Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận đường cách mệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.18 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu
nước lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước anh dũng chống giặc
ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân
Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của
đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân. Người sớm có chí
đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng
bào. Với tình cảm yêu nước thương dân vô hạn, năm 1911 Người đã rời Tổ
quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.
Từ năm 1912 đến năm l917, Nguyễn Tất Thành đến nhiều nước ở Châu
Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi, sống hòa mình với nhân dân lao động,
Người thông cảm sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân
tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Người sớm nhận
thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ
phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới. Người đã hoạt động
tích cực nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc giành tự do, độc lập. Cuối năm
1917, Người từ Anh trở lại Pháp tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều
và phong trào công nhân Pháp.
Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người
Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vesailles bản yêu sách đòi
quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các
nước thuộc địa.

1


Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận
cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12-1920, Nguyễn
Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, bỏ phiếu tán
thành Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và trở thành một trong những người


sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành người
cộng sản, Người khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc
trong thời đại mới là con đường của chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại.
Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp,
Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4-1922, Hội ra báo
“Người cùng khổ” (Le Paria) nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô, Người làm việc
trong Quốc tế Cộng sản. Tháng 10-l923, tại Hội nghị Quốc tế nông dân lần
thứ nhất Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân. Người
là đại biểu duy nhất của nông dân thuộc địa được cử vào Đoàn Chủ tịch của
Hội đồng. Người tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Đại hội Quốc
tế Cộng sản Thanh niên lần thứ IV, Đại hội Quốc tế Công hội đỏ. Ngườil kiên
trì bảo vệ và phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa, hướng sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản tới phong trào giải phóng
dân tộc .Nguyễn Ái Quốc là Ủy viên thường trực Bộ phương Đông, trực tiếp
phụ trách Cục phương Nam của Quốc tế Cộng sản
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) chọn
một số thanh niên Việt Nam yêu nước đang sống ở Quảng Châu, trực tiếp mở
lớp huấn luyện đào tạo cán bộ Việt Nam Các bài giảng của Người được tập
2


hợp in thành cuốn sách “Đườg Kách mệnh" - một văn kiện lý luận quan trọng
đặt cơ sở tư tưởng cho dường lối cách mạng Việt Nam. Năm 1925, Người
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra báo “Thanh niên”, tờ báo
cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về
Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc cho xuất bản cuốn Đường cách mệnh làm

tài liệu huấn luyện cán bộ để cuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Trong tác phẩm
này, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng có vững, cách mạng mới
thành công. Ngày nay, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng cách mạng
nhất, chân chính nhất là chủ nghĩa Lênin…
Những nội dung trong cuốn Đường cách mệnh hàm chứa những tư
ngrmang tính quốc gia và quốc tế vĩ đại của Hồ Chí Minh. Người đã truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam theo cách riêng của mình. Lời văn mộc
mạc, dễ hiểu làm cho lý luận mác - Lênin đến với Việt Nam thật giản dị, sinh
động, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam phát triển.

3


NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
1. Thế giới
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng giải
phóng con người của nhân loại. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp
vô sản đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Được học thuyết khoa học và cách mạng soi
đường, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới đã phát
triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản như: Đảng xã hội dân chủ Nga (1903); Đảng Cộng sản Pháp (1920); Đảng Cộng sản Iđônêxia
(1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921), ...
Năm 1917, Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga đã lãnh đạo cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga thành công. Cách mạng Tháng Mười Nga là bằng chứng
khẳng định giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng báo
hiệu thời kỳ đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp vô sản thế giới bắt đầu.
Năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) - Bộ Tham mưu của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế được thành lập. Quốc tế Cộng sản đã
quan tâm đến cách mạng thuộc địa. Bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương của

Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã tác động trực tiếp, sâu sắc đến phong
trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Sơ thảo
lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin là
bước tiến nhảy vọt và dứt khoát trong nhận thức tư tưởng của Người. Từ đó,
Người quyết định đi theo Quốc tế Cộng sản, đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Như vậy, thời đại đã mở ra điều kiện mới - cả tư tưởng chính trị và cả tổ
4


chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở các nước. Chính thời đại cũng dẫn
dắt phong trào cách mạng các dân tộc trên thế giới đi vào quỹ đạo chung của
cách mạng vô sản.
2. Việt Nam
Đặc điểm nổi bật của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn cơ
bản là: giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và giữa
giai cấp phong kiến Việt Nam với toàn thể nhân dân (chủ yếu là nông dân).
Yêu cầu của lịch sử lúc này là phải giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó để đưa dân
tộc tiến lên.
Dưới ách thống trị của thực dân - phong kiến, đã có hàng trăm cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản,
nhưng rút cuộc, đều không giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra,
nhân dân đang mong đợi là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân
phong kiến.
Bước vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào giải phóng
dân tộc ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu chính
trị khác nhau, như: Tâm tâm xã (l923-1925), Hội phục Việt (1925), Đảng
thanh niên (1926), Thanh niên cao vọng Đảng (1926-1929), Tân Việt cách
mạng Đảng (1926-1930), Việt Nam quốc dân Đảng (1927-1980). Song, các tổ
chức yêu nước này thiếu đường lối chính trị đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ

như một đảng cách mạng khoa học, cho nên, họ không đáp ứng được yêu cầu
của lịch sử.

5


Thực tiễn lịch sử đang đòi hỏi phải có một tổ chức mới, được xây dựng
trên cơ sở hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, có đường lối chính trị đúng
đắn, có tổ chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công.
II. TƯ TƯỞNG VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm
Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách
mệnh”. “Hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to,
làm chóng để cứu lấy giống nòi”. Thà chết tự đo còn hơn sống nô lệ, quyết
chiến đấu cho nền độc lập tự do của dân tộc là tinh thần của tác phẩm. Có thể
nói, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là quan điểm bao trùm toàn bộ tác
phẩm. Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của độc lập tự do và vạch
con đường cụ thể để giành thắng lợi.
Tinh thần xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là vì độc lập tự do của dân tộc,
vì hạnh phúc của nhân dân, phải giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra
khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Kết hợp độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo con đường cách mạng Việt
Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết
hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của dân tộc với lợi ích
của giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân
tộc đều phải giải quyết trên cơ sở quan điểm cách mạng vô sản để đưa cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải
phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội
chủ nghĩa chi phối cách mạng giải phóng dân tộc.


6


Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động và sáng tạo. Lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đưa dẫn chứng các cuộc cách mạng trên thế
giới để đi đến khẳng định: Cách mạng Việt Nam phải phải lấy dân chúng
(công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh; phải
thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng phải
độc lập và sáng tạo, tự lực, tự cường, không ỷ lại ngồi chờ; phải tích cực tấn
công, chủ động tiến công, quyết giành thắng lợi. Biết tranh thủ sự giúp đỡ của
cách mạng thế giới, nhưng cũng phải có đóng góp cho cách mạng thế giới,
cùng cách mạng thế giới đạp đổ chủ nghĩa đế quốc tư bản, xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Những tư tưởng cơ bản trên đã nâng giá trị của tác phẩm lên tầm cao.
2. Nội dung của tác phẩm
2.1. Tư cách một người cách mệnh
Tư cách một người cách mệnh được đặt lên vị trí hàng đầu của tác
phẩm. Nội dung gồm 3 phần:
Một là, tự mình phải cần kiệm - liêm chính - vị công vong tư. Giữ chủ
nghĩa cho vững…
Hai là, đối với từng người thì khoan thứ. Trực mà không táo bạo. Hay
xem xét người.
Ba là, làm việc phải xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán, dũng cảm,
phục tùng đoàn thể.
Tác phẩm đã nêu lên những vấn đề cơ bản của đạo đức mới - đạo đức
của người cộng sản. Đó là phải có đức và tài, trí và dũng, tư cách và năng lực
theo kiểu người cộng sản. Đó là con người một lòng một dạ. Đó là con người
7



