Tải bản đầy đủ (.doc) (204 trang)

CƠ cấu và CHẤT LƯỢNG TRÍ THỨC GIÁO dục đại học ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.25 KB, 204 trang )

CHỈ DẪN CHỮ VIẾT TẮT
TT

Tên chữ

Viết tắt

1

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

2

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

3

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

4

Khoa học tự nhiên

KHTN


5

Khoa học xã hội

KHXH

6

Khoa học xã hội và nhân văn

KHXH và NV

7

Khoa học kỹ thuật

KHKT

8

Giáo dục đại học

GDĐH
MỞ ĐẦU

1 - Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam , trí thức là một lực lượng cách mạng. Đội ngũ này đã có những đóng góp to lớn và
ngày càng khẳng định vị trí xứng đáng của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đã trở thành

nền tảng của xã hội Việt Nam trên con đường đi lên CNXH. Trong công cuộc đổi mới, trí
thức nói chung và đội ngũ trí thức giáo dục - đào tạo nói riêng, đã và đang, ngày càng
đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra rất nhanh chóng, có tác động mạnh
mẽ và toàn diện đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự phát triển của cuộc cách mạng


này đã tạo ra vận hội lớn cho tất cả các dân tộc vươn lên, đồng thời cũng đặt ra những
thách thức gay gắt cho mỗi nước trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế và xã hội. Việc xây
dựng đội ngũ trí thức GDĐH sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển khoa học và công
nghệ, tạo nguồn lực nội sinh nhằm thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định
hướng XHCN.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển bền vững của dân tộc. Nghị quyết
Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: "Khoa học và giáo dục đóng vai trò then
chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, là động lực đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới". Nghị quyết
Đại hội lần thứ VIII của Đảng cũng chỉ rõ: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu", "là khâu đột phá bước vào thời kỳ mới".
Những năm qua, trong quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự phát triển của đất
nước, đội ngũ trí thức GDĐH đã phát triển mạnh về số lượng, có chuyển biến tích cực về
chất lượng. Song, trước yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực cho thời kỳ
đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, tiếp cận với nền kinh tế mới - kinh tế tri thức, từng
bước hội nhập với sự vận động chung của thế giới…, thì nền GDĐH Việt Nam nói
chung và trí thức GDĐH nói riêng, còn nhiều vấn đề tồn tại cần được khắc phục để phát
triển: Cơ cấu trí thức GDĐH còn nhiều bất cập, năng lực và phẩm chất của trí thức nhà
giáo chưa bộc lộ hết và còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới GDĐH cũng
như sự phát triển khoa học; chưa đáp ứng kịp thời đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân
lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện CNH,
HĐH đất nước theo định hướng XHCN.



Bởi vậy, đề tài "Nghiên cứu cơ cấu và chất lượng trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay"
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết và lâu dài; góp phần phát triển GDĐH, thúc đẩy
sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam đã có nhiều bài viết, nhiều công
trình nghiên cứu về trí thức và đội ngũ trí thức giáo dục - đào tạo. Trong đó, đặc biệt
quan trọng là những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo,
các văn bản của Đảng, Nhà nước ta về đội ngũ này.
Những năm gần đây, nhất là từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, vấn đề trí thức được
quan tâm nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống qua một số chương trình khoa học
cấp Nhà nước, luận án khoa học, và một số tài liệu khác. Đáng lưu ý trong số đó là:
- Đề tài KX. 04 - 06 do Giáo sư Phạm Tất Dong chủ nhiệm (được viết thành sách "Trí
thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995), nghiên
cứu một cách tổng thể tầng lớp trí thức Việt Nam . Trong đó đề cập gián tiếp đến vấn đề
và nhiệm vụ quan trọng của trí thức GDĐH trong việc đào tạo trí thức mới, bồi dưỡng và
phát triển nhân tài cho đất nước. Đề tài đã chỉ rõ: " Nếu có chính sách đào tạo đúng đắn
thì đội ngũ trí thức có nguồn bổ sung phong phú và do đó chất lượng đội ngũ trí thức sẽ
đảm bảo theo hướng đúng đắn" [6, 140]. Đồng thời kết luận: " Đầu tư cho việc xây dựng
đội ngũ trí thức phải là một hướng ưu tiên" [7, 161]… Bởi vậy, việc xây dựng chính sách
phát triển giáo dục - đào tạo khả thi, chính sách sử dụng và đãi ngộ đối với trí thức đúng
đắn sẽ tạo điều kiện để phát triển nguồn nhân lực con người - nhân tố quyết định sự phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.


- Một số đề tài khoa học thuộc chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước mã số
KX.07 "Con người - mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội" do Giáo sư, Tiến sĩ
Khoa học Phạm Minh Hạc chủ nhiệm . Trong đó đáng lưu ý là các đề tài KX.07 - 08 do

Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Đức Nhuận chủ nhiệm, nghiên cứu vai trò của gia đình và nhà
trường trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam ; đề tài KX.07 14 do Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Đường chủ nhiệm, nghiên cứu việc bồi dưỡng và
đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới; đề tài KX.07 - 18 do Giáo sư, Tiến sĩ
Nguyễn Trọng Bảo chủ nhiệm, nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ nhân tài ở nước ta…
Nhìn chung, các đề tài này đã đề cập đến các mặt, những khía cạnh khác nhau của đội
ngũ trí thức GDĐH, với tư cách là một bộ phận của trí thức Việt Nam - lực lượng giữ
vai trò quyết định chất lượng và hiệu quả GDĐH, góp phần quyết định chất lượng nguồn
nhân lực trình độ cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đặc biệt đề tài KX.07 - 14 đã
đề cập đến chức năng kép của đội ngũ giảng viên đại học là vừa giảng dạy vừa nghiên
cứu khoa học. Đó là đối tượng thường xuyên phải bồi dưỡng và đào tạo nâng cao về trình
độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực xử lý tình huống trong hoạt động giảng
dạy và nghiên cứu… đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
- Gần đây (từ 1996 - đến nay), đã có nhiều đề tài khoa học - công nghệ cấp Nhà nước
nghiên cứu những bộ phận khác nhau của đội ngũ trí thức Việt Nam. Trong đó cần phải
kể đến công trình khoa học độc lập cấp Nhà nước (Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật
Việt Nam chủ trì) do Giáo sư Phạm Tất Dong chủ nhiệm, nghiên cứu thực trạng trí thức
Việt Nam trước năm 2000. Đề tài gồm những chuyên đề, trong đó đã đề cập một cách
khái quát thực trạng đội ngũ trí thức làm giảng viên các trường đại học, cao đẳng hiện


