NHỮNG TƯ TƯỞNG SÁNG TẠO VỀ DÂN VẬN VÀ QUAN ĐIỂM
CHỈ ĐẠO ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA HỒ CHÍ MINH
ThS Vũ Thái Dũng1
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản vô giá mà Người đã để lại cho Đảng và
nhân dân ta, trong đó tư tưởng dân vận là một phần quan trọng trong di sản đó. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy khi nào, ở đâu vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận nói riêng vào thực
tiễn, thì khi đó và ở đó sẽ giành được thắng lợi và ngược lại.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, Đảng ta luôn xác định rõ vị
trí, vai trò quan trọng của dân, của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng,
coi công tác dân vận là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của
Đảng; luôn quan tâm tới công tác dân vận. Nhờ đó trong thời kỳ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đã tập hợp được đông đảo quần chúng trong Mặt trận dân tộc
thống nhất, phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc.
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân vận và vai trò của công tác dân vận
Hồ Chí Minh cho rằng dân có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp
cách mạng, nhưng để nhân dân nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình thì Đảng
phải tiến hành công tác tuyên truyền, vận động để dân giác ngộ, tự nguyện làm tốt
bổn phận và trách nhiệm của mình. Đó chính là công tác dân vận của Đảng.
Trong bài báo Dân vận, Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm về dân vận: "Dân
vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào,
góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công
việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho"2.
Hồ Chí Minh luôn quán triệt: Cách mạng tức là đổi xã hội cũ thành xã hội
mới, đó là một công việc lâu dài, khó khăn gian khổ, đòi hỏi phải có sự đồng tâm,
hợp lực, nhất trí của toàn dân tộc, không phân biệt giai cấp, tầng lớp; không phân
biệt già, trẻ, gái trai, dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo.... Để tập hợp mọi giai cấp, tầng
lớp, mọi người dân thành một lực lượng hướng đến một mục tiêu chung là giành độc
1
Viện Lịch sử Đảng - Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
2
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.698.
lập dân tộc và xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, chúng ta phải luôn đi sâu, đi sát
quần chúng, đi vào từng người, khơi dậy và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo và ý thức tự giác của từng người dân để huy động tối đa sức lực, trí lực, tài lực
của nhân dân vào sự nghiệp cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, dân vận không chỉ tuyên truyền suông bằng sách báo,
mít tinh, khẩu hiệu, mà phải bằng hành động cụ thể, thiết thực. Người nói: "Nói
chung thì các dân tộc Phương đông đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương
sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"3. Sinh thời Hồ Chí Minh
rất quan tâm đến việc xây dựng những điển hình tốt, những tấm gương tốt. Bác cũng
đã trực tiếp viết thư khen ngợi, động viên, khuyến khích những tập thể, cá nhân có
thành tích xuất sắc trong học tập, lao động, sản xuất, chiến đấu và đề nghị có mục
"gương người tốt, việc tốt" trên báo để động viên mọi người noi theo.
"Dân vận" theo Hồ Chí Minh được hiểu theo cả chiều rộng và chiều sâu.
Theo chiều rộng, "dân vận" là vận động tất cả mọi người dân, không để sót một
người nào, nhằm tập hợp, đoàn kết lực lượng toàn dân, thực hiện những công việc
chung, những công việc nên làm. Hiểu theo chiều sâu, "dân vận" là phải hiểu rõ năng
lực, tâm tư, nguyện vọng hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng để có hình thức vận
động cho phù hợp.
Xuất phát từ quan điểm "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", Hồ Chí
Minh yêu cầu dù là việc lớn hay việc nhỏ đều phải bàn bạc, lấy ý kiến của nhân dân,
rồi vận động nhân dân thực hiện, có như thế thì công việc mới thành công. Trong lúc
thi hành phải luôn luôn theo dõi, đôn đốc, đồng thời nắm bắt các vấn đề phát sinh để
có cách khắc phục kịp thời, không được làm theo kiểu "đánh trống bỏ dùi" dễ gây
bất mãn trong quần chúng; khi công việc hoàn thành phải kiểm điểm, rút kinh
nghiệm, tổng kết kinh nghiệm những việc làm được và chưa làm được để đề ra giải
pháp khắc phục; phải có sự động viên khuyến khích kịp thời bằng các hình thức
khen thưởng, đồng thời phê bình các biểu hiện chưa tốt.
