Tác phẩm đã
góp phần quyết định vào việc trang bị cho giai cấp công nhân ý thức rằng: thế
giới quan khoa học và đảng cách mạng của giai cấp là một thể thống nhất
không thể tách rời. Tác phẩm là cơ sở lý luận tuyệt vời cho cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân chống lại triết học t sản. Từ đây giai cấp vô sản có một học
thuyết cách mạng và khoa học hoàn bị, trở thành hệ t tởng vô sản, đa cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân từ tự phát lên tự giác. Mác và Ăngghen đã hớng
hoạt động của mình vào nghiên cứu sáng tạo khoa học, các ông đã thâu tóm đợc tinh hoa tri thức, văn hoá nhân loại từ đó xây dựng lên hệ thống lý luận của
mình. Hệ thống lý luận ấy đợc khởi nguồn từ khoa học đích thực do đó tự nó
đã khẳng định giá trị thời đại và sức sống trờng tồn cả về mặt lý luận và thực
tiễn.
Ba là, thông qua tác phẩm chúng ta thấy đặc trng nổi bật thể hiện sự sáng
tạo- đó cũng là đặc trng của triết học Mác. Mác và Ăngghen đã công phu trình
bày tác phẩm trên cơ sở đấu tranh có phê phán các nhà triết học trớc đó và là
kết quả lao động sáng tạo không mệt mỏi của các ông. Điều đó chứng tỏ rằng
học thuyết triết học của Mác và Ăngghen là một học thuyết chân chính và
khoa học nó gắn với thực tiễn sinh động của phong trào công nhân. Qua tác
phẩm này chúng ta cũng thấy rằng triết học Mác là học thuyết phản ánh thế
giới vật chất luôn luôn vận động phát triển. Triết học Mác luôn là hệ thống mở
và đợc bổ sung hoàn thiện, coi triết học của các ông chỉ là kim chỉ nam cho
nhận thức và hành động, cần phải vận dụng một cách sáng tạo trong những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Ăngghen viết: Lý luận của chúng tôi không phải
là một giáo điều, mà là sự giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao
hàm trong bản thân nó một loạt những giai đoạn kế tiếp nhau32.
Lênin ngời học trò xuất sắc của Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: Chúng
ta không hề coi lý luận của Mác nh là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả

xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn
khoa học mà những ngời xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi
mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống33.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 23, tr 49.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999, t 36, tr 785.
33 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4, tr 232.
31
32

12


Bốn là, thông qua tác phẩm này chúng ta thấy đợc tính nhân đạo sâu sắctính nhân đạo cộng sản chủ nghĩa, đó là lý luận khoa học xuất phát từ con ngời, vì mục tiêu giải phóng con ngời, trớc hết là giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức bóc lột, phát triển tự do, toàn diện con
ngời.
Mong muốn xây dựng một xã hội mà ở đó không có ngời bóc lột ngời,
con ngời đợc giải phóng và đợc phát triển toàn diện là mong muốn của các
nhà t tởng trớc Mác. Song những mong muốn đó không trở thành hiện thực vì
nó không đi vào nghiên cứu xã hội cụ thể, con ngời cụ thể, thiếu đờng lối, phơng pháp cách mạng...do đó nó chỉ là khẩu hiệu chung chung và rơi vào chủ
nghĩa xã hội không tởng mà thôi. Chủ nghĩa xã hội mở đầu là Cách mạng
Tháng mời Nga (năm 1917) đã đánh dấu một bớc ngoặt lịch sử nó đã trở thành
chủ nghĩa xã hội hiện thực- phong trào cách mạng hiện thực, nó đã phát động
đợc giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng dới sự lãnh đảo của đảng
cộng sản- đội tiền phong của giai cấp công nhân- lãnh tụ của phong trào đứng
lên làm cách mạng và đã giành đợc thắng lợi và đã trở thành một hệ thống xã
hội chủ nghĩa đối trọng với chủ nghĩa t bản. Đó là bằng chứng đầy sức thuyết
phục cả về lý luận và thực tiễn- khẳng định tính chân lý, tính hiện thực và sức
sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung và triết học Mác nói
riêng.
Triết học Mác- Lênin có mối quan hệ chặt chẽ với đời sống xã hội. Sự

thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa MácLênin, đã trở thành nguồn động lực to lớn thúc đẩy cả lý luận và thực tiễn
cách mạng của giai cấp công nhân phát triển. Nhận thấy khoa học là động lực
lịch sử, một lực lợng cách mạng, khoa học đích thực là giải phóng con ngời,
phục vụ lợi ích con ngời, do đó thông qua khoa học, nhất là khoa học tự nhiên
để rút ra các kết luận mới làm tăng sức mạnh của chủ nghĩa duy vật chiến đấu.
Mặt khác những ngời cộng sản đã lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền
tảng kim chỉ nam cho hành động của mình, vì thế họ luôn luôn bám sát thực
tiễn, phát hiện cái mới và những mâu thuẫn nảy sinh để giải quyết, từ đó khái
quát, hoàn thiện lý luận đa lý luận vào cuộc sống, góp phần thúc đẩy cuộc
sống và thực tiễn cách mạng tiến lên. Mác chỉ rõ: Giống nh triết học thấy giai
cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là
vũ khí tinh thần của mình34.
Hiện nay chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng, thoái trào, điều đó
không phải do lý luận Mác sụp đổ mà là sự khủng hoảng, sụp đổ của một
mô hình xã hội chủ nghĩa cụ thể- có tính chất giáo điều, điều đó cũng có
nghĩa là các nhà cộng sản cha nắm bắt kịp thời thực tiễn cuộc sống xã hội
đang vận động- sự phát triển của khoa học công nghệ, sự bùng nổ thông
tin...để khái quát, phát triển lý luận, làm cơ sở định hớng và cải tạo thế giới
theo đúng tính thần của Mác, Ăngghen và Lênin đã chỉ huấn: Đối với chúng
ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra,
không phải là một lý tởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ
nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, xoá bỏ trạng thái hiện nay35.
34
35

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 1, tr 589.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 3, tr 51.

13



Tuy nhiên một số Đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế vẫn
kiên định đờng lối lấy lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, kim chỉ
nam cho hành động của đảng, kịp thời đổi mới bổ sung, phát triển lý luận ấy
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mỗi nớc do đó không những đang đứng
vững mà còn có sự phát triển mạnh mẽ, điều đó khẳng định chủ nghĩa MácLênin nói chung, triết học Mác nói riêng không hề bị lỗi thời nh kẻ thù đang
xuyên tạc.
Năm là, có thể nói đây là tác phẩm thể hiện xuất sắc nhất tính đảng- bút
chiến của Mác và Ăngghen. Lần đầu tiên trong lịch sử, các ông đã công khai
tính đảng của triết học- một hệ thống triết học mang tính triệt để khi nó đứng
hẳn trên lập trờng của một trong hai phái chính của triết học- chủ nghĩa duy
vật hoặc chủ nghĩa duy tâm. Lênin nhấn mạnh: Triết học hiện đại cũng có
tính đảng nh triết học hai nghìn năm về trớc36. Mác và Ăngghen biến triết
học của mình thành vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản. Do gắn bó mật thiết
với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, triết học Mác đã trở thành
hạt nhân lý luận khoa học cho thế giới quan cộng sản của giai cấp công nhân.
Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong triết học Mác là sự thống
nhất hữu cơ với nhau. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận của chủ nghĩa
Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bớc chuyển biến về chất của phong
trào từ trình độ tự phát lên tự giác- một điều kiện tiên quyết để giai cấp công
nhân thực hiện đợc sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình. Bản thân triết học nó
không có mục đích tự thân mà triết học sinh ra do nhu cầu của phe phái...trong
xã hội có giai cấp tính đảng biểu hiện ra là tính giai cấp. Lênin viết: Hai
nghìn năm phát triển của triết học cũng chỉ xoay quanh trục Đêmôcrít- Platôn;
Hêghen đối xử với Đêmôcrít hoàn toàn nh một ngời mẹ ghẻ, nhà duy tâm
không chịu đựng nổi tinh thần duy vật; các nhà duy tâm t sản hiện đại đối với
Đêmôcrít nh một kẻ thù còn sống, điều đó minh hoạ đặc sắc cho tính đảng của
triết học37.
Sáu là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là học trò xuất sắc của Mác, Ăngghen,
Lênin với thế giới quan, t duy triết học duy vật biện chứng, Ngời đã tìm thấy

con đờng cứu nớc đúng đắn cho dân tộc, đó là con đờng cách mạng vô sản.
Ngời chỉ rõ: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác- Lênin 38. Hiện
nay Đảng Cộng sản Việt Nam không những đánh giá cao vai trò lý luận của
chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn khẳng định: Chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh là nền tảng t tởng, kim chỉ nam cho hành động của đảng và của toàn
dân tộc Việt Nam39. Thực tiễn hơn 75 năm qua dới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thiên tài đã lãnh đạo
cách mạng Việt Nam giành thắng lợi chấm dứt ách đô hộ hàng nghìn năm của
chế độ phong kiến, hàng trăm năm của các thế lực thực dân cũ và mới đa đất
nớc thống nhất giang sơn thu về một mối, cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Qua
hơn 20 năm đổi mới chẳng những đất nớc đứng vững không bị sụp đổ (nh kẻ
thù tởng) mà còn đa nớc ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên. Đó đã
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1980, T.18, tr 445.
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1981, T.29, tr 282- tr285.
38 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 2, tr 268.
39 Đảng Cộng sản Việt Nam, Cơng lĩnh xây dựng đất nớc, Nxb Sự thật, H. 1991, tr 10.
36
37