nay. Đề tài đã chỉ ra một số nhược điểm như: kiến thức chưa cập nhật, chậm đổi mới
phương pháp giảng dạy… làm sao cho chất lượng đào tạo ở đại học và trên đại học còn
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện nay cũng
như trong tương lai gần… [7].
- Đề tài KX.03 - 09 trong đó có đề tài nhánh "Trí thức trẻ và sinh viên", do Phó giáo sư
Bùi Khắc Việt chủ nhiệm, đã đề cập đến trí thức trẻ trong các trường đại học, cao đẳng và
sinh viên với tư cách là nguồn bổ sung cho đội ngũ trí thức nói chung và trí thức nhà giáo
ở đại học nói riêng… Đề tài đã phân tích những mặt mạnh, tích cực, đồng thời cũng nêu
lên những hạn chế, bất cập, nhất là về chất lượng của lực lượng này so với yêu cầu phát

triển kinh tế - xã hội. Chỉ ra một trong những nguyên nhân của sự bất cập đó là do chất
lượng giáo dục - đào tạo chưa cao.
- Bên cạnh các đề tài nghiên cứu trên, còn có nhiều công trình nghiên cứu khác về trí
thức với các góc độ khác nhau, như công trình của tác giả Phan Viết Dũng về "Vị trí và
vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam " (Luận án Phó
Tiến sĩ Triết học. H. 1988). Công trình của tác giả Phan Thanh Khôi về "Động lực của trí
thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay" (Luận án Phó Tiến sĩ Triết học. H.
1992), và một số luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ khác liên quan đến trí thức nói chung và trí thức
giáo dục - đào tạo nói riêng. Những công trình trên đã luận giải tương đối hệ thống những
vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức, cũng như những động lực chủ yếu để
người trí thức phát huy năng lực trí tuệ của mình trong hoạt động khoa học.
- Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu độc lập của các nhà khoa học đã được
công bố trên sách, báo, tạp chí v.v… Như cuốn: "Một số vấn đề về trí thức Việt Nam"
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998) của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tuấn đã đề cập


phẩm chất trí tuệ của người trí thức. Đồng thời tác giả nhấn mạnh: "… phải coi giáo dục
và khoa học ở trung tâm những vấn đề kinh tế - xã hội" [92, 193]. Cuốn "Tiếng chuông
cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI" của tác giả Daisaku Ikeda… (NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1993) đã đề cập đến tiềm năng của con người, nguồn lực trí tuệ - một nguồn lực cơ
bản của nền kinh tế tri thức trong thể kỷ XXI. Cuốn "Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng
cửa thế kỷ XXI" (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999) của Giáo sư, Tiến sĩ Phạm
Minh Hạc, đã làm rõ một số nét về tình hình đội ngũ nhà giáo hiện nay trước những thử
thách của thế kỷ XXI…
Như vậy, dưới các góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau, những tài liệu trên đã giải
quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trí thức. Tuy nhiên, các tài liệu đó vẫn
chưa đề cập và nghiên cứu sâu về đội ngũ trí thức GDĐH, với tư cách là một bộ phận của
trí thức Việt Nam, có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo trí thức mới, chuẩn bị
nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển đất nước hiện tại và tương lai. Bởi thế,
nghiên cứu "Cơ cấu và chất lượng trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay" là rất cấp thiết.

3 - Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
a) Mục đích của luận án
Làm rõ những nét cơ bản về thực trạng cơ cấu và chất lượng đội ngũ trí thức GDĐH, từ
đó đề xuất một số giải pháp lớn nhằm xây dựng đội ngũ này có cơ cấu hợp lý và chất
lượng cao, để góp phần xây dựng một nền GDĐH Việt Nam hiện đại, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay, cũng như công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta nói
chung.
b) Nhiệm vụ của luận án


Để đạt mục đích trên, luận án đề ra và tập trung giải quyết những vấn đề chủ yếu sau:
- Làm rõ tính đặc thù của đội ngũ trí thức GDĐH trong tầng lớp trí thức Việt Nam .
- Phân tích thực trạng cơ cấu đội ngũ trí thức GDĐH hiện nay theo phương thức hoạt
động chủ yếu, theo nhóm ngành khoa học lớn, theo sự phân bố vùng lãnh thổ và các dạng
trường, theo chủ thể quản lý, theo độ tuổi, trong đó, về chất lượng chú ý đến trình độ,
năng lực, phẩm chất của đội ngũ này…
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ trí thức GDĐH có cơ cấu
hợp lý và chất lượng cao: Vấn đề tuyển chọn bổ sung lực lượng tri thức trẻ, có năng lực
cho GDĐH; vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng;
những chính sách nhằm tạo môi trường và động lực để phát triển tiềm năng trí tuệ của đội
ngũ trí thức GDĐH, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước…
4 - Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Luận án thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về chiến lược phát
triển con người Việt Nam, về đội ngũ trí thức và về giáo dục - đào tạo…
Luận án kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của tập thể và của các nhà khoa
học về những vấn đề liên quan.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là tình hình đội ngũ trí thức nói chung và trí thức GDĐH
nói riêng; tình hình giáo dục - đào tạo nói chung và GDĐH nói riêng, nhất là từ khi tiến
hành công cuộc đổi mới hiện nay.