Có thể nói đây là quan niệm rất súc tích, dễ hiểu của Hồ Chí Minh về dân
vận, mà ngày nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quán triệt và lấy đó làm phương
3
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.263
châm trong công tác vận động quần chúng. Đảng ta xác định: Các tổ chức Đảng từ
Trung ương đến Chi bộ đều phải lấy công tác dân vận và chăm lo lợi ích của quần
chúng làm nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình.
Thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng
"việc dân vận rất quan trọng". Nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, do trình
độ nhận thức, giác ngộ cách mạng khác nhau cho nên phải vận động họ tham gia
cách mạng bằng các công việc phù hợp, thiết thực.
Làm cách mạng đòi hỏi phải huy động sức mạnh của toàn dân tộc, không thể
dựa vào một hai người hay cá nhân anh hùng nào. Bác từng viết "Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào.
Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách
mạng vô tận của nhân dân"4. Theo Người: "Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân
vận khéo thì việc gì cũng thành công"5.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm "Đường cách mệnh", Nguyễn Ái Quốc
đã giải thích vì sao phải làm công tác dân vận. Theo Người, "cách mệnh là việc
chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người"6. Người cũng nhận ra rằng
chỉ có làm tốt công tác dân vận thì mới huy động được sức mạnh vô địch của quần
chúng nhân dân. Người nói: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế
giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" 7; cách mạng muốn
thành công, đạt được nhiều thành tựu lớn lao thì phải xây dựng nền tảng từ nhân dân:
"Gốc có vững, cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"8
2. Những quan điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh đối với công tác dân vận
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác dân vận, Người đã
xác định rõ quan điểm, tư tưởng, phương châm, nội dung và mục đích công tác dân
vận rất thiết thực, cụ thể và sâu sắc, có tính chỉ đạo chiến lược và đây là tư tưởng chỉ
đạo công tác dân vận của Đảng ta qua nhiều thời kỳ cách mạng.
4
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.197.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.700.
6
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.261-262.
7
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.276.
8
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.410.
5
Mục đích của dân vận là tập hợp, tổ chức lực lượng toàn dân nhằm tạo
nên sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp cách mạng
Mục đích của dân vận là tập hợp, đoàn kết tất cả lực lượng của mỗi một
người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực
hành những nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ cách mạng, những công việc ích
nước, lợi dân, đem lại lợi ích thiết thực cho tuyệt đại đa số nhân dân. Người nói:
"Đảng ta, Chính phủ ta, ngoài lợi ích của nhân dân, không có lợi ích nào khác, nên
đảng viên, cán bộ trong và ngoài Đảng phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục
vụ giai cấp"9. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người và Đảng ta luôn
luôn quan tâm đến công tác dân vận, trong công tác dân vận, luôn luôn xác định rõ
mục đích của công tác dân vận, nhờ vậy mà đã tập hợp, đoàn kết được lực lượng
toàn dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nói đoàn kết là nói đến sự quy tụ, tập hợp sức mạnh của cả cộng đồng
dân tộc, tất cả các giai cấp, tầng lớp yêu nước nhằm thực hiện mục đích chính trị
mà Đảng đã xác định. Muốn đoàn kết lực lượng toàn dân, muốn tập hợp được
đông đảo quần chúng tham gia làm cách mạng đòi hỏi phải "vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực
lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính
phủ và đoàn thể đã giao cho"10.
Dân vận là công tác quan trọng của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo
Dân vận là công tác có ý nghĩa rất quan trọng "Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" 11. "Dân vận khéo" tức là phải tiến
hành một cách khoa học, có tổ chức, có lãnh đạo. Hồ Chí Minh yêu cầu: "Tất cả cán
bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân
(Liên Việt, Việt Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận"12. Người cũng đã chỉ ra yêu
cầu cụ thể để mỗi cơ quan đoàn thể quán triệt tốt hơn nhiệm vụ của mình.