14


góp thêm một bằng chứng hùng hồn về sức sống và giá trị thời đại của chủ
nghĩa Mác- Lênin khi Đảng Cộng sản Việt Nam đã bám sát thực tiễn, không
ngừng bổ sung lý luận phù hợp với thực tiễn đa sự nghiệp cách mạng tiến lênđiều đó càng khẳng định bản chất cách mang và khoa học của chủ nghĩa MácLênin, t tởng Hồ Chí Minh, nó không bị lỗi thời nh họ lầm tởng.
Trong công tác nghiên cứu khoa học và học tập giúp cho chúng ta hiểu
biết sâu thêm về giá trị lịch sử văn hoá phơng Tây, để phát huy củng cố niềm
tin duy vật triệt để, tin vào triết học Mác xít, tin vào sức sống trờng tồn của
chủ nghĩa Mác. Thế kỷ XXI nhân loại sẽ không có tơng lai nếu không có chủ

nghĩa Mác. Với tinh thần kế thừa tinh hoa t tởng văn hoá nhân loại chúng ta
phải biết kế thừa, đồng thời phải biết phát triển, vận dụng sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng- nắm vững chủ nghĩa duy vật
biện chứng và phép biện chứng duy vật vào giải quyết các vấn đề trong đời
sống xã hội- trong thực tiễn của nền sản xuất vật chất. Giờ đây triết học Mác
không những giải thích thế giới mà vấn đề là cải tạo thế giới: Các nhà triết
học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau; vấn đề là cải tạo thế
giới40. Nắm vững lý luận và phơng pháp luận khoa học của chủ nghĩa MácLênin, t tởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ
đảng viên, đặc biệt là lực lợng vũ trang trong nhận thức cũng nh trong hành
động, trong mỗi việc làm, nh Ăngghen viết: Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có t duy lý luận41. Bởi vì,
Ăngghen đã chỉ ra rằng: mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong
lĩnh vực tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi hình
thức của nó. Trên thực tế triết học Mác đã, đang và sẽ trở thành thế giới quan
khoa học và phơng pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của mọi khoa
học cụ thể nói chung và cho phong trào công nhân nói riêng. Sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có t duy biện
chứng duy vật và ngợc lại, chỉ có dựa trên những thành tựu của khoa học hiện
đại để phát triển thì triết học Mác mới không ngừng nâng cao đợc sức mạnh
cải tạo thế giới của mình.
Đấu tranh không khoan nhợng với chủ nghĩa duy tâm, xét lại đang xuyên
tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh kể cả trong nhận thức cũng nh
trong hành động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lực lợng vũ trang hiện nay, đồng thời bám sát cuộc sống, tổng kết kinh nghiệm
phát triển lý luận phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đó là nhiệm vụ của những
ngời cộng sản hiện nay. Kẻ thù đang tìm cách tuyên truyền xuyên tạc chống
lại Đảng, Nhà nớc và nhân dân ta hiện nay, bóp méo chủ nghĩa Mác chúng
đang rêu rao về giải phóng, phát triển toàn diện, dân chủ, nhân quyền con ngời phi giai cấp, đó chỉ là con ngời tộc loại, con ngời toàn thể, một cách chung
chung...mục đích nhằm che đậy đấu tranh giai cấp mà thôi; điều chỉnh quan
hệ sản xuất, các hình thức sở hữu v.v.nhng tự bản thân chủ nghĩa t bản không
thể vợt qua chính nó. Đòi hỏi các Đảng ta và các lực lợng vũ trang nhân dân,

cũng nh toàn thể giai cấp công nhân Việt Nam cần hết sức cảnh giác và đấu
tranh không khoan nhợng với mu đồ đó. Đồng thời kiên quyết phê phán các
trào lu t tởng lợi dụng chủ nghĩa duy tâm bóp méo vai trò con ngời trong nền
40
41

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 3, tr 12.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tập 20, tr 489.

15


sản xuất vật chất. Đó là thái độ đúng đắn của những ngời cộng sản. Đó cũng
là thể hiện công khai tính đảng của triết học, biến triết học của mình thành vũ
khí tinh thần của giai cấp vô sản. Do gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản, triết học Mác trở thành hạt nhân lý luận khoa học
cho thế giới quan cộng sản của giai cấp công nhân, là điều kiện tiên quyết để
giai cấp công nhân thực hiện đợc sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình. Trong lực lợng vũ trang, với lập trờng nhất nguyên duy vật và phơng pháp biện chứng
cách mạng, phải nắm chắc học thuyết quân sự vô sản giải quyết một cách
đúng đắn, khoa học các vấn đề về tính chất xã hội của chiến tranh; về nguồn
gốc, bản chất của chiến tranh, của quân đội; giải quyết mối liên hệ nội tại và
sự phụ thuộc tất yếu của chiến tranh, của quân đội vào chính trị, vào cơ sở
kinh tế...đó cũng là tạo ra những nhận thức mới về xây dựng quân đội chính
quy, tinh nhuệ và từng bớc hiện đại, chuẩn bị và tiến hành chiến tranh bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa đồng thời có cơ sở khoa học để loại trừ chiến tranh ra
khỏi đời sống xã hội.

16




×