- Phương pháp nghiên cứu của luận án là trên cơ sở phương pháp luận Triết học Mác Lênin, luôn chú ý đến tính chính trị - xã hội của vấn đề nghiên cứu. Kết hợp phương pháp


lô gic và lịch sử để luận giải những vấn đề đặt ra trong luận án. Sử dụng phương pháp
thống kê, so sánh và phân tích tập hợp những tài liệu có được nhằm làm rõ thực trạng đội
ngũ trí thức hiện nay. Sử dụng phương pháp diễn giải, quy hợp để trình bày học những
vấn đề lý luận và thực tiễn mà luận án nêu ra.
5 - Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Từ góc độ chính trị - xã hội xác định vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức GDĐH đối
với sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH ở nước ta.
- Dựa vào lý luận triết học - chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học, nghiên cứu
một cách có hệ thống về cơ cấu và chất lượng đội ngũ trí thức GDĐH.
- Đề xuất một số vấn đề nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức GDĐH, góp phần
xây dựng lực lượng lao động trí tuệ cao, đội ngũ trí thức Việt Nam và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia, xây dựng nền GDĐH Việt Nam hiện đại phục vụ sự nghiệp đổi mới
đất nước.
6 - Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án giúp cho những người trí thức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò và trách nhiệm lớn lao của mình đối với công cuộc
đổi mới đất nước, đối với sự hưng thịnh của dân tộc; từ đó có ý thức hơn trong hoạt động
trí tuệ sáng tạo vì sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
- Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu được sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc
hoạch định chiến lược xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức GDĐH, nhằm khai thác có


hiệu quả hơn tiềm năng trí tuệ của đội ngũ này trong sự nghiệp phát triển giáo dục - đào
tạo và khoa học - công nghệ nước nhà…
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy các chuyên đề CNXH khoa học
liên quan.
7 - Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ lục, luận án gồm 3
chương, 6 tíêt.
Chương 1
TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC - BỘ PHẬN ĐẶC THÙ CỦA TRÍ THỨC
VIỆT NAM
1.1 QUAN NIỆM VỀ TRÍ THỨC GDĐH
1.1.1. Một số khái niệm
Trí thức là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. "Trí thức" có
nguồn gốc từ tiếng La tinh: Intelligentia (Intelligens là thông minh, có trí tuệ, có nhận
thức, hiểu biết có suy nghĩ) dùng để chỉ những người có học thức cao, học vấn sâu rộng.
Trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của mỗi quốc gia, theo những quan điểm và
cách tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về trí thức. Đến nay, đã
thống kê được hơn 60 định nghĩa về trí thức [6, 13]. Ví dụ, theo từ điển Triết học: "Trí
thức là tập đoàn xã hội, gồm những người làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm
kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác khoa
học, một bộ phận lớn viên chức" [98]. Trong từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học xác
định: "Trí thức, một nhóm xã hội, bao gồm những người chuyên làm nghề lao động trí óc


phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó" [97]. Còn từ điển
Chính trị nêu ra: "Trí thức là một tầng lớp người trong xã hội chuyên lao động trí óc phức
tạp, có tính chất sáng tạo" [100]…
Nhìn chung, những định nghĩa trên đã đề cập một số dấu hiệu để nhận biết trí thức,
trong đó nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản sau: là một tầng lớp xã hội; có trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn cao; với kiểu lao động trí óc phức tạp là chủ yếu; có
chức năng sáng tạo, truyền bá và áp dụng tri thức khoa học vào việc đẩy nhanh sự phát
triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Mỗi thời đại đều có yêu cầu riêng của mình về các chuẩn mực đối với trí thức. Chuẩn
mực này phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học và mặt bằng dân trí mà quốc gia đó đạt
tới. Trước kia, các nhà Nho hoặc các người đậu tú tài (tương đương tốt nghiệp phổ thông

trung học ngày nay) đã được xem như những người có sự hiểu biết nhiều, là người trí
thức. Với trình độ văn hoá và mức độ có được, họ đã truyền lại cho các thế hệ sau không
chỉ "cái chữ" mà cả "cái lễ, cái nghĩa"; không chỉ truyền đạt trí thức mà quan trọng hơn là
truyền lại những giá trị tư tưởng của cuộc sống con người cho thế hệ nối tiếp. Chức năng
lưu truyền văn hoá đó thường được xã hội trao trọng trách cho trí thức - nhà giáo.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, trình độ học vấn, trình độ
nhận thức của con người cũng được nâng lên, nên chỉ những người đã qua đào tạo hoặc
tự học, đạt trình độ đại học hoặc tương đương, mới có thể tiếp cận được kiểu lao động
của người trí thức.
Việc nhận biết người trí thức phải thông qua sự đánh giá tính sáng tạo của họ, trong
quá trình lao động trí óc phức tạp, ở giá trị của những sản phẩm khoa học, bao gồm các
công trình, tác phẩm, đề án, bài giảng… Vì vậy, trong thực tế, người có bằng cấp cao


(thậm trí nhiều bằng cấp) nhưng chưa hẳn đã là trí thức theo đúng nghĩa của phạm trù
này, nếu trong hoạt động nghề nghiệp của họ không có yếu tố trí tuệ sáng tạo, mà chỉ là
người thực hiện dạng lao động trí óc khác (lao động trí óc giản đơn, thừa hành…).
Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm cho cơ cấu xã hội
- giai cấp có sự biến đổi sâu sắc. Giai cấp công nhân và nông dân đang từng bước được
"trí thức hoá", nhất là thế hệ công nhân và nông dân trẻ được học hành và hiểu biết tăng
lên. Đồng thời, một số lượng không ít những người có học vấn cao đang trực tiếp tham
gia lao động sản xuất vật chất, đó là những kỹ thuật viên cao cấp, những "công nhân áo
trắng". Phương thức lao động của họ gắn liền với dây chuyền công nghệ hiện đại, hoặc
trong những khâu đòi hỏi trình độ hiểu biết cao. Từ đó, trong xã hội đã và đang xuất hiện
những khái niệm mới để chỉ những cá nhân cũng như bộ phận xã hội "giáp ranh" như trí
thức - công nhân, công nhân - trí thức, trí thức - viên chức…
Trí thức là một bộ phận (vừa là chủ thể vừa là khách thể) của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng này đang ngày càng có ý nghĩa lớn lao, tác động
đến mọi mặt của đời sống xã hội ở tất cả các nước. Cho nên, đội ngũ trí thức trong cơ cấu
xã hội sẽ có nhiều biến đổi, số lượng được tăng lên nhanh chóng, chất lượng và vai trò