9
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.419.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.698.
11
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.700.
12
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.699.
10
Đối với Đảng: Hồ Chí Minh nhận thức rất sâu sắc vai trò của Đảng đối với
sự nghiệp cách mạng, nhưng Đảng chỉ thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi
tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia, sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật
thiết với quần chúng; không có quần chúng tham gia, Đảng không có lực lượng. Sức
mạnh của Đảng không phải chỉ ở tổ chức Đảng, ở cán bộ, đảng viên của Đảng mà
còn ở sự gắn bó mật thiết với quần chúng, ở sức mạnh đông đảo quần chúng do
Đảng lãnh đạo. Để gắn bó mật thiết với quần chúng, Đảng phải thường xuyên quan
tâm, chăm lo đến lợi ích của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh: "Ngoài lợi ích của nhân
dân Đảng ta không có lợi ích nào khác"13.
Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng không chỉ thông qua đường lối, chủ
trương mà còn thông qua tổ chức Đảng và từng đảng viên. Từng cán bộ , đảng viên
nếu làm tốt chức trách, nhiệm vụ của mình thì mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng ngày càng được củng cố và tăng cường. Ngược lại, đảng viên xa rời quần
chúng, quan liêu, mệnh lệnh, sách nhiễu dân,... thì niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, với chế độ bị giảm sút, thậm chí Đảng mất vai trò lãnh đạo. Để xây dựng mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân đòi hỏi từng tổ chức đảng, mỗi đảng viên cũng
phải làm công tác dân vận, phải sâu sát, gần gũi quần chúng.
Đối với chính quyền: Dân vận không phải là việc riêng của Đảng, mà còn là
công việc của chính quyền. Đảng lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh giành chính
quyền, khi giành được chính quyền, chính quyền đó về tay nhân dân, nghĩa là nhà
nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân; nhà nước thay mặt nhân dân
quản lí, giải quyết tất cả mọi vấn đề xã hội, đem lại lợi ích cho nhân dân. Trong điều
kiện đó, chính quyền có điều kiện làm công tác dân vận; dân là chủ, chính quyền nhà
nước được nhân dân uỷ thác, điều hành quản lý xã hội, cho nên chính quyền và dân
có quan hệ trực tiếp, thường xuyên, do đó chính quyền và mọi cán bộ công chức nhà
nước có điều kiện và phải làm tốt công tác dân vận, Người nói: "Nhiệm vụ của
Chính quyền ta và Đoàn thể ta là phụng sự nhân dân. Nghĩa là làm đầy tớ cho dân.
Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi cho dân, thì
phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh"14.
13
14
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.337.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.88.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền
lợi dân lên trên hết thảy"15. "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ"16. Người cũng cho rằng, mọi cán bộ, nhân viên nhà nước đều là "đầy tớ" của
nhân dân, chứ không phải là "quan cách mạng" đè đầu cưỡi cổ dân, mà đầy tớ "làm
việc cho dân phải làm cho tốt".
Đối với Mặt trận: theo Hồ Chí Minh, Mặt trận có vai trò rất quan trọng trong
việc vận động, tập hợp, đoàn kết quần chúng làm cách mạng. Người nói: "Những
đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc
mật thiết nhân dân với Chính phủ"17. Như vậy để đoàn kết được toàn dân thì Mặt
trận và các đoàn thể nhân dân cũng phải làm công tác dân vận theo chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là
một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng... Trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân
tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam.
Đối với Công đoàn, Người đã chỉ rõ: "Tổ chức công hội trước là để cho công
nhân đi lại với nhau cho có tình cảm; hai là nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang
cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn lợi quyền cho
công nhân; năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới"18.