có tổ chức, gắn bó với tổ chức, với đoàn thể. Đồng thời biết phát huy năng lực
cá nhân. “Tư cách người cách mệnh” khác hẳn với chủ nghĩa anh hùng cá
nhân, đặt mình lên trên tổ chức, đề cao cái tôi đạo đức của người đảng viên
cộng sản được đề cập trong tác phẩm phù hợp với truyền thống đạo đức của
dân tộc ta, đáp ứng yêu cầu của cách mạng và cũng rất đúng với nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức của người cách mạng. “Tư cách người cách
mệnh” đã dễ dàng chinh phục lòng người, tiếp thêm sức mạnh và định hướng
phấn đấu cho tất cả những ai yêu nước, thương nòi, muốn giải phóng quê
hương xứ sở ra khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng đất nước theo hướng dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. “Tư cách người cách mệnh” có
giá trị khoa học và giáo dục lớn đặt cơ sở cho đạo đức học ở Việt Nam.
2.2. Con đường cách mệnh
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm cách mệnh:
“Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Từ đó, tác
giả xác định các loại cách mạng:
- Tư bản cách mệnh như cách mệnh Pháp năm 1789, Mỹ cách mệnh độc
lập năm 1776; Nhật cách mệnh năm 1864.
- Dân tộc cách mệnh như: Italia đuổi cường quyền Áo năm 1859; Tàu
đuổi Mãn Thanh 1911.
- Giai cấp cách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy chính
quyền 1917.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh giải thích nguyên nhân sinh ra
các loại cách mệnh ấy. Từ phân tích mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp,

8


tác giả xác định tính chất cách mệnh. Dân tộc cách mệnh là dân tộc nô lệ đồng
tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi để giành độc lập tự do. Giai cấp
cách mệnh là giai cấp bị áp bức cách mệnh để đạp đổ giai cấp đi áp bức mình.

Về dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh, Người đều lấy ví dụ Việt
Nam. Khi kết luận, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng nói đến sự
cần thiết phải tiến hành dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh ở Việt Nam.
Cách mệnh Việt Nam phải tiến hành giải phóng dân tộc để tiến lên giải phóng
giai cấp. Việt Nam phải làm cả dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh.
Người phân tích kỹ Cách mạng tư sản Pháp 1789, Cách mạng tư sản
Mỹ 1776, Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và chỉ ra kinh nghiệm lịch sử
của các cuộc cách mạng này: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ,
nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và
dân chủ kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu cách
mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên
nhớ những điều ấy”. “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã
thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc, tự do, bình đẳng thật”. Từ lịch sử và thực tiễn, tác giả đã định hướng
cho các mạng Việt Nam là đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga,
theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng xác định rõ bạn và thù
của cách mệnh Việt Nam. Đế quốc Pháp đã chà đạp lên nền độc lập của
dân tộc, đặt ách áp bức bóc lột đối với nhân dân ta. Do đó, đế quốc Pháp
vừa là kẻ thù của dân tộc và cũng là kẻ thù của giai cấp. Tác giả phân biệt
rạch ròi giữa đế quốc Pháp và nhân dân Pháp trước hết là công nông Pháp.
9


Từ đó, nêu mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam với giai cấp cách mệnh Pháp nói riêng và mối quan hệ giữa cách
mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản chính quốc nói chung. Còn
giai cấp phong kiến địa chủ, tác giả có phân loại: điền chủ nhỏ là bầu bạn
cách mệnh công nông, những đại địa chủ thì chớ có cho họ vào hội của

dân cày. Việc xác định đúng, chính xác kẻ thù cơ bản là chủ nghĩa đế quốc
Pháp có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách
mạng, trong việc tập hợp lực lượng, phân hóa, cô lập cao độ kẻ thù, nhằm
tăng sức mạnh cho cách mạng. Đây là tầm tư duy của thiên tài rất biện
chứng, cách mạng và khoa học vượt lên tầm tư duy đương thời của nhiều
người cho rằng, đã địa chủ tất nhiên sẽ là kẻ thù của cách mạng, là đối
tượng đứng về phía đế quốc.
2.3. Về lực lượng cách mạng
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: Công nông là người chủ cách mệnh
“là vì công nông bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất cho nên
sức mạnh hơn hết, là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ
mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”.
Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không
cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công
nông thôi. Người đã căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất nước, thái độ của
các giai cấp trong xã hội, đối với cách mạng để vận dụng nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp, không giáo điều, máy móc. Vì vậy,
lực lượng cách mạng vừa đông, vừa mạnh, nhưng vẫn đảm bảo vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân.