của nó ngày càng được nâng cao.
Thắng lợi của cách mạng XHCN với sự ra đời của chế độ mới sẽ tạo điều kiện thuận
lợi, và động lực mới để trí thức phát huy tài năng, trí tuệ của mình trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "cách mạng rất cần trí thức
và chỉ có cách mạng mới biết tôn trọng trí thức" [52, 53].
Thực tiễn đã và đang chứng tỏ lao động trí óc nói chung, lao động trí tuệ phức tạp nói
riêng vẫn là bộ phận giữ vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Trí thức


còn phát triển lâu dài trong tương lai. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trí thức
không bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi" [51, 36].
Từ những cách tiếp cận khác nhau về trí thức, tổng hợp lại, theo quan niệm của đề tài
này, Luận án cho rằng: Trí thức là một tầng lớp xã hội, gồm những người có trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn cao, bằng lao động trí tuệ sáng tạo của mình để phát
kiến, truyền bá và ứng dụng những tri thức khoa học mới, tiến bộ và hữu ích vào đời
sống xã hội. Đây là lực lượng xã hội đang trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho
sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như phát triển chung của nhân loại.
Tầng lớp trí thức luôn biến đổi cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ và tri
thức nhân loại. Do đó, nội dung khái niệm "trí thức" chắc chắn sẽ được tiếp tục nghiên
cứu, bổ sung cho phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, cũng như chính bản thân của
người trí thức trong thời đại mới.
Trí thức Việt Nam trong lịch sử có truyền thống hiếu học, có lòng yêu nước và gắn bó
với nhân dân, với vận mệnh của dân tộc. Nhiều người tên tuổi đã được ghi vào sử sách,
trở thành những tấm gương sáng chói vì dân, vì nước như: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,
Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, La Sơn Phu Tử, Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền…
Đội ngũ trí thức mới nước ta ra đời và phát triển gắn liền với các quá trình cách mạng
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hiện nay trí thức ở nước ta có khoảng 1.000.000 người tốt nghiệp đại học và cao đẳng,
với 10.000 Thạc sĩ, 11.718 Tiến sĩ (cả Tiến sĩ khoa học - Nguyễn Văn Sơn), 800 Giáo sư,

3000 Phó giáo sư [23]. Lực lượng này được đào tạo từ nhiều nguồn và phần lớn vào thời


điểm khó khăn của đất nước, trong sự cố gắng lớn của công tác giáo dục nói chung và
GDĐH nói riêng.
Trí thức nước ta có khả năng sáng tạo và tiềm năng trí tuệ, đã vượt lên nhiều khó khăn
trong lao động khoa học và thực tế cuộc sống, đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động
nghề nghiệp, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của đất nước những năm
qua. Đảng, Nhà nước và nhân dân đã ghi nhận sự đóng góp to lớn này của trí thức.
Vừa qua những trí thức tiêu biểu với 77 cụm công trình, tác phẩm khoa học xuất sắc đã
được phong tặng giải thưởng cao quý: Hồ Chí Minh. Trong đó, ở lĩnh vực khoa học nào
chúng ta cũng bắt gặp những trí thức đã từ lâu được ngưỡng mộ, không chỉ ở trong nước
mà cả ngoài nước, như: Giáo sư Trần Đại Nghĩa, Giáo sư Tạ Quang Bửu, Giáo sư
Nguyễn Xiển, Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu… ( KHKT và kỹ thuật); Viện sĩ Nguyễn Khánh
Toàn, Viện sĩ Trần Huy Liệu, Giáo sư Đặng Thái Mai, Giáo sư Trần Văn Giàu…
(KHXH); Giáo sư Hồ Đắc Di, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Giáo sư Tôn Thất Tùng…
(Khoa học Y - Dược); các nhà văn: Nam Cao, Huy Cận, Xuân Diệu, Tố Hữu…, các hoạ
sĩ: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái…, các nhà nghiên cứu văn học: Vũ Ngọc
Phan, Nguyễn Đổng Chi, Cao Huy Đỉnh…, các nhạc sĩ: Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn
Cao… (Văn học - Nghệ thuật) v.v…
Trí thức nước ta đã tiếp nối được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của trí thức trong
lịch sử. Trước những biến động phức tạp trên thế giới và những khó khăn trong nước,
người trí thức Việt Nam vẫn một lòng đi theo Đảng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất
nước. Trong những năm đổi mới vừa qua, trí thức đã có những đóng góp đáng kể góp
phần đem lại những thắng lợi quan trọng cho đất nước. Trí thức đã tham gia tạo lập luận
cứ khoa học cho việc xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng


và Nhà nước nhằm thực hiện thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN;
tích cực nghiên cứu và đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào mặt đời