Công đoàn ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm vụ tuyên truyền,
giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp những người công nhân tham gia cách mạng,
đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân. Chính vì vậy mà trong
kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống Mĩ cứu nước, cũng như
trong quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xây dựng đất nước, tổ chức Công
đoàn không ngừng lớn mạnh về số lượng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, là hạt nhân của khối liên minh công nhân nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân.
15
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.22.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.60.
17
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.66.
18
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.302.
16
Đối với Hội Nông dân: nông dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, có vị
trí, vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Người nói: "Muốn kháng
chiến thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân. Muốn
dựa vào nông dân ắt phải bồi dưỡng lực lượng của họ. Muốn nông dân có lực lượng
dồi dào thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở"19. Xuất phát từ
vị trí, vai trò của nông dân, thực tiễn cách mạng đòi hỏi phải có một tổ chức của giai
cấp nông dân đảm trách việc vận động, tuyên truyền để nông dân hiểu rõ vị trí, vai
trò của mình. Người yêu cầu các cán bộ Hội Nông dân phải luôn luôn quan tâm đến
công tác vận động nông dân, phải "làm cho nông dân vào hội nông dân cứu quốc cho
đông để phấn đấu cho mục đích của mình và tích cực tham gia công cuộc kháng
chiến kiến quốc"20.
Đối với Đoàn Thanh niên: Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vai trò, khả năng
to lớn của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng và đối với sự phát triển của đất
nước, của xã hội. Người còn khẳng định rằng: Thanh niên là một bộ phận quan trọng
của dân tộc, tương lai của đất nước, nước nhà yếu hay mạnh, thịnh hay suy phần lớn
phụ thuộc vào thanh niên. Xuất phát từ vấn đề đó, Người luôn nhắc nhở Đoàn Thanh
niên: "Nhiệm vụ của các bạn là phải tìm đủ mọi cách để gây dựng một phong trào
thanh niên to lớn và mạnh mẽ"21. Thanh niên là lực lượng trẻ, khỏe, có nhiệt huyết
cách mạng, luôn đi đầu trong các phong trào, do vậy để huy động được sức mạnh, trí
tuệ của họ thì tổ chức Đoàn Thanh niên phải ra sức vận động, hướng họ vào những
hoạt động thiết thực.
Đối với Hội phụ nữ: Trong xã hội, phụ nữ chiếm trên 50% dân số, đây là
lực lượng rất to lớn góp vào sức mạnh của toàn dân. Người khẳng định: "Trong
lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là không có đàn bà con gái tham gia ... Vậy
nên muốn thế giới cách mệnh thành công, thì phải vận động đàn bà con gái công
nông các nước"22. Xuất phát từ vị trí, vai trò của phụ nữ, Hồ Chí Minh rất quan
tâm đến công tác tổ chức, vận động phụ nữ. Người nói: "Hội Liên hiệp Phụ nữ
19
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.23.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.711.
21
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.185.
22
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.288.
20
phải là lực lượng mạnh mẽ giúp Đảng động viên, tổ chức và lãnh đạo phụ nữ tiến
lên chủ nghĩa xã hội"23.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ và khẳng định
quyền lợi của phụ nữ gắn liền với quyền lợi của dân tộc nên phải vận động phụ nữ
tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với trí thức: Hồ Chí Minh cho rằng đội ngũ trí thức có vị trí, vai trò rất
to lớn trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Người nói:
Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. ở nước khác như thế, ở Việt Nam
càng như thế ... Địa vị của những người trí thức ái quốc Việt Nam sẽ là cùng với toàn
thể đồng bào kiến thiết một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thống nhất và
độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc24.
Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định
phải có học thức"25. Giác ngộ lý tưởng cách mạng có ý nghĩa rất quan trọng trong
công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là một cuộc đấu tranh khó khăn,
phức tạp. Cách mạng là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân.