10


2.4. Về vấn đề đoàn kết quốc tế
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam
phải đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới: “Chúng ta cách mệnh thì
cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư
bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc tế)”. Người đưa ra những dẫn
chứng cụ thể, đầy sức thuyết phục để xác định lực lượng đồng minh quốc tế
của cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải

nhờ Đệ tam quốc tế”. Cách mạng Việt Nam cũng phải liên minh với cách
mệnh Pháp và có thể thành công trước cách mệnh Pháp. “An Nam dân tộc
cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông
Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng Việt
Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới
cũng đều là đồng chí của nhân dân Việt Nam. Đã là đồng chí thì sung
sướng cực khổ phải có nhau. Như vậy, về đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh
nêu 3 vấn đề lớn:
- Cách mạng Việt Nam phải đứng hẳn về phía phong trào công nhân và
phong trào giải phóng dân tộc thế giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên
thế giới.
- Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc và cách mạng thế giới, giữa quyền
lợi và trách nhiệm, sự thống nhất của quan hệ này.
- Xác định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là
tác động qua lại. Cách mạng thuộc địa không thụ động ngồi chờ cách mạng
chính quốc.
11


Với những luận điểm trên, tác phẩm đã đặt nền tảng đúng đắn cho
đường lối quốc tế của đảng, và đặt cơ sở cho sự giúp đỡ của quốc tế trong thời
kỳ thành lập Đảng.
2.5. Về phương pháp cách mạng
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khẳng định: Phương pháp
cách mạng giữ vai trò hết sức quan trọng: “Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm
làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà
làm thì chắc làm được”. Đó là: Phải làm cho dân giác ngộ. Phải giảng giải lý
luận và chủ nghĩa cho dân hiểu. Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách
lược cho dân. Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng

chứ không phải việc của một hai người”... “Đàn bà, trẻ con cũng giúp làm việc
cách mệnh được nhiều. Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng
không chống lại”. Phải biết tổ chức dân chúng lại, tác giả nhấn mạnh vai trò
của tổ chức: cách mạng phải có tổ chức rất vững bền thì mới thành công. Tác
giả đưa ra cách tổ chức quần chúng như công hội, dân cày, hợp tác xã, thanh
niên, phụ nữ, quốc tế cứu tế đỏ... Phải giành chính quyền bằng bạo lực cách
mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ.
Tóm lại, tác phẩm đã nêu lên những quan điểm cơ bản về phương pháp
cách mạng Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và
tổng kết kinh nghiệm cách mạng các nước. Những quan điểm đó là cơ sở cho
Đảng xây dựng phương pháp cách mạng của mình.
2.6. Về Đảng Cộng sản
Đảng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mệnh.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
12


thuyền mới chạy. Đảng phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin vì “Đảng mà không
có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc luôn có ý thức xây dựng lập trường chính trị,
bản chất giai cấp công nhân, tính cách mạng triệt để của Đảng. Những tư
tưởng về con đường cách mạng Việt Nam của Người là những phác thảo cho
đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người phân tích sâu sắc
lịch sử cách mạng Nga để quán triệt bài học kinh nghiệm về xây dựng Đảng
vô sản kiểu mới ở Việt Nam. Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên được
Người đề cập gần như xuyên suốt tác phẩm.
Bằng tư tưởng xây dựng Đảng Cộng sản ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
đã đáp ứng yêu cầu bức bách của lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, chuẩn bị

những tiền đề cần thiết cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
III. GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
1. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành lập chính
Đảng cách mạng ở Việt Nam
Tác phẩm Đường cách mệnh có vai trò quan trọng trong việc chuẩn
bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập chính Đảng cách mạng ở
Việt Nam
- Về tư tưởng: Tác phẩm có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc cho cán bộ và đông đảo quần chúng nhân dân,
nhằm xây dựng sự thống nhất trong nhận thức tư tưởng, chuẩn bị thành lập

13


Đảng. Tác phẩm khắc phục tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa cải
lương, chủ nghĩa quốc gia; xác lập hệ tư tưởng mới - tư tưởng của giai cấp
công nhân.
- Về chính trị: Tác phẩm xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp
công nhận cho cán bộ và quần chúng công nông. Vạch ra được đường hướng
cơ bản của cách mạng Việt Nam, làm cơ sở cho việc xây dựng Cương lĩnh
chính trị của Đảng. Tác phẩm Đường cách mệnh ra đời đã chấm dứt cuộc
khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu
nước, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ .
- Về tổ chức: Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới chuẩn bị
cho việc thành lập Đảng. Tác phẩm cũng đưa ra hệ thống tổ chức của Đảng và
các tổ chức quần chúng như công hội, nông hội, thanh niên, phụ nữ... để Đảng
tập hợp quần chúng, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
2. Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc
Lý luận của tác phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận cách mạng Việt
Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã được hiện diện trong

tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết hợp rất
tài tình phương pháp lịch sử và lôgích. Dùng lịch sử để nói lý luận, từ Cách
mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách mạng Nga, rồi lấy lý luận
soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách mạng vô sản mới giải
phóng được dân tộc.
Tác phẩm cũng là một hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam của tác giả. Ví dụ: Lênin cho rằng, cách mạng
thuộc địa chỉ có thể giành được thắng lợi khi có sự giúp đỡ của cách mạng
14


chính quốc, khi cách mạng vô sản chính quốc đã giành thắng lợi, nhưng tác
phẩm phát hiện thêm rằng, cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách
mạng vô sản ở chính quốc và tác động tích cực đối với cách mạng chính quốc.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin bàn nhiều về vấn đề giải phóng dân tộc. Tác
phẩm chỉ rõ dân tộc và giai cấp kết hợp với nhau, giải phóng dân tộc bằng con
đường cách mạng vô sản... Tác phẩm Đường cách mệnh đã thể hiện thiên tài
lý luận cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm có giá trị thực tiễn lớn lao,
tạo ra sự chuyển biến căn bản, nhanh chóng trong nhận thức và hành động
cách mạng của cán bộ và đông đảo quần chúng, chuẩn bị tiền đề cho việc
thành lập Đảng.
Như vậy, trước khi Đảng ra đời, ở Việt Nam đã có sự thống nhất về tư
tưởng chính trị và tổ chức. Đó là điều kiện trực tiếp giữ vững sự thống nhất
trong Đảng ngay từ khi mới thành lập cũng như sau này. Tác phẩm Đường
cách mệnh là một kho tàng tri thức lý luận cách mạng Việt Nam, là sự thể hiện
tư tưởng cơ bản của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Giá trị của tác phẩm càng được
khẳng định khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam tuyên bố rằng, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.


15


KẾT LUẬN
Hơn 80 năm qua, tác phẩm Đường cách mệnh vẫn khẳng định những
giá trị lý luận và có tính thực tiễn sâu sắc. Tác phẩm đã trình bày một cách
đầy đủ, chi tiết và khoa học những vấn đề cốt lõi học thuyết cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương hướng cách mạng Việt Nam với
ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, nên nhanh chóng đến với quảng đại
quần chúng. Lý luận của tác phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận cách
mạng Việt Nam thiết thực, tri thức lý luận cách mạng Việt Nam đã được
hiện diện trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt Nam, dễ hiểu, dễ
tiếp thu, kết hợp rất tài tình phương pháp lịch sử và lôgích. Dùng lịch sử
để nói lý luận, từ Cách mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách
mạng Nga, rồi lấy lý luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có
cách mạng vô sản mới giải phóng được dân tộc.
Tác phẩm Đường cách mệnh ra đời với những nội dung cơ bản được
trình bày đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX, góp phần thúc đẩy
nhanh chóng sự kết hợp phong trào yêu nước, phong trào công nhân với
chủ nghĩa Mác - Lênin để thành lập một chính Đảng cộng sản thống nhất
và duy nhất với đường lối cách mạng đúng đắn, khoa học, phù hợp thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Gần một thế kỷ, trải qua biết bao biến cố thăng trầm lịch sử, cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn. Một trong những nguyên nhân quan trọng
dẫn đến sự thành công đó là Đảng đã xác định được con đường, hướng đi
đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta đã được
16



lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vạch ra trong tác phẩm Đường
cách mệnh. Những tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, có sức
sống mãnh liệt, trở thành kim chỉ nam, soi đường, chỉ lối cho cách mạng
nước ta, nhằm thực hiện thành công mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
2. Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Di sản Hồ Chí
Minh trong thời đại ngày nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm
120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2010), Nhà
xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2010.
4. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam (Hệ cử nhân chính trị), Nhà xuất bản Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2004.
5. GS Song Thành: Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nhà xuất bản Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2009.
6. TS Bùi Thị Thu Hà (Chủ biên): 80 năm Đảng Cộng Sản Việt Nam - Những
chặng đường thắng lợi, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.
7. TS Đinh Xuân Lý: Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
8. Tìm hiểu tác phẩm: Đường kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất
bản Sự thật, Hà Nội, 1982.

18




×