sống xã hội; góp phần quan trọng vào xây dựng con người mới Việt Nam , nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc…
Sự nghiệp đổi mới càng phát triển, lao động khoa học sáng tạo của trí thức càng được
khởi sắc và đội ngũ được trưởng thành thêm . Từ đấy, đời sống tinh thần và vật chất của
trí thức nói chung được nâng lên rõ rệt, nhiều tổ chức khoa học được chấn chỉnh và sắp
xếp lại, môi trường làm việc được nâng cấp và hiện đại hoá một bước.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, vai trò của trí thức nước ta ngày
càng tăng và đội ngũ này đang có sự biến đổi mạnh mẽ về số lượng cũng như cơ cấu nói
chung.
Tuy vậy, hiện nay đội ngũ trí thức mới ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục.
Về số lượng, so với các nước trong khu vực, và nhất là so với yêu cầu đòi hỏi của thực
tiễn phát triển đất nước, thì trí thức nước ta ngày còn ít, cần đào tạo nhiều hơn nữa.
Về chất lượng, nhìn tổng thể đội ngũ trí thức nước ta chưa mạnh. Trong khi đó công tác
quản lý chưa tạo đủ điều kiện để phát huy hết khả năng hiện có của trí thức. Tình trạng
lãng phí chất xám, chảy chất xám còn khá nhiều.
Đặc biệt, cơ cấu đội ngũ trí thức nước ta còn nhiều bất hợp lý, nhất là cơ cấu ngành
khoa học, vùng lãnh thổ, độ tuổi…
Hiện nay, việc tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (Khoá V) về đổi
mới quản lý hoạt động văn hoá nghệ thuật, Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (Khoá VI) về
khoa học và công nghệ trong thời kỳ đổi mới, Nghị quyết 02 của Ban chấp hành trung


ương (Khoá VIII) về phát triển giáo dục - đào tạo và về khoa học và công nghệ… sẽ tác
động trực tiếp và tích cực hơn nữa đến việc xây dựng đội ngũ và phát huy vai trò của trí
thức nước ta.
Trí thức giáo dục - đào tạo là một lực lượng xã hội, một nhóm xã hội nghề nghiệp đặc
thù, một đội ngũ chuyên nghiệp của trí thức Việt Nam .
Khái niệm giáo dục - đào tạo được hiểu từ tổng hợp nghĩa của hai từ giáo dục và đào
tạo.
Giáo dục theo nghĩa rộng "là tất cả các hoạt động hướng vào sự phát triển và rèn luyện

năng lực (bao gồm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo…) và phẩm chất (bao gồm niềm tin, tư cách,
đạo đức…) ở con người có thể phát triển nhân cách đầy đủ nhất và trở nên có giá trị tích
cực đối với xã hội mà mình sống" [25, 13]. Còn theo nghĩa hẹp, giáo dục dùng để chỉ các
hoạt động hướng vào việc hình thành và rèn luyện phẩm chất con người - quan niệm này
muốn nhấn mạnh đến khía cạnh giáo dục niềm tin, giáo dục đạo đức, truyền thống…
Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đạt các kiến thức, kỹ
năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để thực hiện thành công một
hoạt động xã hội (nghề nghiệp) cần thiết [25, 14]. Như vậy, đào tạo là sự phát triển có hệ
thống những kiến thức, kỹ năng để mỗi người có thể thực hiện tốt nghề nghiệp hay nhiệm
vụ của mình.
Có nhiều lực lượng, bộ phận tham gia hoạt động trong ngành Giáo dục - Đào tạo, trong
đó có đội ngũ trí thức của ngành. Trí thức làm công tác giáo dục - đào tạo là một bộ
phận của trí thức Việt Nam. Đó là những người trí thức hoạt động sáng tạo trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo; có chức năng chủ yếu là trực tiếp truyền bá tri thức văn hoá,


rèn luyện nhân cách cho người học nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực
và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Giáo dục - đào tạo Việt Nam, hay gọi tắt là giáo dục Việt Nam là một hệ thống giáo
dục quốc dân, bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, GDĐH.
GDĐH nhằm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trình độ cao, có phẩm chất chính trị,
đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp
tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trí thức GDĐH là trí thức làm công tác giáo dục - đào tạo nhưng trực tiếp thực thi
nhiệm cụ ở bậc GDĐH.
Do vậy, để hiểu rõ hơn về trí thức GDĐH cần lưu ý thêm đến một số vấn đề thuộc
GDĐH.
GDĐH có hai cấp học là đại học và sau đại học. Cấp đại học đào tạo trình độ đại học
và cao đẳng. Người học ở cấp này được gọi là sinh viên. Đào tạo trình độ cao đẳng nhằm

trang bị cho sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một
ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành
được đào tạo. Đào tạo trình độ đại học nhằm trang bị cho sinh viên nắm vững kiến thức
chuyên môn và kỹ năng thực hành một nghề, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn
đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Cấp sau đại học đào tạo trình độ Thạc sĩ và Tiến sĩ. Người học được đào tạo Thạc sĩ
gọi là học viên, được đào tạo Tiến sĩ gọi là nghiên cứu sinh. Đào tạo trình độ Thạc sĩ
nhằm trang bị cho học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ cao về thực hành, có khả


năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên nghành được đào tạo. Đào tạo
trình độ Tiến sĩ nhằm trang bị cho nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực
hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề khoa học - công
nghệ và hướng dẫn hoạt động chuyên môn.
GDĐH chủ yếu được thực hiện ở các trường đại học và cao đẳng, ngoài ra còn có thể
thực hiện ở một số cơ sở khác nữa.
Người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong hệ thống giáo dục nói chung được gọi là
nhà giáo. Những nhà giáo ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục
nghề nghiệp gọi chung là giáo viên, riêng ở GDĐH được gọi là giảng viên.
Từ những vấn đề nêu trên về GDĐH, có thể rút ra một số điểm đáng lưu ý sau:
- Cũng như giáo dục - đào tạo nói chung, hoạt động trong GDĐH gồm nhiều lực lượng
khác nhau, nhưng trong đó đặc biệt cần đến bộ phận có học vấn cao là trí thức và tương
đương.
- Trí thức nói chung, như đã nói, ngày nay, tiêu chí bằng cấp, ít nhất có trình độ cử
nhân, thì ở đội ngũ trí thức GDĐH tiêu chí này cần nhưng chưa đủ. Do đặc điểm GDĐH,
trí thức GDĐH thường phải có trình độ sau đại học.
- Trí thức GDĐH đại đa số là nhà giáo - giảng viên (tất nhiên tuỳ theo vị trí công tác
mà việc giảng dạy với mức độ ít hay nhiều ở từng giảng viên). Do vậy, nhiều khi có thể
coi các từ sau như đồng nghĩa trí thức GDĐH, giảng viên nhà giáo trong GDĐH …
- Sau nữa, có thể tóm lại rằng, cũng như trí thức làm công tác giáo dục - đào tạo, trí

thức GDĐH là một bộ phận, đặc thù của trí thức Việt Nam. Đó là những cán bộ giảng
dạy, cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lý tham gia trực tiếp vào quá trình GDĐH nhằm


đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, bồi dưỡng và phát triển nhân tài cho đất
nước.
Tính đặc thù của trí thức GDĐH được thể hiện thông qua việc trình bày sau đây về quá
trình hình thành và phát triển, đặc điểm và vai trò của đội ngũ này.
1.1.2. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển đội ngũ trí thức GDĐH Việt
Nam.
Đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam được hình thành và phát triển khá sớm trong lịch sử
dân tộc. Nếu coi Văn Miếu - Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, thì
cũng có thể coi đội ngũ này được hình thành từ khi đó. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài,
luận án chỉ đề cập một cách khái quát đến quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ
trí thức GDĐH từ khi thành lập nước Việt Nam độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng tám (1945) với sự ra đời của Nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Nhà nước của những người lao động, đã làm thay đổi căn bản bản
chất xã hội ta. Nền giáo dục của một nước Việt Nam độc lập cũng ra đời, trong đó có
GDĐH. Các trường đại học và cao đẳng từ thời Pháp thuộc (như trường Đại học YDược, Cao đẳng Khoa học, Cao đẳng Mỹ thuật, Cao đẳng Thú y…) được tiếp tục mở cửa
trên cơ sở cải tổ lại, đồng thời mở thêm một số trường mới (Đại học Văn Khoa…). Bước
đầu chúng ta đã tập hợp được một đội ngũ giảng viên đại học là nguời Việt Nam. Phần
lớn trong số đó là những trí thức yêu nước, có nhiệt tình và uy tín khoa học như: Tạ
Quang Bửu, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Nguỵ Như Kon Tum… Đó là những trí thức đã
có công góp phần đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền đại học Việt Nam . Chuẩn
bị cho sự nghiệp "kiến quốc" của dân tộc sau này.


Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu sự hình thành và phát triển của một
nền giáo dục Việt Nam độc lập, là chủ trương thực hiện giảng daỵ bằng tiếng Việt ở tất

cả các cấp học, trong đó có bậc đại học. Ngôn ngữ của một dân tộc (tiếng nói và chữ viết)
là công cụ để giao tiếp, truyền đạt thông tin, trao đổi tình cảm, tư tưởng, nguyện vọng và
để giáo dục nâng cao trình độ văn hoá, trình độ giác ngộ cho mọi người. Dân tộc có ngôn
ngữ riêng sẽ đem lại thuận lợi lớn cho sự phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng
trong giáo dục, ý nghĩa độc lập trong ngôn ngữ, nên ngay từ rất sớm (1932) trong chương
trình hành động, Đảng Cộng sản Đông Dương đã khẳng định: "Hết thảy con cái các nhà
lao động phải được học tập cho đến 16 tuổi bằng tiếng mẹ đẻ…" [42, 106].
Sau Cách mạng Tháng Tám, việc giảng dạy đại học bằng tiếng Việt được thực hiện,
song gặp rất nhiều khó khăn về các thuật ngữ khoa học. Việc biên soạn các cuốn từ điển,
giáo trình giảng dạy bằng tiếng Việt là yêu cầu bức thiết đối với giáo dục nói chung và
GDĐH nói riêng. Trách nhiệm lớn lao đó đã được nhiều trí thức, các nhà khoa học, nhà
giáo khắc phục mọi khó khăn để xây dựng và hoàn thành. Vì vậy, việc giảng dạy bằng
tiếng Việt được chính thức thực hiện từ năm 1950 trở đi [57, 191]. Thành tựu trên được
cố Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên đánh giá: "Đây là
một thành tựu bước đầu phá tan mọi hoài nghi của những người quen giảng dạy, học tập
bằng tiếng Pháp" [96, 15]. Đồng thời, đó cũng là sự khẳng định bước đầu về quá trình
trưởng thành của trí thức GDĐH Việt Nam .
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các trường đại học và cao đẳng được củng cố
và tổ chức lại cho phù hợp với điều kiện và nhu cầu của cuộc kháng chiến. Sự thích
nghi, tính năng động thể hiện rất rõ trong phương thức đào tạo. Ví dụ, Đại học Y - Dược
đã thực hiện phương thức đào tạo phục vụ kháng chiến, được Giáo sư Bác sĩ Hồ Đắc Di


tổng kết: Học - đi chiến dịch - về tổng kết - lại đi chiến dịch. Đó là sự chứng minh sinh
động, có sức thuyết phục lớn về tính đúng đắn của phương châm giáo dục: lý thuyết gắn
với thực tiễn, học đi đôi với hành…
Sau Đại hội Giáo dục toàn quốc tháng 7 năm 1951, GDĐH đã có những thay đổi rất
quan trọng. Ba trung tâm đào tạo đại học lớn được hình thành: một trung tâm ở Việt Bắc
với trường Đại học Y và Ban quân dược; một trung tâm ở khu IV cũ (Thanh Hoá) có các
trường Dự bị đại học và Sư phạm cao cấp; một trung tâm được đặt ở Nam Ninh - Trung