Trí thức là người học rộng, biết nhiều, hiểu sâu lý lẽ, tiếng nói của họ có
tính thuyết phục cao. Do vậy, phải tổ chức, sử dụng có hiệu quả đội ngũ trí thức,
đó là một trong những vấn đề quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Nhận thức rõ vấn đề đó, Hồ Chí Minh thường xuyên khuyến khích động viên, kêu
gọi trí thức phát huy tài năng, trí tuệ để phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ
nhân dân. Người nói: "Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng
mới biết trọng trí thức"26.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì lực lượng làm công tác dân
vận đó là: Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tất cả cán bộ, đảng
viên, các hội viên của các tổ chức đó, có như vậy mới tập hợp được mọi lực lượng
của dân, không để sót một người nào, góp thành lực lượng và sức mạnh tổng hợp
đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.
23
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.21.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.156.
25
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.306.
26
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.33.
24
Đối tượng của dân vận là "vận động tất cả lực lượng của mỗi một người
dân, không để sót một người dân nào"
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của dân, của công tác dân vận đối với sự nghiệp
cách mạng, xuất phát từ mục đích của công tác dân vận: tập hợp, đoàn kết lực lượng
của toàn dân, tạo thành sức mạnh để làm cách mạng thắng lợi. Hồ Chí Minh đã chỉ
ra rằng: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót
một người nào"27. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, đối tượng của công tác dân vận là:
Tất cả mọi người, không phân biệt tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo; không phân
biệt tuổi tác, giới tính, trình độ, người Việt Nam ở trong nước hay ở ngoài nước. Nói
đối tượng của công tác dân vận là "tất cả mọi người", là nói đối tượng của công tác
dân vận nói chung. Đi vào thực tế, Người cũng chỉ rõ từng đối tượng cụ thể như:
công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, v.v... Ngay từ những năm 1936 1939, Người đã yêu cầu: Đảng là người lãnh đạo, phải "thâu phục" cho được đại đa
số công nhân, đa số nông dân, liên minh với tiểu tư sản, trí thức, tập hợp lôi kéo phú
nông, trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản,
trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, vv... để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp.
Đối với giai cấp công nhân, Đảng là đội tiên phong, Đảng phải thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình. Đối với nông dân, Đảng phải thu phục cho được đại bộ
phận dân cày. Đối với đội ngũ trí thức, họ có trình độ nhận thức cao, song vì không
có tổ chức, thiếu người lãnh đạo, cho nên họ "dám nghĩ mà chưa dám làm". Nhiệm
vụ của Đảng, của cán bộ đảng viên là phải tuyên truyền, thuyết phục, cảm hóa để trí
thức phát huy tinh thần yêu nước, tri thức khoa học phục vụ sự nghiệp cách mạng.
Công tác dân vận phải được xem là một khoa học, một nghệ thuật, phải
có phương thức, biện pháp phù hợp, có hiệu quả
Phương thức tiến hành công tác dân vận có thể hiểu là tổng hợp những cách
thức, phương pháp, biện pháp để tiến hành vận động, tập hợp quần chúng làm cách
mạng có hiệu quả cao nhất. Phương thức tiến hành công tác dân vận ở mỗi thời kỳ
cách mạng có sự khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ nhận thức,
điều kiện hoàn cảnh,... của chủ thể và đối tượng. Các phương thức tiến hành cụ thể
27
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.698.
trong công tác dân vận được Hồ Chí Minh khái quát:
Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền
đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu
rõ ràng: việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho
kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương,
rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh: Phải tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giác
ngộ cho dân hiểu; dân có hiểu thì dân mới tin theo và quyết tâm thực hiện. Người đã
nhiều lần nói rõ, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước không chỉ phổ biến đến dân để dân biết một cách thụ động, mà còn phải tìm
mọi cách giải thích cho dân hiểu. Nhân dân có trình độ khác nhau, nhận thức khác
nhau, đặc biệt là trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích cụ thể của mỗi giai cấp,
tầng lớp, mỗi cá nhân có sự khác nhau, có khi đối lập nhau, do vậy, Đảng, Nhà nước,
cũng như mỗi cán bộ đảng viên phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết
phục, phải kiên trì giải thích để cho mọi người dân hiểu đường lối, chủ trương, chính
sách đó là vì dân, đem lại lợi ích cho họ, họ hiểu họ sẽ tự nguyện, tự giác, tích cực
thực hiện.