Quốc gọi là Khu học xá trung ương với các trường Khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp,
"Đó là những trường đại học và cao đẳng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà,
dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt" [28, 192]. Ba trung tâm này đã tập hợp được một bộ phận
quan trọng những trí thức yêu nước - vốn quý ban đầu, để sản sinh ra lớp cán bộ có trình
độ đại học đầu tiên do chính người Việt Nam đào tạo. Nhiều thầy giáo, những cán bộ
quản lý đại học thuở ban đầu này, đến nay vẫn được lưu danh trong lịch sử phát triển đại
học Việt Nam như: Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Nguỵ Như Kon Tum, Nguyễn Xiển,
Nguyễn Thạc Cát, Nguyễn Cảnh Toàn…
Nhận thức vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và trí thức GDĐH Việt Nam nói riêng
trong sự nghiệp "kiến quốc", ngay từ năm 1951, ở thời điểm quyết định của cuộc kháng
chiến, Đảng và Nhà nước đã gửi một đoàn gồm 21 lưu học sinh đầu tiên sang Liên Xô
học tập. Từ đó trở đi, nhiều đoàn học sinh được tiếp tục cử đi các nước Liên Xô, Cộng
hoà dân chủ Đức, Trung Quốc, Bun ga ri… học tập, nghiên cứu. Đó là những nhân tố để
sau này về nước xây dựng đội ngũ trí thức nói chung và trí thức GDĐH nói riêng.
Từ năm 1954, ở miền Bắc nền giáo dục Việt Nam thực sự được phát triển có hàng
trăm ngành học với đội ngũ giảng viên khoảng 8.400 người trong đó 8,9% có trình độ


Phó Tiến sĩ, Tiến sĩ (cũ). Lực lượng này phần lớn đã được trưởng thành qua khói lửa đấu
tranh cách mạng của dân tộc để bảo vệ và xây dựng đất nước. Một số trong họ có trình độ
chuyên môn cao, nhất là những người được đào tạo cơ bản ở nước ngoài (chủ yếu ở Liên
Xô và Đông Âu trước đây). Ở miền Nam, đến năm học 1974 - 1945 có 4 viện đại học
công lập, 4 viện đại học cộng đồng công lập đào tạo 2 năm, 11 viện đại học tư [28, 193],
với khoảng 1300 "giáo chức" (khi giải phóng còn ở lại) [57, 335].
Đồng thời với sự phát triển về số lượng, việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
cũng được chú ý. Thông qua hợp tác quốc tế về đào tạo đại học và sau đại học (cử cán bộ
đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài; mời các chuyên gia giỏi sang giúp đỡ trong công tác
đào tạo và nghiên cứu khoa học); cùng với sự nỗ lực của từng cá nhân cũng như tập thể
nhà giáo trong học tập, nghiên cứu, mà trình độ của đội ngũ giảng viên được nâng lên
nhiều. Hàng trăm giáo trình giảng dạy, tài liệu nghiên cứu về KHTN và KHKT là được

dịch của các nước XHCN (chủ yếu là của Liên Xô trước đây). Các giáo trình về KHXH
như văn, sử, địa về Việt Nam đều do đội ngũ thầy giáo giàu kinh nghiệm biên soạn (như
bộ sách Văn của trường đại học Sư phạm Hà Nội, trường đại học Tổng hợp Hà Nội; bộ
giáo trình "Lịch sử Việt Nam " của trường đại học Tổng hợp Hà Nội…). Vấn đề có ý
nghĩa lớn là công tác nghiên cứu khoa học trong các trường đại học đã bắt đầu trở thành
phong trào của cả thầy và trò. Đó chính là nội lực quan trọng để nâng cao năng lực giảng
dạy, nghiên cứu của nhà giáo - nhà khoa học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và của khoa học, nhiều trường đại học mới được
hình thành, trên cơ sở phát triển các khoa, ngành chuyên môn, xây dựng các ngành,
chuyên ngành khoa học mới. Thông qua đó đội ngũ trí thức GDĐH cũng được phát triển
nhanh chóng (xem phụ lục: Bảng số 1).


Những năm 1965 - 1975 là thời kỳ sôi động của GDĐH. Trong chiến tranh, vì sự đánh
phá ác liệt của đế quốc Mỹ, nhiều trường đã phải đi sơ tán với những trang thiết bị dạy,
học và nghiên cứu gọn nhẹ. Đội ngũ giáo viên biến động mạnh. Nhiều giáo viên, sinh
viên đã tạm thời gác bút nghiên lên đường ra trận, nhất là trong những thời điểm quyết
định của cuộc chiến tranh. Trong bối cảnh đó đã hình thành nên một bộ phận giáo viên chiến sĩ, góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường đại học, cao đẳng vẫn luôn
được phát triển, đạt hiệu quả cao; đã đào tạo đựơc đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ
khoảng 261.000 người, trong đó có hơn 81.000 người có trình độ đại học và 1.358 người
có trình độ trên đại học [66]. Đó là lực lượng "giàu lòng yêu nước, yêu CNXH, có tinh
thần hăng hái, làm việc tận tuỵ, bước đầu có những cống hiến tốt" [66].
Thực tiễn trên cho phép rút ra một kinh nghiệm: khi cách mạng chuyển giai đoạn thì
phải được chuẩn bị trước một bước về nguồn nhân lực. Đó không chỉ là trách nhiệm mà
còn đặt ra yêu cầu phát triển đón trước của GDĐH. Đây là một bài học được rút ra từ lịch
sử.
Từ năm 1975, đất nước thống nhất, GDĐH bước sang giai đoạn phát triển mới trên
phạm vi cả nước. Đến nay cả nước có 153 trường đại học, cao đẳng gồm: 2 Đại học
Quốc gia, 3 đại học vùng, 148 trường đại học, cao đẳng, viện đại học, học viện (không kể

các trường thuộc khối an ninh, quốc phòng), 3 trường Dự bị Đại học Dân tộc, 2 trường
Cán bộ Quản lý Giáo dục và Đào tạo [85].
Cùng với sự phát triển của hệ thống các trường đại học, cao đẳng thì đội ngũ trí thức
GDĐH được phát triển mạnh mẽ. Chỉ tính riêng đội ngũ giảng viên của 153 trường đại