Công tác dân vận không những phải tiến hành một cách thường xuyên, liên
tục, mà còn đòi hỏi phải có phương thức, biện pháp phù hợp với nhiệm vụ cụ thể
từng thời kỳ, từng giai đoạn, từng đối tượng, từng điều kiện hoàn cảnh. Người nói:
"Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng
với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ
chức toàn dân ra thi hành"28.
Những yêu cầu đối với cán bộ làm công tác dân vận
Yêu cầu đối với cán bộ làm công tác dân vận được Hồ Chí Minh đề cập ở
28
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.698-699.
nhiều bài nói, bài viết và với nhiều nội dung. Người khái quát: Cán bộ làm công tác
dân vận phải "Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không
phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc"29.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ làm công tác dân vận phải có phong cách
làm việc khoa học, nghĩa là phải có trình độ, năng lực về mọi mặt, nhất là sự hiểu
biết về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; nắm vững đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hiểu rõ đối tượng, điều kiện hoàn cảnh, tìm
mọi cách giải thích cho quần chúng hiểu rõ, có như vậy mới tập hợp được đông đảo
quần chúng tham gia.
Người nghiêm khắc phê phán tác phong làm việc quan liêu, mệnh lệnh, thích
làm việc bàn giấy của một số cán bộ, đảng viên. Người viết:
Thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón
không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác và để vạch những kế hoạch thi
hành chỉ thị, nghị quyết của Đoàn thể cho chu đáo. Những chỉ thị, nghị quyết
của cấp trên gửi xuống các địa phương có thực hiện được hay không, các đồng
chí cũng không biết đến.
"Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm" không chỉ hiểu là
phong cách của người cán bộ làm công tác dân vận mà còn là phong cách của mỗi cá
nhân, tổ chức trong lãnh đạo, chỉ đạo nói chung, trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân
vận nói riêng. Theo Người, lãnh đạo, chỉ đạo không phải chỉ ngồi một chỗ chỉ đạo
bằng văn bản là xong, mà "cần đi sâu đi sát điều tra nghiên cứu" để hiểu rõ hoàn
cảnh, những thuận lợi, khó khăn của từng tổ chức, đơn vị; kịp thời phát hiện những
thiếu sót, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc; hiểu rõ nhu cầu nguyện vọng, tâm
trạng, tâm lý của từng đối tượng, để có chủ trương vận động có hiệu quả.
Cán bộ làm công tác dân vận phải gần dân, trọng dân, tin tưởng vào lực
lượng của dân, phải xây dựng và củng cố được lòng tin của dân. Đây là một bài học
được đúc rút trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Phải biết dựa vào dân,
huy động sức mạnh của toàn dân cho sự nghiệp cách mạng. Người yêu cầu lựa chọn
cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác dân vận nói riêng phải lựa chọn "những người
29
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.699.
liên lạc mật thiết với quần chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích
của dân chúng. Như thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người
lãnh đạo của họ"30.
Ngày nay, đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh quốc tế, trong nước có nhiều
diễn biến phức tạp, có cả thời cơ, thuận lợi và thách thức đan xen. Toàn Đảng, toàn
Dân và toàn quân ta đang quyết tâm thực hiện mục tiêu đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
xã hội công bằng, văn minh. Nhân dân ta ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào chế độ, vào tương lai của công cuộc đổi mới, một lòng một dạ theo Đảng,
sẵn sàng mang hết tài năng thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để
công tác dân vận đạt được những kết quả cao trong thời kỳ mới, đòi hỏi Đảng ta phải
tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, nhằm tập
hợp, xây dựng được khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn dân thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa
đất nước tiến lên.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận đã, đang và sẽ mãi mãi là nền tảng, soi
đường chỉ lối cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, mọi cán bộ,
đảng viên vận dụng vào công tác vận động, tập hợp, đoàn kết lực lượng toàn dân,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng./.
30
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, Tr.275.