học và cao đẳng đã có 30.309 người (xem phụ lục:Bảng số 2). Trong đó 37,2% là có
trình độ trên đại học, 5,2% có chức danh Giáo sư, Phó giáo sư.
Trong công cuộc đổi mới, GDĐH Việt Nam đang được củng cố lại không chỉ ở hệ
thống trường lớp, cơ cấu đào tạo, cơ cấu ngành nghề, mà cả ở việc chuẩn hoá trình độ đội
ngũ trí thức, nhất là lực lượng giảng viên và cán bộ quản lý… nhằm đáp ứng yêu cầu của
nền giáo dục hiện đại, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
Như vậy, có thể khẳng định: cùng với sự phát triển của đất nước thì đội ngũ trí thức
GDĐH cũng lớn mạnh không ngừng ( xem phụ lục: Biểu đồ 2). Điều đó không chỉ được
thể hiện ở sự phát triển về số lượng, ở số người có trình độ trên đại học, có chức danh nhà
giáo, mà được thể hiện chủ yếu ở năng lực giảng dạy, nghiên cứu và phẩm chất chính trị,
đạo đức… của họ trong việc đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, suốt đời của nhân
dân, đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực trình độ cao cho sự phát triển đất nước
trong từng thời kỳ lịch sử. Hiện nay, đối với những ngành khoa học "mũi nhọn" như điện
tử, công nghệ thông tin, vật liệu mới… trí thức GDĐH cũng đã có được những chuyên
gia giỏi có học hàm, học vị cao giảng dạy. Sự trưởng thành của đội ngũ GDĐH gắn
liền với sự phát triển của nền giáo dục quốc dân và của đội ngũ trí thức Việt Nam .
Có được kết quả trên, trước hết là do đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước ta trong việc xác định đúng vị trí, vai trò của giáo dục nói chung, của GDĐH và đội
ngũ GDĐH nói riêng, đối với việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước.
Đó còn là sự nỗ lực của bản thân người trí thức nhà giáo, trong việc khắc phục khó khăn
để phấn đấu vươn lên…
1.1.3. Đặc điểm và vai trò của trí thức GDĐH



a) Đặc điểm của trí thức GDĐH Việt Nam
Trí thức GDĐH là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam nên cũng có đầy đủ
những tố chất của người trí thức Việt Nam, như lao động trí tuệ sáng tạo, có tinh thần yêu
nước, ý thức dân tộc cao, cần cù thông minh, năng động và nhạy bén với sự phát triển của
thời đại… Ngoài ra, do tính đặc thù của lĩnh vực hoạt động, nên đội ngũ này có một số
đặc điểm đáng lưu ý sau đây:
- Trí thức GDĐH là những người trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo ở bậc cao
nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Thông qua 2 cấp đào tạo là đại học ( trình độ
cao đẳng, đại học) và sau đại học (trình độ Thạc sĩ và Tiến sĩ), đội ngũ trí thức GDĐH
trực tiếp tham gia vào việc chuẩn bị nguồn nhân lực trình độ cao, xây dựng đội ngũ
chuyên gia, những nhà khoa học, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng lao động
của nền kinh tế - xã hội; thoả mãn yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định
hướng XHCN.
Đào tạo cán bộ, đào tạo trí thức mới nhằm bảo đảm cho sự vận động và phát triển ổn
định của đội ngũ trí thức, là một trong những chức năng cơ bản của GDĐH. Sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã làm cho trí tuệ con
người trở thành tài nguyên quý giá; đồng thời cũng làm tăng tính chất quyết lịêt của sự
cạnh tranh trên thị trường này. Bởi vậy, trong thời đại ngày nay, mặt bằng dân trí cùng
với những đỉnh cao về trí tuệ, là điều kiện quyết định để mỗi quốc gia tồn tại, phát triển
bền vững và đạt được lợi thế trong cạnh tranh có tính chất toàn cầu. Vì vậy, giáo dục
đang trở thành nhân tố đóng vai trò nền tảng và động lực cho sự phát triển đất nước.
Tài năng con người thường bộc lộ và được phát triển sớm giai đoạn giáo dục phổ
thông, qua những học sinh năng khiếu… Nhưng để tài năng đó phát triển thành nhân tài


của đất nước thì cần phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách chu đáo ở GDĐH, đặc biệt là
trong môi trường khoa học ở bậc sau đại học. Trí thức GDĐH, nhất là những giảng viên
có trình độ chuyên môn cao, có chức danh Giáo sư, Phó giáo sư, là những người trực tiếp
đào luyện tài năng, góp phần quan trọng bồi dưỡng và phát triển những "tinh hoa trí tuệ"

của đất nước.
Việc chú trọng đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là động lực, là chìa khoá để phát triển
đang trở thành nhận thức và hành động phổ biến của các quốc gia, dân tộc trong thời đại
ngày nay. Con người trong nền văn minh trí tuệ là con người được giáo dục cẩn thận về
cả năng lực và phẩm chất. Con người không chỉ có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp mà
còn phải năng động và dễ thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế; ngoài
ra cũng phải là những con người được giáo dục đầy đủ về phẩm chất đạo đức, lối sống;
sống có văn hóa, có lý tưởng, có bản lĩnh và mang tính nhân văn cao cả…
Để có nguồn lực con người như vậy, phải chuẩn bị kỹ ở tất cả các cấp học, bậc học.
Với tư cách là một bộ phận trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo ở bậc học cao nhất,
đội ngũ trí thức GDĐH có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định chất lượng và
hiệu quả đào tạo. Có nhiều thầy giỏi thì mới đào luyện được nhiều trò giỏi. Để có được
một lực lượng lao động có trình độ cao, đội ngũ trí thức giỏi, là những nhân tài thực sự
cho đất nước, trí thức GDĐH phải có trình độ trên đại học, hơn nữa, phải có chức danh
khoa học (Giảng viên, Giảng viên chính, Giáo sư, Phó giáo sư).
Mục đích cao nhất mà đội ngũ trí thức GDĐH hướng tới là đảm bảo một nền tảng vững
chắc để phát triển nhân lực trình độ cao, những đỉnh cao trí tuệ và xây dựng nhân cách
người lao động mới nhằm tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội bền
vững. Do đó, để thiết kế được chương trình, nội dung đào tạo mới, đổi mới được phương


×